Nửa cuối thế
kỷ 12 chứng kiến một sự kiện chấn động ở khu vực Đông Nam Á là việc
kinh thành Angkor của đế quốc Chân Lạp bị Chiêm Thành, một nước nhỏ hơn
rất nhiều chiếm đóng và cướp phá tan hoang. Chiến công này là thành quả
từ hơn một thập kỷ nỗ lực của vua Jaya Indravarman IV, chứng minh sức
chiến đấu đáng gờm của người Chiêm Thành một khi họ có thể huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn thể các xứ Chiêm dưới một sự lãnh đạo thống nhất.
Tuy nhiên thắng lợi của vua Jaya Indravarman IV chỉ là nhất thời. Chẳng
những vậy, chiến thắng này dẫn đến một hệ quả vô cùng tai hại cho nước
Chiêm Thành là nó đã gián tiếp khiến cuộc tranh giành quyền lực trong
nội bộ giới quý tộc Chân Lạp kết thúc. Thay vào đó, người nước Chân Lạp
đã có động lực để đoàn kết lại, cùng quay mũi giáo về nước Chiêm Thành.
Với tiềm lực vượt trội cả về nhân lực lẫn tài nguyên, người Chân Lạp đã
quật khởi ngay sau thất bại.
Sự xuất hiện của vua Jayavarman VII nước
Chân Lạp kể từ năm 1177 đã làm gió đổi chiều trong cuộc đối đầu giữa
Chiêm Thành và Chân Lạp. Năm 1181, vua Jayavarman VII lên ngôi sau khi
đã đánh đuổi được quân Chiêm Thành, khôi phục lại kinh đô và nhiều vùng
lãnh thổ. Sự trị vì của nhà vua mới đã giúp nước Chân Lạp phục hồi mạnh
mẽ, trở lại vị thế của một đế quốc đương thời. Dưới thời vua Jayavarman
VII, thành Angkor Thom bắt đầu được khởi công xây dựng, là sự tiếp nối
của kinh thành Angkor Wat trước đó. Ở phía đối nghịch, vua Chiêm là Jaya
Indravarman IV vẫn cố gắng duy trì thế tiến công của Chiêm Thành.
Nhưng cục diện dần bất lợi cho ông khi
mà vua Jayavarman VII đã lãnh đạo quân Chân Lạp đứng vững, và dần chuyển
sang phản công. Năm 1190, một hoàng thân người Chiêm quốc lưu vong tại
Chân Lạp là Sri Vidyanandana đã được vua Jayavarman VII tin tưởng giao
quyền lãnh đạo một đạo quân lớn tiến đánh nước Chiêm Thành. Sri
Vidyanandana vốn là một hoàng tử Chiêm Thành nhưng từ năm 1182 đã sang
sống ở Chân Lạp, được vua Jayavarman VII thu nhận làm tướng. Nhờ có
công dẹp loạn xứ Malyan thuộc Chân Lạp, Vidyanandana được vua Jayavarman
VII rất tin dùng, phong làm Phó vương.
Dưới sự lãnh đạo của Vidyanandana, quân
Chân Lạp ồ ạt tiến sang Chiêm Thành, kinh đô Vijaya thất thủ ngay trong
năm 1190 trước ưu thế vượt trội của kẻ địch. Vua huyền thoại Jaya
Indravarman IV của nước Chiêm Thành bị bắt trong cuộc chiến. Vua Chân
Lạp sau đó phong cho người anh rể của mình là In làm “vua Vijaya”, lấy
hiệu là Surya Jayavarmadeva. Trên thực tế là một vị vua bù nhìn của đế
quốc Chân Lạp.
Hoàng thân Sri Vidyanandana cùng các
thuộc hạ thân tín tiến vào Panduranga, tự lập làm vua của xứ này, xưng
hiệu là Sri Suryavarman. Nước Chiêm Thành bấy giờ bị chia làm hai phần.
Các xứ miền bắc trên thực tế trở thành thuộc địa của nước Chân Lạp.
Riêng xứ Panduranga vẫn giữ quyền tự chủ nhờ vào mối quan hệ tốt giữa
Sri Suryavarman với vua Jayavarman VII, nhưng trên danh nghĩa vẫn phải
nhận sắc phong và chịu phục tùng vua Chân Lạp.
Năm 1192, một hoàng tử xứ Vijaya là
Rasupati phất cờ khởi nghĩa. Quân bù nhìn thân Chân Lạp của Surya
Jayavarmadeva không chống nổi sự phản kháng mạnh mẽ của người Chiêm,
buộc phải tháo chạy. Rasupati lên ngôi vua Chiêm Thành, xưng hiệu là
Jaya Indravarman V. Khi biết tin Jaya Indravarman V lên ngôi, vua
Jayavarman VII đã thả cựu vương Jaya Indravarman IV về nước, để tạo ra
một cuộc tranh chấp vương quyền mới tại Chiêm Thành.
Cựu vương Jaya Indravarman IV khi trở về
đã tập họp lại những người thân tín cũ và đề nghị liên minh với vua
đương nhiệm của xứ này là Sri Suryavarman để chống lại vua Jaya
Indravarman V. Vì kiêng nể uy tín của cựu vương, Sri Suryavarman đã chấp
nhận liên minh. Chiêm Thành rơi vào cảnh một nước ba vua. Trong cuộc
chiến tranh giành quyền lực này, phe của hai vua Jaya Indravarman IV và
Sri Suryavarman cuối cùng đã chiến thắng. Quân Panduranga tiến vào chiếm
đóng thành Vijaya. Vua Jaya Indravarman V bại trận bị giết.
Khi không còn thế lực đối địch từ
Vijaya, vua Sri Suryavarman và Jaya Indravarman IV lập tức trở mặt với
nhau. Vua Sri Suryavarman đã chiếm luôn thành thành Vijaya, với mong
muốn làm vua toàn cõi Chiêm quốc. Jaya Indravarman IV với lực lượng ít
ỏi của mình cố gắng chiếm lấy thành trì nhưng thất bại. Cuối cùng, Sri
Suryavarman ra tay trừ khử luôn cả cựu vương Jaya Indravarman IV để lên
ngôi vua Chiêm Thành vào năm 1192. Cái giá cho sự thống nhất trở lại của
nước Chiêm Thành khá đắt khi mà toàn dân phải trải qua liên tiếp hàng
loạt cuộc chiến tranh đẫm máu. Bên cạnh đó, sự chia rẽ giữa các xứ Chiêm
càng thêm sâu sắc, khủng hoảng lòng tin giữa các tầng lớp nhân dân càng
thêm trầm trọng.
Nắm giữ quyền lực sau thời kỳ đen tối,
vua Sri Suryavarman không có nhiều thời gian hòa bình để khôi phục lại
đất nước. Khi biết tin Sri Suryavarman tự lập làm vua toàn Chiêm Thành,
vua Jayavarman VII tức giận cho rằng mình đã bị phản bội. Kể từ năm 1193
trở đi, quân Chân Lạp liên tiếp xâm lấn nước Chiêm Thành. Vua Sri
Suryavarman một mặt lãnh đạo quân dân trường kỳ chiến đấu với địch mạnh,
một mặt cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của Đại Việt để làm đối trọng. Năm
1194, quân Chiêm Thành đã đánh bại một cuộc xâm lược lớn của Chân Lạp.
Nhận thấy vị trí Vijaya dễ bị quân Chân Lạp tấn công, Sri Suryavarman
dời đô về xứ Amaravati (Quảng Nam) để tránh mũi nhọn của giặc.
Những năm tiếp theo, Chiêm Thành tích
cực khôi phục lại sản xuất nông nghiệp, nhiều công trình thủy lợi được
trú trọng thi công. Năm 1198, sứ giả Chiêm Thành đến Đại Việt để cầu
phong và dâng cống phẩm. Đến năm 1199, sứ Đại Việt đã sang phong vương
cho vua Sri Suryavarman. Tuy nhiên, Đại Việt dưới thời vua Lý Cao Tông
đang đà suy sụp đã không có bất kỳ hành động thiết thực nào để giải cứu
nước đã xưng thần khi họ gặp nguy nan. Vị vua thứ bảy của triều Lý chỉ
lo vui chơi hưởng lạc, bỏ mặc chính sự. Rốt cuộc nước Chiêm Thành vẫn
chỉ một mình chống đỡ sức mạnh của đế quốc Chân Lạp đang thời kỳ hưng
thịnh nhất.
Năm 1203, một người chú của Sri
Suryavarman là Dhanapatio Grama (Bố Điền) đã phản lại đất nước, dẫn quân
Chân Lạp tiến đánh Amaravati, chiếm lấy ngôi vua. Dhanapatio Grama Sri
sau đó trở thành “vua Chiêm Thành”, dưới quyền điều khiển của vua
Jayavarman VII nước Chân Lạp. Suryavarman bại trận đã đem cả gia quyến
và hạm đội của mình gồm 200 thuyền vượt biển bắc tiến, ghé vào cửa biển
Cơ La để cầu cứu Đại Việt. Tri châu Nghệ An là Đỗ Thanh và châu mục Phạm
Diên tâu bày về triều. Tại Thăng Long, vua Lý Cao Tông sai quan Thái
phó Đàm Dĩ Mông cùng Đỗ An đem quân vào kinh lý. Đàm Dĩ Mông vào nam,
cùng thân tín dò hỏi mọi việc. Đỗ An bàn rằng :
“Bố Trì [chỉ Sri Suryavarman] có đến 200 chiếc thuyền, cái thằng lang sói dã tâm ấy, ta không thể hoàn toàn tin nó được.
Ngạn ngữ có câu rằng :
Cái lỗ kiến mà làm vỡ đê,
Chút khói mà làm cháy nhà.
Nay bọn Bố Trì thì đông, chớ há có phải riêng cái lỗ kiến, cái chút khói mà ta nói ấy đâu. Xin ông hãy xét kỹ”
Đàm Dĩ Mông đem lời ấy bàn lại với bọn Đỗ Thanh, Phạm Diên và bảo nên phòng bị. Bọn Đỗ Thanh nghe qua cãi lại: “Kẻ
kia gặp nạn mới sang cầu cứu ở ta, ta nên đem lòng thành thực mà cứu
giúp nhau. Nay ngược lại ta ngờ vực họ hai lòng thì như vậy có đáng
không?”
Đàm Dĩ Mông bấy giờ là một trong những
trụ cột triều đình, công lao uy vọng rất lớn. Vì vậy mà ông cũng sinh ra
tự cao. Khi nghe Đỗ Thanh, Phạm Diên nói trái ý mình, Đàm Dĩ Mông tức
giận, dẫn quân bỏ về triều. Đỗ Thành và Phạm Diên bấy giờ mới sợ hãi,
bàn nhau rằng : “Bọn ta đã trái ý quan Phụ quốc [tức Đàm Dĩ Mông], tất không thoát điều chẳng lành, chi bằng hãy bí mật đem quân đánh Bố Trì, lấy đó làm kế vẹn toàn.”
Đỗ Thanh, Phạm Diên ngoài mặt thân thiện
với Sri Suryavarman nhưng tìm cơ hội đánh úp. Nhưng mưu ấy đã bị bại
lộ, Sri Suryavarman nói với thuộc hạ rằng : “Bọn ta gặp nạn mới đến
cầu cứu ở nước lớn. Nước lớn đã không có cái điều nghĩa thương xót mà
trái lại còn muốn bắt tội làm tù nữa, đau đớn quá chừng.” Từ đó hai
bên hẹn nhau liên thủ, nhưng chực nhau đánh úp nhau. Đỗ Thanh và Phạm
Diên đề nghị đem thuyền chiến Đại Việt và Chiêm Thành buộc lại với nhau
làm kế liên hoàn chiến thuyền.
Sri Suryavarman cũng vẫn theo lời mà
buộc thuyền với quân Đại Việt. Đến đêm, lính giữ thuyền phía Đại Việt
trễ nải, quân Chiêm phóng hỏa đốt thuyền rồi đánh úp quân Đại Việt. Binh
lính Đại Việt thuộc châu Nghệ An tan vỡ cả đội ngũ, nhảy xuống nước
chết hơn 200 người. Đỗ Thanh, Phạm Diên cũng đều bị giết chết. Vua Sri
Suryavarman nhân đó cướp bóc khắp nơi ở Nghệ An, giết hại nhân dân, vơ
vét của cải rồi đem đoàn quân của mình lên thuyền phiêu bạt đi đâu không
rõ. Kể từ sự kiện này trở đi, các vùng phía nam nước Đại Việt liên tục
bị các toán cướp biển người Chiêm cướp bóc.
Sự việc quân Đại Việt bất hòa để cho tàn
quân vong quốc của Chiêm Thành cướp phá Nghệ An thể hiện rõ bộ mặt yếu
kém của cuối đời nhà Lý. Một khi tướng sĩ không đồng lòng thì ngay cả
một đạo quân lánh nạn cũng khiến cả một xứ quan trọng như Nghệ An tan
tác. Xét ra Đàm Dĩ Mông toan tính phòng bị khi quân đội nước ngoài vào
lãnh thổ nước mình là kế hợp tình hợp lý, nhưng khi cấp dưới không nghe
lời lại tự mình đem quân bỏ về là điều dở không nên làm. Còn bọn Đỗ
Thanh, Phạm Diên trước thì không có sự đề phòng của kẻ làm tướng, sau
lại hành xử gian trá và thiếu cẩn trọng. Hành động bất nhất của hai nhân
vật này đã khiến cõi nam của nước Đại Việt gặp họa. Việc này càng góp
phần khiến xã hội Đại Việt đầu thế kỷ 13 thêm khủng hoảng.
Sự thờ ơ của Đại Việt cũng khiến cho hy
vọng phục quốc của Chiêm Thành tiêu tan. Nước Chiêm Thành kể từ năm 1203
đã bị xóa sổ, chính thức trở thành một tỉnh của Chân Lạp. Mặc dù
Dhanapatio Grama được phong vương nhưng thực tế chỉ là một quan cai trị
của Chân Lạp. Mọi hành động của Dhanapatio Grama đều theo chỉ thị của
vua Jayavarman VII và quân đội Chân Lạp đã chiếm đóng toàn cõi đất đai
của Chiêm quốc.
Quốc Huy
Tháp Pôklông Garai - Minh chứng của sự trường tồn
khoảng 1 10 năm trước
Đến năm 938, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt một ngàn năm bị Tầu đô hộ mở ra thời tự chủ cho nước ta. Một khi nước Việt giành được quyền tự chủ đã mau chóng trở thành một nước có văn hiến, có tổ chức chính quyền và quân đội vững mạnh. Nếu như nước Chiêm hiểu được tại sao giống Việt bị đô hộ chính trị một ngàn năm mà không hề bị đồng hóa thì phải mau chấm dứt tính hiếu chiến và theo đường lối chính trị ngoại giao khôn khéo thì hai nước Việt - Chiêm đã có thể vẫn cùng tồn tại. Trên thực tế nước Chiêm vẫn tiếp tục gây hấn, cho nên bắt buộc nước Việt sẽ thế chân nước Tầu tranh hùng với nước Chiêm và cuối cùng đã xóa tên Chiêm quốc trên bản đồ. Thật vậy, theo Việt Nam Sử Lược: ‘Vua Đại Hành phá được quân nhà Tống rồi, định sang đánh Chiêm Thành, vì lúc vua Đại Hành lên ngôi, có sai sứ sang Chiêm Thành, bị vua nước ấy bắt giam sứ lại. Đến khi việc phía Bắc đã yên, vua Đại Hành đem binh sang đánh báo thù (982)’ (trang 97). Song có lẽ mối hiềm thù dân tộc sâu xa nhất đối với dân tộc Việt là việc quân Chiêm, dưới quyền chỉ huy của vị vua anh dũng là Chế Bồng Nga, đã phục kích giết chết vua Dụ Tông của Đại Việt (1377), rồi sau đó 3 lần tàn phá kinh thành Thăng Long. Có thể nói lúc ấy, quân Chiêm ra vào nước ta như vào chỗ không người! May sao trong chiến dịch đánh ra Đại Việt năm 1389-1390, do bị chỉ điểm nên chiến thuyền của Chế Bồng Nga đã bị quân Đại Việt tập trung bắn phá và đã giết được ông. Từ đây bắt đầu thời tàn lụi của Chiêm quốc.
Sơ lược tiến trình thôn tính Chiêm Thành:
1. Năm 1069, vua Lí Thánh Tông đánh chiếm 3 châu Địa Lí, Ma Linh và Bố Chính (đất Quảng Bình, Quảng Trị). Sau đó Chiêm Thành chịu triều cống nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất.
2. Năm 1301, vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Chế Mân dâng 2 châu Ô, Lí làm sính lễ. Năm 1307, vua Anh Tông thu nhận 2 châu Ô, Lí và đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu (vùng đất Huế).
3. Năm 1402, Hồ Hán Thương đánh chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam, Quảng Ngãi)
4. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh, hạ kinh đô Chà Bàn, bắt vua Chiêm, lấy đất tới Thạch Bi Sơn (Tuy Hòa).
5. Năm 1653, chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) tiến sâu vào Nam và lập thêm 2 phủ Thái Khang (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Khánh).
6. Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận. Tới năm 1697, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang, đổi thành Yên Phúc và Hòa Đa. Từ nay, kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ.
Điểm có ý nghĩa đặc biệt trong quá trình Nam tiến thôn tính Chiêm Thành đó là: thời gian gần 4 thế kỉ đầu, kể từ thời nhà Lí tới nhà Hồ, tuy bờ cõi nước ta có mở rộng về phương Nam, nhưng chưa chú trọng việc di dân khai khẩn, mới chỉ đóng quân bảo hộ, thu thuế và bắt phải triều cống, còn hạ tầng nội trị vẫn để cho người bản xứ phụ trách.
Có lẽ âm mưu thực dân thôn tính đất đai đúng nghĩa chỉ được triệt để thi hành từ thời nhà Hồ. Hồ Quý Li lên ngôi năm 1400. Bắt chước nhà Trần, ngay cuối năm đó ông truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên làm thái thượng hoàng, nhưng ông vẫn đóng vai tích cực trong việc trị nước. Triều nhà Hồ có những cải cách tiến bộ về nhiều phương diện. Riêng về công cuộc Nam tiến, vào năm 1402, sau khi chiếm được đất Chiêm Động, Cổ Lũy, nhà Hồ cho làm con đường thiên lí từ Tây đô Thanh Hóa vào tới Hoá Châu. Chia đất Chiêm Động, Cổ Lũy ra làm 4 châu, đặt các chức quan cai trị và di dân vào chiếm ngụ, thời bình thì cầy cấy làm ăn, khi hữu sự thì sung quân ngũ đánh giặc.
Theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư thì chính sách mộ dân Việt vào khai khẩn Của nhà Hồ rất ưu đãi song cũng rất nghiêm khắc, buộc phải thích tên nơi đến ở vào tay, coi như không có thể trở về được nữa. Đối với nguời Chiêm (tầng lớp ưu tú trong xã hội), ai muốn đi thì cho đi, ai ở lại cho làm quan. Người Chiêm không có tên họ, Hồ Qúy Li ban họ Đinh cho những người chịu hàng phục (đến thời Lê Thánh Tông còn bắt người Chiêm nào không có họ phải lấy một họ trong số các họ của người Việt để làm sổ hộ tịch). Ngoài việc mở mang đường xá, họ Hồ còn cho đào sông rạch để tiện việc vận chuyển. Nhờ vậy, đất Thuận Hóa đã trở nên một vùng đất phú thịnh, bắt đầu đóng vai trò trọng yếu trong lịch sử nước Việt. Đối với vận mệnh Chiêm Thành, để mất đất Hóa Châu dân Hời khó lòng giữ được nước. Không may nhà Hồ sớm để mất nước vào tay quân Minh xâm lược cho nên hậu thế dễ quên đi công nghiệp di dân, khai khẩn đất đai rất quan trọng của triều đại ngắn ngủi này.