Cách
đây 70 năm có lẻ, thế giới chính thức bước vào kỷ nguyên vũ khí nguyên
tử sau khi Mỹ sản xuất và cho nổ thử nghiệm thành công quả bom hạt nhân
mang mật danh "Trinity" vào ngày 16/7/1945.
Để có được "quân bài
chiến lược" là vũ khí mạnh nhất trong lịch sử loài người trong tay, ngay
trước khi Thế chiến 2 kết thúc, Mỹ đã phải bí mật thực hiện rất nhiều
dự án nhằm sản xuất bằng được siêu vũ khí có thể đưa Mỹ lên vị trí dẫn
đầu trong cuộc chạy đua mới mang tên Chiến tranh Lạnh sau này với Liên
Xô.
Dự án Manhattan (Manhattan Project), "cái nôi" cho ra đời quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử nhân loại "Trinity", chính là nỗ lực không ngừng nghỉ của người Mỹ trong những năm Thế chiến 2 đang diễn ra ác liệt.
Trước
khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 bùng nổ, các nhà khoa học Đức đã có phát
hiện quan trọng làm thay đổi mãi mãi sức mạnh vũ khí tương lai: Nguyên
tử hóa học Uranium khi bị bắn phá mạnh có thể giải phóng một nguồn năng
lượng hủy diệt rất lớn. Phát hiện này đặt nền tảng cho ý tưởng sản xuất
một loại bom có sức công phá vô cùng lớn.
Năm 1939, sau khi hay
tin tình báo các nhà khoa học Đức đang bí mật nghiên cứu nhằm chế tạo vũ
khí áp dụng công nghệ hạt nhân, nguy hiểm hơn, Adolf Hitler đặt rất
nhiều hy vọng vào loại vũ khí hủy diệt này cho những nước cờ của hắn,
thì Tổng thống Mỹ thời bấy giờ là Franklin D. Roosevelt ra sắc lệnh khởi
động "quân bài chiến lược" nhằm đáp trả lại những mối nguy hiểm tiềm
tàng từ dự án của Adolf Hitler.
Đầu
tiên, Tổng thống Roosevelt thành lập Ủy ban Tư vấn về Uranium. Ủy ban
gồm các nhà khoa học và quan chức quân sự có trọng trách tìm hiểu vai
trò của Uranium trong sản xuất vũ khí hủy diệt.
Dựa
trên những phát hiện của ủy ban, chính phủ Mỹ bắt đầu tài trợ cho
nghiên cứu của Enrico Fermi và Leo Szilard thuộc Đại học Columbia, nhằm
tập trung vào các phương pháp tách đồng vị phóng xạ (còn gọi là làm giàu
urani) và phản ứng dây chuyền hạt nhân.
Năm
1940, Ủy ban Tư vấn về Uranium đổi tên thành Ủy ban Nghiên cứu Quốc
phòng, trước khi được đổi tên thành Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển
Khoa học (OSRD) vào năm 1941 và bổ sung Fermi vào danh sách các thành
viên.
Cũng trong năm đó, sau
cuộc tấn công của Nhật Bản tại Trân Châu Cảng, Tổng thống Roosevelt
tuyên bố, nước Mỹ sẽ bước vào Thế chiến 2 và sẽ cùng với Anh, Pháp và
Liên Xô chống lại người Đức ở châu Âu và người Nhật Bản ở khu vực Thái
Bình Dương.
Công binh Lục quân
Mỹ gia nhập OSRD năm 1942 dưới sự chấp thuận của Tổng thống. Dự án
chính thức trở thành sáng kiến quân sự, với vai trò chủ chốt của các nhà
khoa học tài năng.
Khi Thế
chiến 2 đang nổ ra mạnh mẽ, nhiều nhà khoa học châu Âu chạy tị nạn sang
Mỹ, trong đó có nhà bác học nổi tiếng người Đức Albert Einstein, người
về sau đã đề nghị Mỹ hỗ trợ công cuộc nghiên cứu phân tách hạt nhân của
Uranium.
Cuối cùng, vào ngày
28//12/1942, Tổng thống Roosevelt thành lập Manhattan Project để kết hợp
những nỗ lực nghiên cứu khác nhau trước đó với mục tiêu vũ khí hóa năng
lượng hạt nhân.
Các cơ sở
nghiên cứu và thử nghiệm vũ khí được xây dựng tại các địa điểm xa xôi ở
bang New Mexico, Tennessee và Washington, cũng như các địa điểm của
Canada.
