Thứ Ba, 14 tháng 8, 2018

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 99/c

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Những điều Darwin không bao giờ biết

What Darwin taught Hitler? Darwin đã dạy Hitler điều gì?


1.Darwin_The Descent of Man
Abstract: On the magazine SIGNS of the Times in Australia, October 1996, Grenville Kent put a big question: What Darwin taught Hitler? He interrogated why we condemned Hitler while accepting Darwin’s Theory of Evolution, in which Darwin said:“At some period, not very distant as measured by centuries, the civilized races of man will almost certainly exterminate and replace the savage races throughout the world”. So, Kent’s question should be repeated: What did Hitler learn from Darwin?
Tóm tắt: Trên tạp chí SIGNS of the Times ở Úc Tháng 10/1996, Grenville Kent đã đặt một câu hỏi lớn: Darwin đã dạy Hitler điều gì? Ông chất vấn tại sao chúng ta kết tội Hitler trong khi chấp nhận Thuyết Tiến hóa của Darwin, trong đó Darwin nói: “Vào một giai đoạn nào đó không xa lắm có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”. Vậy câu hỏi của Kent cần phải được nhắc lại: Hitler đã học điều gì từ Darwin?
CHÚ Ý: Toàn bộ các bài viết về SINH HÓA (bao gồm Thuyết Tiến hóa) trên trang PVHg’s Home (viethungpham.com) đã được sắp xếp đày đủ theo thứ tự thời gian tại địa chỉ sau đây:
True Biology: Nền Sinh học chân chính
Xin nói ngay rằng câu nói “bất hủ” nói trên của Darwin nằm trong cuốn “The Descent of Man” (Nguồn gốc loài người) của ông, công bố năm 1871. [1]
Năm 1996, đọc câu này trong bài báo của Kent, tôi có chút do dự, nghi vấn – không lẽ một nhà khoa học lớn như Darwin, được cả thế giới tôn sùng, lại có thể có đầu óc phân biệt chủng tộc tệ hại đến như thế? Lúc ấy internet còn kém phát triển, việc kiểm tra tận gốc câu nói của Darwin khá mất thì giờ. Nhưng với internet ngày nay, việc đó trở nên quá dễ dàng. Vâng, quả thật không còn gì để nghi ngờ rằng Darwin đã nói như vậy.
Hơn nửa thế kỷ trước đây tôi được nghe giảng về Thuyết Tiến hóa của Darwin ở nhà trường. Thầy giáo giảng khá đầy đủ các khái niệm của học thuyết này, nào là “chọn lọc tự nhiên”, nào là “đấu tranh sinh tồn”, thậm chí còn nói “đấu tranh trong loài là ác liệt nhất”… nhưng KHÔNG BAO GIỜ thầy nhắc đến những phát ngôn sặc mùi phân biệt chủng tộc của Darwin như trên. Thú thật, nếu được nghe những phát ngôn ấy, tôi sẽ mất đi sự yêu mến và kính trọng dành cho Darwin. Bởi từ nhỏ tôi đã có xu hướng ngưỡng mộ Cái Đẹp, yêu sự công bằng, tán thưởng tinh thần bác ái, và do đó rất ghét thói kỳ thị chủng tộc, phân biệt giai cấp,…
Có thể ai đó sẽ nói: Ấy, sao lại vội chụp cho Darwin cái mũ “phân biệt chủng tộc” như thế, ông chỉ là nhà khoa học nói lên sự thật khách quan trong tự nhiên mà thôi; việc những kẻ phân biệt chủng tộc lợi dụng học thuyết của ông là việc khác, Darwin không thể chịu trách nhiệm về việc lợi dụng đó; không thể đánh đồng Darwin với những kẻ phân biệt chủng tộc được! Thậm chí đã có người nói: Kết tội Darwin phải chịu trách nhiệm với chủ nghĩa quốc xã cũng giống như kết tội Albert Einstein phải chịu trách nhiệm với việc sản xuất bom nguyên tử!
Tôi xin thưa ngay: Ai đó nói như thế chỉ chứng tỏ người ấy biết quá ít về Darwin và học thuyết của ông, giống như tôi trước đây mà thôi. Hãy bình tĩnh và TRUNG THỰC trước sự thật. Sự thật sẽ là câu trả lời tốt nhất.
Bây giờ ngồi suy ngẫm lại, tôi ngờ rằng thầy giáo của tôi ngày xưa có lẽ cũng không có điều kiện đọc Darwin trực tiếp, mà chỉ tiếp cận với Học thuyết Darwin qua con đường gián tiếp. Con đường gián tiếp ấy không đủ để hiểu Darwin, bởi vì các đệ tử của Darwin có lẽ đủ thông minh để nhận ra bản chất phân biệt chủng tộc trong học thuyết của ông, và do đó đủ khôn ngoan để che đậy và thanh lọc những “hạt sạn” đó trước khi truyền giảng cho người đời.
Vì thế tôi cũng e rằng phần lớn thầy cô giáo dạy sinh học tiến hóa ngày nay cũng không có nhiều thông tin hơn thầy giáo của tôi – không đọc Darwin trực tiếp. Điều này rất đáng thông cảm, vì sách của Darwin trong một thời gian rất dài hầu như không có tại Việt Nam. Nguyên bản tiếng Anh nếu có cũng rất hiếm. Bản dịch tiếng Việt thì mãi cho tới gần đây mới ra mắt cuốn “Về nguồn gốc các loài” (On the Origin of Species). Trong khi cuốn “Nguồn gốc loài người” đến nay vẫn chưa có.
Ve nguon goc cac loaiNhưng không cần chờ đợi, chúng ta vẫn có thể biết rõ mọi sự thật, ấy là nhờ internet! Thật vậy, sự bùng nổ internet đã và đang làm thay đổi tình hình, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Bằng chứng là gần đây rất nhiều ý kiến của Darwin đã được công bố trên mạng, kèm theo những phê bình, chỉ trích, lên án, thậm chí kết tội gay gắt. Chỉ cần gõ “Darwin and Racism”, Google sẽ liệt kê ngay cho bạn hàng đống thông tin bổ ích. Chân dung Darwin sẽ lộ rõ.
Chẳng hạn, bài báo “Evolutionary Racism” (Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc theo Thuyêt Tiến hóa) trên trang Conservapedia [2] viết:
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc theo Thuyết Tiến hóa là một thứ triết học phân biệt chủng tộc dựa trên lý thuyết tiến hóa của Charles Darwin. Nó cho rằng loài người đã tiến hóa liên tục, và do đó một số chủng tộc sẽ tiến hóa hơn những chủng tộc khác. Nó thay thế đạo đức Thiên Chúa giáo bằng tư tưởng vô thần rằng “kẻ thích nghi tốt nhất là kẻ sống sót” (trong cuộc đấu tranh sinh tồn). Một thí dụ điển hình của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc theo Thuyết Tiến hóa là trường hợp anh thanh niên da đen Ota Benga bị đóng cũi cùng với khỉ trong chuồng khỉ ở Vườn thú Bronx. [3]
Thuyết Tiến hóa thiết lập nên những lý lẽ khoa học cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bằng cách mở rộng “chuỗi mắt xích tiến hóa vĩ đại của sinh vật” tới loài người. Giống y như các loài động vật được sắp xếp theo một trật tự phát triển theo thang bậc cao thấp, “các chủng loài trong loài người” cũng được mô tả như những động vật phát triển ở bậc cao hơn hoặc thấp hơn khi so sánh với nhau.
Do đó các nhà tiến hóa học áp dụng quy luật “con vật thích nghi tốt nhất là con vật sống sót” vào loài người. Vứt bỏ đạo đức tôn giáo và thay thế bằng các luật tự nhiên, các nhà tiến hóa học nói rằng các chủng tộc trong loài người cũng giống như các loài động vật đấu tranh sinh tồn, trong đó kẻ mạnh sẽ thống trị và tiêu diệt kẻ yếu.
Bản thân Darwin là một người phân biệt chủng tộc và là người có tư tưởng chủng tộc thượng đẳng. Từ lý thuyết của mình, ông tiên đoán sự diệt chủng hàng loạt như sau:
Vào một giai đoạn nào đó không xa lắm có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới. Đồng thời không nghi ngờ gì nữa những loài vượn có hình thù giống người… sẽ bị hủy diệt. Do đó sự chênh lệch giữa con người với những loài gần nó nhất sẽ lớn hơn, vì khi con người đạt tới trình độ văn minh mà ta hy vọng thậm chí còn cao hơn chủng tộc Caucasian (hiện nay), thì khoảng cách giữa người so với những giống khỉ bậc thấp như khỉ đầu chó sẽ càng lớn, thay vì chỉ chênh lệch ở mức như hiện nay giữa người da đen hoặc người thổ dân Úc so với loài vượn gorilla [Nguồn gốc các loài, Chương VI].
Tương tự như vậy, Darwin so sánh thổ dân với người Âu Châu và thổ dân với thú vật: Sự chênh lệch giữa người Âu Châu so với thổ dân Fuegian (ở cực nam Châu Mỹ, PVHg) lớn hơn sự chênh lệch giữa thổ dân Fuegian so với súc vật.
Tư tưởng phân biệt chủng tộc trong Thuyết Tiến hóa của Darwin có ảnh hưởng rất lớn đến thế kỷ 20, cuối cùng dẫn tới sự ra đời của Thuyết ưu sinh (Eugenics) ở Mỹ và Châu Âu. Thuyết này do một người anh em họ của Darwin là Francis Galton nêu lên đầu tiên, với tham vọng cải thiện bộ gene của con người bằng cách khuyến khích sự sinh đẻ của những người được coi là có phẩm chất mong muốn, đồng thời cản trở sự sinh đẻ của những người bị coi là có những phẩm chất không mong muốn.
Thuyết Tiến hóa của Darwin cũng có ảnh hướng lớn đối với Adolf Hitler. Hitler tuyên bố trong cuốn sách chủ yếu của ông ta, “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi) như sau:
Kẻ mạnh hơn phải thống trị và không được pha trộn với kẻ yếu, vì như thế là đánh mất sự vĩ đại của chính mình. Chỉ có những kẻ sinh ra yếu kém mới có thể coi điều này là độc ác, nhưng rốt cuộc thì anh ta vẫn chỉ là một kẻ yếu với năng lực hạn chế; vì nếu quy luật này không thắng thế thì khó mà hình dung được một sự phát triển cao hơn của các sinh vật sống có tổ chức”.
hitler1Ngày nay ai cũng thấy Hitler là “một gã điên rồ chống lại cả thế giới”. Nhưng tại sao “gã điên” ấy lại được dân chúng Đức những năm 1920-1940 nhiệt liệt ủng hộ? Không có sự ủng hộ của dân chúng Đức trùng trùng điệp điệp những năm 1920-1940 thì làm sao Hitler có thể lên cầm quyền và tiến hành cuộc chiến tranh thế giới? Xem lại những cuốn phim lịch sử giai đoạn này ta thấy rất rõ sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng Đức đối với Hitler thời đó. Vậy cái gì đã làm cho Hitler được ủng hộ mạnh mẽ như thế?
Câu trả lời đã rõ: Người Đức thời đó, mặc dù rất thông minh, đã quá ngây thơ tin tưởng vào Thuyết Tiến hóa, tin rằng đấu tranh sinh tồn là lẽ tự nhiên, và kẻ sống sót là kẻ thích nghi tốt nhất! Nói cách khác, chẳng riêng dân chúng Đức, một bộ phận lớn trong loài người cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã quá tin vào Thuyết Tiến hóa, cho rằng đó là một lý thuyết khoa học phản ánh những chân lý khách quan, rằng con người xuất thân từ động vật, vậy quy luật đấu tranh sinh tồn trong động vật phải được áp dụng vào xã hội loài người!
Cùng lúc đó, những khám phá về ngôn ngữ học và lịch sử lại chứng tỏ rằng người Âu Châu là hậu duệ của người Aryan, những người này di cư từ cao nguyên I-ran sang Âu Châu rồi lai tạp với người Âu bản xứ thành các dân tộc Âu Châu ngày nay. Theo truyền thống lịch sử, người Aryan được coi là những người tài giỏi nhất, mạnh mẽ nhất, phú quý nhất. Thế là các nhà dân tộc học Đức vội vơ lấy khái niệm Aryan, rồi gán ghép cho dân tộc Đức là Aryan thuần chủng nhất, và do đó thông minh nhất, tài giỏi nhất. Theo Thuyết Tiến hóa, người Aryan có quyền thống trị thế giới. Đó là cái đích mà các nhà chính trị Đức theo chủ nghĩa quốc xã đầu thế kỷ 20 nhắm tới. Người Đức đại đa số thời đó ngây thơ tin tưởng vào lý thuyết Aryan, và đó là lý do để chủ nghĩa quốc xã Đức lên ngôi, tiến hành những cuộc tàn sát chưa từng có trong lịch sử loài người.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, xin đọc bài “Lịch sử ít được biết về Swastika” của PVHg trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 03/2011 và trên các trang mạng Vietsciences hoặc PVHg’s Home. Xin trích đoạn:
Bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc hơn nữa. Đễ chống lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
2004.11.25_2 (9)Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết Đác-uyn-xã-hội đã trở thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh tuý nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới.
Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg. Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ thống các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi “chung tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi. Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng quốc xã, đồng thời làm bộ trưởng quốc xã phụ trách khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946.
Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh tuý nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)”.
Đây, xin độc giả xem cái gọi là hệ thống các bậc thang chủng tộc (racial hierarchy) của chủ nghĩa quốc xã, để thấy rõ nó quái gở như thế nào, và suy nghĩ xem tại sao những tư tưởng quái gở như thế từng được người Đức những năm 1920-1940 tin theo (tài liệu dựa theo cuốn “Hitler Movement: A Millenarian Revolution” của James Rhodes, do Hoover Institution Press Stanford xuất bản năm 1980):
Racial Hierarchy by Nazi
Ngày nay ai cũng nhận thấy sự quái gở trong bảng xếp hạng trên, nhưng ít ai hiểu tại sao một tư tưởng kỳ quái như thế từng được chấp nhận ở Đức.
Thực ra tư tưởng phân biệt chủng tộc không chỉ có ở Đức, mà có ở khắp nơi trên thế giới, chỉ khác nhau ở mức độ mà thôi. Đảng 3K ở Mỹ trong nửa đầu thế kỷ 20 từng là nỗi sợ hãi đối với người da đen, những người da trắng đã tàn sát và ngược đãi người thổ dân ở Úc trong thế kỷ 19, 20 cũng là những người cùng lý tưởng với chủ nghĩa quốc xã hoặc 3K. Tất cả những người này đều tự cho việc làm của họ là đúng, vì nó phù hợp với quy luật đấu tranh sinh tồn mà Thuyết Tiến hóa của Darwin đã khẳng định.
Vậy Darwin phải chịu trách nhiệm đến đâu với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc? Xin trả lời câu hỏi này bằng 2 ý kiến sau đây:
Ý kiến trên trang mạng “The Evolution Delusion” (Sự lừa bịp của Thuyết Thiến hóa):
Evolution-DelusionCơ sở của Thuyết Tiến hóa là ở chỗ những động vật, cá, sâu bọ, con người mạnh mẽ nhất hoặc thích nghi tốt nhất sẽ sống sót qua những tàn phá của thời gian và môi trường và chúng sẽ TIẾN HÓA thông qua việc thích nghi hoặc đột biến. Dựa vào đó Hitler xây dựng nên toàn bộ lý thuyết của hắn về chủng tộc Aryan. Hắn tàn sát tất cả những người bị coi là thấp kém hơn hoặc kém thích nghi hơn, bao gồm cả những người già yếu và bệnh tật, ngoài những người gypsies và nhất là người Do Thái. Hitler muốn tạo ra một chủng tộc “thuần chủng Aryan” và nhà khoa học người Anh là Charles Darwin đã lát đường cho Hitler….
Ý kiến trên trang Conservapedia (đã dẫn):
Những luận văn của Darwin, vốn có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 19, đã cung cấp một luận cứ cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Nhà tiến hóa học vững vàng của Đại học Harvard Stephen Jay Gould xác nhận rằng “Luận cứ sinh học của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc có thể đã trở thành phổ biến từ trước năm 1859 (khi Darwin công bố cuốn Về Nguồn gốc các loài), nhưng mức độ nghiêm trọng của nó tăng lên rất nhiều kể từ khi người ta chấp nhận Thuyết Tiến hóa”.

KẾT

Qua những gì Darwin đã nói và viết, có thể nhận định:
Hitler1a1/ Bản thân Thuyết Tiến hóa mang tính chất phân biệt chủng tộc, và do đó nó là kẻ lát đường cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, hoặc tạo điều kiện cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc phát triển mạnh tới mức bùng nổ trong giai đoạn đầu thế kỷ 20.
Hitler đã học được từ Darwin rất nhiều: chủ nghĩa quốc xã đơn giản là áp dụng Thuyết Tiến hóa Darwin vào xã hội loài người. Học thuyết Darwin xã hội là con đẻ trực tiếp của Thuyết Tiến hóa của Darwin.
2/ Thuyết Tiến hóa là học thuyết vô thần và phi nhân bản, phi nhân văn và vô nhân đạo. Nếu chủ nghĩa nhân đạo đề cao tính nhân bản và nhân đạo ở chỗ khuyên con người phải yêu thương đùm bọc lẫn nhau, kẻ mạnh phải thương kẻ yếu, kẻ mạnh nên nhường và giúp đỡ kẻ yếu, thì Thuyết Tiến hóa nói điều hoàn toàn ngược lại: kẻ mạnh hoặc kẻ thích nghi tốt nhất sẽ là kẻ có quyền sống sót trong cuộc đấu tranh sinh tồn; và sự chiến thắng của kẻ mạnh là phù hợp với quy luật của tự nhiên, đúng như Hitler đã tuyên bố trong Mein Kampf rằng chỉ có kẻ yếu mới coi đó là sự độc ác. Nói cách khác, Thuyết Tiến hóa của Darwin đã biện hộ cho những việc làm độc ác, diệt chủng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
3/ Việc coi chọn lọc tự nhiên và đấu tranh sinh tồn là động lực của tiến hóa là hoàn toàn sai về mặt khoa học. Điều này sẽ được nói rõ trong bài viết tiếp theo.
PVHg, Sydney 10/08/2015
CHÚ THÍCH:
[1] Trong bài báo “What Darwin taught Hitler?”, Grenville Kent cho biết câu nói này của Darwin được dẫn từ cuốn “On the Origin of Species”. Vì thế trong bài báo “Lịch sử ít được biết về Swastika” (đã đăng trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 03/2011) tôi cũng nhắc lại như Kent đã nói, vì lúc đó tôi chưa có điều kiện kiểm tra lại nguồn gốc câu nói của Darwin. Nay đã kiểm tra lại, tôi thấy có chút nhầm lẫn của Kent. Chính xác câu nói đó được dẫn từ cuốn “The Descent of Man” của Darwin. Chú thích này được coi như một đính chính cho Kent và cho cả bài báo về Swastika của bản thân tôi.
[2] Conservapedia là một Bách khoa Toàn thư có xu hướng bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống, chẳng hạn đạo đức Thiên Chúa giáo. Ở Tây phương, Thiên Chúa giáo tạo nên nền tảng của đạo đức trong hàng ngàn năm nay. Nền tảng ấy đang bị hủy hoại bởi nhiều lý do, và do đó cần phải bảo vệ. Đó là tinh thần của Conservapedia. Những người chống đối Thiên Chúa giáo có thể dịch chữ Conserve theo nghĩa tiêu cực là “bảo thủ”. Điều quan trọng là nội dung những vấn đề được nêu lên có đúng sự thật hay không: http://www.conservapedia.com/Evolutionary_racism
[3] Xem “Vụ bê bối ở vườn thú” trên PVHg’s Home

Darwinism’s Evil Influences / Tác hại của Thuyết Tiến hóa [1]

darwinism-1272x400
We have learnt that Lord Kelvin considered Darwinism merely as a hypothesis instead of a valid theory. In the light of modern science of history, we can say with even stronger conviction that Darwinism is just a pseudo-scientific ideology. It has brought many evil influences into human society, exhibit in nazism, racism, and degradation of morality. The evolutionists effort in hiding these facts cannot prevent history to expose them.
Chúng ta đã biết Lord Kelvin coi học thuyết Darwin chỉ là một giả thuyết thay vì một lý thuyết thực sự. Dưới ánh sáng của khoa học lịch sử hiện đại, chúng ta có thể nhận định mạnh hơn rằng học thuyết Darwin chỉ là một hệ tư tưởng ngụy khoa học, có ảnh hưởng ma quỷ đối với xã hội loài người: chủ nghĩa quốc xã, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và sự xuống cấp về đạo đức. Các nhà tiến hóa cố che đậy những sự thật đó nhưng không ngăn được lịch sử tố cáo chúng.
Khi thấy học thuyết Darwin bị kết tội như kẻ lát đường cho chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 tiến hành những cuộc thanh lọc chủng tộc, có người dẫy nẩy lên phản ứng: kết tội như thế có khác gì kết tội Einstein phải chịu trách nhiệm về thảm họa bom nguyên tử?
Nhưng hình như không ai kết tội Einstein, trong khi rất nhiều học giả, nhà sử học, nhà đạo đức học kết tội học thuyết Darwin tạo ra cơ sở lý luận cho hệ tư tưởng của chủ nghĩa quốc xã Đức, góp phần tích cực phá hủy nền tảng đạo đức của xã hội Tây Phương,…
Mỉa mai thay, trong sự kết tội ấy thuyết TIẾN HÓA trở thành một động lực thúc đẩy sự THOÁI HÓA, góp phần chứng minh Quy luật Tàn úa (The Law of Entropy), tức Định luật 2 của Nhiệt Động lực học do Lord Kelvin khám phá, dường như cũng đúng trong xã hội loài người. Quá trình thoái hóa và tàn úa này đã được Richard Weikart, giáo sư khoa học lịch sử tại Đại học Tiểu bang California, trình bày trong tác phẩm nổi tiếng: “From Darwin to Hitler” (Từ Darwin tới Hitler). Giới tiến hóa không thể che giấu cuốn sách này, vì nó quá nổi tiếng. Vì thế họ buộc lòng phải giới thiệu nó kèm theo những lời phê phán nó, bóp méo nó. Đó là cách xử thế của những con đà điểu rúc đầu xuống cát.
Trong câu chuyện hôm nay, tôi muốn giới thiệu một luận văn khác của Richard Weikart: The Role of Darwinism in Nazi Racial Thought(Vai trò của học thuyết Darwin trong hệ tư tưởng về chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã). Sau đây là tóm lược những ý kiến quan trọng nhất trong luận văn.

VAI TRÒ CỦA HỌC THUYẾT DARWIN TRONG HỆ TƯ TƯỞNG CHỦNG TỘC CỦA NAZI

Tóm tắt (Abstract)
Weikart2Thông qua việc nghiên cứu hệ tư tưởng của Hitler, nền giáo dục sinh học chính thống trong chế độ quốc xã, những luận văn của các nhà nhân chủng học Nazi và các tạp chí định kỳ của Nazi, chúng ta sẽ thấy các nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi bám lấy học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, tức học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc như thế nào. Họ không chỉ dạy con người tiến hóa từ vượn, mà còn tin rằng chủng tộc Aryan, hoặc còn gọi là chủng tộc Phương Bắc (Nordic), đã tiến hóa lên cấp cao hơn các chủng tộc khác, vì những điều kiện khí hậu khắc nghiệt đã ảnh hưởng đến sự chọn lọc tự nhiên. Họ cũng quả quyết rằng học thuyết Darwin đã củng cố vững chắc thêm cho những yếu tố đặc trưng của hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi, bao gồm tính không ngang bằng (tính bất bình đẳng) về chủng tộc, sự cần thiết của cuộc đấu tranh sinh tồn về mặt chủng tộc, và chủ nghĩa tập thể.
Trong tiểu luận này tôi xem xét những bằng chứng sau đây để chứng minh một cách áp đảo rằng các nhà tư tưởng về chủng tộc của Nazi đã đi theo học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc như thế nào:
1) Hitler tin vào học thuyết về sự tiến hóa của con người;
2) Nền giáo dục chính quy ở nhà trường dưới thời Nazi đặc biệt đề cao môn tiến hóa sinh học, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người;
3) Các nhà nhân chủng học về sắc tộc của Nazi, bao gồm các nhà nhân chủng học của cơ quan SS, nhất quán xác nhận học thuyết về sự tiến hóa của con người và đã tích hợp học thuyết này vào trong hệ tư tưởng về chủng tộc của họ;
4) Các tạp chí định kỳ của Nazi, bao gồm các tạp chí về hệ tư tưởng chủng tộc, bám chặt lấy học thuyết về sự tiến hóa của con người;
5) Những tài liệu của Nazi được thiết kế nhằm khắc sâu thế giới quan của Nazi vào trong tư tưởng của các sĩ quan quân đội và SS đã nâng học thuyết về sự tiến hóa của con người lên thành một bộ phận không thể thiếu trong thế giới quan của Nazi.
Trong khi xem xét những bằng chứng này, tôi sẽ nhấn mạnh những cách thức mà tư tưởng chủng tộc của Nazi đã được định hình bởi học thuyết Darwin (học thuyết được định nghĩa như sự tiến hóa sinh học thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên).
Đầu tiên, hầu hết mọi nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi đều tin rằng con người đã tiến hóa từ vượn.
Thứ hai, họ đưa ra những giải thích về sự tiến hóa của những chủng tộc người khác nhau, bao gồm chủng tộc Phương Bắc hoặc Aryan (hai thuật ngữ này được sử dụng đồng nghĩa). Đặc biệt, họ tin rằng chủng tộc Aryan đã trở nên vượt trội (superior) vì những điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại khu vực bắc-trung Âu trong giai đoạn Kỷ Băng giá (Ice Ages) đã tôi luyện họ trong cuộc đấu tranh sinh tồn, làm cho kẻ yếu bị diệt vong và chỉ để lại những người mạnh mẽ nhất.
Thứ ba, họ tin rằng trình độ tiến hóa chênh lệch giữa các chủng tộc là bằng chứng khoa học cho sự không ngang bằng (bất bình đẳng) tất yếu giữa các chủng tộc.
Thứ tư, họ có ý nghĩ cho rằng các chủng tộc khác nhau và không ngang bằng về tiến hóa tất yếu bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh sinh tồn không thể tránh khỏi.
Thứ năm, họ nghĩ rằng phương cách để chủng tộc của họ chiến thắng trong cuộc đấu tranh sinh tồn là sinh đẻ nhiều hơn các chủng tộc cạnh tranh với họ và giành được nhiều “không gian sinh tồn” (Lebensraum) hơn để sinh sôi bành trướng trong đó.
Thứ sáu, nhiều người lý luận rằng học thuyết Darwin đề cao một lý tưởng tập thể.
Sáu điểm này ─ rút ra từ quan điểm cho rằng loài người và các chủng tộc người đã và đang tiến hóa thông qua cơ chế Darwin về chọn lọc tự nhiên ─ tác động một cách sâu sắc đến chính sách của Nazi. Chúng tạo thành cơ sở của thuyết ưu sinh (eugenics), biện minh cho cuộc tàn sát những kẻ yếu vì đòi hỏi có “không gian sinh sống”, và biện minh cho chính sách diệt chủng.
Hitler và học thuyết Darwin
Trong những bài viết và diễn văn của mình, Hitler thường xuyên viện dẫn các khái niệm của học thuyết Darwin, như khái niệm “tiến hóa” (Entwicklung), “tiến hóa cao hơn” (Höherentwicklung), “đấu tranh sinh tồn” (Existenzkampf or Daseinskampf), “đấu tranh vì sự sống” (Lebenskampf), và “chọn lọc” (Auslese). Trong một diễn văn năm 1937 ông ta không chỉ thể hiện niềm tin vào học thuyết về sự tiến hóa của con người, mà còn tán thành lý thuyết của Haeckel cho rằng mỗi sinh vật trong giai đoạn phát triển trong bào thai đều lặp lại các bước tiến hóa trước đây trong lịch sử tiến hóa…
Trong cuốn “Main Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi) của Hitler, thuyết tiến hóa đóng một vai trò trung tâm trong chương “Quốc gia và chủng tộc” (Nation and Race). Đó là chương duy nhất được công bố như một cuốn sách mỏng, được lưu hành rộng rãi để đề cao hệ tư tưởng của Nazi. Trong chương này Hitler giải thích tại sao ông ta cho rằng sự pha trộn chủng tộc là vi phạm các nguyên lý của thuyết tiến hóa. Ông ta viết:
Mein_KampfBất kỳ sự pha trộn nào giữa hai người không có cùng cấp độ tiến hóa về chủng tộc sẽ tạo ra một người con ở cấp độ trung gian về tiến hóa giữa cha và mẹ. Điều này có nghĩa là đứa con sẽ tiến hóa cao hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc thấp hơn, nhưng lại tiến hóa thấp hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc cao hơn. Kết quả là đứa con sẽ thua trong cuộc đấu tranh sau này chống lại những chủng tộc ở cấp cao hơn. Sự phối ngẫu như thế là trái với mong muốn của Tự Nhiên ─ mong muốn gây giống cao hơn trong mọi sự sống. Điều kiện tiên quyết để đạt được mong muốn này không phải là sự phối ngẫu chủng tộc cao hơn với chủng tộc thấp hơn, mà là sự chiến thắng hoàn toàn của chủng tộc cao hơn. Kẻ mạnh hơn phải thống trị và không trộn lẫn với kẻ yếu hơn, vì trộn lẫn như thế thì kẻ mạnh đã từ bỏ cái vĩ đại của chính mình. Chỉ có những kẻ sinh ra yếu hèn mới có thể xem điều này là tàn ác, nhưng hắn rốt cuộc cũng chỉ là một con người yếu hèn và kém cỏi; vì nếu quy luật này không chiếm ưu thế thì chúng ta không làm thế nào mà hình dung được bất kỳ một sự tiến hóa nào cao hơn có thể hiểu được của những thực thể sống hữu cơ.
Vài dòng sau ông ta lại tiếp tục:
Trong cuộc đấu tranh giành miếng ăn hàng ngày, những kẻ ốm yếu hoặc kém kiên quyết sẽ thua, trong khi cuộc đấu tranh của đàn ông giành phụ nữ chỉ ban phát quyền hạn hoặc cơ hội phát triển giống nòi cho kẻ khỏe mạnh nhất. Và cuộc đấu tranh luôn luôn là một phương tiện cải thiện sức khỏe và khả năng chịu đựng của một loài, và do đó, dẫn tới sự tiến hóa cao hơn của loài đó”.
Đó là lý do Hitler chống đối phối ngẫu di chủng (miscegenation), vì kiểu phối ngẫu này cản trở quá trình tiến hóa ─ cái Hitler coi là lợi ích cao nhất. Toàn bộ ý kiến nói trên của Hitler là nhằm áp dụng các nguyên lý về tiến hóa vào các quan hệ chủng tộc của con người, nên điều không thể chối cãi được là Hitler tin rằng loài người đã và đang tiến hóa. Và chính sách chủng tộc của Hitler nhắm vào mục tiêu nâng cao sự tiến hóa của con người (!)
Hitler suy nghĩ một cách rõ ràng rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa cao, như ông ta đã giải thích trong một diễn văn năm 1920 nhan đề “Tại sao chúng ta bài Do Thái” (Why We are Anti-Semites). Hitler quả quyết chủng tộc Phương Bắc đã phát triển các đặc tính chủ yếu của nó, đặc biệt là xu hướng thích nghi với những công việc khó khăn và tinh thần phân biệt phải trái, cũng như năng lực thể chất, do khí hậu khắc nghiệt ở phương bắc. Ông ta không lập luận rằng khi hậu trực tiếp gây ra một biến đổi trong những đặc tính sinh học (vì ông ta tin vào di truyền). Nhưng ông ta nghĩ rằng trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt thì chỉ những cá nhân có tinh thần hợp tác nhất, mạnh mẽ nhất, lao động chăm chỉ nhất mới có thể sống sót và chuyển giao những đặc tính di truyền của họ cho các thế hệ sau. Kẻ ốm yếu cũng như những kẻ lười biếng sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Cuộc đấu tranh này làm cho chủng tộc Phương Bắc mạnh mẽ và vượt trội so với các chủng tộc khác, những chủng tộc tiến hóa trong những vùng khí hậu dễ chịu hơn. Qua đó có thể thấy rõ ràng là Hitler không tin vào Thuyết Sáng tạo ─ không tin rằng các chủng tộc Phương Bắc đã tồn tại từ trước đến nay vẫn thế, hoặc được sáng tạo ra ngay từ đầu đến giờ vẫn như thế.
Học thuyết Darwin và Chương trình Giáo dục Sinh học trong chế độ Nazi
Môn sinh học tiến hóa đã được đưa vào chương trình giáo dục sinh học ở Đức từ lâu trước khi đảng quốc xã của Hitler lên cầm quyền năm 1933 (vì thế nó đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà tư tưởng của Nazi). Sự giải thích của học thuyết Darwin về quá trình tiến hóa được giảng dạy nổi bật tại nhà trường ở Đức, mặc dù không phải là không gây nên tranh cãi. Chương trình giáo dục sinh học dưới chế độ Nazi tiếp tục nhấn mạnh đến thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc. Nền giáo dục và sách giáo khoa tiếp thu học thuyết Darwin và bãi bỏ học thuyết Lamarck, vì học thuyết Darwin phù hợp với tư tưởng của Nazi trong ý đồ nhấn mạnh đến tính di truyền các đặc tính được chọn lọc.
Năm 1938 Bộ Giáo dục Đức công bố một cuốn sổ tay trong chương trình giáo dục chính quy cho nhà trường. Cuốn sổ tay này dạy thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của các chủng tộc người, thông qua “sự chọn lọc và đào thải” (selection and elimination). Cuốn sách quy định “Học sinh phải chấp nhận định luật này như một cái gì đó hiển nhiên”. Đó là định luật về sự loại trừ (cái không phù hợp) cùng với sự tiến hóa và sự sinh sản, được xem như một định luật tự nhiên chủ yếu nhất và quan trọng nhất. Ở lớp 5, giáo viên được hướng dẫn giảng dạy về “sự hình thành của chủng người nguyên thủy trong mối liên hệ với sự tiến hóa của động vật”. Ở lớp 8, học sinh được dạy thuyết tiến hóa nâng cao, bao gồm những bài học về “Học thuyết Lamarck và học thuyết Darwin, thế giới quan và những hàm ý chính trị của những học thuyết đó”. Đồng thời học sinh cũng được dạy về “nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người và của các chủng tộc của nó”, bao gồm những phần về “loài người tiền sử và các chủng tộc người tiền sử” và “các chủng tộc người hiện đại theo quan điểm của lịch sử tiến hóa”.
Sách giáo khoa sinh học của Jakob Graf năm 1942 có toàn bộ một chương nhan đề “Thuyết tiến hóa và tầm quan trọng của nó đối với thế giới quan”. Trong đó Graf đả phá học thuyết Lamarck và đề cao thuyết tiến hóa của Darwin thông qua chọn lọc tự nhiên. Ông ta tuyên bố rằng việc hiểu biết về sự tiến hóa của con người là rất quan trọng, vì nó chứng tỏ con người không có gì đặc biệt trong thế giới sinh vật. Ông ta cũng lập luận rằng thuyết tiến hóa chứng minh tính không ngang bằng (bất bình đẳng) của con người. Trong chương tiếp theo nhan đề “Khoa học về chủng tộc” (Racial Science) Graf dành 15 trang để thảo luận về sự tiến hóa của con người và khăng khăng nói rằng con người và vượn có tổ tiên chung. Tương tự như vậy, Erich Meyer và Karl Zimmermann cũng thảo luận về sự tiến hóa của con người trong sách giáo khoa của họ. Họ nói:
“Con người đã có mặt trong thời kỳ khắc nghiệt này [Kỷ Băng giá]. Trong cuộc chống chọi với tự nhiên con người đã ngày càng cải thiện về thể chất và trí tuệ. Con người ngày càng tiến hóa. Đầu tiên nó xuất hiện như một loài nửa động vật trước khi có con người (half-animal prehuman), rồi đến một loài người nguyên thủy sống trong hang động biết sử dụng lửa và tạo ra những dụng cụ bằng đá và vũ khí săn bắn”.
Qua những thí dụ nói trên có thể thấy học thuyết về sựu tiến hóa của con người là tiêu chuẩn cơ bản trong sách giáo khoa sinh học thời Nazi. Một cuốn giáo khoa sinh học năm 1942 của Hermann Wiehle và Marie Harm đã khuyến khích học sinh đi tham quan vườn thú để quan sát loài vượn, trong đó viết: “Vì trong chương trình giáo dục chúng ta đã được học nhiều về thuyết tiến hóa và nguồn gốc của loài người, vì thế khi đi thăm vườn thú, các loài vượn sẽ đặc biệt hấp dẫn chúng ta”. Cuốn giáo khoa này và những hoạt động ngoại khóa cho thấy rõ ràng là trẻ em ở Đức dưới Đế Chế thứ III (thời Nazi) đã được khuyến khích coi vượn là họ hàng tiến hóa của các em.
Tầm quan trọng của thuyết tiến hóa trong việc tuyên truyền chính sách chủng tộc của Nazi
hitlerquoteHình bên: Hitler sử dụng thuyết tiến hóa để biện minh cho tư tưởng chủng tộc thượng đẳng “Nếu Tự Nhiên không muốn kẻ yếu phối ngẫu với kẻ mạnh, nó càng không mong muốn một người thượng đẳng hòa lẫn với một kẻ thấp kém; bởi vì trong trường hợp đó bao nhiêu cố gắng của tự nhiên qua hàng trăm ngàn năm để thiết lập nên một tầng lớp người tiến hóa cao hơn, vì thế mà có thể trở thành vô ích” (Adolf Hitler, Mein Kampf, trang 223)
Để chứng minh vai trò quan trọng của học thuyết Darwin trong việc tuyên truyền chính sách chủng tộc của Nazi, tôi khảo sát thêm 3 nguồn tài liệu quan trọng:
1/ Cuốn sách nhỏ của SS nhan đề “Rassenpolitik” (Chính sách chủng tộc);
2/ Chương trình giáo dục của SS về huấn luyện thế giới quan;
3/ Một cuốn sách nhỏ về tuyên truyền được viết cho quân đội Đức trong thời gian Thế Chiến II, “Wofür kämpfen wir?” (Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?).
Tất cả các tài liệu này đều dứt khoát tán thưởng thuyết tiến hóa của Darwin, đặc biệt bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người. Hơn nữa, những tài liệu này không ngẫu nhiên để cập đến học thuyết Darwin, mà chủ ý gắn nó vào một vị trí nổi bật trong hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Học thuyết Darwin đóng một vai trò trung tâm trong cuốn sách mỏng “Chính sách chủng tộc”. Như đã được giới thiệu ở trang cuối, cuốn sách này được sử dụng để đào tạo hệ tư tưởng Nazi. Những trang mở đầu giải thích rằng những khái niệm trung tâm làm nền tảng cho hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi là sự di truyền rõ ràng không thể chỗi cãi được và tình không ngang bằng về chủng tộc. Tiếp theo nó khẳng định rằng tính không ngang bằng về chủng tộc đã xảy ra vì sự tiến hóa tiến lên nhờ đấu tranh. Các chúng tộc khác nhau đơn giản là không tiến hóa ở cùng một bước, mà ở những cấp độ khác nhau. Các tác giả khẳng định rằng ba chủng tộc chủ yếu của loài người ─ người Âu, người Mongoloid và người da đen ─ là những chủng phân nhánh từ một tổ tiên chung từ khoảng 100.000 năm trước đây. Họ lập luận rằng các chủng tộc tiến hóa thông qua sự chọn lọc và đào thải, và chủng tộc Phương Bắc trở nên vượt trội vì nó đã phải đấu tranh sinh tồn trong những điều kiện cực kỳ khắc nghiệt. Trong suốt toàn bộ cuốn sách này, các thuật ngữ như “higher evolution” (tiến hóa cao hơn), “struggle for existence” (đấu tranh sinh tồn) và “selection” (chọn lọc) là những khái niệm cốt lõi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Họ cũng đề cập đến những đột biến như một nguồn đổi mới trong quá trình tiến hóa. Trong cuốn sách này có một phần nhan đề “Mục đích cuộc sống” (The Purpose of Life), trong đó giải thích, “Bảo toàn và nhân giống bản thân mình là mục đích sâu xa nhất của cuộc sống... Tuy nhiên, sự bảo tồn và nhân giống chứa đựng xu thế cải thiện để đạt được sự tiến hóa cao hơn và hoàn hảo hơn, xu thế này tồn tại bên trong mọi sự sống.”..
Một cuốn sách nhỏ quan trọng khác nhằm mục đích nhồi sọ hệ tư tưởng Nazi là cuốn “Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?”, một công trình do quân đội Đức xuất bản năm 1944. Hitler đã đích thân viết một lá thư phê chuẩn cuốn sách này, yêu cầu các sĩ quan không chỉ đọc nó, mà hãy dùng nó trong việc huấn luyện tư tưởng cho binh sĩ của mình. Cuốn sách này nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại tầm quan trọng của cuộc đấu tranh sinh tồn về mặt chủng tộc và của sự chọn lọc để bảo tồn và cải thiện giống người. Cam kết của Nazi phấn đấu cho một “cấp độ tiến hóa cao hơn” của con người là nội dung chủ yếu của cuốn sách. Các tác giả lập luận rằng chủng tộc Phương Bắc đã là một chủng tộc tiến hóa cao nhất, nhưng họ nhắm tới mục tiêu cải thiện loài người hơn thế nữa. Họ quả quyết “Phương tiện để tạo ra kiểu con người mới này là những hướng dẫn được huấn luyện theo tinh thần thế giới quan của Nazi. Điều kiện tiên quyết của mục tiêu đó là duy trì sự thuần chủng về dòng máu và nâng cao trình độ tiến hóa của dòng máu của chúng ta thông qua sinh sản”. Bất kể tác giả cuốn sách này là ai thì người ấy đã nhấn mạnh hết mức đến tầm quan trọng của học thuyết về sự tiến hóa của con người đối với hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Kết luận
Bằng chứng lịch sử không thể chối cãi được cho thấy học thuyết về sự tiến hóa của con người, tức học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, là một bộ phận không thể thiếu của hệ tư tưởng chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã. Học thuyết về sự tiến hóa của con người chiếm một vị trí nổi bật trong chương trình giáo dục ở nhà trường dưới chế độ Nazi và trong các chương trình đào tạo thế giới quan của Nazi. Các sĩ quan Nazi và các nhà nhân chủng học SS nhất trí cho rằng con người, bao gồm chủng tộc Phương Bắc, đã tiến hóa từ vượn. Họ tin rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa tới cấp độ cao hơn về trí tuệ, về năng lực thể chất, và về tinh thần đoàn kết xã hội so với các chủng tộc khác, phần lớn bởi vì họ phải đối mặt với cái mà các nhà sinh học ngày nay cọi là “áp lực chọn lọc” (selective pressure) lớn hơn. Áp lực chọn lọc này là kết quả của Kỷ Băng giá, giai đoạn khí hậu khắc nghiệt này đã loại bỏ những kẻ ốm yếu và bệnh tật, chỉ để lại những kẻ thông minh nhất và hoàn hảo nhất để nhân rộng ra trong chủng tộc Phương Bắc. Họ coi thuyết ưu sinh và chính sách chủng tộc như một phương tiện giúp cho chủng tộc Phương Bắc tiến hóa tới mức cao hơn nữa. Nhìn toàn cục, những tư tưởng này không chỉ là tư tưởng của đảng quốc xã, mà đồng thời còn là tư tưởng của nhiều nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu ở Đức trước khi đảng quốc xã lên cầm quyền. Hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi và nhiều chính sách dựa trên đó đã được định hình một cách sâu sắc bởi sự hiểu biết của học thuyết Darwin về con người. Tất nhiên có những yếu tố không liên quan tới học thuyết Darwin đã được kết hợp với học thuyết Darwin, như: tính vượt trội của chủng tộc Aryan, quan điểm chống phối ngẫu dị chủng, chủ nghĩa bài Do Thái, và nhiều thứ khác nữa… Tuy nhiên, hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi đã tích hợp tất cả những yếu tố này vào trong một thế giới quan nhấn mạnh vào sự biến đồi chuyển tiếp giữa các loài, sự hình thành các chủng tộc người theo kiểu tiến hóa, nhu cầu nâng cao cấp độ tiến hóa của con người, tính tất yếu của cuộc đấu tranh sinh tồn trong loài người, và nhu cầu giành giật “không gian sinh sống” để thắng lợi trong cuộc đấu tranh tiến hóa.
Nhà sinh học Reche, tác giả cuốn “Di truyền học của sự hình thành nòi giống” (Die Genetik der Rassenbildung), kết luận: “Tất cả những sự kiện đã đề cập đến trong vấn đề nguồn gốc con người và sự phát triển các chủng tộc của nó đều có thể giải thích được bằng di truyền. Nếu không có sự xuất hiện khác biệt về di truyền, không có sự chọn lọc và đào thải, sẽ không bao giờ hình thành những chủng tộc tiến hóa cao, các bô lạc sẽ không bao giờ có thể hoàn tất nhiệm vụ cao nhất, và con người sẽ không bao giờ đạt tới một nền văn hóa cao hơn. Sự hiểu biết này bắt buộc chúng ta phải đảm đương nhiệm vụ chọn lọc có ý thức để có được những chủng tộc thích hợp, khỏe mạnh theo di truyền, những con người sáng tạo văn hóa trong tương lai và do đó mới nâng đời sống của con người lên cao hơn đời sống của động vật”. Quan điểm của Reche rất phù hợp với tư tưởng của Nazi, một tư tưởng nhắm tới mục tiêu cuối cùng là cải thiện giống loài con người về mặt sinh học, nghĩa là nâng cấp tiến hóa của con người.

BÌNH LUẬN

1/ Tác giả của luận văn nói trên, Richard Weikart, là một trong những nhà sử học đi tiên phong trong việc phân tích các tài liệu lịch sử để qua đó lột trần bản chất phản nhân văn của thuyết tiến hóa Darwin, đặc biệt là lý thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, mà Weikart thường gọi là học thuyết về sự tiến hóa của con người. Ông là thành viên của Trung tâm nghiên cứu khoa học và văn hóa thuộc Viện Discovery. Viện này hoàn toàn bác bỏ thuyết tiến hóa về mặt khoa học và chủ trương giải thích sự hình thành sự sống thông qua Lý thuyết Thiết kế Thông minh. Richard Weikart là một trong những cái gai lớn nhất đối với các nhà tiến hóa. Giới tiến hóa thường tìm mọi cách làm giảm uy tín của ông. Nhưng những người có tư duy độc lập đều biết rằng ở đâu giới tiến hóa dẫy nẩy lên chống đối mạnh nhất thì đó chính là chỗ thuyết tiến hóa yếu nhất, lộ bản chất phản khoa học và phản nhân văn rõ nhất.
2/ Tôi đã nhiều lần thảo luận về tác hại của học thuyết Darwin đối với xã hội loài người (*). Nhưng sự thảo luận này không bao giờ là đủ, vì cho đến nay vẫn có nhiều người nghĩ rằng bản thân học thuyết Darwin là một lý thuyết khoa học, và do đó, nếu nó bị lợi dụng vào những mục đích xấu xa thì đó là trách nhiệm của những kẻ lợi dụng nó, thay vì bản thân nó đáng bị lên án. Tôi xin nhấn mạnh rằng đó là một sự nhầm lẫn tai hại. Sự thật là bản thân thuyết tiến hóa chứa đựng những quan điểm học thuật sai trái, tạo nên một chỗ dựa vững chắc cho những hệ tư tưởng phản nhân văn, điển hình là chủ nghĩa quốc xã Đức trong nửa đầu thế kỷ 20, như luận văn nói trên của Richard Weikart đã cho thấy. Trong bài báo “Darwin đã dạy Hitler điều gì?” (What Darwin taught Hitler?) trên tạp chí SIGNS of The Times của Australia số Tháng 10/1996, Granville Kent chất vấn: “Nếu Darwin đúng thì tại sao chúng ta lại kết tội Hitler?”. Câu trả lời là gì, nếu không phải là chính Darwin là người phải chịu trách nhiệm về những tư tưởng phản nhân loại, mà Hitler đã tiếp thu và biến thành những chương trình hành động tội ác? Hãy so sánh tuyên bố của Hitler như đã trích dẫn ở trên với tuyên bố của chính Darwin sau đây, trích trong cuốn “Nguồn gốc loài người” của ông:
1-darwin_the-descent-of-man1
3/ Khi đọc luận văn nói trên của Richard Weikart, có thể có một số người sẽ rất ngạc nhiên trước những tư tưởng điên rồ và quái gở của chủ nghĩa quốc xã khi họ muốn làm công việc “vá trời lấp biển” ─ cải tạo và nâng cấp trình độ tiến hóa của con người, như những gì Weikart đã trình bày. Quả thật, với trí tuệ của loài người hiện nay, khi nhìn lại những học thuyết của chủ nghĩa quốc xã những năm 1920-45, chúng ta khó có thể tưởng tượng được làm sao những thứ lý luận điên rồ và quái gở như thế lại có thể chinh phục được dân tộc Đức một thời, một dân tộc trước đó đã từng đẻ ra những Johann Sebastian Bach, Ludwig Van Beethoven, Johann Wolfgang von Goethe,… Đó là câu hỏi nhức nhối đáng để làm những luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, về xã hội học, về tâm lý học, về đạo lý của con người,… Riêng tôi, tôi có câu trả lời rất dễ hiểu và đơn giản: Giai đoạn chủ nghĩa quốc xã thịnh hành nhất cũng chính là giai đoạn thuyết tiến hóa của Darwin đạt được những thắng lợi tuyệt đối trên diễn đàn sinh học, nhờ công lao đóng góp RẤT LỚN của những vụ lừa đảo về tiến hóa. Điển hình là vụ “Người Piltdown”. Với những vụ lừa đảo này, toàn nhân loại trong nửa đầu thế kỷ 20 đã bị đánh lừa, nên đã tin chắc 100% rằng tiến hóa là chuyện có thật! Hóa thạch “Người Piltdown” là bằng chứng mạnh nhất chứng minh rằng người tiến hóa từ vượn. Chú ý rằng mãi đến năm 1953, “Người Piltdown” mới bị vạch mặt là giả mạo, và rằng đây là vụ lừa đảo lớn nhất thế kỷ 20. Lúc ấy Hitler đã chết rồi, chủ nghĩa quốc xã đã sụp đổ rồi. Vậy xin đừng ngạc nhiên tại sao Hitler và bộ máy tuyên truyền của Nazi lớn tiếng ủng hộ thuyest tiến hóa như thế. Đơn giản là chính Hitler tin tưởng tuyệt đối vào thuyết tiến hóa, như hầu hết mọi người trước năm 1953 tin tưởng! Tại sao không tin khi những bằng chứng như “Người Piltdown”,… được toàn thế giới công nhận? Nếu bạn sống vào thời điểm trước 1953, liệu bạn có dám cãi lại toàn thế giới không? Để thấy rõ những vụ lừa đảo về tiến hóa đã đóng góp lớn như thế nào vào sự thắng lợi của thuyết tiến hóa, chúng ta không được phép quên vụ án John Scopes năm 1925 tại tiểu bang Tennessee, Mỹ. Trong vụ án này, anh giáo viên John Scopes đã vi phạm luật của tiểu bang ─ luật cấm dạy học thuyết về sự tiến hóa của con người theo học thuyết Darwin tại các trường được chính quyền tiểu bang cấp kinh phí hoạt động. John Scpopes bị chính quyển tiểu bang kiện ra tòa. Nhưng…. chỉnh quyền tiểu bang đã thua trong vụ án này, vì luật sư Clarence Darrow đã dùng bằng chứng “Người Piltdown” để cãi cho John Scopes, rằng Scopes không làm điều gì khác hơn là chỉ giảng dạy những chân lý đã được chứng minh bởi khoa học (!). 28 năm sau, tức năm 1953, toàn thế giới biết đó không phải là chân lý khoa học, mà là một vụ lừa đảo! Nhưng vụ án không bao giờ được xử lại. Clarence Darrow đã chết trước năm 1953. Liệu linh hồn ông ở thế giới bên kia có thấy xấu hổ không? Tôi tin là không, vì ông sẽ có lý để tự biện hộ rằng bản thân ông cũng bị đánh lừa! Nếu Adolf Hitler còn sống tới sau năm 1953, và nếu ông ta bị đem ra xử tội trước tòa án Nuremberg, rất có thể ông ta cũng tuyên bố rằng ông ta đã bị đánh lừa!
Ai đánh lừa? Phải chăng thủ phạm chỉ là gã Charles Dawson, kẻ được coi là nghi can số 1 trong vụ lừa đảo “Người Piltdown”. KHÔNG! Còn nhiều thủ phạm khác, như Ernst Haeckel đã nói, khi ông ta bị luận tội lừa đảo trong vụ các tranh vẽ về bào thai. Nhưng…
Thủ phạm lớn nhất chính là sự thiếu hụt bằng chứng và sự tuyệt đối vô bằng chứng của thuyết tiến hóa!
Tình trạng đó đã đẩy rất nhiều nhà tiến hóa đi tới chỗ tìm đủ mọi cách để có bằng chứng. Đó là nguyên nhân gốc rễ của những vụ lừa đảo trong thuyết tiến hóa. Và phải nói rằng những vụ lừa đảo này đã đạt được THÀNH CÔNG LỚN là làm cho mọi người trong một thời gian RẤT DÀI tin chắc vào thuyết tiến hóa. Và đó là lý do thuyết tiến hóa đã xâm chiếm vào các trường học trên khắp thế giới, đến nay đã trở thành một sự đã rồi, một sai lầm rất khó sửa chữa! Có nhiều nạn nhân bị lừa đảo KHÔNG BAO GIỜ được biết sự thật. Đến nay, truyền thống lừa dối vẫn tồn tại, bằng chứng là những sự thật về các vụ lừa đảo động trời trong thuyết tiến hóa vẫn không được nói cho học sinh ở nhà trường biết, không được loan báo trên các phương tiện thông tin chính thống trên khắp thế giới. Các nhà tiến hóa đã, đang và sẽ tiếp tục che giấu sự thật. Đơn giản vì họ biết rằng chừng nào những sự thật này được công khai hóa cho mọi người biết thì đó là lúc thuyết tiến hóa sụp đổ!
Tóm lại, xin đừng ngạc nhiên tại sao chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 lại nồng nhiệt hưởng ứng thuyết tiến hóa đến thế. Đơn giản vì:
1/ Họ tin tưởng tuyệt đối vào thuyết tiến hóa; Họ coi thuyết tiến hóa là một lý thuyết khoa học thực sự, phản ánh đúng sự thật khách quan.
2/ Họ thấy tư tưởng của thuyết tiến hóa đồng hành với họ, giúp họ thực hiện giấc mơ thống trị thiên hạ, làm bá chủ thế giới, dưới danh nghĩa thúc đảy sự tiến hóa của con người đến đỉnh cao nhất! Thật là một BI HÀI KICH VĨ ĐẠI của nhân loại, của nền văn minh, và của….. khoa học!
PVHg, Sydney 19/08/2016
CHÚ THÍCH
(*) Xem những bài sau đây để thấy tác hại của học thuyết Darwin đối với xã hội:

Darwinism’s Evil Influences / Tác hại của Thuyết Tiến hóa [2]

6814180_origEvolutionists have tried very hard to prove that evolution is true science. They have employed many fraudulent tricks or even hoaxes in promoting Darwinism while stop short at acknowledging the evil influences of Darwinism on human society, especially in 20th century and today’s life. Darwinism and its resultant evolutionism are among the main root causes of today’s social  and morality degradation.
Giới tiến hóa đã cố gắng làm bất cứ cái gì có thể, kể cả việc tạo dựng bằng chứng giả nhằm lừa đảo về tiến hóa, cốt chứng minh thuyết tiến hóa là một khoa học thực sự. Nhưng họ khó mà che đậy được các sự kiện lịch sử và xã hội phơi bày tác hại của học thuyết Darwin đối với xã hội loài người, đặc biệt trong thế kỷ 20 và hiện nay. Đó là một trong những lý do chủ yếu giải thích vì sao đạo đức xã hội đã và đang ngày càng xuống cấp…
Hình trên: Một kẻ phân biệt chủng tộc được xem như một anh hùng. “Người văn minh không nên cho phép những kẻ yếu kém sinh đẻ như súc vật” (Charles Darwin, Nguồn gốc loài người, 1871) (ảnh trên mạng)
Sự xuống cấp về đạo đức của con người giống như một dòng sông chảy xiết từ chỗ cao xuống chỗ thấp, triền miên theo dòng lịch sử. Dường như nó đang dồn tới một con thác, nước đổ ầm ầm từ trên cao xuống vực, đe dọa nhấn chìm mọi con thuyền đi qua đó, giống như cơn bão trên Thái Bình Dương đã nhấn chìm con tầu Tsimtsum trong câu chuyện “Cuộc đời của Pi”. Hãy đọc “Cuộc đời của Pi” để hiểu con tầu Tsimtsum là cái gì, tại sao nhân loại trên con tầu ấy chết hết, chỉ còn Pi sống sót. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta cũng thấy dòng chảy đạo đức đang lao xuống vực, nhưng nhiều người không biết nó bắt nguồn từ đâu. Vì không xác định được nguồn nên André Bourguignon, một nhà nhân loại học người Pháp, trong khi nghiên cứu lịch sử tự nhiên của con người, đã chua chát nhận xét con người là một lũ điên rồ! Ông không sao giải thích được cái gọi là “tiến hóa”, vì tiến hóa kiểu gì mà con người còn tồi tệ hơn cả động vật, như ông tuyên bố: “Con người đã tự hạ thấp mình xuống dưới động vật khi nó tự hủy hoại giống loài của mình”. Chẳng lẽ Bourguignon không biết Darwin coi hành vi tàn sát đồng loại như một lẽ tất yếu của quá trình tiến hóa hay sao? Đây, Darwin tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới” (trích Nuồn gốc loài người, Charles Darwin, 1871). Tuyên bố ấy vẫn chưa đủ để thấy thuyết tiến hóa đáng sợ hay sao? Phải đợi Hitler biến tiên đoán của Darwin thành sự thật mới đủ để hiểu tác hại của thuyết tiến hóa hay sao? Phải chăng nhiều người thấy rõ tác hại đó, nhưng đều né tránh kết tội trực tiếp cho Darwin? Chẳng hạn, Rabindranath Tagore kết tội ai khi ông nói: “Con người còn tồi tệ hơn súc vật khi tự coi mình là động vật?”.
Phải chăng con người trước khi có học thuyết Darwin đã tự coi mình là động vật? KHÔNG! Việc coi con người là động vật chỉ bắt đầu từ học thuyết Darwin.
Người Tây phương trước đây vẫn tin vào Kinh Thánh, rằng mọi con người ngày nay đều là con cháu của Adam và Eva, hai  người đầu tiên do Chúa tạo ra.
Nhưng Charles Darwin đã làm một cuộc cách mạng, khẳng định rằng người là hậu duệ của vượn, và vượn lại là hậu duệ của các loài động vật bậc thấp hơn. Tóm lại, người là con cháu của động vật, tức là một động vật!
evolution_idiots
Hình bên: Tranh châm biếm, thầy giáo: “Này các em, chúng ta không có một bằng chứng nào cả, nhưng chúng ta BIẾT rằng chúng ta đã tiến hóa” (!)
Nếu coi con người là động vật thì ta khó có thể nhận ra bản chất thiêng liêng trong nó, nhưng dễ thấy những khía cạnh thấp hèn của nó, như Sigmund Freud đã mô tả. Ông nói: “Homo homini lupus” (người với người là lang sói). Freud không tin vào sức mạnh của ý thức, mà chỉ thấy những bản năng vô thức chi phối con người, bao gồm Eros (dục tính) và Thanatos (hoại tính). Vì thế ông rất bi quan về tương lai của nền văn minh. Freud đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế Chiến I ─ cuộc chiến tàn khốc và vô lý đến mức được nhiều người xem như dấu hiệu khởi đầu của Ngày Sau Rốt mà Kinh Thánh đã tiên báo. Cách nhìn của Freud phản ánh sự bế tắc của triết học thế kỷ 20. Nói cách khác, Freud là sản phẩm của thế kỷ 20, ông không nhìn thấy ánh sáng của Thượng Đế trong con người, bởi con người đã chối bỏ Thượng Đế.
Sự chối bỏ ấy đã được đại văn hào Leo Tolstoy trình bày rất rõ trong tác phẩm “Tự thú” (Confession), trong đó chúng ta được biết vì sao Tolstoy và những người cùng thời đã sống một cuộc sống đốn mạt và vô nghĩa đến như thế. Sự kiện làm cho Tolstoy thay đổi, như ông tự thú, xảy ra vào năm 1838, lúc ông mới 11 tuổi ─ một người bạn ở trường bên hối hả chạy tới loan báo một tin động trời: “Không có Thượng Đế!”,
Xã hội hiện đại coi việc vắng mặt Thượng Đế là chuyện bình thường, bởi nhà trường và xã hội đều nói như vậy. Nhưng vào thời điểm 1838, đó là một tin làm rung chuyển tâm não con người. Năm 1838 trở thành cột mốc vô cùng quan trọng, đánh dấu một cuộc thay đổi mang tính chất quyết định làm thay đổi tận gốc bộ mặt của nền văn minh: trước 1838 là nền văn minh có Thượng Đế, và sau đó là không.
Dòng chảy đạo đức kể từ năm 1838 về sau ngày càng đục. Nó không chỉ chảy qua quê hương của Tolstoy, mà chảy qua mọi miền trên thế giới. Nó cũng không dừng lại ở thế kỷ 19, mà chảy qua thế kỷ 20 cho tới tận hôm nay. Tất cả những gì chúng ta đang thấy trên toàn thế giới, những sự kiện đảo điên làm cho chúng ta thấy vô cùng thất vọng và bất an, thực ra chỉ là hệ quả không thể tránh khỏi của một thế giới trong đó “Thượng Đế đã chết!”, như tuyên bố của gã điên trong tác phẩm “Gã điên” của Friedrich Nietzsche năm 1882.
Đó chính là bối cảnh ra đời của Thuyết tiến hóa. Nó được các nhà khoa học và học giả vô thần chào đón nhiệt liệt. Đến lượt nó, nó lại góp phần tích cực vào việc làm cho dòng chảy đạo đức đục ngầu hơn nữa, bằng cách phá hủy tận gốc nền tảng đạo đức Thiên Chúa giáo ở Tây phương ─ một nền đạo đức lấy Kinh Thánh làm lề luật, dựa trên niềm tin cơ bản là sự sáng tạo của Thượng Đế.

Thuyết tiến hóa phá hủy đạo đức Thiên Chúa giáo trong xã hội Tây phương

Nền tảng đạo đức của xã hội Tây phương trong hai ngàn năm qua là gì, nếu không phải những lời dạy trong Kinh Thánh (Cựu ước và Tân ước)? Toàn bộ lời dạy ấy xây dựng trên niềm tin vào Đấng sáng tạo, đấng tạo ra trời và đất, ngày và đêm, muôn vàn sinh vật và cuối cùng là con người. Trong nền giáo dục kinh điển ở Tây phương trước đây, Kinh Sáng thế là kinh bắt buộc phải thấm nhuần đối với tất cả những người được coi là có giáo dục. Truyền thống này bị sói mòn dần dần và biến mất hẳn trong nền giáo dục từ khi con người đánh mất đức tin vào Đấng Sáng tạo. Quá trình này diễn ra chủ yếu từ thế kỷ 19 tới nay, trong đó thuyết tiến hóa đóng một trong những vai trò quyết định.
Trong một bài báo nhan đề “The Evils of Evolution” (Tai họa của thuyết tiến hóa), tác giả Ken Ham phân tích:
Sự chấp nhận thuyết tiến hóa vô thần làm cho nhiều người từ bỏ Đấng Sáng tạo. Trong một thời gian dài, nhiều người đã sử dụng thuyết tiến hóa để biện minh cho những hành vi tội lỗi của mình.
Nếu bạn chấp nhận Chúa như Đấng Sáng tạo, bạn sẽ chấp nhận những đạo luật do Chúa ban hành. Luật của Chúa là sự phản ánh những đặc tính thiêng liêng của Ngài. Ngài là thẩm quyền tuyệt đối, và chúng ta hoàn toàn chịu ơn Ngài. Lề luật của Chúa không phụ thuộc vào ý kiến của chúng ta, mà là những quy tắc được ban hành bởi Đấng Một, người có quyền áp đặt những quy tắc đó lên chúng ta, vì lợi ích của chúng ta và vì vinh quang của Ngài. Ngài ban cho chúng ta những nguyên lý như một cơ sở để chúng ta xây dựng nên tư duy của chúng ta trong mọi lĩnh vực.
Nếu bạn chấp nhận Chúa như Đấng Sáng tạo, bạn sẽ nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta biết rằng Chúa là Đấng ban sự sống, rằng sự sống có ý nghĩa và mục đích, và rằng mọi con người đều được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, và do đó, có một giá trị và ý nghĩa to lớn . Chúa tạo ra chúng ta sao cho Ngài có thể liên hệ với chúng ta, đổ tràn ơn phúc lên chúng ta, và ngược lại để cho chúng ta cũng yêu kính Ngài.
Ngược lại, nếu bạn chối bỏ Chúa và thay Ngài bằng một niềm tin khác ─ một niềm tin đặt các quá trình may rủi và ngẫu nhiên vào vị trí của Chúa ─ thì khi đó sẽ không có cơ sở để phân biệt cái gì là đúng và cái gì là sai. Luật lệ trở thành bất kể cái gì mà bạn muốn vẽ ra nó. Không còn CÁI TUYỆT ĐỐI nữa, không có những nguyên lý bắt buộc về đạo lý để bạn phải tuân thủ nữa. Con người sẽ tự viết ra những lề luật của mình.
Cần phải nhận thức rằng niềm tin của bạn về nguồn gốc và số phận của bạn sẽ quyết định thế giới quan của bạn!
Khi nền tảng của tư tưởng Thượng Đế sáng tạo ra thế giới bị vứt bỏ thì những thiết chế thiêng liêng cũng sụp đổ. Ngược lại, khi nền tảng về tiến hóa được củng cố vững chắc thì những cấu trúc được xây dựng trên nền tảng đó, như tính vô luật lệ, tình dục đồng giới, phá nạo thai, v.v. cũng tăng lên một cách logic. Chúng ta cần phải thấy rõ mối liên kết đó.
Nhiều người Thiên Chúa giáo nhận ra sự thoái hóa đạo đức đã và đang diễn ra trong xã hội. Họ trông thấy sự sụp đổ trong hệ thống đạo đức Thiên Chúa giáo và sự tăng trưởng của các triết lý chống lại Chúa. Họ cũng thấy tình trạng khủng hoảng tội ác, khủng hoảng đạo đức, tình trạng vô luật lệ, tình dục đồng giới, văn hóa phẩm đồi trụy, và phá nạo thai và nhiều sản phẩm tồi tệ khác nữa của triết lý sống ngày nay, nhưng họ không hiểu tại sao những hiện tượng như thế đã và đang xảy ra. Họ rơi vào tình thế ngã ba đường, không biết đâu là sự thật, không hiểu bản chất nền tảng của cuộc xung đột về thế giới quan hiện nay, đó là cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm đối chọi: quan điểm sáng tạo và quan điểm tiến hóa.
Tất nhiên là những triết lý phản đạo đức và chống lại Chúa đã tồn tại từ trước khi có thuyết tiến hóa Darwin. Tuy nhiên từ khi con người thay đổi niềm tin vào nguộc gốc của mình thì thế giới quan của họ cũng thay đổi. Khi con người chối bỏ sự sáng tạo của Chúa thì quan điểm của họ về thế giới và về con người cũng thay đổi.
Đặc biệt tại các quốc gia Tây phương, nơi Thiên Chúa giáo từng đóng vai trò nền tảng đạo đức của từng cá nhân và của toàn xã hội, thuyết tiến hóa của Darwin đã cung cấp một sự biện minh cho rất nhiều người không tin Chúa, để họ có thể tự tin và thoải mái thực hiện những hành vi mà người Thiên Chúa giáo coi là tội lỗi. Một nhà khoa học không theo Thiên Chúa giáo đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn trên TV, rằng “Thuyết tiến hóa Darwin làm cho những người vô thần được kính trọng”.
Tác giả Ken Ham kể rằng, tại một lớp học ở Úc, một cô giáo nói với học trò rằng cô không tin chuyện vượn tiến hóa thành người, bởi nếu đó là sự thật thì tại sao hiện tượng đó không hề diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới ngày nay. Một học trò đứng lên thưa với cô rằng thưa cô, hiện tương đó đang diễn ra đấy, người aborigines (thổ dân Úc) chính là loài vượn đang tiến hóa lên thành người đấy (!).
Ken Ham thốt lên lời chua xót, rằng người ta đã và đang nhồi vào sọ trẻ em những kiểu tư duy sai lầm như vậy, rồi ông chất vấn: Tại sao xã hội ngày nay tuyên bố chống phân biệt chủng tộc nhưng lại dạy trẻ em những lý thuyết chứa đựng mầm mống phân biệt chủng tộc?
Mầm mống ấy là gì? Đó là thuyết tiến hóa!

Thuyết tiến hóa phá hủy đạo đức Đông phương

Khi chủ nghĩa thực dân tiến sang Đông phương, nó cũng mang theo thuyết tiến hóa, và thuyết tiến hóa cũng làm công việc của nó ở Đông phương ─ lật đổ đức tin vào Ông Trời!
Ông Trời chính là Thượng Đế. Người Á Đông vốn rất kính sợ Trời.
Thật vậy, Lệ thần Trần trọng Kim viết trong cuốn NHO GIÁO: “Trời là bản nguyên của muôn vật”, “Vậy nên người bao giờ cũng phải kính sợ Trời và sợ Trời là cơ bản đạo đức của người…”. “Đó là cái lòng tín ngưỡng của dân tộc nào lúc đầu cũng thế”.
Vậy xem ra nền tảng đạo đức của Á Đông và Tây phương xưa kia rất giống nhau, đó là đức tin vào Thượng Đế, vào Ông Trời. Vì thế, nếu thuyết tiến hóa phá hủy nền tảng đạo đức Thiên Chúa giáo thì cũng sẽ phá hủy nền tảng đạo đức Á Đông. Bài báo sau đây của Thanh Nguyên nói cho chúng ta biết điều đó.
Hiện nay mọi người khi nói về Thuyết tiến hóa, thì luôn cho nó là một phạm trù Sinh vật học. Trên thực tế Thuyết tiến hóa đối với loài người vượt quá xa phạm trù của Sinh vật học. Chúng ta có thể nói rằng, một môn học thuật đề cao hoặc duy hộ đạo đức cơ bản của xã hội, đối với con người mà xét, thì có thể gọi là học thuyết chân chính, còn loại học thuyết phá hoại đạo đức loài người, đả kích bản tính lương thiện của loài người, thì thứ học thuyết đó chính là Tà ác. Bài này thử theo ảnh hưởng của Thuyết tiến hóa đối với đạo đức nhân loại mà trình bày và phân tích, mong mọi người chú ý đến vấn đề này.
Con người sở dĩ là người chứ không phải là động vật, chính là nhờ ở ràng buộc về luân lý đạo đức. Thế nhưng sự phá hoại của Thuyết tiến hóa đối với đạo đức nhân loại chủ yếu biểu hiện ở việc: nó phá hủy quan niệm đạo đức cơ bản của loài người vốn được truyền thừa suốt mấy ngàn năm qua, nó khuyến khích tính ích kỷ cá nhân tà ác của con người.
Quá khứ mấy ngàn năm trước, người phương Tây đối với việc “Thượng Đế tạo ra con người” rất tin tưởng không nghi ngờ, họ tin vào việc Thần đối với nhân loại là có sự quản chế ràng buộc. Tại phương Đông, mọi người tôn thờ đạo lý “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, “Trên đầu 3 thước có Thần linh”. Học thuyết nhà nho của Trung Quốc đều là xoay quanh “Con người tu thân trọng Đức như thế nào” mà giảng, trong sách “Đạo đức kinh” có mấy ngàn chữ, thực ra đều là xoay quanh “Đạo, Đức” mà giảng. Mọi người có thể đã được nghe đến mức quen tai câu chuyện xưa “Vi biên tam tuyệt” (Ba lần đứt lề sách), kỳ thực cũng nói về chuyện Khổng Tử cẩn thận nghiên cứu Chu Dịch, đề cao việc tu dưỡng đạo đức cá nhân. Nói cách khác, trăm ngàn năm qua mọi người đều tin tưởng rằng Thiện là mặt chủ đạo của nhân tính, những kẻ mang ma tính ích kỷ thì không xứng đáng làm người, và tính ích kỷ là thứ mà con người cần cố gắng trừ bỏ đi. “Tu thân trị quốc bình thiên hạ” chính là để ức chế tính ích kỷ cá nhân, tu thành người nho nhã lễ độ. Những người “Quân tử” có đạo đức cao thượng, hiếu thuận với cha mẹ, tận trung vì nước là những gương mẫu mà cộng đồng xã hội tôn sùng. Được ràng buộc bởi đạo đức cơ bản, con người không dễ dàng bị ma tính khống chế, bản tính lương thiện chiếm địa vị chủ đạo, xã hội phát triển một cách bình thường khỏe mạnh, nền văn minh có thể được tiếp tục duy trì.
Nhưng Thuyết tiến hóa gây tác hại đối với loài người không chỉ dừng lại ở đó. Tư tưởng nòng cốt của nó là “Thích giả sinh tồn” (“Kẻ thích nghi được thì tồn tại”) khiến con người hiện đại tìm được căn cứ, tìm thấy chỗ dựa cho những thứ quan niệm đã bại hoại của họ, tìm được cái cớ để lường gạt lương tâm của chính mình. Trong quan niệm “Thích giả sinh tồn” của Thuyết tiến hóa, “Sinh tồn” dường như là ý nghĩa duy nhất của sự tồn tại của sinh mệnh: chỉ cần ngươi có thể sống sót trong đời sống tàn khốc (của tự nhiên), thì ngươi là kẻ thắng cuộc (không quan tâm ngươi dùng thủ đoạn gì). Những thứ quan niệm “Con chim dậy sớm thì có côn trùng mà ăn”, “Không cố gắng sẽ bị đào thải”, “Ngươi không đánh gục hắn, hắn sẽ đánh gục ngươi”, “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, vv… thể hiện rõ rằng ma tính ích kỷ đã thay thế phần rất lớn những quan niệm đạo đức chính thống cơ bản của con người. Trong xã hội một người nào còn tốt, một sinh mệnh còn tốt đẹp nếu không thể “Thích ứng với sự biến hóa của hoàn cảnh” thì sẽ bị đào thải, bất kể người ấy lương thiện như thế nào. Những người làm điều thiện cho khắp cộng đồng, lặng lẽ âm thầm phụng sự cho xã hội, những người chăm lo nâng cao tiêu chuẩn đạo đức cá nhân trong xã hội thường không được ủng hộ, mà bị bài trừ, chèn ép, thậm chí bị bài xích đến mất cả không gian sống cơ bản của mình. Mọi người không hề tin tưởng truyền thống đạo đức về lòng lương thiện, khoan dung, nhường nhịn …, “Khinh kẻ nghèo chứ không khinh kỹ nữ”, ngay cả những thứ Đại ca xã hội đen thậm chí lại trở thành đối tượng mà nhiều người sùng bái. Kỳ thực chúng ta chỉ cần tĩnh tâm lại và suy nghĩ, nếu chỉ có Con chim dậy sớm mới có côn trùng để ăn, như thế chẳng phải những con chim dậy muộn hơn đều phải bị chết đói ư? Nhưng trong hoàn cảnh thực tế tự nhiên lại là như thế này: “Con chim dậy sớm ăn côn trùng dậy sớm, con chim dậy muộn ăn côn trùng dậy muộn”. Trong cuộc sống thực tế, những kẻ liều mạng cố gắng vì ích lợi cá nhân, những kẻ không từ một thủ đoạn nào đều nhất định có thể đạt được mục đích cá nhân sao?
Xã hội hiện nay mọi người đều đã thực sự bị Thuyết tiến hóa lôi kéo và đang phải chịu hậu quả là sự băng hoại đạo đức toàn nhân loại. Các bạn hãy xem người ta bây giờ nói chuyện thì chủ đề được quan tâm nhiều nhất có lẽ là “Cạnh tranh”, đề cập làm thế nào để dùng “Sức cạnh tranh” của mình. Khi người ta phát hiện ra rằng những người lương thiện thành thật dễ dàng bị kẻ khác làm tổn hại, mọi người liền thúc giục chính mình trở nên gian trá và giảo hoạt. Để đuổi cho kịp cái gọi là “Trào lưu của thời đại” không ngừng biến hóa, mỗi cá nhân đều bị khuất phục và xuôi theo các quan niệm giá trị càng ngày càng bại hoại, rất ít người dám tự hỏi lại xem chỉnh thể thế giới quan về giá trị liệu có chính xác hay không. Nếu có người thực sự như thế, người khác sẽ bảo họ “Theo không kịp thời đại, mất trí, không hiểu biết”. Bị cái chỉnh thể môi trường như thế này lôi kéo, mỗi phụ huynh đều tính toán làm thế nào để con cái của mình có thể thích ứng được với cái “Xã hội cạnh tranh” này… Giáo dục ở các trường học không lấy đạo đức của học sinh làm tiêu chuẩn cân nhắc, mà lấy điểm số và thành tích làm tiêu chuẩn, cho nên học sinh bây giờ học tập cả ngày cả đêm. “Đáng thương thay cho cái tâm của các bậc cha mẹ trong thiên hạ” nhìn thấy đau xót trong lòng nhưng cũng không thể tránh được. Mỗi người đều căm ghét loại phương hướng giáo dục như thế này, bức thiết hy vọng giảm bớt được gánh nặng cho học sinh, nhưng hoàn toàn không nhận thức ra rằng, đứa con bé bỏng mà mình thương yêu phải chịu nhận tất cả những điều đó chính là do cái tâm “Hy vọng con cái trở thành rồng” của chính cha mẹ chúng tạo thành.
Mỗi cá nhân đều trong cạnh tranh mà đánh mất bản thân, mỗi người đều bị cái gọi là cạnh tranh thúc đẩy, bận rộn tầm thường, bôn ba khắp nơi. Dù là người chiếm được ưu thế và địa vị trong cạnh tranh, họ cũng không có được một ngày bình an, bởi anh ta cần phải đề phòng mọi lúc mọi nơi các đối thủ cạnh tranh càng ngày càng nhiều thêm! Mỗi cá nhân đều thấm thía nỗi khổ cực, mỗi người đều thấy đau buồn, mọi người chịu ảnh hưởng của những thứ quan niệm gọi là “Cạnh tranh” và “Thích giả sinh tồn” mà có thể “hợp pháp” chém giết lẫn nhau. Bởi cái chỉnh thể giá trị quan như thế đã bắt rễ sâu vào trong xã hội bại hoại rồi, nên người với người làm hại nhau, để đạt được thắng lợi trong cạnh tranh họ không từ bất cứ việc xấu ác nào. Vấn nạn của xã hội liên tục xuất hiện, sự băng hoại của đạo đức nhân loại đã đến mức đáng sợ, môi trường tự nhiên và môi trường sống của con người cũng lâm vào tình cảnh bị hủy hoại và tàn phá đến mức chưa từng có…
Bởi vậy, hoàn toàn vứt bỏ ảnh hưởng của Thuyết tiến hóa đối với xã hội chúng ta, phục hưng đạo đức của nhân loại đã là trách nhiệm xã hội không thể trốn tránh của mỗi một con người có lương tri. Bởi vì nó quan hệ đến bạn, đến tôi, đến mọi người, đến việc con cháu chúng ta có thể tiếp tục sinh tồn một cách tốt đẹp hay không!

Ai ứng dụng thuyết tiến hóa triệt để nhất?


Năm 2004, một đòn chết người đã giáng lên đầu thuyết tiến hóa, đó là sự ra mắt cuốn sách “From Darwin to Hitler: Evolutionary Ethics, Eugenics, and Racism in Germany” (Từ Darwin tới Hitler: Đạo đức theo thuyết tiến hóa, Thuyết Ưu sinh, và Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức), của Richard Weikart, Giáo sư khoa học lịch sử Đại học Tiểu bang California, do Palgrave Macmillan, một nhà xuất bản nổi tiếng về khoa học lịch sử, xuất bản tại New York.
Trong công trình nghiên cứu rất tỉ mỉ và công phu này, Richard Weikart đã cho chúng ta thấy rõ tác động vô cùng tai hại của thuyết tiến hóa Darwin đối với nhận thức của con người trong thế kỷ 20 ─ thuyết tiến hóa đóng vai trò quyết định trong việc làm cho con người từ bỏ các giá trị truyền thống để bắt đầu một quá trình suy đồi về luân lý và đạo đức nói chung.
Ông chứng minh rằng nhiều nhà sinh học tiến hóa hàng đầu và những nhà tư tưởng xã hội ở Đức thời đó thừa nhận học thuyết Darwin đã lật đổ nền tảng đạo đức Do thái giáo – Kitô giáo truyền thống, lật đổ những tư tưởng về quyền con người trong Thế kỷ Ánh sáng, đặc biệt là những tư tưởng liên quan đến những giá trị thiêng liêng trong đời sống con người. Theo truyền thống, Chúa là thiêng liêng và phải tôn kính, con người có linh hồn, và linh hồn do Chúa thổi vào, nhưng với thuyết tiến hóa, con người đơn giản chỉ là xác thịt, là tập hợp của các vật chất thô thiển, là hậu duệ của các loài động vật. Con người không có gì cao quý và đặc biệt hơn động vật.
Weikart tố cáo nhiều người trong số các nhà tư tưởng Đức đầu thế kỷ 20 đã cổ xúy cho “chủ nghĩa tương đối về đạo đức” (moral relativism), bác bỏ đạo đức tuyệt đối mà các tôn giáo Tây phương truyền thống từng giáo huấn ─ sự thờ kính Chúa và các chuẩn mực đạo đức như Kinh Thánh đã dạy. Họ đề cao sự “thích nghi” về tiến hóa (đặc biệt là tiến hóa về trí tuệ và sức khỏe) mới là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất.
Weikart kết luận rằng học thuyết Darwin không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự trỗi dậy của thuyết ưu sinh (eugenics), một học thuyết cực kỳ vô nhân đạo chủ trương loại bỏ những người ốm yếu bệnh tật và những người bị coi là thấp kém trong xã hội, mà còn là lý do biện minh cho nhiều hành vi vô luân khác như làm cho bệnh nhân chết “êm dịu” (euthanasia), giết trẻ sơ sinh (infanticide), phá nạo thai (abortion), và… diệt chủng (extermination). Tất cả những hành động vô đạo này cuối cùng đã được chủ nghĩa quốc xã Đức tiếp thu một cách nồng nhiệt và hiện thực hóa bằng hàng loạt hành động tàn bạo trong thực tế những năm 1933-1945.
Weikart nêu lên những lập luận thuyết phục khi ông nêu đích danh Hitler đã xây dựng quan điểm của hắn về đạo đức dựa trên các nguyên lý của học thuyết Darwin như thế nào. Tóm lại, “Từ Darwin đến Hitler” là một tài liệu nghiêm túc, đúng mực, trích dẫn những sự thật không thể chối cãi về sự gắn bó tư tưởng của Hitler đối với học thuyết Darwin. Đây là một tài liệu rất quý, kích thích bất kỳ ai muốn khám phá sự thật về ảnh hưởng sâu sắc của thuyết tiến hóa Darwin đối với các tiến trình lịch sử trong thế kỷ 20, qua đó nổi bật lên những cuộc tàn sát đẫm máu chưa từng có trong hai cuộc Thế Chiến và quá trình suy đồi đạo đức ngày càng tăng từ đó đến nay. Nếu không chỉ rõ mối liên hệ giữa Hiler với tư tưởng của thuyết tiến hóa Darwin, trong đó thuyết tiến hóa đóng vai trò kẻ lát đường hoặc tạo cở sở lý luận cho Hitler, chúng ta sẽ không thể nào hiểu nổi tại sao Hitler có thể có những quan điểm quái gở và vô đạo đến như thế.
Slide248
Hình bên: “Kẻ thù của chúng ta đồ giun rế… Hãy khép lòng thương xót lại! Hãy hành động hung bạo!… Kẻ mạnh hơn là kẻ đúng!”, tuyên bố của Adolf Hitler ngày 22/08/1939, trước khi xâm lược Ba Lan.
Tất nhiên một mình Hitler không thể xoay ngược lịch sử như thế. Đó là cả một trào lưu lịch sử đã bắt đầu trỗi dạy trên khắp Châu Âu từ khoảng những năm 1830 về sau. Đó là sự trỗi dậy của chủ nghĩa vô thần. Cần phải có nhiều luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, về xã hội học, về nhân loại học, về triết học lịch sử, triết học khoa học, triết học về bản chất con người… để giải thích nguyên nhân và điều kiện xã hội của hiện tượng bước ngoặt này ─ hiện tượng lên ngôi của chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, cuốn “Tự thú” (Confession) của Leo Tolstoy đã đánh dấu một cột mốc lịch sử của hiện tượng đó, khi ông xác nhận rằng năm ông 11 tuổi, tức năm 1838, một thông tin quan trọng đã lan truyền khắp nơi, rằng “Không có Thượng Đế!”. Hãy đọc “Tự thú” của Leo Tolstoy để hiểu sự vắng mặt của Thượng Đế trong tâm hồn con người dẫn đến thảm họa như thế nào. Nếu không chúng ta sẽ mãi mãi mờ mịt không hiểu tại sao học thuyết Darwin, mặc dù chỉ là một giả thuyết vô bằng chứng, bị các nhà khoa học xuất sắc nhất thế kỷ 19 như Louis Pasteur, Gregor Mendel, Lord Kelvin,… bác bỏ, vậy mà nó vẫn ngoi lên để thống trị trong thế giới sinh học. Rõ ràng nó phải được một số đông ủng hộ, và số đông ấy chính là chủ nghĩa vô thần mới nổi lên và lớn mạnh dần, tới mức thống trị nhận thức của loài người.
Đối chiếu với Kinh Thánh, tôi cho rằng sự thắng thế của một học thuyết phi khoa học và phi nhân bản như thuyết tiến hóa là một điềm báo Ngày Sau Rốt đã bắt đầu. Đồng thời, đó cũng là một biểu hiện cho thấy Định luật Tàn Úa, tức Định luật Entropy, cũng đúng trong xã hội loài người.
Tóm lại, học thuyết Darwin là con đẻ của chủ nghĩa vô thần và đến lượt nó, nó lại trở thành một công cụ đắc lực của chủ nghĩa vô thần. Đó là lý do để Hitler ôm lấy nó, mặc dù trên miệng lưỡi hắn cũng nói đến Chúa, thậm chí nhân danh Chúa để tiến hành những hành vi phản Chúa.
Richard Evans, giáo sư lịch sử hiện đại tại Đại học Cambridge, tác giả cuốn “The Coming of the Third Reich” (Sự ra đời của Đế chế thứ III) (tức Đế chế Nazi của Hitler) nhận xét:
“Cuốn sách nổi bật của Richard Weikart trình bày một cách chi tiết, đúng mực, chín chắn và thuyết phục làm thế nào mà các nhà tư tưởng theo học thuyết Darwin tại Đức đã phổ biến một quan điểm phi đạo đức vào xã hội loài người trong giai đoạn Thế Chiến I, trong đó cái được cho là tốt về chủng tộc đã được áp dụng như một tiêu chuẩn duy nhất của chính sách công cộng và của chương trình ‘thanh lọc chủng tộc’. Không đơn giản hóa và bóp méo những chính sách liên hệ với phần cốt lõi trong tư tưởng của Hitler, tác giả đã chứng minh với một sự minh bạch đến ớn lạnh về vấn đề làm thế nào mà các chính sách như giết trẻ sơ sinh, hỗ trợ tự tử, ngăn cấm hôn nhân và nhiều thứ khác nữa, lại có thể được nhiều tác giả và nhà khoa học theo học thuyết Darwin kiến nghị áp dụng đối với những người bị coi là thấp kém về mặt chủng tộc và không phù hợp với thuyết ưu sinh, những kiến nghị ấy đã cung cấp cho Hitler và đảng quốc xã một luận cứ khoa học cho những chính sách mà họ theo đuổi một khi họ lên cầm quyền”
Thomas Albert Howard, Giáo sư sử học Đại học Gordon, tác giả cuốn “Thần học Tinh Lành và việc tạo dựng Đại học Đức hiện đại”, nhận xét:
“Đây thực sự là một công trình lịch sử trí tuệ công phu, và một công trình liên quan trực tiếp đến một số cuộc thảo luận về đạo đức quan trọng nhất trong thời đại hiện nay. Người Thiên Chúa giáo và tất cả những ai có thiện chí nên suy nghĩ về những lập luận này để nhận ra rằng một người tốt nhất và thông minh nhất có thể phạm phải cái xấu nhất và đen tối nhất dưới những biểu ngữ tỏ ra tiến bộ về ‘sức khỏe và sự thích nghi’ sinh học”.
Phillip Johnson, Giáo sư danh dự về luật, Đại học California ở Berkeley, tác giả cuốn “Darwin on Trial” (Darwin ra tòa) và “Reason in the Balance” (Lý lẽ trong sự cân bằng), nhận định:
“Cái triết học truyền lửa cho quân đội Đức và chủ nghĩa Hitler được dạy tại mọi trường công lập ở Mỹ như một sự thật, mà không cho phép được bất đồng. Mọi phụ huynh nên biết câu chuyện này, mà Weikart giải thích một cách thuyết phục”.
Nancy Pearcey, tác giả cuốn “Total Truth” (Sự thật toàn bộ) và đồng tác giả cuốn “The Soul of Science” (Linh hồn của khoa học) và “How Now Shall We Live” (Chúng ta sẽ sống ra sao), nhận xét:
“Nếu bạn nghĩ những vấn đề vô đạo đức như giết trẻ sơ sinh, hỗ trợ tự tử, và can thiệp và các genes của con người là chuyện mới xảy ra gần đây, bạn hãy đọc cuốn sách này. Cuốn sách vẽ ra một bức tranh rõ ràng và ớn lạnh về cái cách thức mà chủ nghĩa tự nhiên của học thuyết Darwin đã dẫn các nhà tư tưởng Đức tới chỗ đối xử với cuộc sống của con người như nhào nặn các vật liệu thô thiển để nâng cao tiến trình tiến hóa… Lời cảnh báo ngầm của Weikart là ở chỗ chừng nào mà những giả định tương tự của học thuyết Darwin còn thống trị trong nền giáo dục trong thời đại của chúng ta ngày nay thì nó có thể dẫn tới những thực hành tương tự như ở nước Đức trước đây”.
Francis J. Beckwith, Giáo sư triết học Đại học Baylor
“Công trình bậc thầy của Richard Weikart cung cấp một trường hợp thuyết phục cho thấy thuyết ưu sinh và tất cả những hệ quả chính trị và xã hội xuất phát từ nó lẽ ra đã không phải như thế nếu các nhà văn hóa xuất sắc không nhiệt tình ôm lấy những quan điểm về sự sống, đạo đức và những thiết chế xã hội phù hợp với học thuyết Darwin”.
PVHg, Sydney 24/08/2016
EVOLUTION NEWS: From Darwin to Hitler
FROM DARWIN TO HITLER website by Richard Weikard

The Biology of the Second Reich: Social Darwinism and the Origins of World War 1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét