Chuyển đến nội dung chính

BÍ ẨN LỊCH SỬ 100/b

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Ly Kỳ Chuyện Một Người Việt Làm Vua Chiêm Thành - Bí Ẩn Lịch Sử Việt Nam
: Chuyện xảy ra vào đời vua Lê Đại Hành, cuối thế kỷ thứ 10, lúc nền tự chủ của Đại Cồ Việt còn đang ở giai đoạn củng cố để tự khẳng định, còn Chiêm Thành thì đã là một quốc gia độc lập gần 800 năm nay, và đang ở vào thời kỳ cực thịnh.

Tại sao hai nước Chiêm Thành Chân Lạp mất trên bản đồ thế giới?

13 Tháng Ba 20189:36 CH(Xem: 15380)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HÓA LỊCH SỬ  - THỨ TƯ 14 MAR 2018

image028image199image200

TẠI SAO HAI NƯỚC CHIÊM THÀNH VÀ CHÂN LẠP BIẾN MẤT TRÊN BẢN ĐỒ THẾ GIỚI?

Phan Hưng Nhơn

Gần đây trên một bài báo nọ, có người đã viết:  “công bằng mà nói thì dân tộc nào cũng có đầu óc thực dân cả, không nhiều thì ít, nhưng tôi nghĩ rằng thực dân Việt siêu hơn thực dân Pháp và Tàu nhiều, không tin ư?.  Thì Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp đã bị xóa trên bản đồ thế giới đó.”

Thật là một phát ngôn kém suy nghĩ, kém hiểu biết về lịch sử bang giao Việt – Chiêm, phụ hùa với những dư luận lỗi thời từng đổ lỗi cho người Việt Nam về sự suy thoái của nước Chiêm Thành.  Vì vậy, cũng nên tìm hiểu nguyên do suy thoái của nước Chiêm Thành thật sự từ đâu?  Sở dĩ có dư luận đó, là do căn cứ trên hiện tượng người Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đã dễ dàng Nam tiến sinh sống trên vùng đất cũ của Chiêm Thành và đồng bằng sông Cửu Long.

SỰ SUY THOÁI CỦA NƯỚC CHIÊM THÀNH

Người Việt nam gọi họ là Chàm.  Chiêm Thành là do người Hán đặt ra.  Người Chiêm Thành gồm nhiều sắc tộc khác nhau.  Mỗi sắc tộc lại bao gồm nhiều thị tộc riêng lẻ, thường hay lẫn lộn đánh nhau.  Có hai thị tộc mạnh nhất là thị tộc Cây Dừa (Narikelavamca hay Kokosno) sống ở vùng đất Indrapura phía bắc thuộc các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và Nghĩa Bình ngày nay; vùng lãnh thổ họ có tên là Amaravati (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 10).  Còn thị tộc Cây Cau  chiếm cứ vùng lãnh thổ mang tên là Panduranga từ đèo Cù Mông đến lưu vực sông Đồng Nai do tập tục, lề thói khác nhau nên giữa hai thị tộc này cũng thường xảy ra xô xát các thị tộc nhỏ khác tuy sống trong hai vùng này nhưng tại các nơi rừng núi vẫn giữ độc lập với nhau.  Tổ chức chánh quyền không chặt chẽ như thế, từ nội bộ Chiêm Thành mầm mống chia rẽ vì sắc tộc đã có sẵn.  Thêm vào đó, giới thượng tầng tăng lữ và qúy tộc tuy thiểu số lại điều khiển đa số dân chúng qúa nghèo khổ.  Người Chàm thường hoặc là làm nông, đi biển hoặc làm hải tặc.

Khoảng năm  605, thị tộc Cây Cau trở nên hùng mạnh và cai quản luôn vùng lãnh thổ Indrapura phía Bắc của thị tộc Cây Dừa để thành lập nước Chiêm Thành.  Chánh quyền Chiêm Thành thường đem quân đi cướp bóc hoặc chinh quạt khắp nơi.  Trên mặt biển, họ tổ chức những đoàn cướp biển.  Hải tặc Chiêm Thành một thời là mối hãi hùng cho những thường thuyền qua lại ở biển Đông từ Nam Trung Hoa cho đến Nam Dương.  Suốt thời gian dài hải tặc Chiêm Thành hùng cứ vùng biển Đông cho đến thời các nước phương Tây làm chủ Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với những tàu bè lớn, trang bị súng ống tối tân ngăn trở hoạt động của những người sống nghề cướp biển với những hải thuyền nhỏ với khí giới thô sơ.

NGUYÊN NHÂN NGOẠI LAI

Các hải thuyền Chiêm Thành thường đi gây hấn nhiều nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước đem quân đánh trả.  Trung Hoa tuy ở xa nhưng cũng đã hai lần đến đánh Chiêm Thành vào các năm 605 và 1282.

Sẵn có lực lượng hải thuyền hùng mạnh, thương gia Chiêm Thành buôn bán nhiều nơi khắp Đông Nam Á làm cho vương quốc Jawa chú ý vì bị cạnh tranh.  Người Jawa hai lần đánh cướp Chiêm Thành.  Một lần vào năm 774, người Jawa đánh chiếm và tàn phá thị trấn Aya Tra (Nha Trang) và năm 787, họ đánh phá thị trấn Panra (Phan Rang), gây nhiều tổn hại cho dân chúng địa phương.  Sự bang giao giữa hai nước về sau thân hữu hơn vào cuối thế kỷ thứ 9 sau các cuộc trao đổi viếng thăm giữa sứ bộ hai nước và nhất là sau khi vua Chiêm Thành Chế Mân lấy công chúa Tapani của vương quốc Jawa.

CHIÊM THÀNH VÀ NƯỚC CHÂN LẠP

Sau khi Phù Nam, nước lân bang phía nam Chiêm Thành bị Chân Lạp sát nhập vào giữa thế kỷ thứ sáu, Chiêm Thành áp dụng lối ngoại giao mềm dẻo để ngừa hờ sự bành trướng của Chân Lạp.  Hoàng thân Chiêm Thành Jadgaharm cưới công chúa Cavani con vua Chân Lạp Icanavar-man.

Đến thế kỷ thứ 9, bang giao giữa hai nước ngày càng căng thẳng, năm 950 Chân Lạp đem quân đánh Chiêm Thành ở vùng Nha Trang, nhưng giữa thời gian từ 1074 đến 1080, quân Chiêm lại xâm chiếm đến vùng Sambor (bắc Nam Vang).  Năm 1145, quân Chân Lạp phục thù đánh chiếm Đồ Bàn của Chiêm Thành.  Năm 1177, vua Chiêm Thành Jaya Indra-Varman phái một đội chiến thuyền hùng hậu tiến ngược dòng sông Cửu Long đánh phá thành Angkor, giết vua Chân Lạp, nhưng sau đó phải thối binh vào năm 1181.  Năm 1190, Chiêm Thành lại tấn công Chân Lạp lần nữa, nhưng lần này quân Chân Lạp phản công lại rồi tiến chiếm Đồ Bàn của Chiêm Thành, rồi chia nước Chiêm Thành làm hai tiểu quốc đặt dưới quyền đô hộ của Chân Lạp.  Năm 1192, hoàng thân Chiêm Thành Vidyanandana đánh đuổi được quân Chân Lạp, thống nhất trở lại được nước Chiêm Thành.  Đến năm 1203, vua Chân Lạp đem đại quân đánh chiếm Chiêm Thành và sát nhập Chiêm  Thành vào lãnh thổ Chân Lạp.  Mãi đến năm 1220, dân Chiêm Thành mới có cơ hội độc lập nhờ Chận Lạp bận rộn đối phó với Xiêm La (Thái Lan).

CHIÊM THÀNH VÀ VIỆT NAM

Suốt thời gian dài Chiêm Thành thường hay quấy nhiều miền Nam nước Việt.  Năm 192, tướng Khi Liên của Chiêm Thành từng kéo quân đánh phá vùng Tường Lam phía Nam quận Nhật Nam.  Nhưng nước Việt suốt mấy thế kỷ vẫn phải chịu đựng vì mãi lo chống đỡ những cuộc xâm lăng của kẻ thù phương bắc (Tàu Hán).  Năm 982, sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại quan hệ bang giao hòa bình và phái sứ giả sang giao hiếu với quốc vương Chiêm Thành.  Nhưng quốc vương Chiêm Thành vẫn giữ thái độ thù nghịch với triều Lê, bắt giam sứ giả của Lê Hoàn.  Do đó, Lê Hoàn phải kéo quân tiến đánh thủ đô Indrapura (Đông Dương, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay), đánh bại lực lượng quân sự của Chiêm Thành.  Sau khi hoàn thành thắng lợi đó, Lê Hoàn rút quân về nước.

Năm 1069, Chiêm Thành lại liên kết với nhà Tống để đánh nước Nam, một đạo quân do Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến đánh kinh thành Phật Thệ tức Vijaya ở Bình Định.  Bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ định đem về Thăng Long để trừng phạt thì Chế Củ liền dâng tặng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để cứu chuộc tự do cho bản thân.  Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành chỉ có mục đích cần ổn định vùng lãnh thổ phía Nam của Đại Việt để rảnh tay kháng chiến chống quân xâm lăng nhà Tống ở phương Bắc, chớ không có ý định chiếm đất của Chiêm Thành.  Chính việc Chế Củ dâng đất để chuộc tự do bản thân đã tạo tiền lệ cho các nhà lãnh đạo Đại Việt về sau có nhiều đòi hỏi hơn.

Đến thời Chế Mân, vua Chiêm Thành vì muốn cưới cho bằng được công chúa Huyền Trân, đã hoàn toàn tự nguyện tặng hai châu Ô, Lý. 

Vua Chế Mân từng cưới công chúa Tapani của Jawa, nay lại cưới thêm công chúa Huyền Trân vì muốn tính bảo đảm an ninh cho triều đại ông ta.

Nhưng suốt thời gian dài, Chiêm Thành vẫn luôn luôn là mối đe dọa thường xuyên cho dân nước Việt, nhất là dưới thời Chế Bồng Nga, người đã bao lần đem quân uy hiếp ngay cả kinh đô Thăng Long.  Suốt 30 năm lãnh đạo Chiêm Thành của Chế Bồng Nga, lãnh thổ Việt đã phải chiẹu bao nhiều cảnh cướp phá hủy diệt !  Cho nên sau này khi bị nước Việt trả đũa, Chiêm Thành bị mất đất đến vùng Amaravati.   Từ năm 1660, lợi dụng tình thế chưa ổn định của Nguyễn Hoàng mới vào  miền Nam, Chiêm Thành gia tăng quấy phá, buộc lòng Nguyễn Hoàng phái quân chống cự vượt đèo Cù Mông tiến chiếm Phú Yên, lập Phú Yên thành Trấn Biên.  Để tạo sự hòa hiếu với Chiêm Thành, chúa Nguyễn Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đành gả con gái Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Porome vào năm 1631.

Năm 1653, vua Chiêm là Bà Thấm đem quân đánh Phú Yên.  Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần đưa quân vượt đèo Cả sang đánh.  Bà Thấm thua, dâng đất vùng Kauthara để xin hàng.  Hiền Vương nhận rồi lập thành phủ Diên Khánh (trong đó có Nha Trang ngày nay).   Năm 1692, vua Chiêm Thành Bà Tranh đem quân tấn công phủ Diên Khánh, chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đến kháng cự.  Qua năm sau, Cảnh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân.  Chúa Nguyễn Phúc Tần lấy đất Chiêm Thành còn lại lập ra Phủ Thuận, nhưng vẫn bổ nhiệm người Chiêm như Kê Bà Tử, Ta Trà Viên cai trị Phủ Thuận.  Như thế đến thời này nước Chiêm Thành không còn nữa, tuy người Chiêm vẫn còn một vùng đất tự trị ở Bình Thuận.  Đến thời vua Minh Mạng, hoàng thân Chiêm Po Phank To cai trị vùng tự trị này lại theo về phe với tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt, nên bãi bỏ tổ chức hành chánh riêng của người Chiêm.

Đến đây có thể hiểu vì đâu mà nước Chiêm Thành bị suy thoái.

1)    Giới lãnh đạo Chiêm Thành thường đem quân đi cướp bóc quấy rối khắp nơi từ Việt Nam, Mã Lai, Chân Lạp, xem chiến tranh cướp bóc như một loại hình sinh hoạt kinh tế.  Đánh phá nước người ta thì sao khỏi bị chinh phạt trở lại.  Những cuộc chiến tranh như thế làm cho nước Chiêm Thành kiệt quệ.  Tài sản quốc gia tập trung vào việc mua sắm vu khí, nuôi quân khiến nền kinh tế quốc gia lụn bại, dân chúng càng nghèo khó.  Những cuộc chinh phạt trả đũa của các nước như Việt Nam, Jawa, Chân Lạp càng tàn phá Chiêm Thành nặng nề.  Chiêm thành từng hai lần bị Chân Lạp đô hộ.

2)    Trên mặt biển, người Chiêm Thành tổ chức những đoàn hải tặc khiến một thời hải tặc Chiêm Thành là mối hãi hùng cho những thương thuyền qua lại ở biển Đông.  Nhưng khi các nước phương Tây như Bồ, Hoà Lan, Anh đưa các thương thuyền lớn trang bị khí giới tối tân đã làm mất quyền lợi của những nước sống bằng nghề cướp biển với những tàu nhỏ trang bị khí giới thô sơ như Chiêm Thành.  Chiêm Thành mất đi một nguồn lợi tức lớn.

3)    Nền kinh tế của Chiêm Thành dựa trên căn bản ngoại thương.  Chiêm Thành có một đội hải thuyền đông đúc để buôn bán với các nước Mã Lai, các nước ở quần đảo Indonesia.  Nhưng từ cuối thế kỷ 16, tiếp theo sự sụp đổ của các nước Hồi Giáo khối Indonesia và sự xuất hiện của các thương thuyền Tây phương, nhất là của Hòa Lan và Bồ Đào Nha thì việc giao thương bằng đường biển của người Chiêm Thành lâm cảnh bế tắc.

4)    Khi hai nguồn lợi tức chính là cướp bóc và giao thương bị bế tắc thì chỉ còn hy vọng vào nông nghiệp.  Nhưng từ xưa tới nay, Chiêm Thành không mấy chú ý đến ngành nông.  Đất đai bỏ hoang không cày cấy.  Trước đây vì thường đi gây hấn khắp nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước, nhất là Chân Lạp, Jawa, đem quân đến đánh trả đũa, thì cảnh cướp bóc tàn phá lại xảy ra ngay trên lãnh thổ Chiêm Thành.  Các thánh địa Chiêm Thành bị tàn phá hủy hoại và cứ mỗi lần sau chiến tranh như thế, triều đình Chiêm Thành lại chỉ lo bắt dân tái dựng thánh địa thì còn đâu người để lo gầy dựng nông nghiệp, nên người Chiêm Thành chỉ còn cứu cánh sau cùng là cướp phá phần đất biên cương phía Nam của đất Việt, để rồi cứ như thế tạo thêm những cuộc chinh phạt của người Việt.  Tại những vùng đất mà Chiêm  Thành đã dâng để cầu hòa, chúa Nguyễn đưa dân mình tới khai thác, mở mang cày cấy, sống hòa lẫn với dân Chiêm Thành nên họ ở lại rất đông vì ở đấy đời sống thiết thực được chăm lo, tổ chức xã thôn được xây dựng vững mạnh.  Sở dĩ được như thế vì các chúa Nguyễn cần xây dựng một hậu cứ vững chắc để chống các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.  Các chúa Nguyễn không muốn trong khi họ phải lo chống cự với chúa Trịnh mà người Chiêm liên tục tạo tình thế bất ổn thường xuyên ở biên giới phía Nam.

Như vậy đủ thấy rõ nguyên nhân suy thoái của Chiêm Thành tiềm ẩn trong tổ chức xã hội do tộc họ lãnh đạo Chiêm Thành và chính nhờ những suy thoái đó mà cuộc Nam tiến của người Việt phần nào dễ dàng hơn.

Về trường hợp nước Thủy Chân Lạp cũng vậy.  năm 1658, chính vua Nặc Ông Trấn đã dâng vùng đất hoang vu Bà Rịa, Biên Hòa..vv..  để nhờ chúa Nguyễn Phúc Chu làm hậu thuẫn để chống với quân phản loạn trong nước và sự xâm lăng của Xiêm La (Thái Lan) trước đó đã nhiều lần đánh phá Chân Lạp.  Xã hội Chân Lạp cũng giống như xã hội Chiêm Thành với một giai cấp lãnh đạo hiếu chiến chỉ biết giao thương và gây hấn, cướp bóc gây lợi nhuận riêng tư của tộc họ cầm quyền, lơ là với sinh hoạt của quần chúng.  Do đó, khi giai cấp lãnh đạo suy thoái kéo theo sự suy thoái của nước Chân Lạp cũng như sự suy thoái của tộc họ lãnh đạo Chiêm thành kéo theo sự suy tàn của nước Chiêm Thành, chớ không phải nguyên nhân nào từ bên ngoài !!  Bởi chán nản hết hy vọng vào lớp lãnh đạo như thế mà ngày xưa ở những vùng đất dâng cho Việt nam để bù thiệt hại, dân Chàm phần đông ở lại rất nhiều.  Bằng cớ là ngày nay người Chiêm Thành vẫn sinh sống ở miền Trung.  Các sắc tộc Chiêm như Churu, Ragla hoặc Banhar vẫn tồn tạo ở vùng Cao Nguyên nam Trung phần.  Tôn giáo, tập tục, văn hóa, thánh địa của người Chiêm vẫn được người Việt tôn trọng.  Chẳng những thế, văn hóa và văn minh Chiêm hội nhập nhiều vào văn hóa văn minh người Việt về nhiều mặt như ngôn ngữ, âm nhạc, ca nhạc, những điệu múa cung đình hoặc trang phục.  Mảnh đất miền Trung ngày nay như là quê hương chung của hai dân tộc Chiêm -Việt đã hội nhập cùng nhau và không còn xa lạ với nhau nữa, vì sau thời gian dài bình đẳng sống chung với nhau, hiểu biết nhau hơn, họ đã xem nhau như  ĐỒNG BÀO !

Người Chiêm Thành đã hiểu sự suy thoái của quê hương họ là do những mầm mống nội bộ, chớ không phải do người Việt Nam gây ra!  Họ đã hiểu nếu không có sự hiện diện của người Việt Nam, Chiêm Thành tất phải rơi như Mã Lai, Chân Lạp, Phi Luật Tân, Nam Dương vào tầm tay các nước thực dân Pháp bị đuổi khỏi Việt Nam.   Chúng đã cho tay sai kêu gọi người Chàm ở miền Trung và người Thượng ở Cao Nguyên thuộc Hoàng Triều Cương Thổ nổi loạn để gây khó khăn cho chính phủ Việt Nam, đồng bào Chiêm vẫn thờ ơ vì họ hiểu từ ngày hội nhập vào xã hội Việt, được đối đãi bình đẳng như đồng bào, họ có nhiều cơ hội thăng tiến hơn thời họ phải sống dưới chế độ qúy tộc và tăng lữ Chiêm.

Rất đáng tiếc là ngày nay có ít người Việt lại tự hào qúa đáng khi họ nói: “Bắc cự Trung Hoa, Nam cự Chiêm Thành”, hoặc có nhiều người Việt kém hiểu biết, nói: “thực dân Việt siêu hơn thực dân Pháp và thực dân Tàu”.  Họ không hiểu thực dân là dân các cường quốc đi xâm chiếm các nhược tiểu để vơ vét tài nguyên các nước này, như thực dân Anh, Pháp từng chiếm cả lục địa Phi Châu, hoặc cùng với thực dân Hòa Lan đã chiếm cứ Ấn Độ và Đông Nam Á.  Người Việt Nam đã tiến về Nam là do các vua Chàm Chế Mân và Chế Củ đã tạo ra tiền lệ dâng đất để lấy vợ hoặc để chuộc tự do cho bản thân!  Những cuộc chinh phục của người Việt chỉ để trả đũa những cuộc gây hấn của chính quyền Chiêm Thành, chỉ nới rộng một chút lãnh thổ gọi là bồi thường thì làm sao lại có thể nói là siêu hơn thực dân Pháp từng chiếm cứ cả lục địa Phi Châu, một phần Đông Nam Á và các hải đảo Thái Bình Dương, hoặc Tàu từ một nước Hoa Hạ nhỏ bé đã bành trướng xâm chiếm hàng trăm tiểu quốc lân bang để thành một cuờng quốc rộng lớn như ngày nay và đang còn muốn xâm chiếm cả nước Việt Nam của chúng ta nữa !

Những lời lẽ kém hiểu biết như thế không nên có, vì chỉ gây sự phẫn nộ của người Chiêm và gây thêm mối chia rẽ giữa hai dân tộc, vô tình tiếp tay cho ước vọng của thực dân Pháp khi chúng bị đuổi khỏi Việt Nam.
 
Vương Quốc Champa Rộng Lớn Đã Dần Biến Mất Như Thế Nào


Chuyện Một Người Việt Làm Vua Chiêm Thành


Lich_HSV2005_Le_Hoan_004
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn
Nguyễn Hoàng Anh(*)
Chuyện xẩy ra vào đời vua Lê Đại Hành, cuối thế kỷ thứ 10, lúc nền tự chủ của Đại Cồ Việt còn đang ở giai đoạn củng cố để tự khẳng định, còn Chiêm Thành thì đã là một quốc gia độc lập gần 800 năm nay, và đang ở vào thời kỳ cực thịnh. 
Chiêm Thành lập quốc và tranh chấp biên cương với Giao Châu. 
Nước Chiêm Thành vốn là đất quận Nhật Nam, thuộc Giao Chỉ Bộ nhà Hán. Năm 192 sau Công Nguyên, niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời Hán Hiến Đế, con trai của viên công tào huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên (trên bia đá tìm được ở Khánh Hòa có khắc tên tiếng Phạn là Xri Mara) nổi lên chiếm cứ huyện thành, dựng cờ độc lập. Quận Nhật Nam lúc bấy giờ có 5 huyện: Lư Dung, Tỵ Cảnh, Tây Quyển, Tượng Lâm, và Châu Ngô. Huyện Tượng Lâm nằm ở phần đất tỉnh Quảng Nam ngày nay. Vì địa thế Tượng Lâm xa xôi hiểm trở, quan binh Lĩnh Nam không có khả năng đánh chiếm lại, mà triều đình lại gặp lúc suy vi không thể điều động quân nơi khác đến tăng viện, nên nhà Đông Hán đành để cho Tượng Lâm tự chủ, và gọi địa phương tân lập này là Lâm Ấp, ý nói là đô ấp của huyện Tượng Lâm. Gặp lúc Trung Hoa loạn lạc, đất nước bị chia ba (Thời Tam quốc), Lâm Ấp kiêm tính luôn huyện Châu Ngô (Bình Định), định quốc đô ở Sinharpura (Trà Kiệu), bành trướng lãnh thổ lên Tây Nguyên và vào phía nam đèo Cả, thế lực mỗi ngày một mạnh. Chỉ nửa thế kỷ sau khi độc lập, Lâm Ấp đã tính đến chuyện tiến ra miền bắc tranh phong với Đế quốc Hán.
Năm 248, niên hiệu Xích Ô thứ 11 nhà Đông Ngô, Lâm Ấp đánh chiếm thành Khu Túc (ở xã Nguyệt Biều trên bờ nam sông Hương) của quận Nhật Nam, rồi kéo quân ra cướp phá hai quận Cửu Chân (Thanh Hóa) và Giao Chỉ (Bắc Bộ), san bằng hai quận thành này. Ngô Chúa Tôn Quyền sai Lục Dận làm Thứ Sử Giao Châu, An Nam Hiệu Úy, đem đại binh từ Kim Lăng sang ứng phó, Lâm Ấp mới lui quân, nhưng vẫn giữ thành Khu Túc. Từ đó, Lâm Ấp sửa sang Khu Túc thành căn cứ quân sự xuất phát các cuộc tiến binh cướp phá Giao Châu khiến nhà Tấn phải lấy phần đất của huyện Tây Quyển tiếp giáp với Lâm Ấp để lập thêm huyện Thọ Lãnh (huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên) nhằm mục đích củng cố việc bảo vệ cương giới cực nam của Giao Châu.
Năm 347, đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa thứ 3, vua Lâm Ấp Phạm Văn cử đại binh đánh chiếm quận Nhật Nam, bắt giết Thái Thú Hạ Hầu Lãm, san bằng thành Tây Quyển (phía bắc Huế), xây lũy Bình Chánh (mạn bắc Quảng Bình) để làm đường phân ranh Giao Châu-Lâm Ấp, mưu tính chuyện chiếm đóng lâu dài. Nhưng liền sau đó, nhà Tấn cử Đằng Tuấn làm Chinh Tây Đốc Hộ huy động quân lính hai châu Giao Quảng, năm 349, vào tái chiếm Nhật Nam, nhưng bị Phạm Văn đánh bại, phải lui về Cửu Chân.
Trong trận này, Phạm Văn cũng bị thương và chết ít lâu sau đó, con là Phạm Phật lên thay. Đằng Tuấn thừa cơ hợp binh với Thứ Sử Giao Châu Dương Bình và Thái Thú Cửu Chân Quán Súy, năm 351, tiến vào chiếm lại Tây Quyển, đuổi đánh quân Lâm Ấp qua Thọ Lãnh đến Khu Túc, rồi hai bên giảng hòa.
Nhưng chỉ ít lâu sau khi Đằng Tuấn bãi binh, năm 359, vẫn đời Tấn Mục Đế, niên hiệu Thăng Bình năm đàu, Phạm Phật lại từ Khu Túc tiến ra xâm lấn Nhật Nam, khiến Thứ Sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi phải cử đại binh thủy lục vào đánh. Phạm Phật rút quân lui về giữ vững thành Khu Túc. Hai bên nghị hòa, Phạm Phật trả lại đất Nhật Nam, lấy bến Ôn Công (mũi Chân Mây, cực nam Thừa Thiên) làm ranh giới Giao Châu-Lâm Ấp.
Nhật Nam yên ổn được một thời gian. Đến đời Tấn An Đế, con Phạm Phật là Phạm Hồ Đạt (Bhadravarman I) lên nối ngôi cha, năm 399, niên hiệu Long An thứ 3, lại tiến binh đánh hãm quận Nhật Nam, bắt giết Thái Thú Cảnh Nguyên, rồi thừa thắng tiến ra đánh chiếm quận Cửu Đức (nhà Tấn lấy phần đất phía nam quận Cửu Chân mà lập ra, (ngày nay là Nghệ Tĩnh), bắt giết Thái Thú Tào Bính, và vây hãm quận thành Giao Châu, nhưng bị Thái Thú Giao Chỉ là Đỗ Viện đánh bại phải rút quân về. Nhờ quân công này, Đỗ Viện được thăng làm Thứ Sử Giao Châu, đến khi mất, con là Đỗ Tuệ Độ thay thế.
Năm 413, Phạm Hồ Đạt vượt biển ra cướp phá quận Cửu Chân, gia tướng của Đỗ Tuệ Độ là Đỗ Tuệ Kỳ đánh giết được Âu Tri là con nối ngôi của Phạm Hồ Đạt, và Phạm Kiện là tướng chỉ huy quân Lâm Ấp, và bắt sống một người con khác của Phạm Hồ Đạt là Na Năng cùng hơn một trăm tùy tướng lớn nhỏ. Phạm Hồ Đạt thảm bại, rút quân về, rồi mất trong năm đó. Con cháu Phạm Hồ Đạt không giữ được vương nghiệp, ngôi báu về tay người khác họ là Phạm Dương Mại.
Lúc bấy giờ nhà Tấn mất, và Trung Hoa chia làm Nam Bắc triều. Năm 420, Lưu Dũ lên ngôi, lập ra nhà Tống (Nam triều), tức là Tống Vũ Đế, và vẫn dùng Đỗ Tuệ Độ làm Thứ Sử Giao Châu.
Năm 421, niên hiệu Vĩnh Sơ thứ 2, Đỗ Tuệ Độ hàng phục được Phạm Dương Mại. Tống Vũ Đế bèn phong Phạm Dương Mại làm Lâm Ấp vương, và từ đó Lâm Ấp chính thức trở thành phiên bang của Trung Quốc.
Năm 433, đời Tống Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia thứ 10, vua Lâm Ấp kế tiếp là Phạm Dương Mại II cử sứ bộ sang xin nhà Tống cho kiêm tính Giao Châu nhưng bị từ chối, nên đem lòng oán hận, một mặt lơ là việc triều cống, mặt khác thường xuyên đem quân cướp phá Giao Châu. Tống Văn Đế bèn sai Đàn Hòa Chi đem bọn Tiêu Cảnh Hiến, Tông Xác, Khương Trọng Cơ, Kiều Hoằng Dân, năm 446, niên hiệu Nguyên Gia thứ 23, cử đại binh đánh Lâm Ấp, hạ được thành Khu Túc, rồi tiến vào kinh đô Trà Kiệu đốt phá chém giết, thu vét được nhiều vàng bạc châu báu. Từ đó, Lâm Ấp suy yếu, chịu giữ phận phiên thuộc nên biên cương phía nam của Giao Châu (mũi Chân Mây) được tạm yên.
Nhà Tề thay nhà Tống, năm 492, niên hiệu Vĩnh Ninh thứ 10, lại gia phong cho vua Lâm Ấp Phạm Chư Nông tước vị An Nam Tướng quân Lâm Ấp vương. Nhưng đến khi nhà Lương lên ngôi vua Nam triều, nhân việc Lý Bôn nổi lên độc lập ở Giao Châu, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 541, đời Lương Vũ Đế, niên hiệu Đại Đồng thứ 7, vua Lâm Ấp là Luật Đà La Bạc Ma (Rudravarman) thừa cơ đem quân lấn chiếm Nhật Nam rồi kéo ra cướp phá Cửu Đức, bị tướng nhà Tiền Lý nước Vạn Xuân là Phạm Tu đánh bại, nên phải rút quân khỏi Cửu Đức, nhưng vẫn chiêm cứ Nhật Nam. Đây là lần đụng độ quân sự đàu tiên giữa Lâm Ấp và Giao Châu độc lập.
Từ đó, suốt 62 năm tồn tại của nước Vạn Xuân, trãi qua các đời Lương, Trần (Nam triều) cho đến khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc, Lâm Ấp tiếp tục chiếm cứ Nhật Nam. Sau khi hàng phục Lý Phật Tử, chiếm lại Giao Châu, nhà Tùy sai Lưu Phương làm Hoan Châu đạo Hành quân Tổng quản đem đại binh đi kinh lược Lâm Ấp.
Năm 605, đời Tùy Dượng Đế, niên hiệu Đại Nghiệp năm đàu, Lưu Phương cùng Thứ Sử Khâm Châu là Ninh Trường Chân hợp binh thủy bộ chiếm lại Nhật Nam, hạ thành Khu Túc, rồi kéo quân vào quốc đô Trà Kiệu đánh đuổi vua Lâm Ấp là Phạm Phạn Chí chạy vào Panduranga, thu vét nhiều vàng bạc châu báu và kinh sách.
Nhà Tùy chia đất mới bình định làm 3 quận là Tỵ Cảnh (Quảng Bình), Hải Âm (Quảng Trị, Thừa Thiên), và Lâm Ấp (Quảng Nam, Bình Định). Nhưng triều Tùy quá ngắn ngủi, Trung Hoa rơi trở lại vào cảnh loạn lạc, nhân đó Phạm Phạn Chí nổi lên khôi phục đất cũ.
Đến lúc nhà Đường lên thay, Phạm Phạn Chí và các vua kế vị tuy cung thuận Trung Quốc nhưng vẫn giữ đất Nhật Nam.
Từ năm 758, đời Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên năm đàu, sử Tàu gọi Lâm Ấp là Hoàn Vương. Các vua Hoàn Vương không triều cống Trung Quốc, và thuờng xuyên kéo quân ra cướp phá An Nam. Đến mạt diệp nhà Đường, triều đình suy yếu, quan binh An Nam Đô Hộ phủ lại bận bịu đối phó với nạn Nam Chiếu thường xuyên từ mạn tây bắc tràn xuống cướp bóc, không còn hơi sức để lo việc phương nam, nên Nhật Nam mất hẳn về Lâm Ấp. Biên giới Giao Châu-Lâm Ấp là ở Hoành Sơn.
Năm 875, Lâm Ấp thiên đô về Đồng Dương (Indrapura), cũng trong địa hạt Quảng Nam. Bắt đàu từ đây, sử sách Trung Quốc dùng danh xưng Chiêm Thành (Champapura) có nghĩa là đất nước của người Chiêm, thay thế danh xưng Lâm Ấp có nghĩa là đô ấp của huyện Tượng Lâm. Sự kiện này hàm ý từ bỏ tham vọng khôi phục quận Nhật Nam đời Hán và nhìn nhận Chiêm Thành là một xứ sở tự chủ ở ngoài cương vực sinh hoạt của dân tộc Trung Hoa. 
Giao Châu tự chủ bước đầu lấn đất Chiêm Thành. 
Vào đầu thế kỷ thứ 10, nhân lúc Trung Hoa loạn lạc, ở Giao Châu, Khúc Thừa Dụ nổi lên tự lập làm Tiết Độ sứ.
Năm 907, nhà Đường mất. Nhà Hậu Lương lên thay, cử Lưu Ẩn làm Tiết Độ sứ Quảng Châu, tước Nam Bình vương, và mặc nhiên công nhận Khúc Hạo thay thế cha giữ chức Tiết Độ sứ Giao Châu.
Năm 911, Lưu Ẩn chết, Lưu Cung lên thay, tách Quảng Châu thành nước độc lập, và xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Việt, định đô ở Phiên Ngung.
Trong lúc đó, tại Giao Châu, năm 917, khi Khúc Hạo chết, nhà Lương giao chức Tiết Độ sứ cho con Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ. Lưu Cung bèn cất quân đi đánh Khúc Thừa Mỹ.
Năm 923, Khúc Thừa Mỹ bại trận, Quảng Châu và Giao Châu lại thống nhất sau hơn nửa thiên niên kỷ chia cắt. Nhưng Lý Khắc Chính và Lý Tiến cùng bọn quan lại Lưu Cung đưa sang Giao Châu là bọn tham tàn, dân Giao Châu không phục, nên chỉ ít lâu sau, năm 931, bị tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ nổi lên đánh đuổi. Dương Đình Nghệ tự lập làm Tiết Độ sứ. Thừa lúc Giao Châu có nội loạn (Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn), năm 938, Lưu Cung cử đại binh sang đánh Giao Châu. Quân hai bên giao chiến trên sông Bạch Đằng, và quân Lưu Cung đã bị Ngô Quyền đánh bại. Ngô Quyền xưng vương, nhưng sau khi Ngô Quyền chết vào năm 944, Giao Châu rơi vào nạn 12 sứ quân cát cứ.
Tại Quảng Châu, Lưu Cung nghĩ mình thuộc tông thất nhà Hán nên vào năm 947 đổi quốc hiệu Đại Việt lại thành Nam Hán.
Tại Giao Châu, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, tự lập làm vua, xưng là Đinh Tiên Hoàng, được quần thần tôn là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, niên hiệu là Thái Bình, và định đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Trong khoảng thời gian này, Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Hoa, lập nên nhà Tống. Vua Tống sai Phan Mỹ đem binh đánh bắt Lưu Thành, diệt nhà Nam Hán. Quảng Châu lại thuộc bản đồ Trung Quốc. Trước tình hình đó, liên tiếp các năm 970, 971, Đinh Bộ Lĩnh cử sứ bộ sang Tống triều cầu phong, và năm 972, vua Tống phong cho Đinh Bộ Lĩnh tưóc vị Giao Chỉ Quận vương. Giao Châu được chính thức thừa nhận tự chủ.
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích ám hại, vua kế vị còn nhỏ tuổi, triều thần khuynh loát lẫn nhau. Nhà Tống thừa cơ sai Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng, năm 980, đem quân thủy bộ hai mặt cùng tiến vào đánh, đồng thời đưa thư uớc hẹn vua Chiêm Thành là Tỳ Mi Thuế tiến công cương giới phía nam của Đại Cồ Việt.
Trước tình thế nguy cấp như vậy, do sự sắp xếp của Phạm Cự Lượng và sự đồng tình của bà Thái hậu họ Dương, quân sĩ tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, lấy hiệu là Đại Hành Hoàng Đế.
Tháng 3 năm 981, quân Tàu tiến vào nội địa Đại Cồ Việt. Lê Hoàn chia quân giữ chặt mặt thủy, ngăn chặn quân Lưu Trừng không vào được sông Bạch Đằng, đồng thời đón đánh đạo quân Tàu đi đường bộ qua ngã Ôn Châu, bắt giết chủ tướng Hầu Nhân Bảo và cầm tù bọn bộ tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huấn.
Năm 982, Lê Hoàn cử sứ bộ qua Tống triều cầu hòa và được phong chức Tĩnh Hải Tiết Độ sứ. Về sau, Lê Hoàn còn được Tống triều gia phong Giao Chỉ Quận vương vào năm 993, và Nam Bình vương vào năm 997. Yên được mặt bắc, ngay trong năm 982, Lê Hoàn cất quân chinh phạt Chiêm Thành.
Lúc này, Chiêm Thành là một quốc gia tự chủ từ bảy tám trăm năm nay và chịu ảnh hưởng đậm đà văn minh Ấn Độ.
Từ năm 749 đời Đường Huyền Tông, niên hiệu Thiên Bửu thứ 8, Lâm Ấp vĩnh viễn chiếm cứ Nhật Nam và không còn gửi sứ bộ thông hiếu với Trung Quốc. Đã vậy, các vua Hoàn Vương lại thường xuyên kéo quân ra cướp phá miền Hoan Ái.
Từ năm 875 là năm quốc gia này được sử Tàu bắt đầu gọi là Chiêm Thành thì nước này đã trở nên cường thịnh, nhất là dưới các triều vua Indravarman II và Indravarman III. Chiêm Thành đánh thắng Chân Lạp nhiều trận lớn, mở rộng biên cương về phía nam và phía tây, kiến thiết kinh đô Đồng Dương và khu thánh địa Mỹ Sơn vô cùng tráng lệ. Chiêm Thành không thông hiếu với Trung Quốc, nhưng đến khi Triệu Khuông Dẫn chấm dứt thời Ngũ Đại, lên ngôi vua lập ra nhà Tống thì vua Chiêm Thành lúc bấy giờ là Jaya Indravarman ngay trong năm 960 đã nhanh chóng gửi sứ bộ mang lễ vật sang chúc mừng và xin nối lại bang giao với Trung Quốc. Sau đó, Jaya Indravarman cũng như vua kế vị là Paramecvaravarman mà sử ta gọi là Tỳ Mi Thuế đều đặn giử lệ triều cống nhà Tống. Do có mối giao hảo này mà có vụ Tống triều năm 980 gửi thư ước hẹn Tỳ Mi Thuế liên minh cất quân đánh vào biên giới phía nam của Đại Cồ Việt.
Lê Hoàn là một vị Hoàng đế Tướng quân có thực tài cả về quân sự lẫn chính trị. Vừa lên ngôi vua, Lê Hoàn một mặt tích cực chuẩn bị lực lượng vũ trang để đối phó với quân nhà Tống, mặt khác đẩy mạnh công tác ngoại giao tìm cách thông hiếu với Chiêm Thành.
Năm 981, niên hiệu Thiên Phúc thứ 2, vua Lê sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành giao hiếu. Nhưng vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế ỷ vào thế liên minh với nhà Tống, lại thấy quân Tống đang sửa soạn tiến vào nội địa Đại Cồ Việt, nên chẳng những không chịu bàn việc hòa hiếu mà còn trở mặt bắt giữ sứ giả. Vua Lê vô cùng tức giận, nên ngay sau khi đánh bại hai đạo quân thủy bộ cũa nhà Tống, và thành công trong việc gửi sứ bộ sang Tống triều nghị hòa và cầu phong, năm 982, niên hiệu Thiên Phúc thứ 3, nhà vua ngự giá thân chinh cất đại quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành Tỳ Mi Thuế xuất quân chống cự, và chiến trận đã xẩy ra trong vùng Bình Trị Thiên ngày nay. Tỳ Mi Thuế bị chém chết ngay tại trận tiền, và binh lính Chiêm Thành bị giết và bị bắt sống hàng mấy vạn người.
Người Chiêm tôn Indravarman IV lên làm vua để lo việc chống giữ, nhưng không cản được đà tiến quân như vũ bão của Đại Cồ Việt. Vua Lê Đại Hành đánh chiếm kinh đô Đồng Dương (Quảng Nam), Indravarman IV bỏ thành chạy trốn vào Panduranga (Phan Rang). Quân nhà Tiền Lê san thành Đồng Dương thành bình địa, và thiêu hủy tông miếu hoàng gia Chiêm Thành. Vua Lê Đại Hành chia quân đóng giữ các nơi xung yếu của Chiêm Thành đến tận Vijaya (Bình Định). Nhà vua ở lại trên đất Chiêm một năm mới hạ chiếu ban sư. Khi rút quân về, nhà vua mang theo 100 cung nữ người Chiêm giỏi múa hát và một thầy tăng người Ấn Độ, cùng rất nhiều vàng ngọc châu báu. Nhà vua lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Quản giáp Lưu Kế Tông để chiếm đóng phần phía bắc nước Chiêm Thành (từ Hoành Sơn đến mũi Varella). 
Chuyện người Việt làm vua Chiêm Thành. 
Chuyện xẩy ra vào triều vua Lê Đại Hành.
Năm 983, niên hiệu Thiên Phúc thứ 4, vua Lê Đại Hành rút đại quân về Hoa Lư, và cử Quản giáp Lưu Kế Tông ở lại Đồng Dương chỉ huy đạo quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, bao gồm bắc bộ quận Nhật Nam cũ (Bình Trị Thiên), miền Amaravati (Quảng Nam) và miền Vijaya (Bình Định). Vua Chiêm Thành Indravarman IV chạy trốn vào nam, chỉ còn giử được miền Panduranga (Khánh Thuận).
Năm 985, niên hiệu Thiên Phúc thứ 6, Indravarman IV cử sứ bộ sang Tống triều dâng cống phẩm và khiếu nại với vua Tống Thái Tông về chuyện Giao Châu (Đại Cồ Việt) xâm chiếm đất đai và phá hủy tông miếu của Chiêm Thành. Vì quân nhà Tống vừa mới bị Lê Đại Hành đánh bại, nên Tống triều cũng e ngại không muốn xen vào công việc của hai nước Chiêm Việt, chỉ biết một mặt phủ dụ sứ bộ Chiêm Thành nên cư xử hòa mục với lân bang, mặt khác hứa hẹn sẽ làm trung gian trong việc thương nghị với Đại Cồ Việt để giải quyết tranh chấp bằng con đường thỏa hiệp hòa bình.
Năm 986, niên hiệu Thiên Phúc thứ 7, Indravarman IV chết, Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành và cử sứ giả mang phẩm vật sang triều cống vua Tống (1). Người Chiêm Thành nổi lên chống đối và bị Lưu Kế Tông đàn áp nên phải chạy trốn sang Hẳi Nam và Quảng Châu tỵ nạn. Vua Tống Thái Tông bèn cử sứ giả mang tặng vật qua Hoa Lư ban cho vua Lê Đại Hành và đưa thư hỏi về việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua và đàn áp người Chiêm Thành, và việc bọn Bồ La Át đem hơn 100 người trong thị tộc chạy sang Đạm Châu (Hải Nam) xin qui phụ nhà Tống (2). Vua Lê Đại Hành sai Ngô Quốc Ân cầm đầu sứ bộ sang Tống triều đáp lễ và biện giải về các vụ Lưu Kế Tông và Bồ La Át (3).
Trong những năm tiếp theo, người Chiêm Thành tiếp tục chống đối Lưu Kế Tông, và bị đàn áp mạnh, nên bỏ chạy sang qui phụ Trung quốc mỗi ngày một nhiều (4).
Năm 988, niên hiệu Thiên Phúc thứ 9, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại miền Vijaya, và tôn người lãnh đạo cuộc nổi dậy lên ngôi vua tại thành Phật Thệ (còn gọi là Chà Bàn, ở Bình Định). Vua mới đưọc tôn lên ngôi lấy hiệu là Ku Xri Harivarman II, sử ta gọi là Băng vương La Duệ. Lưu Kế Tông lo buồn sinh bệnh. Qua năm sau, 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu đời Lê Đại Hành, Lưu Kế Tông mất.
Harivarman II thừa cơ tiến ra khôi phục miền Amavarati và bắc bộ Nhật Nam cũ đến tận châu Địa Lý.
Năm 990, niên hiệu Hưng Thống thứ 2, vua Lê Đại Hành sai quân sang đánh châu Địa Lý, bắt được nhiều tù binh. Harivarman II liền cử sứ bộ mang tê ngưu và sản vật quí giá sang Tống triều tiến cống và dâng biểu tố cáo Đại Cồ Việt lại sang xâm chiếm đất đai Chiêm Thành. Vua Tống Thái Tông đích thân đứng ra giảng hòa hai nước Chiem Việt.
Ngay trong năm 990, niên hiệu Thuần Hóa năm đàu triều Tống Thái Tông, vua Tống gửi chiếu cho vua Lê yêu cầu bãi binh, và khuyến dụ nước nào hãy giữ nguyên biên cảnh nước đó, không được xâm lược lẫn nhau. Vua Lê Đại Hành vì mới được nhà Tống phong Kinh Triệu Quận hầu, và gia phong Kiểm Hiệu Thái úy (5), lại vì việc năm trước vua Chiêm Thành Harivarman II không chứa chấp bọn phản thần Dương Tiến Lộc (6), nên chấp nhận việc bãi binh nghị hòa. Vua Lê Đại Hành ra lệnh rút quân khỏi châu Địa Lý, đem về đóng giữ châu Bố Chính.
Năm 992, niên hiệu Hưng Thống thứ 4, vua Lê Đại Hành trao trả cho Chiêm Thành 360 người bị bắt tại châu Địa Lý trong trận đánh năm 990.
Cũng trong năm 992, nhà vua sai Phụ Quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người mở đường bộ dọc theo bờ biển từ cửa Nam Giới (cửa Sót ở Hà Tĩnh) vượt đèo Ngang và xuyên suốt qua châu Bố Chính để đến thẳng châu Địa Lý (miền giữa Quảng Bình).
Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành chỉ được 3 năm (986-989), thời gian làm vua không đủ dài và sự nghiệp không có gì hiển hách để lưu lại dấu ấn trong lịch sử bang giao hai nước Chiêm Việt. Tuy vậy, việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Điều đáng nói là sự kiện lịch sử này sử cũ nước ta hoàn toàn không đả động đến, trong lúc đó thì sử nhà Tống ghi chép rất rõ ràng việc Lưu Kế Tông lên ngôi vua và gửi sứ bộ qua Tống triều cầu phong (1), cũng như biểu tấu của các biên thần ở Quảng Châu và Đạm Châu về việc những người Chiêm Thành chống đối Lưu Kế Tông chạy sang Trung Quốc xin qui phụ (2,4).
Sử cũ nước ta không hề nhắc nhở đến nhân vật Lưu Kế Tông, thảng hoặc có đề cập đến Lưu Kế Tông thì hoàn toàn không nói đến việc Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành mà chỉ nói đến chuyện Lưu Kế Tông trốn ở lại.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng Lưu Kế Tông vốn là một viên Quản giáp trong đạo quân của Lê Đại Hành đi chinh phạt Chiêm Thành năm Thiên Phúc thứ 3 (982). Khi vua Lê rút quân về nước năm Thiên Phúc thứ 4 (983), Lưu Kế Tông trốn ở lại. Vua Lê sai người con nuôi (không tường danh tính) đưổi theo bắt được, đem chém. Điều ghi chép này của Toàn Thư có mấy điểm không ổn.
Thứ nhất, Quản giáp đời Tiền Lê là chức quan võ phụ trách việc binh bị của một châu, tương đương với chức vụ Tiểu Khu trưởng hay Tư lệnh Quân khu ngày nay, như vậy, việc đào nhiệm của một Quản giáp là một sự kiện quan trọng, sử quan không thể giản lược chép “Lưu Kế Tông trốn ở lại” mà không nói rõ thêm vì sao trốn ở lại, trốn ở lại rồi đi đâu, làm gì v.v.
Thứ hai, việc đuổi bắt thành công một Quản giáp đào nhiệm là một công trạng khá lớn, người được vua sai phái thi hành công tác lại là con nuôi vua, thế mà sử quan không có được một vài chữ để nói về thân thế nhân vật này, chỉ ghi chú “không tường danh tánh”.
Thứ ba, việc “vua Lê sai con nuôi đưổi theo bắt được, đem chém” được Toàn Thư ghi là xẩy ra vào năm Thiên Phúc thứ 4 (983) đời Lê Đại Hành, trong lúc đó thì Tống sử lại chép năm Ung Hy thứ 3 (986) đời Tống Thái Tông, tức là 3 năm sau, Lưu Kế Tông sai sứ giả là Lý Triều Tiên sang cầu phong. Chả lẽ Lưu Kế Tông bị chém chết rồi sống lại? Chả lẽ sử quan nhà Tống đặt chuyện ra để chép bậy? Mà nếu sử nhà Tống chép đúng sự thực thì việc “đưổi theo bắt được đem chém” là chuyện không hề xẩy ra.
Cứ thế mà suy thì việc con nuôi vua Lê được sai phái đi đuổi bắt cũng không hề có, và việc Lưu Kế Tống trốn ở lại khi vua Lê rút quân về Hoa Lư chỉ đúng sự thực có nửa phần, nghĩa là Lưu Kế Tông đã ở lại chứ không phải trốn ở lại. Nói khác đi, Lưu Kế Tông đã công khai ở lại, Lưu Kế Tông được chỉ định ở lại để thi hành nhiệm vụ. Mà nhiệm vụ gì thích đáng hơn để giao phó cho một Quản giáp (là viên chức trông nom việc binh bị một châu) nếu không là nhiệm vụ chỉ huy đạo quân lưu lại chiếm đóng phần lãnh thổ mới bình định của nước Chiêm Thành, từ đèo Ngang đến mũi Varella.
Tóm lại, chuyện Lưu Kế Tông tự lập làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Nguyên ủy của việc Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành là do vua Lê Đại Hành khi rút quân về Hoa Lư năm 983 đã lưu lại một đạo quân để chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, và cử Quản giáp Lưu Kế Tông chỉ huy đạo quân đó. Nhưng tại sao sử nước ta hoàn toàn không đề cập đến việc Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành?
Tại sao sử nước ta không ghi chép việc vua Lê có lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành?
Và tại sao sử nước ta lại quanh co bịa đặt chuyện Lưu Kế Tông đào nhiệm, bị bắt và bị xử chém?
Đó là những vấn đề cần được nêu lên để làm sáng tỏ một số dữ kiện lịch sử quan yếu trong giai đoạn nền tự chủ của nước ta vừa phôi thai, nhân đề cập đến chuyện một người Việt làm vua Chiêm Thành. 
Những vấn đề xoay quanh chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành. 
Hầu hết sách sử nước ta không nói đến chuyện Lưu Kế Tông, thảng hoặc có nói tới thì chỉ nói Lưu Kế Tông trốn ở lại chứ hoàn toàn không nói vì sao trốn ở lại, trốn ở lại để làm gì. Đương nhiên là không có trước tác lịch sử nào, kể cả truyện dã sử và lịch sử tiểu thuyết, nói đến chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành. Ngay cả sách sử soạn thảo từ thời cận đại ấn hành bằng chữ quốc ngữ cũng không có tác phẩm nào đề cập đến chuyện Lưu Kế Tông, ngoại trừ cuốn Việt Sử: Xứ Đàng Trong của Phan Khoang có trích dẫn Toàn Thư nói về việc Lưu Kế Tông trốn ở lại, bị bắt, và bị chém, và Tống sử khẳng định chuyện Lưu Kế Tông có làm vua Chiêm Thành. Nhưng Phan Khoang chỉ đơn thuần trích dẫn sử ta và sử Tàu mà không đối chiếu, không đánh giá và không kết luận.
Như đã trình bày ở trên, chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành là chuyện có thực. Vậy ta thử tìm hiểu tại sao sử cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến?
Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành là do có nhiều điều kiện khách quan làm tiền đề, nhưng tựu trung chủ yếu vẫn là do chiến công oanh liệt của Lê Hoàn đã chém chết Tỳ Mi Thuế, đốt cháy Đồng Dương và chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành. Sự nghiệp bình Chiêm của nhà Tiền Lê quả là lớn lao, dẫu các đời thịnh trị Lý, Trần về sau, trong lãnh vực này, cũng không hơn được. Do đó, luận giải giản đơn và dễ dàng được chấp nhận nhất về vấn đề sử cũ nước ta không đề cập đến chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành là một khi đã nói đến chuyện Lưu Kế Tông lên ngôi vua Chiêm Thành, thì phải nói đến chuyện Lưu Kế Tông được cắt cử ở lại chỉ huy đạo quân chiếm đóng già nửa nước Chiêm Thành, nghĩa là phải nói đến sự nghiệp bình Chiêm vô cùng hiển hách của Lê Hoàn. Gia dĩ, Lê Hoàn không có sử thần để lưu lại các trước tác tán tụng công đức, triều Tiền Lê lại quá ngắn ngủi, con không nối được nghiệp cha, còn nói gì đến việc ghi chép công trạng mở nước của đời vua trước. Tiếp đến các triều Lý Trần, sự nghiệp bình Chiêm, hoặc là không có gì vượt trội hơn, hoặc là bị lu mờ trước vai tuồng trọng yếu của giới khăn yếm (Ỷ Lan (7) đời Lý, Huyền Trân (8) đời Trần), cho nên đối với công nghiệp của Lê Hoàn, các sử quan đời sau đã vì chúa của mình mà lược bớt. Cũng cùng một lề lối suy luận giản đơn và dễ dãi như vậy, có người cho rằng hành động phản phúc của Lưu Kế Tông, cho dù tội nhẹ bỏ ngũ trốn ở lại, hay tội nặng hơn tự lập làm vua Chiêm Thành, là một chuyện không mấy tốt đẹp theo tinh thần chính thống nho giáo, bởi lẽ Lưu Kế Tông, dưới con mắt phán xét của các sử quan các triều đại phong kiến, là kẻ phản thần bạn nghịch, là tấm gương xấu xa không đáng để người đời sau biết đến, nên lược bỏ không chép.
Chuyện Lưu Kế Tông liên quan mật thiết đến việc vua Lê Đại Hành lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành. Cũng như đối với vụ Lưu Kế Tông tự lập làm vua, sử cũ nước ta hoàn toàn không đề cập đến vụ Lê Hoàn lưu quân. Hơn nữa, không phải chỉ có các sử gia đời sau không nhắc nhở đến việc lưu quân, mà chính ngay đương thời triều đình Tiền Lê cũng tránh né đả động đến chuyện này. Rõ ràng là nhà cầm quyền ở Hoa Lư tìm cách phủ nhận tất cả mọi liên hệ với các vụ việc xẩy ra ở phía nam đèo Ngang sau năm 983 là năm Lê Hoàn rút đại quân ra khỏi Chiêm Thành, và lưu lại một đạo quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Lưu Kế Tông để chiếm đóng một miền rộng lớn vừa được bình định, kéo dài từ đèo Ngang đến mũi Varella. Vấn đề lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành là một hạng mục gay go trong các cuộc thương thảo ngoại giao giữa nhà Tống Trung Quốc và triều đình Tiền Lê Đại Cồ Việt. Tuy đã đánh bại 2 đạo binh thủy bộ của nhà Tống vào tháng 3 năm 981, Lê Hoàn luôn luôn tiến hành các cuộc vận động ngoại giao với nhà Tống để cầu phong. Liên tiếp trong các năm 981, 982, 983, Lê Hoàn gửi sứ bộ mang cống phẩm sang Tống triều lo việc thông hiếu. Mặt khác, Chiêm Thành là nước phiên thuộc của nhà Tống, vuốt mũi phải nể mặt, triều đình Đại Cồ Việt luôn luôn phải giải thích với nhà Tống lý do của việc chinh phạt Chiêm Thành năm 982 cũng như phải biện bạch về các dữ kiện chính trị và an ninh xẩy ra ở Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Chính sách ngoại giao của nhà Tống lúc bấy giờ đối với 2 nước phiên thuộc phương nam là làm trung gian hòa giải cuộc xung đột Chiêm Việt, đồng thời sử dụng lá bài công nhận ngoại giao (tấn phong) một cách nhỏ giọt đối với Đại Cồ Việt để tạo áp lực ngăn cản Lê Hoàn thôn tính Chiêm Thành. Do đó mà năm 982, Lê Hoàn chỉ được nhà Tống phong Tĩnh Hải Tiết Độ sứ. Đến năm 989, qua bao nhiêu biến cố dồn dập và những nổ lực liên tục của các sứ bộ, Lê Hoàn cũng chỉ mới được phong An Nam Đô Hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái Úy. Chỉ sau khi Lê Hoàn chịu bãi binh nghị hòa (năm 990), rút quân ra khỏi châu Địa Lý theo chiếu chỉ của Tống Thái Tông, và trao trả tù binh cho Chiêm Thành (năm 992), năm 993, niên hiệu Thuần Hóa thứ 4 đời Tống Thái Tông, Lê Hoàn mới được nhà Tông phong làm Giao Chỉ Quận vương (5). Những hoạt động ngoại giao quanh co khúc mắc vừa kể trên đã giải thích lý do triều đình Hoa Lư phủ nhận sự liên hệ với các hành trạng của Lưu Kế Tông trên đất Chiêm Thành từ năm 983 trở về sau. Triều đình Hoa Lư trước sau đều nói với các sứ giả nhà Tống rằng Lưu Kế Tông là một tên đào ngũ, đã bị vua Lê sai con nuôi đi đuổi bắt và chém chết từ năm 983. Triều đình Hoa Lư nhất mực chối từ trách nhiệm về hoạt động của những người lính Đại Cồ Việt đồn trú trên đất Chiêm Thành dưới quyền Lưu Kế Tông bằng cách rêu rao rằng họ là những người trốn ở lại. Triều đình Hoa Lư giả tảng không biết Lưu Kế Tông là ai, làm ngơ để mặc Lưu Kế Tông muốn làm gì thì làm, kỳ thực thì tất cả các hoạt động của Lưu Kế Tông đều do Hoa Lư chỉ đạo. Thậm chí việc Lưu Kế Tông tự lập làm vua sau khi Indravarman IV chết cũng do sự dàn dựng của Hoa Lư. Thực vậy, nếu vua Lê Đại Hành rút hết đại binh về năm 983, không lưu quân chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, thì hà cớ gì triều đình Hoa Lư phải quanh co, úp mở, che dấu, thậm chí bịa đặt chuyện Lưu Kế Tông trốn ở lại, bị bắt, và bị chém chết. Nếu Lưu Kế Tông là một kẻ phản bội, năm 983 đào ngũ, trốn ở lại một thân một mình, không có đạo quân trú phòng trong tay, thì làm sao năm 986 lại có thể tự lập làm vua Chiêm Thành. Nếu Lưu Kế Tông là một kẻ phản bội, năm 986 tự tung tự tác lên ngôi vua, cử sứ bộ sang Tống triều cầu phong, thì tại sao vua Lê Đại Hành không phát binh hỏi tội Lưu Kế Tông, mà phải đợi đến sau khi Lưu Kế Tông chết, Xri Harivarman II khôi phục hầu như toàn bộ đất cũ, vua Lê Đại Hành mới sai quân đánh châu Địa Lý lúc này đã trở lại trong tay người Chiêm Thành. 
Kết luận. 
Chuyện một người Việt tên Lưu Kế Tông, vốn là một võ quan trong đạo quân nam chinh của vua Lê Đại Hành, đã lên làm vua Chiêm Thành là một chuyện có thực, được sử nhà Tống ghi chép rành rẽ, nhưng sử cũ nước ta hoàn toàn không dề cập đến. Với tài trí siêu việt của vua Lê Đại Hành, cùng với quân lực hùng hậu của Đại Cồ Việt thuở bấy giờ, nước ta có thừa khả năng thu phục toàn bộ quận Nhật Nam ngày trước. Nhưng nhà Tống không muốn Giao Châu trở nên quá mạnh, đích thân vua Tống Thái Tông đã đứng ra hòa giải để ngăn cản Đại Cồ Việt thôn tính Chiêm Thành, dùng lá bài tấn phong làm áp lực buộc vua Lê Đại Hành rút quân. Mặt khác, vua Lê Đại Hành tuy vừa oanh liệt đánh bại quân Tống, nhưng vẫn muốn thông hiếu với Trung quốc, nên trước đòi hỏi của Tống triều, vua Lê lúc đầu, bề ngoài thì minh thị rút quân nhưng bên trong thì âm thầm bố trí đạo binh Lưu Kế Tông ở lại chiếm đóng miền bắc Chiêm Thành, và về sau, khi Lưu Kế Tông chết, người Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại đất cũ, vua Lê buộc lòng ra mặt cất quân đánh châu Địa Lý để rồi cuối cùng chịu bãi binh chỉ giử lại châu Bố Chính (9) và đổi lấy việc phong vương trong mục đích tranh thủ Tống triều tiếp tục chính thức thừa nhận nền tự chủ của Đại Cồ Việt.
Cái tước quận vương Giao Chỉ của nhà Đinh và nhà Tiền Lê Đại Cồ Việt buổi đàu dựng cờ tự chủ đã mở đường cho cái tước quốc vương của các triều đại sau này và việc hình thành quốc gia Đại Việt, Đại Nam, Việt Nam, độc lập và thống nhất. Chính sách ngoại giao kiên trì, mềm dẽo và khôn khéo của vua Lê Đại Hành xuyên qua câu chuyện Lưu Kế Tông làm vua Chiêm Thành đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp mở nước của dân tộc ta.
Và Lưu Kế Tông là kẻ có công chứ không phải là người có tội.
(* người đăng bài, chưa rõ tác giả)
Chú thích. 
(1) Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống Thái Tông, niên hiệu Ung Hy thứ 3, sứ giả của Lưu Kế Tông là Lý Triều Tiên mang phẩm vật sang tiến cống.
(2) Sử nhà Tống chép rằng trong năm 986, đời Tống Thái Tông, niên hiệu Ung Hy thứ 3, biên thần Đạm Châu (Hải Nam) tâu rằng người Chiêm là bọn Bồ La Át bị Giao Châu bức bách nên đem hơn 100 người trong họ chạy sang xin qui phụ.
(3) Tiếc rằng ngày nay không tìm thấy sử liệu nào đề cập đến các lời biện giải này.
(4) Sử nhà Tống chép trong năm 987, huyện Thanh Viễn, Nam Hải, thuộc Quảng Châu, tiếp nhận 150 người Chiêm đến xin tỵ nạn. Năm 988, niên hiệu Đoan Cung năm đàu, biên thần Quảng Châu lại tâu có thêm 301 người Chiêm xin qui phụ.
(5) Lê Hoàn được nhà Tống tấn phong như sau:
-Năm 982 Tĩnh Hải Tiết Độ sứ;
-Năm 989 An Nam Đô hộ Tĩnh Hải Tiết Độ sứ Kinh Triệu Quận hầu, gia phong Kiểm Hiệu Thái úy;
-Năm 993 Giao Chỉ Quận vương;
-Năm 997 Nam Bình vương.
(6) Năm 989, niên hiệu Hưng Thống năm đầu triều Lê Đại Hành, Quản giáp Dương Tiến Lộc làm phản, đem một số thủ hạ người châu Hoan châu Ái chạy sang Chiêm Thành xin qui phụ, nhưng vua Chiêm Harivarman II không thu nhận.
(7) Năm 1069, Lý Thánh Tông đem 5 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Tháng 2, vua thân chinh Chiêm Thành, đánh mãi không thắng, đem quân trở về, đến châu Cư Liên, nghe tin nguyên phi Ỷ Lan trông nom việc nội trị, lòng dân hòa hợp, trong nước yên tĩnh, thẹn nghĩ mình là phận mày râu mà không bằng khách má phấn, bèn quay binh trở lại đánh, và thắng trận”.
(8) Năm 1306, Trần Anh Tông gã em gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) để đổi lấy 2 châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên và Đà Nẵng).
(9) Sử cũ chép năm Kỷ Dậu (1069), niên hiệu Thiên Huống Bửu Tượng thứ 2, tháng 2, ngày Mậu Tuất, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh, và được tha về. Sử cũ chép như vậy là đã chép để chính thức hóa châu Bố Chính vốn đã thống thuộc Đại Việt trong thực tế từ đời Lê Đại Hành. Thực vậy, năm 990, vua Lê Đại Hành sai quân đánh châu Địa Lý, và năm 992, sai Ngô Tử An đắp đường bộ từ cửa Nam giới để đến châu Địa Lý, như vậy, nếu châu Bố Chính trong thực tế chưa thống thuộc Đại Cồ Việt thì lẽ ra vua Lê phải sai quân đánh châu Bố Chính trước, cũng như phải đặt vấn đề làm sao Ngô Tử An có thể mở đường xuyên qua châu Bố Chính nghĩa là trên đồng đất nước người. Hơn nữa, năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thú 4, vua Lý Thánh Tông xuống chiếu đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh, và chiêu mộ dân đến lập nghiệp ở các châu ấy, không nhắc nhở gì đến châu Bố Chính. Điều này phù hợp với nhận xét của giáo sĩ Cadière rằng từ Bố Trạch (Địa Ly) đến Gio Linh (Ma Linh), dân Việt qui tụ người cùng họ để lập thành làng (Ngô xá, Phan xá, Hoàng xá, Hồ xá v.v.), một hiện tượng không thấy có ở Quảng Trạch, Tuyên Hóa (Bố Chính). Nói khác đi, khi dân Việt hưởng ứng chiếu di dân của Lý Thánh Tông đến lập nghiệp ở Lâm Bình và Minh Linh thì ở Bố Chính đã có dân Việt đến định cư từ trước rồi
Nguồn bài đăng
 
Thuyết minh về Di tích Mỹ Sơn

Cầu cứu Đại Việt bất thành, Chiêm Thành bị Chân Lạp thôn tính

Một trận thủy chiến giữa Chiêm Thành và Chân Lạp vào thế kỷ 12 - Ảnh: Internet

Năm 1203, một người chú của Sri Suryavarman là Dhanapatio Grama (Bố Điền) đã phản lại đất nước, dẫn quân Chân Lạp tiến đánh Amaravati, chiếm lấy ngôi vua. Dhanapatio Grama Sri sau đó trở thành “vua Chiêm Thành”, dưới quyền điều khiển của vua Jayavarman VII nước Chân Lạp. Suryavarman bại trận đã đem cả gia quyến và hạm đội của mình gồm 200 thuyền vượt biển bắc tiến, ghé vào cửa biển Cơ La để cầu cứu Đại Việt.

Nửa cuối thế kỷ 12 chứng kiến một sự kiện chấn động ở khu vực Đông Nam Á là việc kinh thành Angkor của đế quốc Chân Lạp bị Chiêm Thành, một nước nhỏ hơn rất nhiều chiếm đóng và cướp phá tan hoang. Chiến công này là thành quả từ hơn một thập kỷ nỗ lực của vua Jaya Indravarman IV, chứng minh sức chiến đấu đáng gờm của người Chiêm Thành một khi họ có thể huy động sức mạnh tổng hợp của toàn thể các xứ Chiêm dưới một sự lãnh đạo thống nhất. Tuy nhiên thắng lợi của vua Jaya Indravarman IV chỉ là nhất thời. Chẳng những vậy, chiến thắng này dẫn đến một hệ quả vô cùng tai hại cho nước Chiêm Thành là nó đã gián tiếp khiến cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ giới quý tộc Chân Lạp kết thúc. Thay vào đó, người nước Chân Lạp đã có động lực để đoàn kết lại, cùng quay mũi giáo về nước Chiêm Thành. Với tiềm lực vượt trội cả về nhân lực lẫn tài nguyên, người Chân Lạp đã quật khởi ngay sau thất bại.

Sự xuất hiện của vua Jayavarman VII nước Chân Lạp kể từ năm 1177 đã làm gió đổi chiều trong cuộc đối đầu giữa Chiêm Thành và Chân Lạp. Năm 1181, vua Jayavarman VII lên ngôi sau khi đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành, khôi phục lại kinh đô và nhiều vùng lãnh thổ. Sự trị vì của nhà vua mới đã giúp nước Chân Lạp phục hồi mạnh mẽ, trở lại vị thế của một đế quốc đương thời. Dưới thời vua Jayavarman VII, thành Angkor Thom bắt đầu được khởi công xây dựng, là sự tiếp nối của kinh thành Angkor Wat trước đó. Ở phía đối nghịch, vua Chiêm là Jaya Indravarman IV vẫn cố gắng duy trì thế tiến công của Chiêm Thành.

Nhưng cục diện dần bất lợi cho ông khi mà vua Jayavarman VII đã lãnh đạo quân Chân Lạp đứng vững, và dần chuyển sang phản công. Năm 1190, một hoàng thân người Chiêm quốc lưu vong tại Chân Lạp là Sri Vidyanandana đã được vua Jayavarman VII tin tưởng giao quyền lãnh đạo một đạo quân lớn tiến đánh nước Chiêm Thành. Sri Vidyanandana vốn là một hoàng tử Chiêm Thành nhưng từ năm 1182 đã sang sống ở Chân Lạp, được vua Jayavarman VII thu nhận làm tướng. Nhờ có công dẹp loạn xứ Malyan thuộc Chân Lạp, Vidyanandana được vua Jayavarman VII rất tin dùng, phong làm Phó vương.

Dưới sự lãnh đạo của Vidyanandana, quân Chân Lạp ồ ạt tiến sang Chiêm Thành, kinh đô Vijaya thất thủ ngay trong năm 1190 trước ưu thế vượt trội của kẻ địch. Vua huyền thoại Jaya Indravarman IV của nước Chiêm Thành bị bắt trong cuộc chiến. Vua Chân Lạp sau đó phong cho người anh rể của mình là In làm “vua Vijaya”, lấy hiệu là Surya Jayavarmadeva. Trên thực tế là một vị vua bù nhìn của đế quốc Chân Lạp.

Hoàng thân Sri Vidyanandana cùng các thuộc hạ thân tín tiến vào Panduranga, tự lập làm vua của xứ này, xưng hiệu là Sri Suryavarman. Nước Chiêm Thành bấy giờ bị chia làm hai phần. Các xứ miền bắc trên thực tế trở thành thuộc địa của nước Chân Lạp. Riêng xứ Panduranga vẫn giữ quyền tự chủ nhờ vào mối quan hệ tốt giữa Sri Suryavarman với vua Jayavarman VII, nhưng trên danh nghĩa vẫn phải nhận sắc phong và chịu phục tùng vua Chân Lạp.

Năm 1192, một hoàng tử xứ Vijaya là Rasupati phất cờ khởi nghĩa. Quân bù nhìn thân Chân Lạp của Surya Jayavarmadeva không chống nổi sự phản kháng mạnh mẽ của người Chiêm, buộc phải tháo chạy. Rasupati lên ngôi vua Chiêm Thành, xưng hiệu là Jaya Indravarman V. Khi biết tin Jaya Indravarman V lên ngôi, vua Jayavarman VII đã thả cựu vương Jaya Indravarman IV về nước, để tạo ra một cuộc tranh chấp vương quyền mới tại Chiêm Thành.

Cựu vương Jaya Indravarman IV khi trở về đã tập họp lại những người thân tín cũ và đề nghị liên minh với vua đương nhiệm của xứ này là Sri Suryavarman để chống lại vua Jaya Indravarman V. Vì kiêng nể uy tín của cựu vương, Sri Suryavarman đã chấp nhận liên minh. Chiêm Thành rơi vào cảnh một nước ba vua. Trong cuộc chiến tranh giành quyền lực này, phe của hai vua Jaya Indravarman IV và Sri Suryavarman cuối cùng đã chiến thắng. Quân Panduranga tiến vào chiếm đóng thành Vijaya. Vua Jaya Indravarman V bại trận bị giết.

Khi không còn thế lực đối địch từ Vijaya, vua Sri Suryavarman và Jaya Indravarman IV lập tức trở mặt với nhau. Vua Sri Suryavarman đã chiếm luôn thành thành Vijaya, với mong muốn làm vua toàn cõi Chiêm quốc. Jaya Indravarman IV với lực lượng ít ỏi của mình cố gắng chiếm lấy thành trì nhưng thất bại. Cuối cùng, Sri Suryavarman ra tay trừ khử luôn cả cựu vương Jaya Indravarman IV để lên ngôi vua Chiêm Thành vào năm 1192. Cái giá cho sự thống nhất trở lại của nước Chiêm Thành khá đắt khi mà toàn dân phải trải qua liên tiếp hàng loạt cuộc chiến tranh đẫm máu. Bên cạnh đó, sự chia rẽ giữa các xứ Chiêm càng thêm sâu sắc, khủng hoảng lòng tin giữa các tầng lớp nhân dân càng thêm trầm trọng.

Nắm giữ quyền lực sau thời kỳ đen tối, vua Sri Suryavarman không có nhiều thời gian hòa bình để khôi phục lại đất nước. Khi biết tin Sri Suryavarman tự lập làm vua toàn Chiêm Thành, vua Jayavarman VII tức giận cho rằng mình đã bị phản bội. Kể từ năm 1193 trở đi, quân Chân Lạp liên tiếp xâm lấn nước Chiêm Thành. Vua Sri Suryavarman một mặt lãnh đạo quân dân trường kỳ chiến đấu với địch mạnh, một mặt cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của Đại Việt để làm đối trọng. Năm 1194, quân Chiêm Thành đã đánh bại một cuộc xâm lược lớn của Chân Lạp. Nhận thấy vị trí Vijaya dễ bị quân Chân Lạp tấn công, Sri Suryavarman dời đô về xứ Amaravati (Quảng Nam) để tránh mũi nhọn của giặc.

Những năm tiếp theo, Chiêm Thành tích cực khôi phục lại sản xuất nông nghiệp, nhiều công trình thủy lợi được trú trọng thi công. Năm 1198, sứ giả Chiêm Thành đến Đại Việt để cầu phong và dâng cống phẩm. Đến năm 1199, sứ Đại Việt đã sang phong vương cho vua Sri Suryavarman. Tuy nhiên, Đại Việt dưới thời vua Lý Cao Tông đang đà suy sụp đã không có bất kỳ hành động thiết thực nào để giải cứu nước đã xưng thần khi họ gặp nguy nan. Vị vua thứ bảy của triều Lý chỉ lo vui chơi hưởng lạc, bỏ mặc chính sự. Rốt cuộc nước Chiêm Thành vẫn chỉ một mình chống đỡ sức mạnh của đế quốc Chân Lạp đang thời kỳ hưng thịnh nhất.

Năm 1203, một người chú của Sri Suryavarman là Dhanapatio Grama (Bố Điền) đã phản lại đất nước, dẫn quân Chân Lạp tiến đánh Amaravati, chiếm lấy ngôi vua. Dhanapatio Grama Sri sau đó trở thành “vua Chiêm Thành”, dưới quyền điều khiển của vua Jayavarman VII nước Chân Lạp. Suryavarman bại trận đã đem cả gia quyến và hạm đội của mình gồm 200 thuyền vượt biển bắc tiến, ghé vào cửa biển Cơ La để cầu cứu Đại Việt. Tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục Phạm Diên tâu bày về triều. Tại Thăng Long, vua Lý Cao Tông sai quan Thái phó Đàm Dĩ Mông cùng Đỗ An đem quân vào kinh lý. Đàm Dĩ Mông vào nam, cùng thân tín dò hỏi mọi việc. Đỗ An bàn rằng :

“Bố Trì [chỉ Sri Suryavarman] có đến 200 chiếc thuyền, cái thằng lang sói dã tâm ấy, ta không thể hoàn toàn tin nó được.

Ngạn ngữ có câu rằng :

Cái lỗ kiến mà làm vỡ đê,

Chút khói mà làm cháy nhà.

Nay bọn Bố Trì thì đông, chớ há có phải riêng cái lỗ kiến, cái chút khói mà ta nói ấy đâu. Xin ông hãy xét kỹ”

Đàm Dĩ Mông đem lời ấy bàn lại với bọn Đỗ Thanh, Phạm Diên và bảo nên phòng bị. Bọn Đỗ Thanh nghe qua cãi lại: “Kẻ kia gặp nạn mới sang cầu cứu ở ta, ta nên đem lòng thành thực mà cứu giúp nhau. Nay ngược lại ta ngờ vực họ hai lòng thì như vậy có đáng không?”

Đàm Dĩ Mông bấy giờ là một trong những trụ cột triều đình, công lao uy vọng rất lớn. Vì vậy mà ông cũng sinh ra tự cao. Khi nghe Đỗ Thanh, Phạm Diên nói trái ý mình, Đàm Dĩ Mông tức giận, dẫn quân bỏ về triều. Đỗ Thành và Phạm Diên bấy giờ mới sợ hãi, bàn nhau rằng : “Bọn ta đã trái ý quan Phụ quốc [tức Đàm Dĩ Mông], tất không thoát điều chẳng lành, chi bằng hãy bí mật đem quân đánh Bố Trì, lấy đó làm kế vẹn toàn.”

Đỗ Thanh, Phạm Diên ngoài mặt thân thiện với Sri Suryavarman nhưng tìm cơ hội đánh úp. Nhưng mưu ấy đã bị bại lộ, Sri Suryavarman nói với thuộc hạ rằng : “Bọn ta gặp nạn mới đến cầu cứu ở nước lớn. Nước lớn đã không có cái điều nghĩa thương xót mà trái lại còn muốn bắt tội làm tù nữa, đau đớn quá chừng.” Từ đó hai bên hẹn nhau liên thủ, nhưng chực nhau đánh úp nhau. Đỗ Thanh và Phạm Diên đề nghị đem thuyền chiến Đại Việt và Chiêm Thành buộc lại với nhau làm kế liên hoàn chiến thuyền.

Sri Suryavarman cũng vẫn theo lời mà buộc thuyền với quân Đại Việt. Đến đêm, lính giữ thuyền phía Đại Việt trễ nải, quân Chiêm phóng hỏa đốt thuyền rồi đánh úp quân Đại Việt. Binh lính Đại Việt thuộc châu Nghệ An tan vỡ cả đội ngũ, nhảy xuống nước chết hơn 200 người. Đỗ Thanh, Phạm Diên cũng đều bị giết chết. Vua Sri Suryavarman nhân đó cướp bóc khắp nơi ở Nghệ An, giết hại nhân dân, vơ vét của cải rồi đem đoàn quân của mình lên thuyền phiêu bạt đi đâu không rõ. Kể từ sự kiện này trở đi, các vùng phía nam nước Đại Việt liên tục bị các toán cướp biển người Chiêm cướp bóc.

Sự việc quân Đại Việt bất hòa để cho tàn quân vong quốc của Chiêm Thành cướp phá Nghệ An thể hiện rõ bộ mặt yếu kém của cuối đời nhà Lý. Một khi tướng sĩ không đồng lòng thì ngay cả một đạo quân lánh nạn cũng khiến cả một xứ quan trọng như Nghệ An tan tác. Xét ra Đàm Dĩ Mông toan tính phòng bị khi quân đội nước ngoài vào lãnh thổ nước mình là kế hợp tình hợp lý, nhưng khi cấp dưới không nghe lời lại tự mình đem quân bỏ về là điều dở không nên làm. Còn bọn Đỗ Thanh, Phạm Diên trước thì không có sự đề phòng của kẻ làm tướng, sau lại hành xử gian trá và thiếu cẩn trọng. Hành động bất nhất của hai nhân vật này đã khiến cõi nam của nước Đại Việt gặp họa. Việc này càng góp phần khiến xã hội Đại Việt đầu thế kỷ 13 thêm khủng hoảng.

Sự thờ ơ của Đại Việt cũng khiến cho hy vọng phục quốc của Chiêm Thành tiêu tan. Nước Chiêm Thành kể từ năm 1203 đã bị xóa sổ, chính thức trở thành một tỉnh của Chân Lạp. Mặc dù Dhanapatio Grama được phong vương nhưng thực tế chỉ là một quan cai trị của Chân Lạp. Mọi hành động của Dhanapatio Grama đều theo chỉ thị của vua Jayavarman VII và quân đội Chân Lạp đã chiếm đóng toàn cõi đất đai của Chiêm quốc.

Quốc Huy

 
                                      Tháp Pôklông Garai - Minh chứng của sự trường tồn

Lịch sử đất nước Chân Lạp Chenla

Lịch sử đất nước Chân Lạp Chenla




Chân Lạp (hay Chenla) là một quốc gia cổ được hình thành ở trung tâm bán đảo Đông Dương bởi các dân tộc người Môn – Khmer vào khoảng đầu thế kỷ 5. Lãnh thổ ban đầu tương ứng với phần đất miền Trung và Nam Lào cùng với vùng Đông-Bắc Thái Lan ngày nay, thủ đô có lẽ là ở Champasak (thuộc Lào). Các vương quốc láng giềng xung quanh vào thời kỳ đó là Champa ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Pyn (Miến Điện (Myanma) ở về phía Tây-Bắc.

Quốc gia này do Bhavavarman sáng lập trong thế kỷ thứ 6, gọi là nước Bhavapura, tức Chân Lạp.

Bhavavarman đã chấm dứt sự lệ thuộc Phù Nam. Sau khi ông mất, con ông là Mahendravarman lên kế ngôi và tấn công Phù Nam, buộc vua Phù Nam phải chạy trốn tới Naravana tức nước Chí Tôn (nay là Ba Thê, xã Vọng Thê, An Giang). Isanavarman kế ngôi Mahendravarman, tiếp tục tấn công "Với sức mạnh của mình đã vượt qua ranh giới lãnh thổ của Tổ tiên". Các vua thất trận đã bỏ chạy ra vùng hải đảo.

Jayavarman I lật đổ Isanavarman để cai trị một lãnh thổ rộng lớn. Bia ký của ông được tìm thấy trên một vùng lãnh thổ bao gồm cả Sae Mun, Battambang, Seam Reap, Kompong Thom, Takeo, Prey Veng và Kampot.

Sau khi đánh thắng Phù Nam, người Chân Lạp đã ồ ạt di cư xuống phía Nam. Họ đã dừng lại ở Takeo (cụm di tích Angkor Borey) và Prey Veng (cụm di tích Ba Phnom), trung lưu sông Mekong và Đông Bắc biển Hồ. Isanavarman đã xây dựng kinh đô Isanapura ở gần Kompong Thom. Theo Tùy thư của Trung Hoa thì nơi đây có tới 20.000 gia đình sinh sống. Ngoài ra vương quốc còn có 30 thành thị do các tổng đốc cai quản và quan tước cũng tựa như Lâm Ấp.


Ý nghĩa tên Chân Lạp


Trung Quốc nhập khẩu nhựa cánh kiến (tức sen lắc / si lắc / gôm lắc) từ thời nhà Tùy, cuối thế kỷ thứ 7, khi các thuyền buôn Trung Hoa mon men thám hiểm xuống phương Nam. Do ngôn ngữ  bất đồng, các lái buôn Trung Hoa không biết gì về những người bạn hàng của họ. Do trong khi giao dịch hai bên thường nhắc đi nhắc lại từ chegn lak (trong tiếng Khơ me cổ có nghĩa là lấy nhựa si lắc), các lái buôn bèn ký âm chegn lak thành 真臘 để khai báo với quan trên về nguồn gốc hàng hóa. Người Việt phiên âm Hán Việt là Chân Lạp. Chân Lạp Quốc trên mặt chữ Hán được hiểu theo nghĩa là xứ có thứ sáp chính hiệu (the country of genuine wax)

Vương quốc Chân Lạp (tiếng Anh là Chenla Kingdom, tiếng Pháp là Royaume de Chenla) là một nhà nước hùng mạnh của người Khơ-me, tồn tại từ cuối thể kỷ thứ 6 đến đầu thể kỷ thứ 9.

Thời kỳ khủng hoảng của Chân Lạp


Jayavarman qua đời năm 680. Hoàng hậu Jayadevi, nắm quyền trong khoảng 681-713, đã gây bất bình trong giới quý tộc và quan lại. Do những mâu thuẫn này mà năm 713, Puskaraksa đã truất phế bà và tự lên ngôi, lập kinh đô mới là Sambhupura ở gần Sambaur.

Do sự biến này mà phần phía Bắc của vương quốc (tức nước Bhavapura cũ) tách ra khỏi Chân Lạp, lập lại nước riêng. Tài liệu Trung Hoa ghi lại là nước này chia làm hai: Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Biên giới nằm ở dãy núi Dângrêk (nay là biên giới Thái Lan-Campuchia).




Ở miền Nam, Puskaraksa không thể kiểm soát nổi lãnh thổ của mình. Nhiều nơi nổi lên, tự lập nước riêng. Trong lúc đó vương triều Sailendra của nước Kalinga ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc của Puskaraksa năm 774, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong.
Nguồn

 
Những ngôi tháp chăm Bình Định


PHAN HƯNG NHƠN
LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHĂM PA (CHIÊM THÀNH)
1. Thời kỳ xác định bản thể
Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối với người Việt Nam. Vương quốc này ở đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao và tại sao biến mất ? Không sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, những nhân vật lịch sử Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường được nhắc tới một cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểu lầm rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không thông cảm lẫn nhau.
Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa người Việt và người Việt với nhau. Tình trạng này cần sớm chấm dứt vì cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chung của người Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế, không những là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắn những tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dân tộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung.
Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị
Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm về đất đai và lãnh thổ của người Kinh và người Chăm. Có nắm vững yếu tố này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi những chuyển biến lịch sử tiếp theo và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của những nhà viết sử hay nghiên cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm văn hóa và tình cảm của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận là không tránh khỏi.
Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị cụ thể nhưng quan điểm của người Kinh và người Chăm rất khác nhau. Đối với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là một giá trị vật chất vừa là một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đó là một giá trị tâm linh và là một biểu tượng thần quyền.
Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một ngàn năm qua, lãnh thổ của người Kinh không ngừng mở rộng theo thời gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đã có mặt tại khắp nơi trên thế giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ là một tài sản cần phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giam mình nơi chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào có thể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống khó khăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả bàn thờ tổ tiên, gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề mất gốc hay mất cội nguồn.
Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa, bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc di dân này đến nay chưa chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùng đất thấp, đất đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịu gắn bó đời mình với rừng núi hay biển cả bao la.
Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùng nước, có lằn ranh nhất định và thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh, lãnh thổ là một phạm trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộng hẹp ra sao là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnh hưởng gì đến đời sống thường ngày của người dân.
Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một vật thể thiêng liêng không thể sang nhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó, không ai tự quyền rời bỏ quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầu với người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ để giữ đất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất cả những lễ lạc trong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh các vị thần cai quản đất đai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự trị của các vị thần bảo vệ đất, che chở gia đình và đồng tộc. Nếu vì một lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phải rời bỏ quê hương đi nơi khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắn liền với nơi sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thần linh đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu phải ly hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần linh che chỡ, nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà thôi. Đó là lý do giải thích tại sao tại người Chăm không di cư ra khỏi địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi, nhất là ở Bình Thuận, người Chăm định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũ cả trăm cây số nhưng vẫn muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. Đạo Hồi khi du nhập vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh của người Chăm để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì người phụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh, Tapah (nếu là giáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac (nếu là giáo dân đạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh mà các chính quyền người Kinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh chấp đáng tiếc đã xảy ra.
Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu ? Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao ? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không ?
Câu trả lời là không và dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng : da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một điều : dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.
caytrevietnam:
Về chính trị, vương quốc Champa được tổ chức theo định chế liên bang. Trước khi bị xóa tên, vương quốc Chiêm Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vương quốc, từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vương cai trị một lãnh thổ riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểu vương khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác, vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc : Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình), Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương quốc Aryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này trong lịch sử Chiêm Thành không rõ ràng.

Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự phân chia quyền hành giữa các lãnh chúa địa phương. Chính sách địa phương tản quyền này đã được triều đình Việt Nam công nhận năm 1471, khi thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành, vừa bị đánh chiếm : đất Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau và giao cho những lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ương Chiêm Thành chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnh thổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương đảm nhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân danh thần linh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng góp nhân tài, vật lực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều cống các thế lực lớn mạnh hơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành được biết đến nhiều nhất là nữ thần Yan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại Xóm Bóng, Nha Trang.
Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa các tiểu vương quốc và vương quốc Chiêm Thành cũ với các thế lực chính trị đương thời là một biên giới thần quyền, không ai được quyền vượt qua và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triều Chiêm Thành không có tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệ những đất đai thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đây chứng minh điều đó.
2. Tượng Lâm : địa bàn xác định bản thể
Rất khó xác định mốc thời gian để biết vương quốc cổ Chiêm Thành đã được hình thành từ hồi nào. Phần lớn những nhà khảo cổ và sử học đều đồng ý là vương quốc này xuất hiện vào đầu công nguyên, tức là thời gian người Chăm bắt đầu có chữ viết, chữ Phạn cổ. Nói như vậy không có nghĩa là trước đó người Chăm không có lãnh thổ, không có tổ chức chính quyền và không có lịch sử riêng. Bản thể Chiêm Thành có trước danh xưng. Tổ chức chính quyền của họ có thể đã thành hình cùng lúc với sự xuất hiện của các Lạc hầu, Lạc tướng trên địa bàn lưu vực sông Hồng và sông Mã của nước Văn Lang, thời Hùng Vương.
Những tài liệu có dấu vết thời gian rõ ràng (sử liệu cổ Trung Hoa và các bia ký) ghi nhận vương quốc cổ Chiêm Thành chính thức xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 2, năm 192 khi quốc gia Lâm Ấp ra đời. Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên : Hồ Tôn Tinh, Tượng Lâm. Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc, Chiêm Thành (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn Thuận Thành (Pradara). Những tên gốc Phạn vừa kể đều do người Trung Hoa hay người Việt đặt ra, dựa theo cách phát âm của người địa phương mà gọi.
Về nước Hồ Tôn Tinh, sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: "Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm [có thể là Phù Nam]. Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương [Dasanana] có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh [quốc gia của người khỉ] do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư [Rama], người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh [Sita]. Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xe núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về".
Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam, Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Champa cổ. Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều khắc chuyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu chỉ là cách mô tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ và Phù Nam thường có hình con rắn hổ mang [naja] mười đầu.
Về đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa xác quyết đó là phần đất ở vùng cực nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quan trị hành chánh của Giao Châu thời Bắc thuộc, ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (có tài liệu ghi đến cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho rằng Tượng Lâm có thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, nằm trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Một số học giả người Chăm xác nhận lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm : Indrapura (Bình Trị Thiên), Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya (Nghĩa Bình), sau này gọi chung là Bắc Chiêm Thành.
Như vậy, về văn hóa, Tượng Lâm là nơi tập cư của nhiều nhóm người xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau, một sự pha trộn văn hóa tự nhiên giữa các giống người vào thời hoang sơ. Đầu tiên là sự pha trộn văn hóa giữa các nhóm Indonésien di cư (văn hóa Indus) và cổ Mã Lai (văn hóa Sa Huỳnh), kế là với nhóm Việt tộc sơ sử (văn hóa Đông Sơn), sau có thêm người Hán (văn hóa Khổng Mạnh) từ phương bắc di cư xuống và người Môn Khmer (văn hóa Óc Eo-Phù Nam) từ tây-nam đi lên. Cuối cùng là những nhóm Malayo-Polynésien (văn hóa Mã Lai - Đa Đảo hay Nam Đảo) từ biển cả tràn vào hồi đầu công nguyên. Nhóm sau cùng, hùng mạnh hơn, đã thu phục hay đồng hóa những nhóm có trước, để chỉ còn yếu tố Nam Đảo độc tôn, và thiết đặt quyền cai trị lâu dài (thế kỷ 1 trước và sau công nguyên). Một số cư dân bản địa, không chấp nhận hay không chịu nổi sự cai trị của nhóm di dân mới tới, đã di tản lên vùng rừng núi sinh sống và trở thành những nhóm sắc tộc thiểu số ngày nay, nhưng không vì vậy mà quan hệ giữa đồng bằng và miền núi bị cắt đứt, dân cư hai vùng đã nương tựa nhau để tồn tại trong suốt thời gian qua.
Sang thế kỷ thứ 2, một số thương nhân Ấn Độ đến vùng đất này buôn bán và luôn tiện phổ biến nền văn minh và văn hóa mà họ thừa hưởng cho thành phần cầm quyền địa phương và một số cơ chế tổ chức quốc giả đã được thành hình từ miền Nam lên miền Bắc. Một tấm bia đá tìm được ở làng Võ Cảnh (Nha Trang) cho biết vị vương cai trị vùng đất phía nam vào thế kỷ thứ 2 tên là Sri Mara, không có phần kế tiếp. Nhiều học giả cho rằng vị vương đó là Khu Liên, người thành lập vương quốc Lâm Ấp ở phía bắc, là sai. Sri Mara chỉ là một tiểu vương Champa ở phía nam (Kauthara), trong khi Khu Liên là một tiểu vương khác ở phía bắc (Indrapura).
Do nằm cạnh lãnh thổ với Trung Quốc, sự hình thành vương quốc Champa phía bắc được biết đến nhiều nhất bởi các nguồn sử liệu Trung Hoa để lại và cũng nhờ đó người ta biết thêm quan hệ giữa người Việt (các Lạc hầu và Lạc tướng) và người Chăm trong thời Bắc thuộc đã rất gắn bó.
Cũng nên biết đất Giao Châu, tức nước Văn Lang cũ là thuộc địa của nhà Đông Hán (-202 đến + 220) từ năm 111 trước công nguyên. Sau khi diệt xong nhà Triệu (Triệu Đà), Hán Vũ Đế chia đất Âu Lạc (Văn Lang cũ) ra làm ba quận : Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Theo Tiền Hán thư, quận Giao Chỉ có 92.440 hộ gồm 746.237 dân, quận Cửu Chân có 35.743 hộ gồm 166.013 dân và quận Nhật Nam có 15.460 hộ gồm 69.485 dân. Quận Nhật Nam có năm huyện : Tây Quyển (Hà Tĩnh), Ty Cảnh hay Ty Ảnh (Quảng Bình), Châu Ngô (Quảng Trị), Lô Dung (Thừa Thiên) và Tượng Lâm (từ Quảng Nam trở xuống).

Quá trình Đại Việt xâm lược Chiêm Thành(Chămpa)

  • anap3

    khoảng 1 10 năm trước
  • Theo Việt Nam Sử Lược, nước Chiêm Thành nằm ‘từ quận Nhật Nam vào cho đến Chân Lạp, nghĩa là ở vào quãng từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị cho đến đất Nam Việt bây giờ’. Đời Hán, người Trung Hoa gọi nước này là huyện Tượng Lâm. Cuối đời Hán, đổi thành nước Lâm Ấp. Lâm Ấp ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. Họ là giống dân quật cường. Trong suốt một ngàn năm ta bị Tầu chia thành các quận để đô hộ thì Lâm Ấp cũng chịu chung số phận nhưng họ đã nhiều lần khởi nghĩa chống ách đô hộ Tầu. Chẳng những thế, theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, ngay từ Đông Hán (năm 102) trở đi, người Lâm Ấp cứ năm ba năm lại vào đánh phá, cướp của và giết dân Việt. Đến đời nhà Đường bên Tầu, nước Lâm Ấp đổi thành Hoàn Vương quốc và lại sang đánh phá phía Bắc, rồi chiếm giữ luôn châu Hoan, châu Ái (nhà Đường đổi nước ta thành 12 châu: Thanh Hóa là Ái châu; Nghệ An là Hoan Châu và Diễn Châu). Do đó, năm 808, nhà Đường đem quân chinh phạt Hoàn Vương quốc. Hoàn Vương phải chạy lui xuống phía Nam và lấy quốc hiệu là Chiêm Thành. Bởi vì nước ta bị Tầu đô hộ một ngàn năm cho nên trong suốt thời gian này hầu hết mọi việc đối phó với Chiêm quốc đều do lực lượng bảo hộ Tầu đảm trách.

    Đến năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt một ngàn năm bị Tầu đô hộ mở ra thời tự chủ cho nước ta. Một khi nước Việt giành được quyền tự chủ đã mau chóng trở thành một nước có văn hiến, có tổ chức chính quyền và quân đội vững mạnh. Nếu như nước Chiêm hiểu được tại sao giống Việt bị đô hộ chính trị một ngàn năm mà không hề bị đồng hóa thì phải mau chấm dứt tính hiếu chiến và theo đường lối chính trị ngoại giao khôn khéo thì hai nước Việt - Chiêm đã có thể vẫn cùng tồn tại. Trên thực tế nước Chiêm vẫn tiếp tục gây hấn, cho nên bắt buộc nước Việt sẽ thế chân nước Tầu tranh hùng với nước Chiêm và cuối cùng đã xóa tên Chiêm quốc trên bản đồ. Thật vậy, theo Việt Nam Sử Lược: ‘Vua Đại Hành phá được quân nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm Thành, vì lúc vua Đại Hành lên ngôi, có sai sứ sang Chiêm Thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía Bắc đã yên, vua Đại Hành đem binh sang đánh báo thù (982)’ (trang 97). Song có lẽ mối hiềm thù dân tộc sâu xa nhất đối với dân tộc Việt là việc quân Chiêm, dưới quyền chỉ huy của vị vua anh dũng là Chế Bồng Nga, đã phục kích giết chết vua Dụ Tông của Đại Việt (1377), rồi sau đó 3 lần tàn phá kinh thành Thăng Long. Có thể nói lúc ấy, quân Chiêm ra vào nước ta như vào chỗ không người! May sao trong chiến dịch đánh ra Đại Việt năm 1389-1390, do bị chỉ điểm nên chiến thuyền của Chế Bồng Nga đã bị quân Đại Việt tập trung bắn phá và đã giết được ông. Từ đây bắt đầu thời tàn lụi của Chiêm quốc.

    Sơ lược tiến trình thôn tính Chiêm Thành:

    1. Năm 1069, vua Lí Thánh Tông đánh chiếm 3 châu Địa Lí, Ma Linh và Bố Chính (đất Quảng Bình, Quảng Trị). Sau đó Chiêm Thành chịu triều cống nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất.

    2. Năm 1301, vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Chế Mân dâng 2 châu Ô, Lí làm sính lễ. Năm 1307, vua Anh Tông thu nhận 2 châu Ô, Lí và đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu (vùng đất Huế).

    3. Năm 1402, Hồ Hán Thương đánh chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam, Quảng Ngãi)

    4. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh, hạ kinh đô Chà Bàn, bắt vua Chiêm, lấy đất tới Thạch Bi Sơn (Tuy Hòa).

    5. Năm 1653, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) tiến sâu vào Nam và lập thêm 2 phủ Thái Khang (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Khánh).

    6. Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận. Tới năm 1697, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang, đổi thành Yên Phúc và Hòa Đa. Từ nay, kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ.

    Điểm có ý nghĩa đặc biệt trong quá trình Nam tiến thôn tính Chiêm Thành đó là: thời gian gần 4 thế kỉ đầu, kể từ thời nhà Lí tới nhà Hồ, tuy bờ cõi nước ta có mở rộng về phương Nam, nhưng chưa chú trọng việc di dân khai khẩn, mới chỉ đóng quân bảo hộ, thu thuế và bắt phải triều cống, còn hạ tầng nội trị vẫn để cho người bản xứ phụ trách.

    Có lẽ âm mưu thực dân thôn tính đất đai đúng nghĩa chỉ được triệt để thi hành từ thời nhà Hồ. Hồ Quý Li lên ngôi năm 1400. Bắt chước nhà Trần, ngay cuối năm đó ông truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm thái thượng hoàng, nhưng ông vẫn đóng vai tích cực trong việc trị nước. Triều nhà Hồ có những cải cách tiến bộ về nhiều phương diện. Riêng về công cuộc Nam tiến, vào năm 1402, sau khi chiếm được đất Chiêm Động, Cổ Lũy, nhà Hồ cho làm con đường thiên lí từ Tây đô Thanh Hóa vào tới Hoá Châu. Chia đất Chiêm Động, Cổ Lũy ra làm 4 châu, đặt các chức quan cai trị và di dân vào chiếm ngụ, thời bình thì cầy cấy làm ăn, khi hữu sự thì sung quân ngũ đánh giặc.

    Theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư thì chính sách mộ dân Việt vào khai khẩn Của nhà Hồ rất ưu đãi song cũng rất nghiêm khắc, buộc phải thích tên nơi đến ở vào tay, coi như không có thể trở về được nữa. Đối với nguời Chiêm (tầng lớp ưu tú trong xã hội), ai muốn đi thì cho đi, ai ở lại cho làm quan. Người Chiêm không có tên họ, Hồ Qúy Li ban họ Đinh cho những người chịu hàng phục (đến thời Lê Thánh Tông còn bắt người Chiêm nào không có họ phải lấy một họ trong số các họ của người Việt để làm sổ hộ tịch). Ngoài việc mở mang đường xá, họ Hồ còn cho đào sông rạch để tiện việc vận chuyển. Nhờ vậy, đất Thuận Hóa đã trở nên một vùng đất phú thịnh, bắt đầu đóng vai trò trọng yếu trong lịch sử nước Việt. Đối với vận mệnh Chiêm Thành, để mất đất Hóa Châu dân Hời khó lòng giữ được nước. Không may nhà Hồ sớm để mất nước vào tay quân Minh xâm lược cho nên hậu thế dễ quên đi công nghiệp di dân, khai khẩn đất đai rất quan trọng của triều đại ngắn ngủi này.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

MIỀN TÂY HOANG DẠI

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/153

VẪN THẾ MÀ!