Nhà vật lý lý thuyết
người Mỹ J. Robert Oppenheimer, một trong những "cha đẻ của vũ khí
nguyên tử", là người lãnh đạo Manhattan Project.
Là
nơi tập hợp của hàng trăm nhà bác học đại tài cùng số kinh phí khổng
lồ, Dự án Manhattan nhanh chóng "hái quả ngọt". Ngày 16/7/1945, tại một
địa điểm trên sa mạc xa xôi gần Alamogordo, bang New Mexico, quả bom
nguyên tử đầu tiên của nhân loại đã được phát nổ thành công - Trinity
Test - tạo ra một đám mây nấm khổng lồ cao khoảng 12.000m. Trinity Test
chính thức mở ra kỷ nguyên nguyên tử của thế giới.
"Trinity" tạo ra một đám mây nấm khổng lồ cao khoảng 12.000m. Nguồn: Rare Historical Photos
Các
nhà khoa học làm việc dưới quyền của J. Robert Oppenheimer đã phát
triển hai loại bom riêng biệt: Một quả bom lấy nhiên liệu là Uranium có
tên là "The Little Boy - Cậu Bé", quả bom thứ hai lấy nhiên liệu là
Plutonium có tên là "The Fat Man - Gã Béo".
Cả "The Little
Boy" và "The Fat Man" đều là những vũ khí chiến lược mà Mỹ dùng để chấm
dứt chiến tranh nhanh chóng. Giới lãnh đạo quân đội của Dự án Manhattan
xác định, thành phố Hiroshima của Nhật Bản, là mục tiêu lý tưởng để thả
bom.
Nói là làm, ngày 6/8/1945, "The Little Boy" nổ tung trên bầu
trời Hiroshima (cách mặt đất khoảng 600m), tạo nên sự tàn phá chưa từng
có trong lịch sử. Ba ngày sau, ngày 9/8/1945, Mỹ tiếp tục thả "The Fat
Man" xuống thành phố Nagasaki của Nhật, phá hủy toàn bộ nhà cửa, con
người trên một vùng rộng hơn 3 dặm vuông.
Hai quả bom nguyên tử của Mỹ đã giết chết hơn 100.000 người và san bằng hai thành phố của Nhật. Kết
quả, ngày 14/8/1945, Nhật đầu hàng, trước đó khoảng 3 tháng, Đức cũng
xin hàng. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Kết thúc luôn "giấc
mộng" sử dụng vũ khí hạt nhân của trùm phát xít Đức Adolf Hitler.
Tạm
gác những diễn biến của cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử nhân loại
sang một bên. Trở lại với Dự án Manhattan. Trong số hàng trăm nhà khoa
học góp công cho dự án khổng lồ, có một nhà bác học mang tên Klaus Fuchs
- người sau này bị truy nã vì đã tiết lộ "bí mật quốc gia" về bom
nguyên tử cho Liên Xô.
16 năm sau khi Mỹ cho nổ qua bom đầu tiên trong lịch sử nhân loại, người Liên Xô đáp trả bằng một quả "bom vua" - bom Sa Hoàng - có sức hủy diệt mạnh nhất trong lịch sử vũ khí hạt nhân tính đến thời điểm hiện nay.
Mặc
dù đi sau Mỹ nhưng thứ mà Liên Xô đạt được khiến cho chính Mỹ phải nể
sợ! Nhờ đâu mà Liên Xô nhanh chóng phát triển được loại bom có sức công
phá khủng khiếp đến vậy? Phải chăng, những bí mật trong Dự án Manhattan
đã bị rò rỉ?
-------
Trong cuốn sách "The Spy Who Changed the World"
(tạm dịch: Chuyện về điệp viên làm thay đổi thế giới, viết về điệp viên
Klaus Fuchs) của tác giả nổi tiếng người Anh Mike Rossiter, có đoạn
miêu tả công việc nghiên cứu và chế tạo bom nguyên tử của các nhà khoa
học cho Mỹ trong Dự án Manhattan là công việc "bí mật nhất thế kỷ 20".
Đối
với riêng nước Mỹ, để chế tạo thành công siêu vũ khí khiến cả thế giới
bàng hoàng, tất yếu cần sự bí mật. Đó là lý do họ đặt bí danh cho dự án
(là Manhattan Project) và đặt tên cho quả bom nguyên tử đầu tiên trong
lịch sử nhân loại là "Trinity".
Bí mật xây dựng. Bí mật nghiên cứu
và chế tạo. Rồi cũng bí mật thả hai quả bom xuống hai thành phố của
Nhật Bản... cuối cùng, người Mỹ cũng phải trả một cái giá không hề nhỏ:
Những "bí mật quốc gia" về chương trình vũ khí hạt nhân lọt đến tai
người Liên Xô.
Và người tiết lộ không ai khác chính là Klaus Fuchs - nhà bác học gốc Đức làm việc cho chính Manhattan Project!
Chân dung Klaus Fuchs chụp năm 1940. Ảnh: Gizmodo
Ông là ai mà The Times (UK) phải công nhận rằng: "Klaus Fuchs là điệp viên thành công nhất lịch sử hiện đại!"?
Klaus
Fuchs là một nhà khoa học người Anh gốc Đức. Năm 1933, ông cùng gia
đình rời bỏ quê hương (Đức), chạy tị nạn đến Anh để tránh sự tàn bạo của
Đức Quốc xã. Tại Anh, Klaus Fuchs có được tấm bằng Tiến sĩ Vật lý trong
tay sau nhiều năm chuyên tâm học tập, nghiên cứu.
Nhờ tài
năng, Klaus Fuchs được chính phủ Anh mời tham dự vào chương trình phát
triển vũ khí nguyên tử mang mật danh "Tube Alloys".
Khi công cuộc
nghiên cứu đang diễn ra suôn sẻ, Klaus Fuchs bắt đầu cảm thấy khó hiểu
khi cả Mỹ, Anh và Canada thường xuyên trao đổi với nhau về các dự án
phát triển vũ khí hạt nhân mà lờ đi một đồng minh khác là Liên Xô. Từng
là thành viên của Đảng Cộng sản Đức, Klaus Fuchs cho rằng bản thân mình
cần giúp đỡ đồng minh Liên Xô.
Ông đến đại sứ quán Liên Xô tại Anh
và gặp được đúng người. Đúng lúc Klaus Fuchs được nhập quốc tịch Anh là
lúc ông bắt đầu sự nghiệp tình báo của mình. Sau khi dự án "Tube
Alloys" bắt đầu, Klaus Fuchs bí mật gửi các tài liệu nghiên cứu nguyên
tử của Anh cho điệp viên Liên Xô.
Cuối năm 1943, Klaus Fuchs nằm
trong danh sách những nhà bác học tài năng người Anh sang Mỹ phục vụ cho
Dự án Manhattan. Dự án được chính phủ Mỹ đầu tư hàng tỷ đô này nhanh
chóng thành công với sự ra đời lần lượt của "Trinity", đến "The Little
Boy" và "The Fat Man".
Nhờ đó, những tài liệu bí mật mà Klaus
Fuchs truyền cho phía Liên Xô có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Liên Xô tất
yếu nắm được nguyên liệu cơ bản để chế tạo bom nguyên tử.
Sau
sự kiện Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản, nhận thấy thứ vũ
khí này mang đến sự hủy diệt khủng khiếp, Klaus Fuchs tin mình đã hành
động đúng khi tiết lộ bí mật cho Liên Xô.
Sau khi Chiến tranh Thế
giới thứ 2 kết thúc, Klaus Fuchs trở về Anh, tiếp tục công việc của
mình trong dự án phát triển bom nguyên tử của nước này.
Vào năm
1949, cả Cục tình báo Anh (MI5) và Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đều
nghi ngờ Klaus Fuchs. Cuối cùng, FBI xác định, Klaus Fuchs là gián điệp
cho Liên Xô.
Ngày 3/2/1950, Scotland Yard bắt giữ Klaus Fuchs và
buộc tội tiết lộ bí mật quốc gia. Sau khi bị bắt giữ, Klaus Fuchs nhanh
chóng nhận tội và kể lại toàn bộ quá trình làm gián điệp của mình cho
Liên Xô. Phiên tòa xét xử Klaus Fuchs diễn ra trong 90 phút. Cuối cùng,
ông nhận bản án 14 năm tù giam và bị tước quốc tịch Anh.
Vài tháng
sau khi Klaus Fuchs bị bắt, Liên Xô lên tiếng phủ nhận toàn bộ sự việc
và cho rằng câu chuyện mà Klaus Fuchs đưa ra là hoàn toàn bịa đặt!
Sau 9 năm thụ án, nhờ cải tạo tốt, Klaus Fuchs được thả tự do. Ông nhanh chóng đến Đông Đức, nhập quốc tịch, sống cùng cha mình đến hết đời. Klaus Fuchs mất năm 1988.
Nguồn: The Guardian, History, Gizmodo, The Times (UK)
Lực lượng Dân chủ Syria (SDF)
Al-Khabour, hãng tin tức hoạt động mạnh ở phía đông bắc Syria tiết lộ
vào ngày 14/6 rằng, 20 nhân viên của Đơn vị Bảo vệ Nhân dân người Kurd
(YPG), nòng cốt của SDF, đang trên đường đến Israel để tham gia khóa
huấn luyện của Mossad. Các nhân viên được chọn đã vượt qua một số bài
kiểm tra, được tổ chức tại khu vực do SDF tổ chức.
Liên quan đến mục đích của chương trình này, nguồn tin cho rằng
Israel muốn thiết lập một lực lượng tình báo thân thiện trong các khu
vực do SDF nắm giữ. Lực lượng này sẽ tuyển mộ điệp viên cho Mossad và
cung cấp thông tin quan trọng cho Israel.
Al-Khabour đã xác định ba nhân viên của SDF sẽ được đào tạo ở Israel
là Ali Mohamed Hassan, Riber Abdul Razzaq Ahmed và Berkhdan Aziz Murad.
Trong khi thông tin này vẫn chưa được xác nhận, SDF thực sự đang nỗ
lực để xây dựng một số mối quan hệ với Israel trong vài tháng qua. Đầu
năm nay, nhóm người Kurd đã cho phép truyền thông Israel hoạt động lần
đầu tiên tại các khu vực của họ.
Five Eyes là liên minh chia sẻ thông tin
và dữ liệu tình báo lâu đời nhất và thành công nhất trên thế giới. Được
hình thành sau Thế chiến II, liên minh bao gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada và
New Zealand (thuật ngữ Five Eyes bắt nguồn từ cụm từ “AUS/CAN/NZ/UK/US
EYES”, nghĩa là thông tin được chia sẻ giữa năm thành viên).
Five Eyes và Nhật Bản trong tư thế “cần có nhau”
NB đã có một lịch sử hợp tác lâu dài với
Five Eyes trong lĩnh vực tình báo trong thời kỳ Chiến tranh lạnh - đến
mức các nhà phân tích đã xếp quốc gia này, một cách không chính thức,
trở thành “Con mắt thứ sáu” của Five Eyes.
Các cuộc trò chuyện với giới chức Five
Eyes, cả quá khứ và hiện tại, cho thấy rõ ràng NB sẽ rất được hoan
nghênh trở thành thành viên chính thức. Thật khó để tìm ra ai phù hợp
hơn NB trong việc thu thập thông tin tình báo ở những nơi như biển Đông,
biển Hoa Đông cũng như ở TQ và bán đảo Triều Tiên. NB cũng có thể chia
sẻ gánh nặng với Úc và New Zealand trong việc thực hiện tình báo ở Đông
Nam Á
Chính
NB cũng sẽ được hưởng lợi rất nhiều khi có thể góp phần thiết lập
chương trình nghị sự cho các hoạt động tình báo chung. Nó sẽ mở rộng cơ
hội xây dựng khả năng tương tác của các hệ thống phòng thủ với Mỹ và
“năm con mắt” còn lại. Đồng thời, NB có thể được tích hợp vào một mạng
lưới hợp tác công nghiệp quốc phòng như NTIB.
Pháp và Đức được yêu cầu tham gia vào
năm 2009, tuy nhiên cả hai đều từ chối. Phần lớn là vì hai quốc gia này
sợ rằng các hoạt động tình báo của họ bên ngoài Five Eyes có thể bị xâm
phạm. Nhưng NB thì khác. Lập trường mới chủ động hơn của NB trên trường
thế giới khiến cho mọi đề nghị tham gia sẽ được xem xét thuận lợi hơn
bao giờ hết.
Vậy điều gì cần thiết để NB tham gia?
Một đề cử của Tổng thống Donald Trump sẽ là một bước quan trọng nhưng
không đủ nếu không có sự chấp thuận của các thành viên khác. Các thành
viên Five Eyes sẽ cần phải yên tâm về khả năng của NB trong việc xử lý
luồng dữ liệu tình báo, như một phần của các chính sách rộng lớn hơn về
an ninh công nghiệp quốc phòng.
Theo nhiều nhà quan sát, NB xứng đáng là
“Con mắt thứ sáu” và Five Eyes cũng đạt được nhiều lợi ích từ tư cách
thành viên của NB. Và điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Tổng thống
Trump và Thủ tướng Abe. Đối với ông Trump, điều này sẽ làm tăng đáng kể
đòn bẩy của ông trong việc đối phó với TQ. Còn đối với ông Abe, tư cách
thành viên chính thức sẽ mang lại cho ông vòng nguyệt quế với tư cách là
thủ tướng quan trọng nhất của NB trong thời kỳ hậu chiến.
Chính quyền Mỹ hiện lo ngại rằng bằng cách cho phép
Huawei phát triển các thiết bị công nghệ 5G, Anh đang gây nguy hiểm cho
vị thế của mình, vốn là một đối tác chia sẻ thông tin tình báo thân
thiết nhất của Mỹ và là một thành viên của nhóm Five Eyes. |
Chung mối lo về Trung Quốc
Theo hãng tin Reuters, từ đầu năm
2018, Five Eyes đã trao đổi thông tin mật về hoạt động của TQ cho những
quốc gia có cùng mối quan tâm. Việc mở rộng hợp tác Five Eyes cho thấy
mặc dù Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẵn sàng đơn thân độc mã đấu
với TQ nhưng thành viên trong chính quyền của ông vẫn đang nỗ lực tạo ra
một liên minh đối phó với cường quốc châu Á mới nổi này một cách âm
thầm.
TQ những năm gần đây không ngừng mở rộng
đầu tư và hoạt động ra nhiều quốc gia, làm dấy lên mối lo ngại can
thiệp gây ảnh hưởng cho chính phủ các nước. Lần lượt Úc, Đức và Mỹ đã
lên tiếng cáo buộc Bắc Kinh cố gắng can thiệp, đầu tư mang mục đích
chính trị.
“Chúng tôi đang tăng cường tham vấn với
các đồng minh và đối tác cùng chí hướng về cách ứng phó với chiến lược
quốc tế quyết đoán của TQ” - một quan chức Mỹ tiết lộ sau cuộc họp giữa
các nước trong liên minh tình báo năm 2018. Động thái này cũng dập tắt ý
định lôi kéo các quốc gia châu Âu đứng về phía mình chống Mỹ của Bắc
Kinh, nhất là khi chính sách “nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Donald
Trump gây cảm giác bất an ở châu Âu.
TQ cho đến giờ vẫn phủ nhận các cáo buộc
họ đang tìm cách gây ảnh hưởng đến các chính phủ nước ngoài và các
khoản đầu tư đều có mục đích chính trị. Dù vậy, nhiều nước đã tiến hành
các biện pháp hạn chế đầu tư của Bắc Kinh vào những công ty công nghệ
nhạy cảm và điều mà họ gọi là chiến dịch gây ảnh hưởng của TQ lên các
chính phủ, xã hội ở nước ngoài.
Thành công trong Chiến tranh lạnh và chống khủng bố
Liên minh Five Eyes đã hoạt động rất thành công trong
Chiến tranh lạnh trong việc thu thập và chia sẻ dữ liệu liên quan đến
Liên Xô. Liên minh này đã hồi sinh mạnh mẽ sau sự kiện khủng bố tại Mỹ
ngày 11-9-2001 và kéo dài trong suốt cuộc chiến chống khủng bố từ đó đến
nay. Liên minh cũng xác định thông tin hoặc dữ liệu nào sẽ được chia sẻ
với các nước bên thứ ba, các thành viên khác của Tổ chức Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương (NATO) hoặc với các đồng minh đáng tin cậy như NB và Hàn
Quốc.
Trở thành thành viên của Five Eyes là một bước quan trọng
trong việc xây dựng khả năng tương tác giữa các lực lượng vũ trang của
các thành viên, đặc biệt là Mỹ, cho phép hợp tác liền mạch trong các
hoạt động quân sự chung. Nó cũng tạo điều kiện cho việc bảo mật chung
của các mạng lưới. Ba thành viên của liên minh gồm: Anh, Úc và Canada
cũng là thành viên của Cơ sở Công nghệ và Công nghiệp quốc gia Mỹ (NTIB)
- chuỗi cung ứng toàn cầu của Lầu Năm Góc. |
Ngày 24/10/1960 mãi trở thành ký ức đẫm máu đầy ám ảnh trong lịch sử hàng không Liên Xô.
Trước khi người Liên Xô mở ra kỷ nguyên khai phá vũ trụ vào năm 1961 với sự kiện phi hành gia Yuri Gagarin cùng con tàu vũ trụ
Phương Đông 1 thực hiện chuyến bay lần đầu tiên ra ngoài không gian kéo
dài 108 phút ngày 12/4 cách đây 57 năm thì vào năm 1960 lịch sử hàng không Liên Xô phải chứng kiến một thảm kịch chết chóc nhất trong ngành tên lửa hàng không tính cho đến năm 2018.
Lịch
sử Liên Xô ghi nhận, mỗi một quyết định phóng tên lửa hay tàu vũ trụ
đều ít nhiều bị chi phối bởi các quyết định mang yếu tố chính trị cũng
như công nghệ bấy giờ.
Một trong những quyết định sai lầm khiến Liên Xô mất đi một tài năng vũ trụ đáng buồn nhất trong lịch sử là trường hợp của kỹ sư hàng không kiêm phi công bay thử nghiệm Vladimir Komarov
(bạn thân của "huyền thoại vũ trụ" Yuri Gagarin") người phải thực hiện
"sứ mệnh tự sát" - lái thử trên con tàu vũ trụ Soyuz 1 bất chấp những
phản đối của các kỹ sư (đọc chi tiết, tại đây).
Thế nhưng...
Lịch
sử hàng không Liên Xô cũng phải cay đắng ghi nhận, chưa có một thảm
kịch nào xảy ra do quyết định sai lầm của giới lãnh đạo mà cái giá phải
trả lại quá thảm khốc, đau đớn đến vậy!
Một năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ 2
(1939 - 1945) kết thúc, Mỹ và Liên Xô bước vào cuộc chiến tranh mới.
Không đổ máu trên chiến trường, không có súng đạn khiến bao gia đình ly
tán, cuộc Chiến tranh Lạnh
của hai cường quốc diễn ra giữa những cuộc chạy đua không ngừng nghỉ
suốt hơn 4 thập kỷ về vũ khí (hạt nhân), công nghệ hiện đại và các sứ
mệnh không gian khiến thế giới đi từ bất ngờ này đến ngỡ ngàng khác.
Không
chỉ thế, Chiến tranh Lạnh cũng là cuộc "cân não" của những bí mật mà
đôi bên đều muốn giấu nhẹm đi trước địch thủ cũng như trước dư luận của
người dân và thế giới. Bởi vậy mới có chuyện, khi tất cả mọi chuyện đã
ngã ngũ, khi cuộc chiến đó tạm thời đỡ nhức nhối thì người ta mới đưa
những bí mật đó ra ánh sáng.
Nedelin Catastrophe (hay Nedelin Disaster - Thảm kịch Nedelin) là một câu chuyện như thế!
"Nọc độc của Quỷ"
Trước khi mở ra kỷ nguyên khai phá vũ trụ cho loài người, Liên Xô đã khởi xướng chương trình phát triển tên lửa xuyên lục địa đầu tiên trên thế giới từ trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra.
Khoảng
hai thập kỷ sau, dưới sự chỉ đạo tài ba của nhà khoa học, kỹ sư kiêm
nhà thiết kế tên lửa hàng đầu của Liên Xô là Sergey Korolev, R-7
Semyorka, thế hệ tên lửa xuyên lục địa đầu tiên trên thế giới của Liên
Xô ra đời. R-7 Semyorka phóng thử thành công vào tháng 8/1957.
Vốn
say mê với lý tưởng du hành vũ trụ bằng tên lửa, tổng công trình sư
Sergey Korolev đã đệ trình ý tưởng của mình lên Viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô với mong muốn sử dụng tên lửa R-7 đưa vệ tinh lên quỹ đạo Trái
Đất.
Ý tưởng được tán thành nhanh chóng. Kết quả, ngày 4/10/1957,
vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới do Liên Xô chế tạo là Sputnik 1
được tên lửa R-7 phóng thẳng lên quỹ đạo. Thế giới bất ngờ! Người Mỹ lo
sợ! Kể từ đó, thay vì mải miết sản xuất vũ khí hạt nhân, người Mỹ bắt đầu mở cuộc chạy đua vào không gian với người Liên Xô.
Đôi
ba năm sau, những cải tiến trong chế tạo tên lửa được các tài năng Liên
Xô không ngừng thực hiện. Lần này, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng
công trình sư Mikhail Yangel, tên lửa xuyên lục địa R-16 ra đời với cải
tiến trong sử dụng nhiên liệu động lạnh.
Tên lửa xuyên lục địa R-16 của Liên Xô: Dài 30,4m, đường kính 3m, nặng 141 tấn.
Dự
định thay thế tên lửa R-7, R-16 được giới kỹ sư Liên Xô đánh giá là
"thực tế hơn" vì một tên lửa có thể được chuẩn bị nhanh hơn nhiều nhờ
các cơ chế tiếp nhiên liệu đơn giản.
Loại nhiên liệu được lựa chọn là hợp chất hóa học UDMH [Công thức hóa học: H2NN(CH3)2] bị oxy hóa với tỉ lệ 73% axit nitric / 27%
hỗn hợp nitơ tetroxit. Axit UDMH-nitric là một hợp chất độc hại, gây
ung thư, ăn mòn cực cao ở dạng lỏng, khi bị đốt cháy chúng ta ra khí độc
chết người, đó là lý do, giới khoa học tên lửa Liên Xô gọi nó với biệt
danh "Nọc độc của Quỷ" (Devil's Venom).
Tuy vậy, vì sử dụng với mục đích khoa học nên "Nọc độc của Quỷ" được giới chuyên môn ủng hộ.
NEDELIN: Cái tên khởi nguồn và kết thúc của thảm kịch
Nguyên soái Mitrofan Nedelin, Tư lệnh các lực lượng tên lửa chiến lược Liên Xô.
Nguyên soái Mitrofan Nedelin, Tư lệnh các lực lượng tên lửa chiến lược Liên Xô, được giao trọng trách phát triển R-16.
Vì nôn nóng muốn "lấy lòng" giới lãnh đạo bằng cách ra đời R-16 đúng dịp kỷ niệm ngày lễ Cách mạng tháng
Mười Nga (Bolshevik Revolution), Nguyên soái Mitrofan Nedelin đã gây áp
lực về thời gian với đội kỹ thuật của tổng công trình sư Mikhail
Yangel.
Vì phải chế tạo tên lửa cho kịp tiến độ, đội kỹ sư đã
bỏ qua tất cả các biện pháp an toàn cần thiết vào thời điểm đó. Vì áp
lực từ Moskva, đội kỹ sư có lúc đã phải làm việc liên tục trong 72 giờ
đồng hồ.
Một điều trớ trêu nữa, do những đấu đá nội bộ trong cộng
đồng những nhà khoa học tên lửa Liên Xô, nên tổng công trình sư Mikhail
Yangel không được làm việc với những kỹ sư tài năng nhất cho dự án phát
triển R-16, trong đó có kỹ sư Nikolay Pilyugin, người đã thiết kế phần
lớn các hỏa tiễn hướng dẫn thời đó.
Thay vì thế, Mikhail Yangel phải làm việc với Boris Konoplev, một nhà phát minh
xuất sắc và chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật vô tuyến, nhưng ông này
không phải là người có quy củ. Hệ quả, mọi công tác kiểm tra đều được
làm qua loa trước khi cài đặt vào hệ thống R-16.
Mặc cho thực tế
là R-16 còn quá nhiều thiếu sót về kỹ thuật, cuối tháng 9/1960, quả tên
lửa xuyên lục địa R-16 nặng hơm 140 tấn - "quân bài chiến lược" mà lãnh
đạo nhà nước Xô Viết Nikita Khrushchev nóng lòng chờ đợi - được chuyển
đến bãi thử Tyuratam Launch Complex, tiền thân của sân bay vũ trụ
Baikonur, để chờ ngày phóng.
Đến ngày 21/10/1960, tên lửa R-16
được đưa lên bệ phóng. Một ngày trước khi thảm kịch xảy ra, người ta
tiến hành bơm nhiên liệu "Nọc độc của Quỷ" cho R-16.
Quá trình bơm
nhiên liệu không diễn ra suôn sẻ như Nguyên soái Mitrofan Nedelin mong
ngóng, bởi, sau khi bơm xong, đội kỹ thuật phát hiện dấu hiệu thùng chứa
nhiên liệu bị rò rỉ, ước tính với tốc độ khoảng 145 giọt/phút.
Sự
cố này càng khiến Mitrofan Nedelin đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Thay vì ra lệnh cho đội kỹ thuật rút cạn nhiên liệu để bịt kín chỗ rò rỉ
thì Nedelin ra lệnh cho họ sữa chữa tên lửa trong khi nhiện liệu chết
người vẫn còn đầy trong thùng chứa khổng lồ, nhằm tiết kiệm thời gian.
Sai
lầm tiếp theo của vị Nguyên soái này là thay vì giám sát đội kỹ sư từ
xa, ông lại bất chấp quy định an toàn, tự cho phép mình và khoảng hơn
100 nhân vật có tiếng nữa đến bãi phóng nơi đặt quả tên lửa để trực tiếp
giám sát mọi việc.
24/10/1960 - Ngày đen tối trong lịch sử hàng không Liên Xô
Sau
khi chỗ rò rỉ được hàn. Áp lực từ giới lãnh đạo Liên Xô khiến cho
Nguyên soái Mitrofan Nedelin thêm bồn chồn. Để rồi ngày 24/10/1960 mãi
trở thành ngày đen tối với tất cả những nhân vật có mặt tại bãi thử
Tyuratam.
Ngày hôm đó, khoảng hơn 200 người có mặt tại Tyuratam để
chứng kiến sự kiện phóng thử tên lửa R-16. Trước khi tiến hành phóng,
động cơ tầng 2 đột nhiên phát hỏa do lỗi kỹ thuật. Ngọn lửa nhanh chóng
bao trùm xuống khoang chứa nhiên liệu khổng lồ ở tầng 1.
Tất yếu,
"Nọc độc của Quỷ" phát huy "tác dụng": Một quả cầu lửa khổng lồ đường
kính 120m bao trùm cả quả R-16 dài 30,4m. Quả cầu lửa lớn đến mức người
ta vẫn có thể quan sát được nó ở vị trí cách bãi thử 50km.
Vụ nổ tạo nên một quả cầu lửa khổng lồ đường kính 120m. Ảnh minh họa.
Những
người quan sát việc phóng ở gần biển lửa bị chết ngay lập tức do sức
nóng hàng nghìn độ C. Những người khác chết do bị bỏng nặng. Số khác
chết cho ngạt khí độc do Axit UDMH-nitric tạo ra. Trong số đó, có Nguyên
soái Mitrofan Nedelin - thi thể của ông bị ngọn lửa làm biến dạng đến
mức không thể nhận diện!
Tổng công trình sư Mikhail Yangel may mắn thoát nạn vì khi đó ông đang ở bãi thử xa hàng trăm mét để hút thuốc!
Hãng thông tấn của Liên Xô giật tít: Nguyên soái Mitrofan Nedelin tử nạn trong một vụ tai nạn máy bay!
...Vì một lẽ: Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev hạ lệnh giấu nhẹm sự việc và coi đó là bí mật quốc gia hàng đầu.
Khi "quân bài" R-16, nếu thành công sẽ đóng vai trò rất lớn làm thay đổi cán cân trong cuộc chạy đua không gian với Mỹ,
bị thất bại, tất yếu, lãnh đạo Liên Xô buộc phải che đậy lại. Mãi đến
năm 1989, khi Chiến tranh Lạnh đi vào hồi kết, sự thật về cái chết của
Nguyên soái Mitrofan Nedelin cùng hàng trăm người khác mới được đưa ra
ánh sáng.
Người Liên Xô gọi Nedelin Catastrophe, thảm họa mang tên Nguyên soái Mitrofan Nedelin, là bi kịch đẫm máu nhất trong lịch sử tên lửa của nước này.
Một
lần nữa, họ vinh danh Mitrofan Nedelin là anh hùng Sô Viết, trang trọng
đặt thi thể của ông tại Nghĩa trang tường Điện Kremlin ở Quảng trường
Đỏ, thủ đô Moskva.
Cho đến nay, Nedelin biến ngày 24/10/1960 mãi
trở thành ký ức đẫm máu đầy ám ảnh trong lịch sử hàng không Liên Xô nói
riêng và lịch sử hàng không thế giới nói chung.
Đọc các bài viết trong series Soviet Secret Files:
Bài viết sử dụng nguồn: Space Safety Magazine
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét