Thứ Hai, 13 tháng 8, 2018

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 150 (Bùi Tín)

-SỰ THẬT LÀ GÌ? ĐÂU LÀ SỰ THẬT?
-PHẢI CHĂNG SỰ THẬT PHỤ THUỘC VÀO Ý CHÍ CON NGƯỜI!?
-KHÔNG CÓ CON NGƯỜI Ý CHÍ, KHÔNG CÓ THẬT - GIẢ!?
 
-----------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Bùi Tín

Bùi Tín, tuổi xế chiều ở Paris

14:15 29/03/2012

Tôi biết Bùi Tín từ những ngày Bùi Tín còn đương chức Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân phụ trách tờ Nhân Dân Chủ nhật. Thời đó, Bùi Tín đang nổi danh là một  trong những cây viết có hạng của làng báo Việt Nam. Thông qua một người bạn, tôi đến gặp Bùi Tín và được Bùi Tín truyền cho một vài chiêu tác nghiệp. Tôi nhớ mãi bài học mà Bùi Tín hướng dẫn: “Đối với một nhà báo cách mạng, kiến thức thông tuệ và sự nhạy cảm là hai yếu tố đặc biệt quan trọng”.

 
Bui Tin Oral History

Bùi Tín: nhạc Trịnh nặng về tình cảm, tính chiến đấu còn yếu

Bùi Văn Phú
Ông Bùi Tín nguyên là Đại tá Quân đội Nhân dân và Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân. Năm 1990, nhân một chuyến công tác tại Pháp ông quyết định không trở về Việt Nam. Các tác phẩm của ông gồm có Hoa xuyên tuyết (1991), Mặt thật (1994) và Following Ho Chi Minh: the memoirs of a North Vietnamese Colonel (1995). Hiện sống tại Paris và ông thường xuyên viết trên Blog VOA Tiếng Việt.
*
Lần đầu tiên ông nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi nào?
Đại tá Bùi Tín (ảnh John Spragens Jr.)
Sau khi Hiệp định Paris được ký vào tháng 1.1973, tôi vào Sài Gòn 60 ngày làm việc trong Ban liên hợp 4 bên đóng trong căn cứ Tân Sơn Nhất, đọc một số báo ở Sài Gòn có vài bài nói đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Chỉ biết qua loa nhạc sĩ là sinh viên, người xứ Huế, làm thơ và sáng tác nhạc theo tư tưởng Phật giáo, chống chiến tranh chung chung. Đến sau 30.4.1975, vào Sài Gòn tôi mới nghe được một số băng ghi nhạc Trịnh Công Sơn.
Hồi ấy tôi chú ý và còn nhớ hai bài là “Người con gái Việt Nam da vàng” và “Đại bác ru đêm”. Tuy thái độ phản chiến, chống chiến tranh không thật rõ, không đứng hẳn về một phía nào cho rõ, lập trường còn có vẻ mơ hồ, nhưng thái độ ngậm ngùi, tình “yêu quê hương như yêu đồng lúa chín” và “hàng vạn tấn bom, em thơ giật mình…” đã là thái độ ngậm ngùi, đau buồn trước thảm cảnh chiến tranh rất đáng quý.
Trong thời chiến tranh có khi nào ban lãnh đạo báo Nhân Dân bàn về nhạc Trịnh?
Do dư luận nhân dân và bộ đội hồi ấy không hề biết gì đến Trịnh Công Sơn nên không ai bàn đến.
Riêng ông thời đó ông có được biết hay nghe nhạc Trịnh?
Hồi đầu năm 1973 tôi có nghe mấy băng ghi âm, rồi sau không còn chú ý gì nữa.
Từ 1970 đến 1975 ở miền Nam, nhiều người biết đến những lời ca của Trịnh Công Sơn:
Một ngàn năm nô lệ giặc tầu
một trăm năm đô hộ giặc tây
hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của Mẹ để lại cho con
gia tài của mẹ là nước Việt buồn…
Ông nghĩ gì, có lý giải ra sao?
Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có lý khi nói về nội chiến. Đây là cách nói gần với sự thật nhất. Trịnh Công Sơn bị cả hai phía lên án chính vì sự thật này. Một bên muốn khẳng định đây là “chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ và tay sai” và bên kia muốn nói đây là “chiến tranh xâm lược miền Nam của Cộng sản miền Bắc”. Nói nội chiến để chỉ ra sự phi lý, dại dột, để tự mình đặt dân tộc mình trở thành nạn nhân, bị kẹt cứng trong cuộc chiến trạnh lạnh, mà thật ra nóng bỏng, tàn bạo, giữa hai phe dân chủ và cộng sản. Nội chiến mù quáng, dại dột, phi lý nên trong 30 năm người Việt ta giết nhau hăng nhất, nhiều nhất, dài nhất, tàn bạo nhất, còn đem ra khoe hàng ngày trên báo trên đài.
Tôi đọc lại báo hồi ấy của cả hai bên mà buồn, mà đau. Cứ giết nhau nhiều là ăn mừng, khen thưởng, khoe với thế giới. Không thấy nhục!
Trưa 30.4.75 Trịnh Công Sơn lên đài Sài Gòn hát:
Mặt đất bao la anh em ta về
gặp nhau mừng như bão cát
quay cuồng trời rộng
bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…
Ông có nghe lời ca đó và cảm nhận của ông ra sao?
Tôi có biết ngay chuyện này. Một việc làm có ý nghĩa hoà giải. Nhưng không hợp khẩu vị kiêu ngạo huênh hoang, lên gân, trả thù đối phương và chính sách thực tế là “chiếm đóng” của lãnh đạo cộng sản, nên không phát huy được tác dụng. Và ngay sau đó, những bài hát như thế bị tuyên huấn và công an văn hoá cấm, càn quét, hủy bỏ.
Ngày 30.04.1975 chiến tranh chấm dứt, hoà bình đến nhưng nhiều gia đình miền Nam không có niềm vui đoàn tụ vì người thân phải đi học tập cải tạo. Trịnh Công Sơn như đã tiên đoán hoà bình với những nét buồn:
Đêm nay hoà bình
sao mắt Mẹ không vui
mẹ hãy ra xem đường phố ngập người
Đêm nay hoà bình
mắt mẹ buồn như kinh
lời kinh đêm ru căn nhà lạnh
ru mẹ một mình, ôm bóng đêm…
Ông có thể cho biết cảm nhận của ông về hoà bình trên quê hương mình?
Với những lời ca như thế, Trịnh Công Sơn bén nhạy nói lên đúng tâm trạng u buồn, đau xót, bẽ bàng của xã hội, cả ở miền Nam và miền Bắc có pha ít nhiều cay đắng vì lãnh đạo bỏ qua một thời cơ lịch sử, thống nhất trọn vẹn cả về địa lý và tình tự dân tộc, thương yêu, đùm bọc nhau, chung sức dựng xây quê hương.
Có người nói Trịnh Công Sơn viết nhạc phản chiến, ý ông thế nào?
Ý thức phản chiến của Trịnh Công Sơn còn có vẻ mờ nhạt, không rõ ràng, phần nhiều là ẩn dụ, kín đáo. Vì con người Trịnh Công Sơn là nặng về tình cảm, kiểu nghệ sỹ, tính chiến đấu, tính chiến sĩ còn yếu, chỉ bàng bạc. Cũng đáng tiếc. Nhưng tạng con người là thế, mỗi người một vẻ. Được như thế, để cho đời chừng ấy tác phẩm được đông đảo người mến mộ ưa thích, mê say là quý lắm rồi.
Bên trời Paris ông có nghe nhạc Việt?
Có chứ. Tôi có nhiều băng nhạc. Băng Văn Cao, nhạc Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đình Thi, băng Phạm Duy. Nhiều lần Phạm Duy sang Pháp đều ghé thăm tôi, vì ở cùng đơn vị hồi 1948.
Loại nhạc Việt nào ông thích nghe nhất và nó gợi cho ông những kỷ niệm gì?
Nhạc Văn Cao tôi rất thích. Âm hưởng bám theo dai dẳng từ thời tuổi trẻ. Nhớ và thuộc mãi. Nhạc Phạm Duy cũng lôi cuốn, nhưng theo tôi những bài trước 1950 vẫn là hay nhất, như “Sông Lô”, “Bà mẹ Gio Linh”, sau này chưa có bài nào hay hơn. Bài về Hà Nội có nhiều bài hay, có bài của Nguyễn Đình Thi. Bài “Nhớ mùa thu Hà Nội” của Trịnh Công Sơn cũng hay, tôi rất thích, như ngửi thấy mùi hoa sữa và ngắm cây cơm nguội, nhớ Hồ Tây, bầy sâm cầm nhỏ, vỗ cánh mặt trời…
Riêng nhạc Trịnh, có những ca khúc nào khác mà ông thích?
Tôi thích khá nhiều bài. Xa quê hương, nhớ lắm. Trịnh Công Sơn lại có tư duy tổng hợp, nhiều ẩn dụ, nhiều hình ảnh lạ mà quen ngay, pha triết lý nhân sinh của đạo Phật, rất thú vị. Chỉ có giọng điệu đều đều, âm điệu các bài gần gụi nhau, ít có nét nhạc phong phú giàu âm điệu. Mà thế cũng hay. Dễ nhận ra, dễ thuộc. Không trộn lẫn.
“Như một lời chia tay” ngậm ngùi, tha thiết, tưởng niệm. “Những hẹn hò từ nay khép lại, có nụ hồng ngày xưa rớt lại…” Bài “Cát bụi” do Khánh Ly hát: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi… Mặt trời soi một kiếp rong chơi… Chợt một chiều tóc trắng như vôi… Cát bụi tuyệt vời…”, “Một cõi đi về” do Vĩnh Trinh hát: “Trên đôi vai ta hai vầng nhật nguyệt. Trăm năm vô biên, chưa từng hội ngộ… Ngọn gió vô biên thổi suốt xuân thì…”
Nguồn: Bùi Văn Phú blog
  
Bùi Tín nhìn lại 50 năm trận Mậu Thân 68.

Khi Bùi Tín khích bác GS Tương Lai sau khi bỏ Đảng!

Tin từ VOA Tiếng Việt, và dẫn lời của Bùi Tín, một kẻ vong nô lỡ thời hiện đang định cư ở Pháp (Bùi Tín nguyên là sỹ quan Quân đội, từng giữ đến cương vị Phó Tổng biên tập báo Quân đội nhân dân) đánh giá về sự kiện “GS” Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Tổng biên tập tạp chí Xã hội học, một thời là cố vấn cho các thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải… như sau: “Tôi mừng khi biết tin ông bỏ đảng Cộng sản hiện nay mà ông gọi là đảng của Nguyễn Phú Trọng, khi đảng đã thoái hóa, biến chất thành những nhóm đặc quyền, đặc lợi tranh giành nhau quyền lực và tài sản“.
tu%cc%9bo%cc%9bng-lai
Ông Tương Lai (Nguồn: FB). 
Bùi Tín cũng phê phán chuyện ông Tương Lai còn sùng bái Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng giọng lưỡi của một con buôn có tư tưởng xét lại nửa vời và thiếu thực tế: “Trái lại tôi rất tiếc là ông Tương Lai còn sùng bái ông Hồ Chí Minh. Ông đã tự mâu thuẫn với mình, không nhất quán với chính mình khi ông tự bảo công bằng, tôn trọng sự thật lịch sử.
 
Với thời gian, mọi thần tượng giả tạo, bản chất thật của ông Hồ đã lồ lộ rõ ràng. Một trí thức có tư duy độc lập không thể mù quáng lâu. 
Ông Tương Lai có biết ai đã mang tên Trần Dân Tiên để viết nên tiểu sử tự tâng bốc mình là «Cha già dân tộc,» còn vĩ đại hơn Trần Hưng Đạo, Quang Trung? 
Ai đã quỵ lụy xin phép Staline và vâng lời Mao để tiến hành Cải cách ruộng đất theo chỉ đạo của đoàn Cố vấn Tàu, giết hại 17.000 trung nông – trí thức yêu nước kháng chiến chống Pháp, bị vu cáo là địa chủ – ác ôn, bị bắn chết và chôn sống. 
Ai trong thâm tâm không muốn xuất khẩu bạo lực vào miền Nam, ai không muốn coi vũ trang là bảo bối theo phương châm của Mao «chính quyền ở đầu ngọn súng» ai e ngại cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 là mạo hiểm, giá sinh mạng qua đắt, mà không dám can ngăn, không dám ra mặt chống lại bộ ba khát máu Lê Duẩn – Lê Đức Thọ – Nguyễn Chí Thanh, là Chủ tịch đảng, là lãnh tụ số 1, là Chủ tịch Nước mà ươn hèn, không dám có lập trường vững, để mặc cho bọn gian thần lộng hành mang lại thương vong hàng triệu sinh linh trẻ của 2 miền Nam Bắc, ông Hồ thật sự đáng chê trách, đáng lên án nặng nề nhất”. 
Đáng nói hơn, để chứng minh cho mớ suy diễn vô căn cứ của mình, Bùi Tín còn dựng chuyện, lấy phát biểu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để làm bằng cớ dù ai cũng biết: Với “đại tướng” sự kính trọng về tài và đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở ông trước sau đều như một: “Hồi ấy tôi rất gần tướng Giáp. Ông rất tiếc là ông Hồ không nghe ông để can ngăn những quyết định «chủ quan, ngông cuồng, nguy hiểm khôn lường của 2 ông họ Lê», khi ông Giáp, cùng tướng Hoàng Văn Thái và tướng Lê Trọng Tấn đều suy nghĩ như nhau, coi Tổng tiến công tổng khởi nghĩa là chủ quan, liều lĩnh. Chỉ có ông Hồ là có quyền ngăn cản cuộc manh động phiêu lưu”.
Ngoài phê phán chuyện ông Tương Lai vẫn tôn sùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều mà những kẻ như Bùi Tín sợ hãi, bởi đến “một trí thức hiếm hoi đất Thừa thiên – Huế, khá uyên bác, học nhiều, hiểu biết uyên thâm, có tư duy độc lập” (theo cách nói của chính Bùi Tín) thì những kẻ hạng tép riu như Bùi Tín còn lâu mới có cớ để thoá mạ, hạ bệ thần tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lòng người dân Việt Nam. Bùi Tín còn mỉa mai chuyện ông Tương Lai muốn “trở lại khôi phục đảng Lao Động Việt Nam”: “Thật là buồn cười khi ông Tương Lai muốn trở lại khôi phục đảng Lao Động Việt Nam! Tôi phải nói thật là ông lẩm cẩm rồi! Lẽ ra ông phải nhìn về tương lai phía trước – như chính tên ông – thì ông lại ngoái cổ về quá khứ! Đảng Lao Động ai chả biết ra đời tháng 2/1951 chỉ là cái mặt nạ của đảng Cộng sản Đông Dương, giả vờ giải tán ngày 11/11/1945, thật ra là rút lui vào bí mật. Chính dưới cái mặt nạ đảng Lao động mà đảng Cộng sản đã làm cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu người yêu nước, làm cho nông thôn, nông dân và nền nông nghiệp điêu đứng cho đến ngày nay. Chính dưới danh nghĩa đảng Lao động mà đảng Cộng sản làm hợp tác hóa – cải tạo nông thôn, cải tạo công – thương – nghiệp, rồi tự đề ra phương châm’’ đất đai là thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thay mặt quản lý’’ để cướp ruộng đất của nhân dân, để tự cho mình quyền thu hồi với đền bù rẻ mạt”.
Tuy nhiên, chi tiết được tiết lộ này cho thấy cả Bùi Tín lẫn ông Tương Lai đều không hiểu mấy về lịch sử và họ cố tình bấu víu vào một tên gọi để nhận thức, xét lại lịch sử. Bởi, suy cho cùng, là Đảng Cộng sản Việt Nam hay Đảng Lao động Việt Nam thì nó cũng chỉ là tên gọi, gắn với một giai đoạn lịch sử. Nó hoàn toàn không quy định tính bản chất hay thiên hướng chính trị của một tổ chức chính trị!
Về ý định hay nói đúng hơn là thông tin ông Tương Lai “trở lại khôi phục đảng Lao Động Việt Nam” có thể là một cái cớ để ông này bao biện cho việc tuyên bố bỏ Đảng vừa qua (mà thực chất là nếu không tuyên bố bỏ thì trước sau gì tổ chức đảng nơi ông là thành viên cũng tiến hành khai trừ theo Điều lệ Đảng).
Quay trở lại với tính mục đích trong bài viết có tính khích bác của Bùi Tín. Có thể những kẻ vong nô và hợm hĩnh như Bùi Tín đã mừng khi ông Tương Lai tuyên bố bỏ Đảng. Nhưng rồi chúng vẫn chưa thấy hụt hẫng khi biết chuyện ông Tương Lai vẫn còn tôn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuyện ông này muốn khôi phục Đảng Lao Động”. Rất có thể sự cay cú và chưa bằng lòng khiến Bùi Tín nuôi ý định khích bác ông Tương Lai! Sự hèn hạ của những kẻ như Bùi Tín chính là ở chỗ đó!

Nhà báo Bùi Tín: Vài kỉ niệm với tướng Trần Độ

TranDo
Nhân dịp kỉ niệm ngày mất của trung tướng Trần Độ (9/8/2002), nhiều trang mạng đang điểm lại cuộc đời của ông. Đọc tiểu sử của tướng Trần Độ và nhà báo Bùi Tín, thấy có nhiều điều tương đồng. Vậy tướng Trần Độ là người như thế nào đối với ông?
Nhà báo Bùi Tín: Xin cám ơn mạng Đàn Chim Việt đã cho tôi cơ hội nói lên tấm lòng của mình đối với anh Trần Độ, một đồng đội, một người Anh, một tấm gương sáng của tôi.
Kỷ niệm giữa anh Trần Độ và tôi có từ tháng 4-1948. 65 năm rồi.
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên”
Anh Độ cùng nhà văn Nguyễn Công Hoan từ Việt Bắc về Thanh Hóa dự Đại Hội Tập của tướng Nguyễn Sơn. Anh Độ và anh Hoan lúc ấy đang làm báo Sao Vàng của Tổng cục chính trị do anh Trần Huy Liệu giao.Tôi còn nhớ 11 năm trước , khi được tin anh mất, chúng tôi tổ chức lễ truy điệu, nhiều anh chị em chúng tôi ở Paris đã khóc nấc lên. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy anh Đặng Phúc Lai một trí thức uyên bác từ Hà Nội sang chữa bệnh mang theo tập nhật ký Rồng-Rắn kể lại về cuộc gặp của anh với anh Độ trước khi qua đây, 2 người quen nhau từ khi anh Độ còn ở Sư 312, trước cả trận Điện Biên.
- Vậy điều gì ở tướng Trần Độ khiến ông nhớ nhất?
Ở anh Độ điều gì là nổi nhất ư? Anh em ta hay khen anh Độ là tướng có tài, văn võ song toàn. Thiếu tướng khi 35 tuổi, trung tướng khi 51 tuổi, có những bài phân tích quân sự khá đặc sắc ký tên Cửu Long.Nhưng theo tôi anh Độ nổi nhất trên lĩnh vực Văn hóâ văn nghệ. Anh là người cán bộ cộng sản cao cấp cực hiếm không bị quyền cao chức trọng tha hóa. Tôi nhớ rất rõ về anh, những lần gặp anh. Anh đến tòa soạn báo QĐND, chân tình, xởi lởi tự nhiên, hỏi thăm từng người. Cách ăn mặc, đi, đứng, ngồi, nói, lắng nghe, luôn tỏ ra giản dị, dấu mình, quan tâm đến người khác.
Một con người có văn hoá, rất tử tế, ấm áp tình người, chúa ghét hình thức, xu nịnh, giả dối.
- Ông sang Pháp tị nạn từ năm 1990, từ đó ông có liên hệ gì với ông Trần Độ nữa hay không?
- Năm 1996, anh gọi điện thoại cho tôi hỏi thăm, trao đổi tình hình, khuyến khích. Anh tâm sự với tôi, một nỗi buồn đè nặng. 40 phút đàm thoại vào nửa đêm. Nỗi buồn đè nặng nhất là suy nghĩ của anh về Thiện và Ác. Anh hiểu thực dân phong kiến là hiện thân của ác. Anh hoạt động cách mạng khi 15 tuổi, vào đảng lúc 16 tuổi, nghĩ là tham gia xóa sạch ác, coi đảng CS là hiện thân của thiện, vậy mà cuối đời nhận ra sự oái oăm khổng lồ, cái thiện chuyển thành ác, mà cái ác hiện tại còn tệ hại, kinh hoàng hơn cái ác ngày xưa. “Ngỡ xoá ác rồi thay cực thiện / Nào hay biến đổi ác luân hồi!”
Anh không thể ngậm miệng ăn tiền. Anh không thể đồng lõa với một xã hội chuyên chế, tại đó công dân, nhà văn không có tự do.
- Trần Độ được coi là người có công trong việc cởi trói cho văn nghệ sĩ?
Anh cùng anh Nguyên Ngọc thảo ra Nghị quyết 5 về tự do sáng tạo trong văn hóa văn nghệ. Anh thuyết phục tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, gần như gò ép ông Linh phải gặp văn nghệ sỹ để ra « tuyên ngôn » văn nghệ sỹ tự cứu, không uốn cong ngòi bút, sống với nhân dân mình, với lương tâm mình. Anh khơi nguồn cho những ngòi bút tự do Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Trần Huy Quang, Phùng Gia Lộc, Lưu Quang Vũ, Trần Văn Thủy…
- Nhưng ông được biết đến nhiều hơn ở những đòi hỏi thay đổi về chính trị?
Trần Độ, theo tôi là cán bộ cộng sản cao cấp có cách nhìn rốt ráo về thay đổi tận gốc cả hệ thống chính trị từ độc đảng toàn trị sang hệ thống đa đảng, gồm những đảng bình đẳng anh em, trong đó có đảng CS, cùng nhau vừa hợp tác vừa ganh đua.
Anh là cán bộ lãnh đạo cộng sản VN có tư tưởng đổi mới có hệ thống, gần với tư tưởng đổi mới ở Liên Xô của Gorbachốp, vượt tư tưởng đa nguyên chung chung của anh Trần Xuân Bách hồi 1989, 1990. Đây là nét son quý nhất ở nơi anh.
- Và nó cũng là điều khiến ông bị chế độ ghét bỏ? Thái độ của Trần Độ sau khi bị ‘thất sủng’ như thế nào, thưa ông?
Vâng. Năm 1999 khi anh bị khai trừ, Ban văn hóa văn nghệ trung ương do anh phụ trách bị nhập vào Ban tuyên huấn thành Ban tư tưởng và văn hóa, tôi may mắn gọi được điện thoại cho anh. Anh không buồn, cười to thành tiếng, thanh thoát, “mình nay là người tự do, như cậu vậy”. Thế rồi anh tâm sự. Anh sẽ viết hồi ký truyền lại lửa cho tuổi trẻ,cho đảng viên còn bị lầm lẫn. Anh tin cái thiện rồi sẽ toàn thắng. Anh tin ở bộ phận trí thức, văn nghệ sỹ, thanh niên nam nữ đang thức tỉnh khá nhanh.
“Mình tin là chỉ trong vòng 10 năm nữa thôi là đà thức tỉnh của xã hội sẽ đạt độ lượng thành chất. Các cậu phải thảo một Tuyên ngôn Tự Do, sau khi đã có Tuyên Ngôn Độc Lập 2/9. Lầm lẫn chiến lược đó. Hồi ấy chúng mình đã lầm lẫn, ngỡ rằng nước có độc lập là dân có ngay trự do đầy đủ. Độc lập tự do gắn bó với nhau nhưng vẫn là 2 khái niệm riêng biệt. Cách mạng dân tộc- dân chủ, ở ta mới có cách mạng dân tộc, cách mạng dân chủ còn ở phía trước.. Mình dạo này không khỏe, nhiều bệnh. Cậu và anh em bên đó nhớ chuyện này nhé … “.
- Nhưng có vẻ Trần Độ đã lạc quan quá, những biến chuyển của xã hội Việt Nam chậm hơn nhiều so với dự đoán của ông?
Tôi cảm thấy anh Trần Độ đã có dự cảm chính trị chính xác. Mười năm là khoảng thời gian không dài, cũng không ngắn lắm. Hồi đó chưa có Kiến nghị đòi chấm dứt khai thác bô – xít ở Tây Nguyên. Chưa có kiến nghị đòi tự do cho luật sư Cù Huy Hà Vũ. Chưa có cuộc góp ý của gần 40 trí thức cho văn kiện Đại hội X bác bỏ triệt để chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ nghĩa xã hội Mác-xít, nhưng bộ chính trị bịt chặt tai, không chịu nghe lẽ phải. Chưa có Kiến nghị sửa hiến pháp, sửa Luật Đất đai, Trưng cầu ý dân. Nhất là chưa có chuyện 15 ngàn chữ ký bác bỏ dự thảo hiến pháp do quốc hội thông qua. Nếu còn sống chắc chắn anh Độ đã có mặt trong các sự kiện ấy.
Anh Độ sẽ vui biết mấy khi thấy xuất hiện những chiến sỹ dân chủ mới mẻ, như Phạm Thanh Nghiên, Bùi Minh Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, bên cạnh Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Quốc Quân, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha vv…, không sao kể hết. Số không thể chấp nhận mình là hạt cát bị dẫm đạp lên, để trở thành mỗi người một ngôi sao trong xã hội ta đang xuất hiện hàng loạt. Mỗi ngày có một tin vui. Hôm nay là tin cô Thu Trang cùng 4 chiến sỹ dân chủ tuy bị công an ngăn chặn vẫn vào được sứ quán Thụy Điển mái đỏ son để đưa kiến nghị đòi hủy điều 258 trong bộ luật Hình sự…
Đó, anh Trần Độ đặt cả niềm tin ở trí thức, tuổi trẻ đang thức tỉnh là rất có lý. Chính sự lộng hành của bọn bành trướng và thái độ ươn hèn của bộ chính trị làm cho tình hình chuyển biến nhanh. Tôi nghĩ trong vài tháng tới tình hình còn phát triển nhanh hơn. Ta đã có vốn, kinh nghiệm, thế đi lên, thế kết hợp.
- Xin hỏi thêm về “Tuyên ngôn Tự do” mà ông vừa nói, liệu đã tới lúc cần có một Tuyên ngôn như vậy chưa?
Tôi nhớ mãi lời dặn dò, cũng là hy vọng trên đây của anh Trần Độ trước khi đi xa.
Nay nhânkỷ niệm ngày anh đi xa, xin công khai chuyển mong muốn thiêng liêng của anh đến anh chị em trí thức, văn nghệ sỹ, thanh niên trong và ngoài nước. Phải chăng tình hình đã chín để đặt vấn đề có một Tuyên Ngôn Tự Do tương xứng với Tuyên Ngôn Độc Lập 9/1945.
Xin đề nghị các anh chị em Nhóm 72, nhóm 100 về sửa đổi hiến pháp, về sửa luật Đất Đai, về Trưng cầu dân ý, cũng như hơn 15 ngàn anh chị em ký vào Tuyên bố bác bỏ dự thảo hiến pháp do quốc hội thông qua đặt ra việc dự thảo Tuyên Ngôn Tư Do của Nhân dân Việt Nam trong chương trình hoạt động trước mắt của mình, do uy tín và kinh nghiệm sẵn có.
Tôi tin rằng một dự thảo Tuyên Ngôn Tự Do xúc tích, gọn gàng thảo ra bởi một nhóm chuyên viên am tường luật pháp sẽ sớm được trình làng. Các bạn trong tổ chức Minh Triết Việt, Con Đường Việt Nam… chắc chắn sẽ vui mừng chào đón và hưởng ứng cho sáng kiến quan trọng này. Cả sức mạnh của dân tộc bị kìm hãm sẽ bật dậy, như mong muốn cháy bỏng của Trần Độ, ngôi sao Dân chủ của nhân dân.
Tôi nghĩ còn có cách nào kỷ niệm ngày ra đi của anh Trần Độ – một lão tướng dân chủ thời đại chúng ta –  có ý nghĩa hơn, còn có cách nào tưởng niệm hàng triệu các chiến sỹ của cả 2 bên bỏ mình trên chiến trường theo lý tưởng họ tin là cao đẹp, bằng việc làm trên đây do động lực “thật lòng yêu nước mình, thật lòng thương dân mình”, như anh Trận Độ thường nói.
Xin cám ơn mạng Đàn Chim Việt và anh chị em bạn đọc Đàn Chim Việt.
Xin cám ơn nhà báo Bùi Tín.
© Đàn Chim Việt

Ông Bùi Tín – Người đi giữa hai lằn ranh

Nhà tôi có 3 anh em trai, cha mẹ chúng tôi trước khi đi làm thường chia phiên cho con cái vừa học bài vừa túc trực bên ông nội, ông cần gọi phải có mặt, để ông sai khiến vì ông bị mù. Công việc xoàng thôi, như nấu nước pha trà, chế ra ly mời khách, mài mực xạ viết (1) chữ Nho. Ông tôi bị mù nhưng nhà thường có khách, khách đến xin liễn, đối hoặc đàm đạo về Phật, Khổng, Mạnh,… Bàn chuyện thời cuộc và các cụ cũng thường kể chuyện quê hương, giai đoạn bị Cộng Sản chiếm đóng 1945 – 1954.
 Một đứa bé lên chín, lên mười, nghe người lớn “kể chuyện đời xưa” về quê hương mình, tôi hiểu Cộng Sản từ đó, hiểu và tóm tắt về Cộng Sản như sau:
 1- Cộng Sản không chấp nhận tôn giáo, trí thức.
 2- Người giàu có là kẻ thù của họ.
 3- Gây hận thù và nghi ngờ trong mọi quan hệ.
4- Cộng Sản có toàn quyền giết người và tịch biên gia sản.
 Đây là bài học vỡ lòng về Cộng Sản, bài học đáng tin cậy vì người lớn nói chuyện thản nhiên nhưng họ không ngờ nó ăn sâu vào tiềm thức của đứa bé. Hơn thế nữa bậc ông bà, cha mẹ không bao giờ nói dối con cháu, nói dối để làm gì? Họ chẳng phải cán bộ Thông tin, với xã hội miền Nam, họ không có một trách vụ nào hết, chỉ đơn thuần những người cao niên gặp nhau nói chuyện cho vui mà thôi. Một bài học đầu tiên, cũng có thể duy nhất, sau đó học hết trung học, không thấy sách vở, thầy cô nào dạy mình chống cộng. Ngay như cuốn Việt Sử – Thế Giới Sử lớp 12, viết Hồ Chí Minh, chỉ có một dòng, trong phần toát yếu:
“Ông Hồ Chí Minh, lãnh tụ VNDCCH, đã qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1969”.
Sách Công Dân Giáo Dục, những bài dạy về Hiến Pháp và tổ chức chính phủ VNCH.
 Sách Văn Học, dạy những áng văn thơ hay, bất kể tác giả là ai, ví dụ: Học trò phải đốt đèn học thuộc Lưu Trọng Lưu, Huy Cận, Xuân Diệu,… Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,… Học thơ văn của những tác giả này chưa đủ, phải thuộc luôn tiểu sử cùng những tác phẩm của họ đã xuất bản.
 Tôi nhớ không lầm, trước 1975, suốt chương trình trung học đệ nhất và đệ nhị cấp Bộ Quốc gia Giáo dục không có chương trình dạy cho học trò hiểu Cộng sản, nếu có chẳng đáng là bao so với nhu cầu thời cuộc. Tuổi học trò vì tò mò chuyền tay nhau “ngoài luồng”, nắn nót viết mấy bài thơ của Trần Dần, Phùng Quán, Quang Dũng,…
Rời trường học, vào trường lính. Sáu tháng quân sự, tại Nha Trang, chỉ duy nhất học 2 giờ chính trị nhưng kể chuyện tiếu lâm hết 45 phút. Sáu tháng học chuyên môn Tân Sơn Nhất, không có một phút học chính trị!
Từ tuổi thơ lớn lên, quan niệm Chống cộng cũng như làm việc thiện, đại khái như đánh một con rắn hoặc giết một con chuột tránh hoạ dịch hạch,… Và tôi tự bổ sung cho kiến thức chống cộng nghèo nàn của mình bằng cách đọc thêm sách báo. Năm 17 tuổi, được hai người bạn giới thiệu vào Việt Nam Quốc Dân Đảng, một đảng phái không đội trời chung với Cộng sản nhưng thực chất ở hành động, nhiều hơn học hỏi kiến thức tìm hiểu Cộng sản. Từ cái vốn liếng không giống ai này, tôi chống cộng mang tính nghệ sĩ, nhiều hơn chiến sĩ. Nghệ sĩ về mặt đối nhân xử thế với thời gian rất đàng hoàng.
 Thời gian suốt 16 năm tỵ nạn tại Hoa Kỳ, tôi thường để dành vacation đợi những người cầm quyền Cộng sản hoặc đoàn Văn công đến Hoa Kỳ mới lấy phép nghỉ, nhờ vậy bất kể ngày nào tranh đấu cũng hiện diện.
Đối nhân xử thế: Không ghét người Cộng sản chung chung, trái lại gặp trường hợp đáng thương, tôi sẵn sàng giúp đỡ. Năm 1982, trên đường từ Long Thành đi Bình Long, dừng chân ở bến xe Sài Gòn, gặp một anh Thượng úy quân đội, anh gom tiền bạc của xóm làng, từ Bắc vào Nam để tìm một vùng đất khai khẩn. Gần tới Sài Gòn, anh bị mất sạch sẽ, còn mỗi bộ đồ bộ đội với chiếc nón cối và đôi dép râu. Tôi đưa anh vào Suối Quýt, Cẩm Đường cưa củi ba tháng trời, tình anh em thắm thiết, đến tết chúng tôi chia tiền, ai cũng tranh nhau lấy phần ít hơn! Ngày anh về Bắc, tôi chở mẹ tôi đi chợ, làm bửa cơm tiễn chân, lúc về đến nhà, thấy anh xoay mặt vào vách, xe đạp thắng ở cửa, anh bật dậy hai mắt đỏ hoe, ngấn lệ. Tôi nói như nửa đùa: “Khóc gì anh? Vài hôm thôi anh về gặp chị và mấy cháu rồi.” Kéo vạt áo lau mắt, anh nói: “Có phải đâu chú, chú xem đây! Cái ông Nguyễn Khuyến này này. Người làng của tôi, thế mà tôi nào hay biết.” – anh vừa nói, vừa giở trang sách Văn Học Sử, anh tiếp “Chúng nó dạy tụi tôi toàn những điều khốn nạn! À à, còn cái này nữa!” – anh chỉ trang album, hỏi: “Hình chú đây chứ ai.”, tôi: “Dạ đúng!”, “Ối giời ơi! Chúng nó bảo lính ngụy thế này, thế kia! Ba tháng nay tôi gặp chú, các bạn của chú trong Suối Quýt, toàn những người tử tế cả… Không giống một tí nào so với lời tuyên truyền láo khoét.” (2)
Pha ấm trà, hai anh em ra gốc cây vú sữa tâm sự, tôi nói: “Chúc mừng anh tìm được đồng hương (cụ Nguyễn Khuyến) trên xứ Đồng Nai này. Còn việc lính Sài Gòn, anh chưa cần hiểu họ tốt vội. Cộng sản tuyên truyền thường nhắm vào vài điều cụ thể. Khi hành quân vào làng CS chiếm đóng, đôi lúc anh em không giữ kỷ luật, bắn trâu bò, heo gà, CS lấy đó tuyên truyền. Các anh và người dân không thấy cấp trên trừng phạt những quân nhân vô kỷ luật này. Hơn thế nữa, bộ đội các anh tử tế hết mực với người dân, cây kim sợi chỉ không đụng tới. Đúng là các anh đã làm như thế thời chiến tranh. Nhưng khi miền Bắc chiếm được Miền Nam, người dân mất tất cả, còn miền Nam thì không vì chính quyền miền Nam tôn trọng quyền tư hữu của con người.”
Anh bộ đội về xứ, chúng tôi thường viết thư cho nhau. Những tháng ngày tiếp theo, gia cảnh khó khăn quá sức, nhiều lần phải dời nhà (thật ra cái chòi lá), tôi cố giữ những thư từ kỷ niệm nhưng không sao còn, nhớ và tiếc hoài. Năm 1982, anh bộ đội 43 tuổi, cấp bậc Thượng úy, một vợ hai con – tôi 28 tuổi, độc thân, cấp bậc Hạ sĩ nhất QLVNCH.
Tôi nghĩ, mình đem lòng chân thành đối đãi sẽ hoán chuyển được tư duy thâm căn, cố đế của một con người.
Ông Bùi Tín
 
Nhà báo Bùi Tín nguyên là Đại tá Quân đội Nhân dân và Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân
Người dân và cán bộ sống với chế độ Cộng sản không khác một diễn viên trên sân khấu, tuồng diễn càng lâu, con người càng thâm nhập vai diễn. Do đó khi mới rời vai diễn, bước xuống cuộc đời, lắm lúc điệu bộ và lời nói đôi khi còn vướng vất. Thỉnh thoảng nhiều bài viết của ông Bùi Tín làm người “bên này chiến tuyến” bực mình. Phô diễn sự bực mình có nhiều cách, tùy thuộc về trình độ và sự giáo huấn từng gia đình. Một số ít “bên này chiến tuyến” cũng đòi hỏi thái quá, muốn ông Bùi Tín phải “tròn trịa như hòn bi!” (Chữ trong thơ Nhân Văn Giai Phẩm). Thiết nghĩ không cần thiết như vậy! Điều nào ông viết đúng, chúng ta ghi nhận, điều nào chưa đúng nên viết bài phân tích trên tinh thần tương kính giống như thầy cô từng dạy mình, viết văn theo thể loại bình giảng thời đệ nhất cấp thì hay hơn. Đọc những bài chửi ông Bùi Tín, tôi nghi: Ngoài “bên này chiến tuyến”, còn có bàn tay “lạ”? Chắc ông Bùi Tín, hơn ai hết đã nhận ra. Hy vọng ông không buồn và nản lòng. Khi dùng ngòi bút và vốn liếng của mình chia sẻ lại cho hậu thế những hệ lụy của Cộng sản – một khổ nạn dân tộc và quê hương đang gánh chịu.
 Ông Bùi Tín hoặc bất cứ ai khác đều phải chán chường, mòn mỏi vì đã quá lâu sống trong sợ hãi và dối trá. Khi họ có thiện chí bước ra khỏi nơi tăm tối, dù chỉ mới một bước thôi, chúng ta có quyền mừng vui, hân hoan đón chào. Số bước còn lại, thuộc về trách nhiệm của những trái tim có lòng nhân ái biết chân thành yêu thương.
 Mới đây báo Cộng sản viết bài đề cập ông Bùi Tín!
Đề tài: Bùi Tín tuổi xế chiều ở Paris – Tác giả Nguyễn Đăng An (NĐA), bài viết có thể chia 4 phần:
 Phần 1: Tác giả muốn đưa trái bóng Bùi Tín cho hải ngoại đập, NĐA nhắc lại lời ông Bùi Tín ca ngợi Võ Nguyên Giáp – Thưa ông An, chuyện bình thường thôi! Hơn hai trăm ngàn tù cải tạo sau 1975 ai không ca ngợi Bác và Đảng? Ông Bùi Tín cũng chỉ là một tù nhân “tự giác” chứ hơn kém gì!
 Phần 2: NĐA được nhà nước cử đi Paris làm thông tấn xã. Nhân chuyến công tác, NĐA có ý tìm gặp ông Bùi Tín, như một nhu cầu cá nhân. Nhưng ở đoạn gần kết thúc NĐA lộ ra cái đuôi “Mời ông Bùi Tín về nước”, lấy tư cách một công dân nước CHXHCNVN đảm bảo an toàn cho ông Bùi Tín với điều kiện: Buộc ông Bùi Tín phải viết bài phản tỉnh, ăn năn.
Như vậy NĐA nói đi công cán cho TTXVN nhưng thực chất Đảng sai anh ta đi kêu gọi ông Bùi Tín làm một anh hề già. Đây mới chính là nhiệm vụ đảng giao cho NĐA, chuyến đi hồi tháng 1/1997. Đời nào ông Bùi Tín chịu, NĐA và Đảng mất công toi.
Phần 3: NĐA trách cứ ông Bùi Tín chửi bác Hồ, “vì sao dám xúc phạm đến niềm tin thiêng liêng của dân tộc?”. Thật ra chính đảng CSVN, Nguyễn Đăng An và ông Bùi Tín biết rất rõ: Hồ Chí Minh chẳng dính dáng gì đến “niềm tin thiêng liêng của dân tộc”. NĐA viết đoạn này chỉ dụng ý tuyên truyền, mà tuyên truyền thì kệ… Mẹ nó, ai nghe thì nghe, không nghe kể huề cả làng!
Phần 4: Cố hữu muôn đời của CS, bất cứ ai chửi Bác, chống đảng cũng vì tiền của ngoại bang. Đây là lối tuyên truyền quá cổ điển, một người từng đi Paris như NĐA hẳn biết!? Thể hiện được một bài viết tốn nhiều công sức, thực hiện một cuộc tranh đấu rất tốn kém, người tham dự phải tự túc, dốc túi. Ngoại bang nào dễ cho như vậy? Riêng ông Bùi Tín viết bài cho các cơ quan ngôn luận lớn của quốc tế (BBC & VOA) họ trả tiền nhuận bút, điều này là đương nhiên. Nhưng NĐA nên nhớ, ông Bùi Tín đặt lương tri, sự thật đi trước và trên hết mọi giá tiền. Bằng chứng NĐA không mua chuộc được Bùi Tín viết bài phản tỉnh. Ai dám cho rằng NĐA và đảng CSVN mời suông ông Bùi Tín?
Tóm lại tôi rất mến mộ, kính trọng ông Bùi Tín! Đọc những bài của ông, tôi như ngắm được người Cộng sản từ phía sau lưng.
Cũng nhờ bài NĐA, biết ông đang sống ở Paris, biết ông 85 tuổi. Kính chúc ông tăng thêm tuổi thọ và dồi dào sức khỏe. Hy vọng có dịp mời ông đến Atlanta, Hoa Kỳ – Nơi đây có hơn năm chục ngàn đồng hương sinh sống. Lúc rày thời tiết Atlanta mát mẻ, hoa cỏ xanh tươi, vui lắm, vật giá sinh hoạt rất bình dân, mời ông đến một nơi đầy ắp tình người. Chứ không phải mời vào hang cọp, miệng sói, do đó không cần phải mang bất cứ thứ gì ra để “đảm bảo”.
 Atlanta, 1/4/2012.


06.10.2014
Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh được tìm đọc và bàn luận khá sôi nổi cả trong và ngoài nước. Ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn đã có bán chui ấn bản in từ Cali/Hoa Kỳ gửi về, hoặc tự in ra từ máy vi tính.
Đèn Cù hấp dẫn vì nó kể lại cái không khí sôi động của chiến tranh, tả lại thời kỳ nghiêm trọng sống chết của một dân tộc, đòi hỏi những quyết sách chuẩn xác. Đèn Cù lý thú, lôi cuốn vì nó khắc họa một loạt các khuôn mặt lãnh đạo từng lèo lái con thuyền đất nước qua biết bao hiểm nghèo trong hơn nửa thế kỷ qua, hé lộ những suy nghĩ, hành động, chủ trương của họ, những cuộc đấu đá nội bộ quyết liệt, những thủ đoạn phức tạp đối phó với thù, bạn, ta.

Thế nhưng ý định thầm kín của tác giả Trần Đĩnh là gì? Chủ đích của nhà báo tài năng và tâm huyết này là muốn tâm sự gì với thế hệ đương thời và cho các thế hệ tương lai? Đó là tư duy hòa bình, chung sống hòa bình, chống xung đột vũ trang, phản đối triệt để chiến tranh huynh đệ tương tàn.

Theo tôi, Trần Đĩnh có một lập trường nhân bản. Anh được hấp thụ nền giáo dục và văn hóa Pháp từ thuở bé, để có thể viết được luận văn chính trị lúc mới trưởng thành, ở ngay tòa soạn của tờ báo chủ đạo của Miền Bắc, có quan hệ xã hội rộng.

Cái quý ở Trần Đĩnh là tư duy độc lập, tự tin, suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình. Ở anh không có tố chất cúi mình làm tay sai, nghe theo lệnh người khác. Mặc dù anh nhận viết tiểu sử chính thức cho Hồ Chí Minh, viết hồi ký cho Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận… nhưng chỉ làm anh thợ viết thuê, nghe kể thế nào viết lại như thế, tuy thế vẫn ngượng ngùng ba lần tủi hổ tự nhận và ăn năn là «bồi bút».

Anh hãnh diện công khai tự khẳng định mình là «xét lại», xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, vì cái học thuyết Mác - Lênin kiểu Stalin là tàn bạo quá, vì cái học thuyết Mác - Lênin kiểu của Mao lại càng dã man hơn. Kinh nghiệm 5 năm sống ở Bắc Kinh đã làm tăng thêm niềm uất hận của anh đối với Mao, ghi sâu trong đầu anh tư tưởng tội ác của Mao là không sợ chiến tranh, kể cả chiến tranh nguyên tử, cho thiên hạ chết la liệt, sẽ còn lại dân Trung Hoa sống sót cũng không sao. Anh cay cú, khinh bỉ cái tư duy ích kỷ của Mao, người chỉ mong cho “thiên hạ đại loạn” để một mình Trung Quốc thủ lợi. Tệ nữa là xúi Việt Nam cứ nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn để ông ta thủ lợi.

Theo tư duy hòa bình nhân ái của Trần Đĩnh, anh dứt tình cả với “Cụ Hồ” của anh, cả với Trường Chinh là người đã dìu dắt đào tạo anh, vì cả Hồ Chí Minh và Trường Chinh thoạt đầu đều tán thành quan điểm “Xét lại” vốn đã thành trào lưu chính thống của phong trào CS quốc tế, nhưng sau cả hai đều xoay sang theo đuôi Mao, cam chịu thành Mao-nhều (Trần Đĩnh sáng tạo ra chữ «nhều» thay cho chữ «Mao-ít » để nói kháy, trêu chọc những người cơ hội theo đuôi Mao).

Cay đắng xuýt xoa tiếc cho Hồ Chí Minh và cho Trường Chinh đã nhu nhược “mặc kệ nó” bao nhiêu thì Trần Đĩnh khinh bỉ oán hận sâu đậm đối với cặp Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bấy nhiêu.

Theo Trần Đĩnh kể, có thể coi 2 nhân vật họ Lê này là đầu mối của những tai họa ập xuống đầu nhân dân ta trong hơn nửa thế kỷ qua. Hai nhân vật này trình độ đều kém hẳn Hồ Chí Minh và Trường Chinh, nhưng mưu chước không hề kém, đã tận dụng thời cơ sau sai lầm Cải cách ruộng đất để gạt Trường Chinh rồi gạt luôn Hồ Chí Minh ra rìa (vin cớ ông Hồ lẩm cẩm rồi) để giành độc quyền lãnh đạo, dần dần lôi kéo quanh mình những kẻ xu nịnh ham mê quyền lực như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh…thành một thế lực áp đảo gần giống như «mafia quyền lực», dần dà nắm trọn quân đội.

Yếu tố đảng CS Trung Quốc xuyên suốt lịch sử VN kể từ năm 1949 - 1950 sau khi Mao chiếm chính quyền ở Bắc Kinh ngày 1/10/1949, khai thông biên giới Việt - Trung cuối năm 1950, rồi Mao - Chu Ân Lai bắt Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nhận chia đôi đất nước ở vỹ tuyến 17 sau Điện Biên Phủ. Tuân theo Mao, Lê Duẩn quyết gây chiến với miền Nam dưới chiêu bài «thắng giặc Mỹ” bằng mọi giá, để rồi bị đòn đau, phải chui vào chiếc rọ Thành Đô tháng 9/1990 cực kỳ thâm hiểm cho đến nay. Mấy triệu trai tráng 2 miền đẫ hăng say giết nhau chỉ để đạt đến một nước lạc hậu, bất công, không pháp luật, như vô hồn.

Hàng loạt bộ mặt «Mao-nhều» múa may quay cuồng trên sân khấu chính trị Việt Bắc - Hà Nội từ 1949 đến 2014, qua gần 600 trang tả chân, cho độc giả nhìn lại lịch sử VN qua những tình tiết sống động đầy nhân tình thế thái, đậm chất bi hài, ở ngay chốn cung đình.

Cặp bài trùng Lê Duẩn - Lê Đức Thọ nắm chắc con chủ bài «Miền Nam» cần phải được giải phóng khỏi ách Mỹ - Ngụy bằng mọi giá để làm con ngựa chiến của mình, với cái ý đồ không hề che giấu là xé tọac cả 2 «Hiệp định đình chiến Genève và Paris» năm 1954 và năm1972 ngay từ khi 2 văn kiện này chưa ráo mực. Điều khoản mở đầu cả 2 hiệp định đều ghi rõ: “Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam”, nhưng đảng CS VN, thế lực cầm quyền trên miền Bắc, không bao giờ đếm xỉa gì đến cái quyền tự quyết ấy cả, họ cũng không bao giờ công nhận có một người lính miền Bắc nào trên đất miền Nam, dù cho con số ấy lên đến hàng vạn, rồi hàng chục vạn…vẫn cứ là không có, là con số không, chỉ có quân giải phóng miền Nam, tại chỗ.

Có thể nói Trần Đĩnh đã là luật sư bênh vực một lọat bạn bè thân thiết trong hàng ngũ những kẻ «xét lại», như Hòang Minh Chính, Phạm Kỳ Vân, Phạm Viết, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lưu Động, Trần Châu, Hà Minh Tuân, Hòang Thế Dũng, Đặng Đình Cầu, Mai Hiến, Mai Luân, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang, Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên…Anh cũng minh oan và biểu dương những con người có trí tuệ và nhân cách như Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Tất cả họ đều bị chụp mũ oan uổng là phản bội, phản động, theo địch, đầu hàng đế quốc, sợ chiến tranh, không dám hy sinh, dát như thỏ đế, hèn hạ, bạc nhược, bảo mạng, cầu an, tay sai của lão «trọc» - chỉ Nikita Khrushchev.   

Trần Đĩnh tiếc nuối sao ông Hồ lại nhu nhược đến vậy, không dám tham gia biểu quyết về Nghị quyết 9, không dám bảo vệ đường lối hòa bình, chung sống hòa bình, tranh đua hòa bình, không lựa chọn CNXH mang mặt con người, bác bỏ CNXH mang mặt dã thú.

Nhóm Mao-nhều truyền bá trong quân đội Võ Nguyên Giáp là kẻ sùng bái học thuật đế quốc, đậu cử nhân Luật, thuộc tầng lớp trên, Nguyễn Chí Thanh mới thật là bần cố nông đích thật, từng chăn trâu giữ bò cho địa chủ từ tấm bé, Chu Huy Mân cố nông đi buôn chiếu dọc sông Lam từ thuở lên 10, Văn Tiến Dũng là công nhân Cổ Nhuế đổ thùng trên phố rồi về làm thợ may. Cố vấn TQ về tổ chức đã đưa ra cả một danh sách loại bỏ hàng loạt sỹ quan tiểu tư sản không có gốc công nông.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh là chỉ ra bóng đen của cộng sản TQ, của học thuyết Mao bao trùm lên dân tộc, đất nước và đảng CS VN, qua tay chân «Mao-nhều» ít học, kém văn hóa quá đông đảo.

Do đó cuốn sách kể chuyện cũ mà mang tính thời sự nóng hổi, với những trò chơi xấu của kẻ bành trướng mới rồi ở Biển Đông.

Cuốn sách như muốn góp ý cho mọi đảng viên và bà con ngoài đảng, gợi ý cho tuổi trẻ suy nghĩ về đất nước ta khi Đại Hội XII đang được chuẩn bị, về công và tội của đảng, về công và tội của từng công thần của chế độ, không trừ một ai.

Đây còn là một cuốn sách rất quý ở chỗ nó đáp ứng đòi hỏi «chúng tôi muốn biết» của tuổi trẻ Việt Nam ngày nay.

Phải chăng Thoát Mao, Thoát Trung là yêu cầu sinh tử, và liên minh với bè bạn mới, với mọi nước dân chủ là con đường sống bền vững của dân tộc Việt Nam?         

* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

----

Nhà báo Bùi Tín qua đời

Nhà báo Bùi Tín. Ảnh BBC
Đêm qua vào lúc 1h25′ ngày 11/8/2018 nhà báo Bùi Tín đã trút hơi thở cuối cùng trong một bệnh viện tại thủ đô Paris.
Nhà báo Bùi Tín nhập viện cách đây chừng 3 tuần và trong những ngày đầu ông vẫn theo dõi tình hình thời cuộc, vẫn viết bài. Bài báo cuối cùng ông viết tay, được một thân hữu chép lại và gửi tới Đàn Chim Việt hôm 27/7/2018. Những ngày gần đây ông rơi vào hôn mê.
Nhà báo Bùi Tín sinh năm 1927 trong một gia đình gia thế, cha ông là ông  Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình của triều đình Huế và nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhà báo Bùi Tín trong 1 lần ở Praha. Ảnh MVH
Nhà báo từng là phó tổng biên tập của báo Nhân dân, đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ông là người chứng kiến, tham dự vào nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Nhập ngũ năm 18 tuổi, ông từng cầm súng như một người lính (phe cộng sản) đồng thời với tư cách là một nhà báo, ông từng tham gia các buổi lấy cung tù binh Mỹ, viết báo như một phóng viên chiến trường, có mặt vào thời khắc xe tăng bắc Việt tiến vào dinh độc lập.v.v.
Tháng 9 năm 1990 khi sang Pháp dự hội hàng năm của báo L’Humanité (Nhân Đạo, báo của Đảng Cộng sản Pháp), ông Bùi Tín quyết định ở lại, xin tỵ nạn chính trị tại Pháp.
Trong những năm sống tại Pháp, ông đã viết hàng ngàn bài bào phê phán đường lối chính sách của chính quyền cộng sản trong nước, đòi hỏi và cổ xúy cho tự do dân chủ, phân tích tình hình chính trị Việt Nam và thế giới.
Kể từ khi ra đi, ông chưa một lần trở lại Việt Nam. Ông luôn mong ước được trở về Việt Nam khi đã có tự do dân chủ.
Hai tác phẩm nổi tiếng của ông viết sau khi ra nước ngoài là Hoa xuyên tuyết và Mặt thật. Cuốn Hoa xuyên tuyết được có mặt trong nhiều danh sách tài liệu tham khảo của các dự án nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam.
Mới đây nhà xuất bản Tiếng Quê Hương (Hoa Kỳ) đã cùng với tác giả Bùi Tín chọn lựa 200 bài báo để in thành tuyển tập, với tựa đề Thao Thức Cùng Quê Hương, dự tính sẽ ra mắt vào cuối năm nay.
Đọc các bài viết của nhà báo Bùi Tín tại đây

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét