Vào thập niên 1960 - 1970 của
thế kỷ trước, võ đường Nguyễn Văn Mách nức tiếng làng võ Sài Gòn - Chợ
Lớn bởi đào tạo nhiều võ sĩ giỏi. Không ít tay đấm khi bắt thăm biết sẽ
phải “đụng” cao đồ Tây Sơn Nhạn đành “cáo bệnh” xin rút lui.
Võ sư Nguyễn Văn Mách - Ảnh: tư liệu
Quyền sư Mười Mách tên thật là Nguyễn Văn Mách sinh năm 1921 tại Bình
Đăng (Q.8 ngày nay), tính vốn cương trực và “nóng như Trương Phi”. Ham
thích võ thuật từ bé, gia đình lại khá giả nên Mười Mách học với nhiều
thầy võ từ võ Hẹ, võ Tiều, võ Kinh đến Võ Lâm (môn võ miệt vườn không
phải võ Thiếu Lâm) trước khi bái cao thủ Tây Sơn Nhạn Bùi Văn Hóa (Chín
Hóa) làm sư phụ tại ga Xóm Thuốc (Q.Gò Vấp).
Nhằm trau dồi kỹ năng đấu đài, Mười Mách học thêm quyền anh với võ sư
Din Chi Fong (gần Bệnh viện Chợ Rẫy) và trận thượng đài đầu tiên, ông
đã oanh liệt hạ K.O tay đấm kỳ cựu Hồng Sơn tại rạp hát Cách Chung (Xóm
Củi, Q.8). Lối thi đấu trầm tĩnh, khôn ngoan, đòn thế là sự pha trộn
giữa “boxing” và cước pháp Tây Sơn Nhạn, võ sĩ trẻ Nguyễn Văn Mách đã
lần lượt hạ bệ nhiều tượng đài lúc bấy giờ như Dương Văn Quảng, Cao
Thành Sang, Trịnh Tấn Mùi, Lê Quang Đại, Huỳnh Long bằng tuyệt kỹ Bình
Sa Lạc Nhạn danh bất hư truyền, hòa “trên cơ” các tay đấm đàn anh Hổ
Bạch Ân, Nguyễn Son, La Khôn, Trịnh Thiếu Anh và chỉ chịu thua điểm sít
sao danh sư Lư Hòa Phát trong một trận quyền tự do “máu loang sàn đấu”
tại võ đài Lệ Chí năm 1949.
Tháng 4.1954, ông Mười Mách lúc này là nhân viên Sở Cứu hỏa Đô thành
rước sư phụ Chín Hóa về phụng dưỡng tại 258/5 Trần Hưng Đạo, Q.1. Tại
đây, danh sư Tây Sơn Nhạn tiếp tục đào tạo nhiều môn đệ giỏi. Bốn năm
sau (1958), cao thủ Bùi Văn Hóa qua đời, trưởng tràng Ba Liễn đảm nhiệm
chưởng môn được hai năm (1960 - 1962) thì phát nguyện đi tu, quyền sư
Mười Mách được hội đồng Tây Sơn Nhạn bầu làm chưởng môn đời thứ hai.
Năm 1964, quyền sư Mười Mách gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật VN và
sáng lập võ đường Nguyễn Văn Mách (143 Mạc Vân - gần cầu Nhị Thiên Đường
và 279 bến Nguyễn Văn Thành) đào tạo võ sĩ đấu đài. Ông đã cho ra “lò”
nhiều tay đấm lừng lẫy và đều kèm chữ “Nhạn” như Cao Sơn Nhạn, Phi Sơn
Nhạn (Lê Văn Lắm), Lâm Nhạn, Hồng Yến Nhạn, Hồng Vân Nhạn, Hùng Nhạn
(HCV quyền anh 1970), Cường Nhạn, Hắc Nhạn, Hồng Huệ Nhạn, Hồng Ẩn Nhạn,
Hồng Liệt Nhạn, Cẩm Nhạn, Hà Quang Nhạn, Phong Nhạn, Hồng Có Nhạn, Bảo
Sơn Nhạn (vô địch quyền tự do 1973), Văn Ba (vô địch quyền anh 1970),
Văn Dũng… Thời gian đầu, chưa có võ sĩ giỏi, sư đệ Mười Mách là Đặng Văn
Anh qua đánh tăng cường với biệt danh Phi Vân Nhạn.
Thế hệ võ sĩ đầu tiên của võ đường Nguyễn Văn Mách là Bửu Long Tam
Nhạn gồm Hồng Nhạn (Nguyễn Văn Điều, con trai thứ tư của quyền sư Mười
Mách), Tam Nhạn (Ba Nhạn, hiện định cư ở Đồng Nai) và Bạch Nhạn (tài xế
kiêm cận vệ Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu), lớp tiếp
sau gồm Đông Nhạn (Nguyễn Văn Quang), Tây Nhạn (Nguyễn Văn Hảo), Nam
Nhạn (Nguyễn Văn Nam), Nguyễn Văn Hoài (người Việt lai Ấn).
Võ sư Tô Đình Thanh (tức cựu võ sĩ Xuyên Sơn Nhạn) cho biết: “Võ đài
sân Tinh Võ giai đoạn 1960 - 1970 lừng lẫy danh tiếng “Nhất Hổ, nhì
Miêu, tam Trừ, tứ Tính” - bốn “sát thủ” của “lò” Nguyễn Văn Mách. Nếu
Nhất Hổ (Lý Sơn Phi Hổ) có lối tấn công bạo liệt như hổ vồ mồi thì Tám
Miêu (Nguyễn Văn Miêu) áp dụng kiểu đánh mưu mẹo, rình rập như “mèo vờn
chuột”, Sáu Trừ (Ngô Văn Trừ) thường khai triển ngọn cước uy lực dũng
mãnh “nhanh như điện” thì Tư Tính (Nguyễn Văn Tính) có độc chiêu “bay
người cắm gối” khiến nhiều tay đấm sừng sỏ dính cú này đều bị đo đài!”.
Nếu như danh sư Bùi Văn Hóa có công khai hóa Thiếu Lâm nội quyền Tây
Sơn Nhạn thì võ sư Nguyễn Văn Mách là người có công lớn phát dương võ
phái lớn mạnh. Trước 1975, chỉ riêng tại Sài Gòn có đến 6 hệ thống võ
đường Tây Sơn Nhạn, thu hút hàng ngàn môn sinh tham gia tập luyện. Sau
ngày đất nước thống nhất, quyền sư Nguyễn Văn Mách lập nghiệp tại huyện
Long Thành (Đồng Nai) cho đến khi tạ thế vào năm 1990, hưởng thọ 69
tuổi. Võ sư Tô Đình Thanh kế thừa chức chưởng môn đời thứ 3, tiếp tục
phát dương võ phái Thiếu Lâm nội quyền Tây Sơn Nhạn
Ngọc Thiện
Sự tích và tuyệt kỹ môn phái võ Kim Kê nổi danh ngang dọc võ lâm
GiadinhNet - “Phong vũ như mai –
Kê mình bất kỷ” (Mặc dù ngoài mưa gió - Gà không ngớt tiếng gáy), lấy
hình tượng con gà trống trong đời thực, vị cố nhân đã sáng tạo ra tuyệt
kỹ Kim Kê lẫy lừng trong giới võ khắp miền Nam. Võ sư Đặng Văn Anh( tức
Phi Vân Nhạn) đã biến hóa từ những thế đá của con gà chọi quen thuộc của
làng quê để thành môn võ thuật độc nhất vô nhị ở Việt Nam với những môn
đồ họ “Kim – Kê” tài năng xuất chúng nổi danh ngang dọc võ lâm.
Cố võ sư Đặng Văn Anh (thứ nhất bên trái chính
điện) và con trai ông, chưởng môn Kim Kê Tây Sơn Kim Nhạn – võ sư Đặng
Kim Anh (thứ nhất bên phải chính điện) cùng các đệ tử môn phái. Ảnh TG
Điển tích phái võ “gà trống vàng”
Những giai thoại tương truyền rằng, môn phái
Tây Sơn Nhạn trong Thiếu Lâm Võ Đang Trung Hoa thời Mãn Thanh có một
người học trò người Việt tìm đến bái sư. Đó là vị võ sư Bùi Văn Hóa (quê
Bình Định). Sau khi thành thạo các quyền cước của Tây Sơn Nhạn, ông từ
giã sư phụ trở về Việt Nam thành lập môn phái Nội Quyền Tây Sơn Nhạn và
mở võ đường ở Chợ Quán (TP.HCM). Những môn sinh ông đào tạo đều tinh
thông võ nghệ và nổi tiếng khắp miền Nam như: Ba Liễn, Ba Vè, Nguyễn Văn
Mách,…
Trong số những môn đệ của vị tổ sư Bùi Văn Hóa
thì người đệ tử ruột Đặng Văn Anh được xem là tài năng xuất chúng. Ông
Anh sinh ra ở miền Tây thuộc huyện Cần Đước (Long An), vốn mê võ từ nhỏ,
cậu bé 12 tuổi đã được truyền dạy võ gia truyền từ cha và ông nội. Sau
đó, cha ông còn mời các vị võ sư Trung Hoa sống ẩn dật dạy võ thuật cho
con trai ham học để nhanh chóng thành tài. Vì vậy, ông sớm trở thành
người giỏi võ có tiếng trong làng và dành hết tâm huyết mở lớp dạy võ
cho phong trào thanh niên kháng chiến chống thực dân Pháp thời bấy giờ.
Thế nhưng, mảnh đất nghèo chật chội chưa làm
ông thỏa chí võ hoành của mình. Vì vậy, năm 1945, Đặng Văn Anh quyết tâm
lên Sài Gòn tầm sư học võ. Đến lúc gặp sư phụ Bùi Văn Hóa, sẵn có tố
chất “nòi” nhà võ, ông đã khổ luyện và thông tường các quyền cước võ
pháp của Nội Quyền Tây Sơn Nhạn trong sự “tâm đắc” của vị tổ sư. Khi võ
sư chưởng môn Bùi Văn Hóa qua đời, vị chấp chưởng Lưu Văn Liễn đã quy y
cửa phật nhường lại chức vị cho sư đệ Nguyễn Văn Mách. Còn võ sư Đặng
văn Anh lại rẽ theo một hướng mới, mà từ đó ông được giới võ lâm gọi với
cái tên rất đẹp “Phi Vân Nhạn”.
Trò chuyện với chúng tôi về cảm hứng từ “Kim
Kê”, võ sư Đặng Kim Anh - hiện ông là Phó chủ nhiệm CLB Tinh Võ thuộc
Trung tâm Thể dục thể thao quận 5 (con trai cố võ sư Đặng Văn Anh) tiết
lộ: “ Cha tôi từ nhỏ đã mê chơi đá gà ở trong làng. Nhà ông nội nuôi cả
đàn gà với bộ lông vàng óng đều do một tay cha chăm sóc cho chúng, rồi
ôm gà đi đá chọi với những gà nhà khác khắp làng trên xóm dưới. Ông coi
gà như biểu tượng của tính trượng phu, chính nhân quân tử của người đàn
ông. Từ đó, cha thường nghiên cứu những động tác đá của gà, thế vờn nhau
của chúng mà sáng tạo ra chiêu thức “kim kê”. “Kim Kê” từ Hán Việt có
nghĩa là “gà trống vàng”. Kết hợp với những tư thế của con gà chọi quen
thuộc, ông đã sáng tạo ra những chiêu thức mới mẻ và sắc bén, linh hoạt,
lấy tên gọi là võ “Kim Kê”. Năm 1960, ông chính thức thành lập môn phái
Kim Kê Tây Sơn Nhạn và mở võ đường Kim Kê tại Hải Thượng Lãn Ông (quận
5, TP.HCM) thu hút hàng ngàn môn sinh theo học.
Môn phái Thiếu lâm Nội quyền Kim Kê Tây Sơn
Nhạn thời ấy đã đào tạo nhiều võ sĩ lừng danh khắp võ đài Sài Gòn – Chợ
Lớn thời ấy. Điều đặc biệt là tất cả các môn sinh của phái Kim Kê đều có
chung một họ, nam lấy họ “Kê” như: Kê Hoàng Long, Kê Hoàng Hổ, Kê Hoa
Sơn, Kê Minh Sơn,… còn nữ thì lấy họ “Kim” để hợp với tên của môn phái.
Trong đó, võ sư Kê Hoàng Hổ nổi tiếng khắp giới võ lâm bởi thế “Bình sa
lạc nhạn” với những đòn đá chân tấn công hiểm hóc mô phỏng tư thế con gà
khiến đối thủ như tự trói mình và “nốc ao” trong tích tắc. Những năm
sau giải phóng, các thế hệ môn sinh vẫn không ngừng phát triển và giành
nhiều huy chương vàng các giải võ cổ truyền trong nước và thi đấu quốc
tế, làm rạng danh hơn nữa võ phái Kim Kê đến với bạn bè quốc tế.
Tuyệt kỹ Kim Kê Tây Sơn Nhạn
Cố võ sư Đặng Văn Anh trong tư thế Kim Kê độc lập. Ảnh TG.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử nước nhà,
môn võ Kim Kê vẫn không ngừng phát triển cho đến hôm nay. Trong lần võ
sư Đặng Văn Anh được mời lưu dạy ở Liên Xô cùng 3 vị võ sư người Việt,
những học trò phương trời tây đã tìm về võ đường ở Việt Nam để thọ giáo
nhiều hơn. Một số học trò của ông cũng di cư sang Mỹ và mở võ đường để
truyền bá võ thuật cổ truyền dân tộc ra quốc tế. Với tâm huyết dành cho
võ thuật, năm 1969, ông cùng võ sư Nguyễn Văn Mách và 11 vị võ sư trưởng
bối trong nền võ học dân tộc đã thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam.
Cuối năm 1992, võ sư Đặng Văn Anh lúc này tuổi già sức yếu đã trao lại
chức Chưởng môn võ phái Thiếu lâm Nội quyền Kim Kê Tây Sơn Nhạn cho con
trai là võ sư Đặng Văn Anh. Đến năm 1998, ông đã ra đi trong sự thương
tiếc vô cùng của đồng môn và học trò, cũng là một tổn thất to lớn đối
với nền võ thuật Việt Nam. Con trai ông – võ sư Đặng Kim Anh cùng võ sư
Kê Hoàng Hổ và nhiều đệ tử võ sĩ khác đều đang tích cực truyền dạy võ
Kim Kê môn phái ở khắp các tỉnh miền nam để tinh hoa võ học mà cha ông
đã sáng lập không ngừng phát triển trong tương lai.
Nói về tuyệt kỹ tấn công Kim Kê, võ sư Đặng Kim
Anh tiết lộ: “Điểm nhấn của võ thuật Kim Kê Tây Sơn Nhạn là chiêu thức
độc lập, cùng một lúc tấn công ba mục tiêu cũng là yếu huyệt trên cơ thể
đối thủ. Đó là tư thế đứng trụ chân trái, co cao chân phải để chuẩn bị
quật ngã đối phương. Khi tấn công, tay phải đấm vào vùng thượng đẳng
(mắt, mũi) như tư thế mổ vào mắt của con gà chọi. Liền đó, tay trái tung
cú đánh sấm sét vào trung đẳng, tức vùng ngực, hông của đối thủ. Nhanh
như cắt, chân đá thẳng vào hạ bộ làm đối phương gục ngã không thể nào
gượng dậy nổi.” Đồng thời, khi đối phương tấn công bất ngờ, hai tay thủ
theo bộ” song chùy” (gập ngón cái và út) để che kín những yếu huyệt của
mình một cách khéo léo, tinh tường.
Võ
Kim Kê sử dụng đầy đủ thập bát binh khí như: đao, kiếm, siêu, roi,
côn,… nhưng chủ yếu đặc trưng về đao pháp với những thế chém lên xuống,
đâm một cách biến hóa, làm đối thủ phải khiếp sợ. Nhờ vậy, võ Kim Kê mới
sáng lập có cách tấn công siêu tốc, “đánh nhanh thắng nhanh”, đổi mới
hơn so với cái gốc cũ Nội quyền Tây Sơn Nhạn. Trong những tài liệu còn
lại của võ sư Đặng Văn Anh, ông cho biết rằng, Thiếu Lâm nội quyền Kim
Kê - Tây Sơn nhạn lấy “Yêu tự xà hành” làm thân pháp; “Thôi sơn” làm thủ
pháp; “Bình sa lạc nhạn” làm cước pháp; “Mai hoa quyền và Kim Kê quyền”
làm quyền pháp; thuật cường thân làm nội lực; lừng lẫy với bài Tứ linh
đao và Kim Kê đao. Trong đó, Mai hoa quyền là tổng hợp nhiều đòn thế tấn
công dồn dập: đấm, tung chảo, chém,… phối hợp với nhau nhịp nhàng đã
từng tạo nên những “ván bài sinh tử” trên các võ đài thời ấy. Đến bây
giờ, võ Kim Kê vẫn bảo tồn nguyên 8 bài quyền mà ông sáng tạo nên bởi
con trai và các sư huynh, đệ tử gắng sức gìn giữ.
Với tinh thần thượng võ cao độ, vị chưởng môn
luôn dặn dò các môn sinh của mình: “Tuyệt đối không được khinh địch.
Thắng không kiêu, bại không nản. Võ học để nâng cao thể chất và khả năng
tự vệ của chính mình chứ không được dùng ức hiếp người khác. Trái lại,
nhiệm vụ của người học võ là giúp đỡ những người cô đơn, yếu thế trong
cơn hoạn nạn”. Những điều đó tưởng chừng như đơn giản nhưng nếu là người
không có đạo đức thì cũng thành công cốc. Vì vậy, từ khi mới sáng lập
môn phái, cố võ sư Đặng Văn Anh đã rất coi trọng khâu “chiêu sinh”. Việc
“sàng lọc” qua rất nhiều khâu từ tướng tá, tố chất con người đến tính
tình phải hiền lành, không nóng nảy và quan trọng nhất phải có đạo đức,
nghĩa hiệp. Cho nên, những môn sinh của ông đều thành tài và nổi danh
lừng lẫy mà không hề kiêu ngạo, tự mãn.
Những thế hệ đã đi qua, môn phái Kim Kê với
hình tượng “gà trống vàng” không chỉ đào tạo những võ sư tài năng cho
làng võ cổ truyền dân tộc mà còn ghi vào lịch sử một dấu ấn võ thuật đặc
sắc, đóng góp cho tinh hoa nền võ học Việt Nam.
Diệu Linh
Tranh chấp danh hiệu chưởng môn Tây Sơn Nhạn
Lần đầu tiên tại Việt Nam, hai võ sư tranh chấp danh hiệu chưởng môn võ phái.
Câu chuyện bắt đầu từ
việc một số tờ báo và diễn đàn võ thuật www.vocotruyen.vn đăng tải
những thông tin trái nhau về chức chưởng môn của võ phái Thiếu Lâm nội
quyền Tây Sơn Nhạn (xin được viết gọn là Tây Sơn Nhạn) giữa hai võ sư là
Đặng Kim Anh và Tô Đình Thanh. Diễn tiến vụ việc ngày càng phức tạp vì
cả hai bên đều đưa ra dẫn chứng danh chính ngôn thuận cho chức chưởng
môn của mình.
Ai là chưởng môn?
Theo một số tài liệu, võ phái Tây Sơn Nhạn do cố võ
sư Bùi Văn Hóa - một người gốc Bình Định sáng lập và phát triển đầu
những năm 1930. Võ phái này kết hợp giữa tinh hoa của hai phái Thiếu Lâm
và Võ Đang. Cố võ sư Hóa đã nỗ lực đào tạo nhiều thế hệ võ sư, võ sĩ
giỏi để đưa tên tuổi môn phái vang xa khắp mọi miền. Trong đó có thể kể
ra những cái tên tiêu biểu như Nguyễn Văn Mách, Đặng Văn Anh… Ngoài ra,
học trò của ông còn kế thừa và phát huy dòng võ này ở nhiều nước trên
thế giới…
Năm 1958, võ sư Bùi Văn Hóa tạ thế, chức chưởng môn
được trao lại cho võ sư Lưu Văn Liễn. Hai năm sau, võ sư Liễn theo
nghiệp tu hành. Chức chưởng môn của võ phái được trao lại võ sư Mách.
Lúc này, võ sư Anh tách ra mở võ đường riêng với tên gọi Kim Kê. Hai võ
đường này đều thuộc phái Tây Sơn Nhạn và chịu sự điều hành của Tổng cuộc
quyền thuật Việt Nam.
Ảnh chụp tại phòng tập Kê Hoàng Hổ vào năm 1970. Tính từ trái sang phải người thứ ba là võ sư Đặng Văn Anh.
Vài chục năm sau, khi hai võ sư huynh đệ đồng môn này
qua đời, việc chính danh chưởng môn phái bắt đầu diễn ra tranh chấp của
hai thế hệ kế tục. Một bên là võ sư Đặng Kim Anh (con trai cố võ sư
Đặng Văn Anh) và bên còn lại là võ sư Tô Đình Thanh (học trò cố võ sư
Nguyễn Văn Mách).
Sẽ kiện để sáng tỏ
Cuối tháng 2-2010, một tờ báo đăng tin võ sư Kim Anh
là chưởng môn Tây Sơn Nhạn. Lập tức võ sư Thanh phản bác. Quan điểm của
võ sư Thanh: Việc võ sư Anh mở võ đường Kim Kê, rồi lập ra phái Kim Kê
môn là chuyện bình thường vì không đưa nguồn gốc Tây Sơn Nhạn vào danh
xưng. Tuy nhiên, việc thay đổi tên gọi Tây Sơn Nhạn như hiện nay thì
không thể chấp nhận được.
Theo võ sư Thanh, khi võ sư Mách qua đời, ông bày tỏ
mong muốn sư thúc Đặng Văn Anh làm chưởng môn. Để mọi việc thuận lợi, võ
sư Thanh đi vận động hội đồng võ sư môn phái và những người con của võ
sư Mách. Tuy nhiên, phần lớn các bậc tiền bối đều từ chối lời đề nghị
này.
Xác nhận của Hội Võ thuật cổ truyền TP.HCM năm 1994 với chức chưởng môn của võ sư Tô Đình Thanh.
“Năm 1994, tôi muốn đền đáp công ơn của người thầy
quá cố nên viết tờ trình gửi tới Hội Võ thuật cổ truyền TP.HCM mong mỏi
thực hiện gầy dựng lại môn phái và xin thừa kế với tư cách chưởng môn.
Hội đã chấp thuận nguyện vọng này bằng văn bản hẳn hoi” - võ sư Thanh
cho biết.
Tuy nhiên, võ sư Kim Anh đưa ra những luận cứ
khác.Theo ông, tên võ phái Tây Sơn Nhạn của gia đình ông đã có từ lâu.
Năm 1989, khi Hội Võ cổ truyền TP.HCM được thành lập, ông đã đăng ký
khai báo nguồn gốc võ phái với tên gọi đầy đủ “Thiếu lâm nội quyền Tây
Sơn Nhạn Kim Kê”. Võ sư Kim Anh cho biết thêm: “Năm 1993, anh Thanh đến
nhờ cha tôi thành lập hội đồng võ sư trong môn phái để khai trừ một đệ
tử. Biên bản khai trừ ấy ghi rất rõ tôi là chưởng môn Tây Sơn Nhạn. Hơn
nữa, tôi còn có lá đơn của bà vợ cố võ sư Mách xác nhận võ sư Thanh đã
mạo chữ ký của bà để làm chưởng môn trong khi bà và gia đình chưa đồng
ý”.
Ngoài ra, võ sư Kim Anh khẳng định: “Việc tranh chấp
của chúng tôi sẽ được Liên đoàn Võ cổ truyền TP.HCM phân xử. Nếu anh
Thanh vẫn cứ nhận mình là chưởng môn, phủ nhận mọi công sức của cha tôi,
của tôi và những bậc tiền bối khác, chúng tôi sẽ khởi kiện!”.
THANH NHÃ - HỒNG TÚ
- Môn Phái Thiếu Lâm Nội Quyền Tây Sơn Nhạn - Phần 1+2+3+4+5
Môn Phái Thiếu Lâm Tự Nội Quyền - Tây Sơn Nhạn được Tổ Sư Bùi Văn
Hóa ( Chín Hóa sn 1894 - 1958 ) du nhập vào Việt Nam.Khởi đầu cho sự
nghiệp của một Môn Phái rất nổi tiếng trong làng võ từ thập niên 1930
cho đến nay. Môn Phái Tây Sơn Nhạn có nguồn gốc và lịch sử phát triển rõ
ràng,các thế hệ Chưởng Môn kế nhiệm đều được Hội Đồng Võ Sư Môn Phái
bầu chọn.
Quê gốc võ Bình Định, sinh trưởng trong gia đình có truyền thống võ
thuật. Năm 10 tuổi ông đã nổi tiếng là thần đồng võ thuật. Suốt thời
trai trẻ ông được sang Trung Quốc (1904) thọ giáo môn phái Thiếu Lâm Tự -
Nội Quyền – Tây Sơn Nhạn. Môn phái này được hình thành từ sự dung hợp
hai dòng võ lớn Thiếu Lâm – Võ Đang. Phối triển tính cương mãnh của võ
công Phật gia, sự âm nhu của Đạo gia, Thiếu Lâm - Nội Quyền khi công hãm
mạnh mẽ quyết liệt, phòng thủ kín kẽ biến hóa khôn lường. Môn phái này
được người học trò xuất sắc của Tổ sư môn phái Võ Đang Trương Tam Phong
là Trương Tùng Khê sáng lập (Nội Quyền).
Hành trình tầm sư học đạo của Tổ sư Bùi Văn Hóa kéo dài hơn 1/4 thế
kỷ. Khi đã trở thành một cao thủ ông mới quay về đất tổ Bình Định (1930)
với tâm nguyện truyền bá võ thuật nhưng bị thực dân Pháp đố kỵ. Ông đã
bí mật truyền dạy cho thân hữu và kháng chiến quân địa phương. Đồng thời
hoàn thiện phương pháp sử dụng Đao (mã tấu), Côn (tầm vông). Học trò
đầu tiên của ông tại đất Bình Định là: Lưu Văn Liễn (Ba Liễn), Sáu Bôn…
Sau ngày CMT8 -1945 thành công, 1946 ông và học trò lớn là Lưu Văn
Liễn vào Sài Gòn truyền bá sở học Tây Sơn Nhạn tại chợ Quán Quận 8 , lớp
môn đệ đầu tiên tại Sài Gòn của ông là: Ba Sửu, Ba Lai (Tiểu La Thành),
Ba Vè, Ba Tốc, Nguyễn Văn Mách (Mười Mách), Sáu Kè, Nam Tàu, Quốc Vũ,
Cò Mi Tòng, ông Dương,Đào lý Của...
Lớp kế tiếp tại trường Kim Đồng Quận 5 gồm các môn đệ : Tống Văn Nhịn
(Tám Nhịn), ông Ba Lâm (Đông Y),Đặng Văn Anh,Cô Hồng, Ông Thắng, Ông
Cử,Chu Lâm (Đông Y, Giáo sư Anh ngữ) , Hổ (Lý Phi Sơn Hổ), Miêu, Trừ
(Ngô Văn Trừ), Tín, ông Phong, Châu Văn Ngọc (Bạch Ngọc Sơn Nhạn), Lê
Đức Minh (Lư Hương Nhạn), ông Sáu Vĩnh, Võ Tấn Khải…
Lớp môn đệ đóng góp “ Võ Hiệu” Tây Sơn Nhạn gồm có: “Ngũ Tam Nhất Thập” (Ba Liễn, Ba Vè, Ba Sửu, Ba Lai, Ba Tốc và Mười Mách)
Đương thời, nói tới võ sĩ danh tiếng ai cũng biết: “Nhất Hổ, Nhì
Miêu, Tam Trừ, Tứ Tín” . Nếu Lý Phi Sơn Hổ có lối chơi bạo liệt như mãnh
hổ vồ mồi, thì Tám Miêu bất thần tung ra độc chiêu hạ đối thủ trong
nháy mắt, người mộ điệu còn chưa quên “Ngọn Cước Sáu Trừ” (Bình Sa Lạc
Nhạn) như giông bão, hay đòn gối bay khiến đối thủ phải kinh hoàng của
Tứ Tín. Điều lạ, cả bốn tay đấm được làng võ tôn vinh đều là “Gà nòi”
của lò Tây Sơn Nhạn.
Ngày 22/2/1958 (05/01/Mậu Tuất) Tổ sư Bùi Văn Hóa tạ thế tại Quận 8 Sài Gòn, hưởng thọ 65 tuổi.
Lời giáo huấn của Tổ Sư Bùi Văn Hóa khuyên người tập võ :
" Lấy sức khỏe dùng võ nghệ làm những điều phải nghĩa giúp người hoạn nạn là bản sắc của người anh hùng
Cộng sức khỏe dùng võ nghệ làm những điều bất nghĩa là cái tâm địa của phường tiểu nhân"
II. Chưởng môn đời thứ nhất - Võ sư Lưu Văn Liễn:
Năm 1958, Hội đồng Võ sư môn phái Tây Sơn Nhạn thống nhất bầu võ sư Lưu Văn Liễn là Chưởng Môn đời thứ Nhất.
Võ sư Lưu Văn Liễn (1909-1985) là môn đồ đầu tiên của Tổ sư Bùi Văn Hóa.
Học với thầy được hơn 10 năm, ông còn theo sư phụ vào Sài Gòn (1946) để
tiếp tục lãnh hội tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm Tự - Nội Quyền – Tây Sơn
Nhạn. Với đồng đạo, đồng môn, Ba Liễn là người uyên bác không chỉ võ
học, ông còn tinh thông Phật học, Y học, Dịch học, Thiên văn địa lý… Rất
tiếc chỉ hai năm chấp chưởng, năm 1960 ông họp Hội Đồng Võ Sư môn phái
giao chức Chưởng Môn cho Võ sư Nguyễn Văn Mách (Mười Mách), và ông Lưu
Văn Liễn xuất gia.
III. Chưởng môn đời thứ hai - Võ sư Nguyễn Văn Mách:
Võ sư Nguyễn Văn Mách (1921-1990), dưới sự lãnh đạo của ông danh hiệu
môn phái được đổi thành Thiếu Lâm Tự - Nội Quyền - Môn Phái Tây Sơn
Nhạn.
"Đỡ được một trăm đòn đánh, mới gọi là Thủ
Đánh một đòn ngã ngay, mới gọi là Công"
Nếu tổ sư Bùi Văn Hóa có công khai sáng Tây Sơn Nhạn tại Việt Nam thì
Võ sư Mười Mách mới là người đưa môn phái này phát triển lớn mạnh. Dưới
quyền của ông tại Trung tâm Sài Gòn, Tây Sơn Nhạn có hệ thống 06 võ
đường, hàng ngàn võ sinh. Đổi mới và nổi bật của võ sư Mười Mách là tính
chuyên nghiệp. Trong hai thập niên 60-70, Tây Sơn Nhạn là võ hiệu nổi
tiếng chuyên đào tạo võ sĩ thượng đài. Người yêu thích võ thuật cũng
chưa quên những tay đấm một thời vang bóng: Đông Nhạn (Nguyễn Văn
Quang), Tây Nhạn (Nguyễn Văn Hảo), Nam Nhạn (Nguyễn Văn Nam), Bắc Nhạn
(Hoài), Hồng Nhạn (Nguyễn Văn Điều), Lâm Nhạn (Mai Trọng Hiếu), Hùng
Nhạn (Nguyễn Cao Phụng) là “nhà sưu tập” danh hiệu vô địch ở cả hai đấu
trường Quyền Anh và Quyền Tự Do, Hắc Nhạn (Cảnh), Phan Văn Răng, Trung
Sơn Nhạn (Trung), Cường Nhạn (Dũng) huy chương vàng cả hai đấu trường
quyền Anh và tự do, Thanh Nhạn ( Tô Đình Thanh ) năm 1970 đấu thắng võ
sĩ Hùng Xuân H của võ đường Hùng Nghĩa, được võ sư Nguyễn Văn Mách phong
thêm biệt hiệu là: Xuyên Sơn Nhạn (Tô Đình Thanh), Danh Nhạn, Hà Quang
Nhạn (Hà Quang Tập), Cẩm Nhạn (Lâm Cẩm Huê), Hồng Ẩn Nhạn (Nguyễn Phúc
Ẩn) , Hồng Hải Nhạn (Nguyễn bích Hải ) , Bảo Sơn Nhạn (Bảo Long Tam
Nhạn) chiến thắng võ sĩ Từ Thanh Nghĩa (Lò Từ Thiện), Hồng Liệt Nhạn, Võ
Ngọc Lượng, Hồng Phong Nhạn (Võ Văn Phong), Hồng Thủy Nhạn,…
Nữ: Hồng Vân Nhạn, Hồng Yến Nhạn (Ái nữ võ sư Mười Mách), Hồng Ưng
Nhạn, Hồng Huệ Nhạn (Phạm Thị Huệ), Hồng Hoa Nhạn,Hồng Son Nhạn,Hồng Ánh
Nhạn…
Năm 1969, võ sư Mười Mách cùng 10 đồng đạo sáng lập Tổng Hội Võ Học Việt
Nam theo Nghị định số 256/GĐTN/TN/NĐ ngày 12/2/1969. Ông được phong Phó
chủ tịch liên tiếp hai nhiệm kỳ, chủ trương chấn hưng truyền thống
thượng võ, phát huy tinh hoa võ học nước nhà. Với những đóng góp cho
làng võ, ông nhiều lần được Tổng Cục Quyền Thuật Việt Nam tuyên dương,
khen thưởng.
Ngày 12/6/1990, võ sư Nguyễn Văn Mách qua đời tại Long Thành, trong sự thương tiếc của hàng ngàn môn đồ.
IV. Chưởng môn đời thứ ba - Võ sư Tô Đình Thanh (Xuyên Sơn Nhạn).
Năm 1992, Võ sư Tô Đình Thanh ( Xuyên Sơn Nhạn) được Hội Đồng võ sư
môn phái bầu chọn là Chưởng Môn Thiếu Lâm Tự - Nội Quyền - Môn Phái Tây
Sơn Nhạn - Đời thứ Ba.
Xuất thân trong gia đình có truyền thống thượng võ. Ngoài dòng võ Tây
Sơn Bình Định gia truyền, ông đã từng học Judo, Taekwondo, Aikido,
Kendo. Là thầy võ ông còn được tiếng là một lương y mát tay.
Võ sư Tô Đình Thanh sinh năm 1952 tại Hải Phòng. Là học trò chân
truyền của Võ sư Nguyễn Văn Mách, ngoài ra Võ sư Thanh còn có cơ duyên
được ba vị sư bá : Ba Liễn, Ba Sửu, Ba Lai yêu thương truyền dạy tinh
hoa Trấn Môn của Tây Sơn Nhạn.
Dưới sự lãnh đạo của võ sư Tô Đình Thanh, danh hiệu môn phái chính thức được đổi thành: THIẾU LÂM - NỘI QUYỀN - TÂY SƠN NHẠN.
Ông có công phổ biến lịch sử môn phái Tây Sơn Nhạn cho Báo,Đài (căn cứ
vào di bút của Tổ sư Bùi Văn Hóa, được võ sư Lưu Văn Liễn trao lại)
“Tâm chỉnh, khí chỉnh, bộ pháp vững
Tâm động, khí loạn, bộ pháp hư”
"Võ thuật không đơn thuần là tay và chân , còn mang tính triết lý nhân sinh"
Sau năm 1975, ông từng huấn luyện :
Năm 1978-1979, Trinh sát Biên giới Tây Nam
Năm 1979-1981, Huấn luyện võ thuật cho đội SBC (Săn Bắt Cướp) CA TP.HCM
Năm 1982-1984, huấn luyện Taekwondo Quận 1 (4 Lê Văn Hưu)
Năm 1985-1987, huấn luyện Lữ đoàn 125 Hải Quân (Quân Cảng Sài Gòn)...
Năm 1992, mở lớp huấn luyện võ thuật tại 102 Ngô Tất Tố, Bình Thạnh…
Hiện nay, có các điểm tập:
+ 290 Nơ Trang Long, Liên Đoàn Lao Động Quận Bình Thạnh
+Nhà Văn Hóa Thanh Đa Bình Thạnh ( Vs Nguyễn Văn Lòng )
+ 20/10 Tô Ký, huyện Hóc Môn
+ 122/27/20 Tôn Đản, Phường 10, Quận 4
Hơn 30 năm qua, võ sư Tô Đình Thanh (Xuyên Sơn Nhạn) và đã đào tạo
được nhiều võ sư và huấn luyện viên có thành tích, được Bộ Trưởng VH TT
và DL cấp bằng khen “ Vì sự nghiệp TDTT”:
- Võ sư Xuyên Lâm Nhạn (Nguyễn Văn Lòng), Xuyên Bắc Nhạn ( Nguyễn Hữu
Văn ), Xuyên Nam Nhạn ( Nguyễn Hoài Nam), Xuyên Đông Nhạn (Tô Đình Phi),
Xuyên Tây Nhạn (Lương Văn Tấn), Xuyên Trung Nhạn (Tô Đình Quyền ),
Xuyên Hải Nhạn ( Ngô Quang Dũng ), Xuyên Giang Nhạn ( Tô Đình Hiếu ) ,
Xuyên Hoàng Nhạn (Trần Văn Thuấn ),Xuyên Thông Nhạn (Tô Đình Vũ) …
- Xuyên Vân Nhạn (Ngô Thị Ngọc Chi) : năm 1992 được thọ giáo Võ sư Tống
Văn Nhịn (Tám Nhịn), Võ sư Ngô Văn Trừ (Sáu Trừ), Võ sư Châu Văn Ngọc
(Bạch Ngọc Sơn Nhạn), Võ sư Lê Đức Minh (Lưu Hương Nhạn) và tiếp tục thọ
giáo Võ Sư Chưởng môn Tô Đình Thanh cho đến nay. Đã đạt được nhiều Huy
Chương Vàng các loại từ giải thành phố cho đến toàn quốc, với loại hình
sau:
+ Thi đấu, đối luyện quy ước, hội diễn,…
+ Năm 1990, đi Liên Xô biểu diễn võ thuật
+ Năm 1996, đi dự lễ hội Thể Thao Thế Giới tại Bangkok
+ Được Bộ quốc phòng tặng bằng khen…
+ Được Bộ trưởng VHTT và DL tặng Kỷ Niệm Chương
Môn phái Thiếu Lâm – Nội Quyền – Tây Sơn Nhạn là một trong những võ
hiệu lớn về quy mô tổ chức, có pháp nhân, thương hiệu độc quyền được Cục
Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam bảo hộ. Hiện nay môn phái Tây Sơn Nhạn được
phát triển trên nhiều nước: Hoa Kỳ (Võ sư Tony Jordan), Pháp (Võ sư
David Phan Nhuận), Úc (Võ sư Võ Ngọc Lượng)…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét