Xin Tạo Hóa cho tôi khùng nhiều nhé Để thấy hiển nhiên toàn những chuyện ngù ngờ Để đủ gan lỳ cãi triết-khoa chí chóe Bỏ đường đông quen, tưng tửng bước đường khờ Xin Tạo Hóa cho tôi thành bé tí Để dò la trò bất định vi mô Để gặp Foton hỏi về Cơ lượng tử Sóng giao hòa hay hạt giăng tơ Xin Tạo Hóa cho tôi điên rồ nhé Để nhìn ra nét quyến rũ Ten-xơ Để chắt lọc từ Phương trình của Chúa Vần gieo cuối cùng, kết đẹp một bài thơ...
Trần Hạnh Thu
Ánh Trăng Vỡ - Nguyễn Hồng Thuận
Gieo vần thế sự
10:10 27/02/2013
Quý Tị chắc sẽ khó khăn. Nhiều trăn trở, lắm băn khoăn, chuyển
dời... Nhưng mọi sự sẽ ổn thôi. Một khi ta biết giữ lời với nhau...
- Thực sự là như thế, chúng ta đâu có sống ở trên bãi mìn mà cứ phải đi giẫm đúng vào dấu chân những người đi trước.
- Cần không chỉ nói theo cách của mình mà cả sống theo cách của mình.
Chỉ như thế xã hội mới có cơ đổi mới thành công và phát triển bền vững...
- Những sự dễ dãi có thể luôn làm cho chúng ta dễ chịu. Nhưng
cái làm cho chúng ta dễ chịu nhất có thể sẽ không dễ dãi. Và thường là
không dễ dãi...
- Muốn nói ngoa, đi xa về mà nói...
Hiện tượng này hình như đang trở thành một xu thế ở ta hiện nay.
Thực sự tôi cũng không hiểu một số đồng nghiệp của tôi ngây thơ
thật hay cố tình ra vẻ ngây thơ khi nhiệt tình phát tán trên mạng những
câu chuyện một tấc đến giời như thế từ những “người lữ hành kỳ dị” đời
mới đó?
- Lên chùa đâu để gặp sư,
Lên chùa là để tự tu tâm mình.
Nâu sồng không dứt được tình,
Chẳng qua chờ kẻ đi rình của chua...
- Không thể bằng biện pháp áp đặt mà xây dựng được phẩm hạnh văn hóa cao ở học trò.
Người thầy cần biết cách dẫn dụ rất tế nhị để học trò tự tìm tới với những giá trị văn hóa tinh hoa.
Khác đi, sẽ khiến học trò cảm thấy chối mà từ bỏ ngay cả những gì rất tốt chỉ vì dị ứng với việc bị ép buộc...
- Khi bạn lớn tiếng tuyên bố trước thiên hạ rằng phải hành xử
như bạn mới là trí thức chân chính thì tôi rất hoài nghi về việc bạn là
trí thức chân chính...
Minh họa: Lê Phương.
- Lúc thì cấm cái không đáng cấm, lúc thì lại cho phép cái không nên cho phép.
Thử hỏi làm sao mà showbiz lại không như thế này?!
- Nhà chùa dạo này cũng “tiếp thị” cúng sao giải hạn trên điện thoại di động.
Mình vừa nhận được một tin nhắn như thế từ một số điện thoại không quen biết.
Thời buổi hay nhỉ?!
- Đành thôi, phúc phận tò vò,
Trách chi lũ nhện để cho buồn mình...
Đã mang hai tiếng lụy tình,
Thì thua thiệt mấy vẫn minh bạch cười...
- Khủng khiếp nhất không phải là khi bị đám đông ném đá vào mình.
Khủng khiếp nhất là khi ta nhìn thấy trong đám đông đó có những gương mặt từng đã thân quen.
- Ở một xứ sở có quá nhiều “nhân sĩ chém gió” thì có lẽ phải
giả ngu thôi thì may ra mới được Đại Ngu theo nghĩa mà Hồ Quý Ly mơ
ước...
- Có lẽ chỉ những người nghiệp dư mới hay linh thiêng hóa công
việc mình đang làm và luôn vỗ ngực cứ như thể chỉ mình mình mới là siêu
nhân cao đạo...
Những trải nghiệm sâu sắc sẽ giúp ta cảm thấy mọi chuyện đều không có gì đáng phải ầm ĩ cả...
- Lắm khi đằng sau sự hãnh diện của gương mặt đang toát lên
hạnh phúc lại là những vết thương âm ỉ không bao giờ lành thành sẹo...
- Không ít người sẵn sàng bỏ hàng buổi để ve vuốt thể xác,
nhưng không nhiều người hiểu rằng, quan trọng là phải dành đủ thời gian
để chăm sóc cho tâm hồn của mình lành mạnh...
- Không ít người tìm thấy trên mạng những cơ hội thể hiện mình mà họ đã không có được trong đời thực.
Và cũng đã không ít người đã thể hiện mình trên mạng như trong đời thực. Và lần thứ hai họ lại bị mất cơ hội thể hiện mình...
Nếu ta không biết ứng xử ổn thỏa với xung quanh trong đời thực
thì ngay ở trên mạng, ta cũng rất khó ứng xử được ổn thỏa với những
người bạn ảo...
- Chỉ có kẻ không làm thỏa mãn được ai mới liên tục tỏ ra bất mãn với những người khác.
- Hình như cô Tấm là thiếu nữ đầu tiên ở Việt Nam đã chứng minh
được rằng, thực ra hoàng tử cũng ngốc nghếch, vì chỉ vì mê cái chân nhỏ
mà cưới làm vợ cả một cô gái có gan làm mắm thịt người...
- Kinh nghiệm cho thấy, kể cả khi nghe thấy kích động đúng thì
người không ngu ngốc sẽ không vội vàng nghe và chạy theo ngay. Bởi làm
thế rất dễ bị tai nạn chỉ đơn giản là do có quá đông người cùng chạy ùa
về một chỗ nên dễ xảy ra tình trạng giẫm đạp lên nhau...
Không phải cứ động cơ tốt mà đã an toàn cả đâu. Cứ thử nhìn vào
các vụ chết người do giẫm đạp lên nhau ở các lễ hội tôn giáo lớn ở nước
ngoài thì thấy...
Hơn nữa, phần lớn những kẻ to mồm kích động đều giấu trong lòng những động cơ không hẳn là minh bạch...
Hãy tự mình từ từ giác ngộ và hành động một cách cẩn trọng theo sự mách bảo của con tim và lý trí...
- Một người chỉ là một người,
Làm sao cải được cõi đời mênh mông?
Việc hay cần sự hòa đồng
Chí lớn danh sĩ với lòng thứ dân...
Tốt lên sẽ phải dần dần,
Trong công việc ấy rất cần chúng ta...
Người gần và cả người xa
Có chung thiện chí mới là hữu nhân...
- Có 1001 lý do để bi quan.
Thế nhưng bao giờ cũng có ít nhất là một lý do để lạc quan.
Và tôi luôn hành động theo hướng lạc quan ngay cả khi tưởng như mọi sự đã bế tắc.
Và bây giờ tôi đang ngồi uống rượu ngắm hoa...
- Đôi khi tình cờ nhìn thấy ảnh mới của người bạn cũ mà lâu rồi mình không gặp, chợt hiểu ra, mình cũng đã già rồi...
- Đã khinh thì đừng thèm chơi,
Đừng để không kiếm được lời mới khinh...
Làm người nên biết nương tình,
Không ăn đạp đổ là linh tinh rồi...
- Nếu ta vội vã dùng những lời lẽ khiếm nhã hay mạt sát để nói
về những người không hành xử giống như ta thì chính ta phải xem lại vai
trò trí thức của mình.
- Quan trọng nhất không phải là cái gọi là sự thật về quá khứ mà một số kẻ đang rêu rao.
Quan trọng là chúng ta đang sống với nhau như thế nào để tương lai không bị sa vào những khúc mắc như quá khứ...
- Tôi thích thú với những người hành xử theo cảm tính, luôn
“liều mình như chẳng có” trong mọi tình huống theo tiếng gọi của những
cảm xúc đẹp và bồng bột.
Thế nhưng, tôi khâm phục những người hành động theo lý tính,
biết kìm nén cảm xúc cá nhân để chăm lo cho thắng lợi chung cuộc của cả
một tiến trình...
Nói cho sướng miệng và oai oách thì không quá khó.
Khó là thực hiện nhiệm vụ tỉnh táo viên, dễ bị đám đông ném
đá... Họ mới là sự cứu rỗi chứ không phải những kẻ dân túy to mồm chỉ
giỏi các trò gãi đúng chỗ ngứa đám đông để trục lợi...
- Người lo xa thì khi hứa cũng chỉ hứa ngắn thôi, mà chỉ hứa việc mà nếu không làm cũng không sao cả...
Đàn bà đôi khi trở nên thù hận ta không phải vì họ quá cần cái
mà ta hứa cho họ mà vì họ tức bởi ta hứa mà ta lại không giữ lời...
- Xưa nay vẫn thế, những kẻ tiểu nhân bao giờ cũng tìm ra bằng
được động cơ xấu ngay cả trong những hành động vô tư nhất của những
người tử tế...
- Không có gì mệt mỏi và vô duyên hơn là cứ phải làm ra vẻ tinh
thông mọi việc và tới đâu cũng phải nói những lời có cánh như mọi sự
đúng rồi!
Thật quá khổ!
- Khi xảy ra một sự cố nào đó, bao giờ tôi cũng thở phào và thốt lên: may quá, mọi sự đã có thể còn tồi tệ hơn thế!
Khi không may bị mất tiền oan, bao giờ tôi cũng nói, thôi thì của đi thay người, còn người là còn tất cả!..
- “Có đến mà yêu thì hãy đến...” - Xuân Diệu đã nói vậy.
Tôi không thích những ai nhìn cuộc đời theo cách thiên về soi mói những khiếm khuyết.
Nên đánh giá người khác theo những việc tích cực mà họ làm được
chứ đừng nên gièm pha họ ở những điểm yếu mà họ có thể còn mắc phải. Có
thể là bạn có nhiều phẩm hạnh hơn ai đó nhưng nếu bạn chưa làm được
việc hay ho như họ thì bạn đừng vội đắc chí...
- Đừng bao giờ cư xử giống như kẻ vừa vỗ ngực vừa nói: “Tôi là người khiêm tốn nhất thế giới!”.
- Một nhân viên mà lúc nào cũng nghĩ rằng cấp trên kém mình thì sẽ không bao giờ có thể trở thành một vị sếp giỏi được.
- Kinh nghiệm chung cho thấy, các cuộc hôn nhân sở dĩ trở nên
bền vững không phải vì không có những sai lầm mà vì biết tha thứ và hàn
gắn...
- Tai họa không phải ở chỗ chúng ta ngày một già đi, mà ở chỗ: chúng ta ngày một lỗi thời...
- Việc khó nhất đối với lãnh đạo trong một tập thể là giúp cho
mọi người yêu quý nhau thực sự và không thầm đắc chí khi một ai đấy bị
tai nạn nghề nghiệp...
- Sách Phúc âm Mátthêu có ghi lại lời răn của Thiên Chúa: “Người phải yêu người thân cận như chính mình”.
Thế mà trong giới showbiz, lắm khi làm như vậy thì lại bị coi là dân đồng tính…
- Không có gì buồn hơn những bó hoa loa kèn héo dần trên xe đạp của những người bán hoa rong...
Tôi thèm có một tình yêu để mua tất cả hoa loa kèn mùa này về rải đầy trên hè phố nhà người ấy...
Than ôi, tôi đã già rồi…
- Tin không phải vì ngu mà vì không tin thì còn ngu hơn...
- A dua bao giờ cũng chiến thắng cá tính, bởi đội ngũ a dua đông hơn và đoàn kết hơn.
Nhưng cá tính bao giờ cũng là thứ mà a dua thèm khát nhất...
Đó cũng là lẽ công bằng...
- Đừng nghe theo lời khuyên của các ông nhà giàu.
Vì mình làm theo lời các ông ấy thì mình sẽ chỉ càng ngày càng nghèo hơn thôi.
Đấy chính là lý do mà Mexico không bao giờ như Mỹ được dù hai nước ở cạnh nhau...
- Mua vui bằng những câu thơ,
Cuối cùng nhận nỗi bơ vơ về mình...
Mua vui bằng những tơ tình,
Cuối cùng lại chỉ một mình làm thơ... Đặng Đình Nguyên
Dương Quốc Định tiết lộ bất ngờ về ảnh khoả thân do chính vợ làm mẫu
TPO - Nhân dịp có tác phẩm dự triển lãm ảnh nude đầu tiên ở Hà Nội,
nhiếp ảnh gia Dương Quốc Định đã có những tiết lộ bất ngờ về lĩnh vực
này.
Chia sẻ trên Vnexpress về bức ảnh nhiếp ảnh gia sinh năm 1967 chụp
vợ khỏa thân đoạt giải thưởng quốc tế Giuliano Carrara lần thứ bảy tại
Italy năm 2008, Dương Quốc Định tiết lộ khi đó vợ ông đã 37 tuổi. Thậm
chí khi có người bạn đến xem ảnh đã không nhận ra người phụ nữ trong bức
hình là ai nên đã hỏi tên và muốn gặp. Tuy nhiên sau khi biết sự thật,
người này ngạc nhiên hỏi ông rằng sao dám chụp vợ và công khai cho mọi
người xem. Dương Quốc Định cho biết vợ ông không xấu nên không cần giấu.
Bà xã Dương Quốc Định bên bức ảnh nude do chính chồng chụp đạt giải quốc tế.
Nhiếp ảnh gia này cũng cho biết thêm rằng bản thân ông biết có
những người vợ không bao giờ chấp nhận cho chồng chụp nude người phụ nữ
khác, nhưng vợ ông lại thấy bình thường và đồng cảm với công việc của
chồng. Bởi khi người thân còn không cho chụp thì còn người mẫu nào dám
tìm đến ông. 'Ngoài vợ, cháu và em gái đều là người mẫu đầu của tôi',
Dương Quốc Định tiết lộ.
Bên cạnh đó, người nghệ sĩ say chụp ảnh nude này còn bật mí bản thân vô cùng khó tính trong việc chọn mẫu.
'Công việc này không đơn thuần là bỏ tiền ra thuê một cô gái
đầy đủ bộ phận. Tôi thích chụp toàn thân nên trước hết, mẫu nude phải có
gương mặt khả ái. Sau đó, họ phải có văn hóa nền, am hiểu về loại hình
nghệ thuật này. Tôi kiên nhẫn giải thích cho mẫu nude công việc và mục
đích của nó, sau đó mới bấm máy', nhiếp ảnh gia cho biết.
Tác phẩm "Tinh khiết" của Dương Quốc Định.
Do đó mà năm vừa rồi dù có nhiều người tình nguyện làm mẫu cho
Dương Quốc Định nhưng ông chỉ chọn được 1 người. Ông quan điểm rằng chụp
ảnh không chỉ lưu giữ đường nét cơ thể mà còn là cảm xúc của nhân vật
và ông phải cảm được cảm xúc của mẫu thì mới chụp. Đặc biệt, Dương Quốc
Định bộc bạch cá nhân ông thường tránh chụp hình hotgirl bởi nhỡ sau này
họ có scandal thì tấm hình của ông không còn tinh khiết.
Và khi làm việc, vị nhiếp ảnh gia này tỏ rõ việc tôn trọng đối
tượng của mình bằng việc lập hợp đồng làm việc và ghi rõ mục đích. Kết
quả chia đôi vì đó là đồng tác giả và tác quyền sở hữu sản phẩm. Bởi
theo ông 'Khi có sự quy ước và tôn trọng ngay từ đầu thì công việc chụp mẫu khỏa thân đưa đến an toàn tuyệt đối, tránh thị phi'.
Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là Dương Quốc Định chưa gặp phải
tai nạn nghề nghiệp. Ông tâm sự rằng nhiều năm trước, cô mẫu sắp lấy
chồng nên bảo ông hạ hình chụp cô ấy xuống do gia đình không chấp nhận
hình ảnh cơ thể cô ấy được trưng bày rộng rãi. Với sự tôn trọng đối tác,
nhiếp ảnh gia này đã gỡ bức ảnh xuống một cách nhẹ nhàng.
Dương Quốc Định.
Nói về nghệ thuật ảnh nude ở Việt Nam, Dương Quốc Định cho rằng một
thể loại có phát triển hay không luôn phụ thuộc vào tính lan tỏa cộng
đồng. Ở Việt Nam, cách thưởng lãm mỹ thuật của khán giả chưa cao. Giữa
người sáng tác và tiếp nhận có ít sự tương tác trực tiếp hoặc công chúng
thiếu trải nghiệm để phân biệt tác phẩm nude chân chính với ảnh phi
nghệ thuật, phản cảm.
Thêm vào đó, các tác phẩm thường xuyên bị sao chép, chụp trộm bằng
nhiều hình thức để phục vụ mục đích kinh doanh của cá nhân, tổ chức. Đó
là sự thiếu tôn trọng và khiến nhiều nghệ sĩ không thể sống được với
nghề.
Lộc Liên
Tổng hợp
Những người đàn bà không mặc áo bên vệ đường quốc lộ
10:33 15/07/2018
Mặc dù có thói quen để ngực trần nhưng váy, áo của phụ nữ S'tiêng lại mang phong cách độc đáo riêng biệt.
Không phải dải đất Tây Nguyên rộng lớn, cũng chẳng là những bản làng
xa xôi lưng chừng dãy Trường Sơn huyền hoặc, tôi vô cùng bất ngờ khi đi
dọc quốc lộ 14, tuyến quốc lộ dài thứ 2 của đất nước (sau quốc lộ 1A)
đoạn qua Bù Na, Bu Lon, Bu Glong, Bù Đăng, Bàu Lạch, Bù Lơ… lại bắt gặp
những người đàn bà ngực trần trong công việc bình thường của mình.
Họ là cộng đồng người S'tiêng sinh sống rải rác ở nhiều địa phương khác nhau của tỉnh Bình Phước.
Những bộ ngực trần của những người đàn bà ấy không gợi lên trong chút
một chút sắc dục nào mà ngược lại, chỉ thấy một vẻ đẹp tự nhiên đầy ám
ảnh và sự chân thật đến tận cùng của núi rừng. Vẻ đẹp bình dị
Lần đầu tiên tới vùng rừng núi Bình Phước, tôi men theo quốc lộ 14 từ
thị trấn Chơn Thành đi ngược lên. Mùa này, những cơn mưa đã bắt đầu
xuất hiện khiến đất trời miền Đông như bừng tỉnh sau những ngày nắng
nóng kéo dài.
Tuyến quốc lộ như con trăn khổng lồ uốn lượn quanh co trập trùng, lúc
thì trải ra trước mắt, lúc lại ẩn hiện nhập nhòa lẫn vào trong mây, để
tạo nên một trong những cung đèo, khúc cua. Nó không hùng vĩ như Tây
Nguyên nhưng nó là địa hình đang trở mình từ đồng bằng đến cao nguyên
bằng những cú vặn mình ngoạn mục.
Bà Thi Ban để ngực trần cả đời.
Thế nhưng, đó chưa phải là điều kỳ lạ nhất của mảnh đất này, điều kỳ
lạ với tôi là hình ảnh hàng chục người phụ nữ lưng đeo gùi, chân bước
lầm lũi chỉ mặc độc một chiếc váy thổ cẩm quấn ngang hông với bầu vú để
trần. Họ lặng lẽ đi, an nhiên bên cuộc đời một cách chậm dãi như bỏ bên
ngoài những dòng xe khá đông đúc bên kia quốc lộ.
Thế nhưng, chỉ cần một thoáng lướt qua ấy cũng đủ để hình ảnh những
người phụ nữ ngực trần in lại mãi, ám ảnh trong tâm trí tôi. Đó không
phải là những người phụ nữ khỏa thân hở hang mà tôi vẫn gặp nhan nhản
trên sách báo, mạng internet hiện nay mà là hình ảnh của một vẻ đẹp
thuần khiết, hoang sơ và gần gũi với thiên nhiên.
Và, hành trình tìm hiểu về những người đàn bà ngực trần lại càng thôi
thúc tôi, giữa quanh co những con đường dốc uốn lượn màu đất đỏ miền
Đông này.
Từ tỉnh lộ ĐT 760, một nhánh của quốc lộ 14, chúng tôi tìm tới cộng
đồng người S'tiêng nằm cạnh hồ Thác Mơ khi trời đã xế chiều. Hai bên con
đường đất đỏ là những vườn điều đang mùa đậu quả, và những mái nhà bình
dị.
Từ bao đời nay, những người S'tiêng luôn tìm cho mình những nơi định
cư gần như tách bạch với các làng ấp có tên gọi hành chính khác. Họ sống
thuận hòa, nguyên sơ và đơn giản đâu đó ở những vùng đất heo hút nhất.
Bà Thi Ban, 61 tuổi, một người dân ở đây kể, với người phụ nữ
S'tiêng, ngực của họ được coi là vẻ đẹp thuần khiết. Cái bầu vú căng
tròn đầy sức sống của họ như là một biểu tượng của sự sinh sôi, của
những nảy nở cần được phô ra.
Kể cả sau khi đã lấy chồng, sinh con thì những người phụ nữ vẫn không
bao giờ mặc áo. Tuy nhiên, đến thời gian này, họ thường che ngực bằng
các loại trang sức khác như dây cườm đeo ở cổ, các loại bạc, đồng được
chế tác rồi buộc để đeo như dây chuyền của người Kinh vậy.
Cũng chính vì tập tục để ngực trần mà phụ nữ S'tiêng rất thích dùng trang sức đeo trước ngực.
Hỏi chuyện bà Thi Ban được biết, cũng như nhiều người S'tiêng khác,
bà và gia đình, cộng đồng mình không có nơi lưu trú cố định. Họ di cư
nhiều đời, qua nhiều vùng đất khác nhau, từ Tây Nguyên men theo dải
Trường Sơn xuống vùng rừng núi tiệm cận đồng bằng là Bình Phước, rồi
sinh sống ở đó, quanh những núi đồi, thung lũng rộng lớn của dãy Bà Rá.
Hàng ngày, cuộc sống của bà chỉ quanh quẩn ở trong nhà và những nương
rẫy đã thân thuộc với những con đường đất đỏ mà thôi. Ngày trẻ, bà rất
đẹp và sau khi lấy chồng, sinh cả thảy 6 người con cả trai lẫn gái, bà
vẫn đẹp, vẫn để ngực trần.
Bà bảo, việc để ngực trần cả cuộc đời giúp bà cảm thấy tự tin, mạnh
khỏe hơn. Khi nào trời lạnh hoặc ban đêm ngủ, bà mới quấn quanh người
một tấm khăn rô dệt bằng thổ cẩm được dệt từ sợi tơ thô. Còn bình
thường, tấm khăn đó có thể được quấn quanh đầu, quấn ngang hông hoặc
buộc chéo để địu con mà thôi.
Nghe bà Thi Ban kể chuyện, nhìn bộ ngực đã trễ màu xám của bà, chúng
tôi có cảm giác rằng, không có điều gì bí ẩn bằng những cái chúng ta
được nhìn thấy rõ nhất!. Phai nhạt theo thời gian
Tuy nhiên, không chỉ có người S'tiêng ở xóm nhỏ heo hút mà tôi tìm
tới mới để ngực trần, mà khắp vùng biên giới Bình Phước này, quanh những
bản làng khác của dãy Bà Rá hùng vĩ, rất nhiều người phụ nữ S'tiêng
khác cũng vẫn giữ thói quen như vậy.
Vài chục năm trở lại đây, rất nhiều nếp sống của cộng đồng thị dân đã
quét qua núi rừng, nhưng nó dường như vẫn chưa đủ sức làm thay đổi tất
thảy những thói quen của cộng đồng cư dân S'tiêng đã sinh sống nhiều đời
nơi đây.
Không khó nhận ra rằng, những bộ quần áo may sẵn đã tràn ngập những
khu chợ, những cộng đồng người dân ở khắp dải đất biên giới Bình Phước
này. Và rất nhiều thói quen, nếp sinh hoạt khác cũng như ý thức sống của
cư dân, cả những cư dân S'tiêng ở đây cũng thay đổi. Đó là quy luật
không thể thay thế.
Thế nên, nó càng khiến những người phụ nữ để ngực trần tôi đã gặp trở
nên đặc biệt và đẹp đẽ lạ thường, dù thực sự họ khá hiếm hoi. Họ vẫn đi
rừng, vẫn lấy măng, lấy lá, lấy củi, lấy sâm, lấy nấm… vẫn xuống chợ,
vẫn nói chuyện với những người xa lạ lần đầu đặt chân tới dải đất này
như chúng tôi, nhưng họ vẫn giữ được thói quen để ngực trần khi ở nhà.
Có lẽ, cùng với những đám mây thâm u trên đỉnh Bà Rá phía xa xa,
những người phụ nữ S'tiêng nơi đây là còn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ
nhất.
Tác giả bài viết và người đàn bà ngực trần.
Già làng Điểu Năm, 67 tuổi người S'tiêng ở Bù Ghe thuộc huyện biên
giới Bù Đăng bùi ngùi bảo, từ cách đây khoảng hơn mười năm nay, lẫn
trong các buôn của người S'tiêng đã có thêm những cộng đồng người khác
với văn hóa, lối sống khác xâm nhập vào.
Hơn nữa, việc những thế hệ trẻ đi học, tiếp xúc với cuộc sống hiện đại đã khiến cho thói quen ở trần dần dần ít đi.
Không thể nào có một cô gái, chàng trai người S'tiêng lại có thể để
ngực trần rồi đi học hay đi chơi cùng bạn bè được. Vì thế, họ thường chỉ
để ngực trần khi đi…tắm suối.
Hiện nay dù có đi hết các buôn, trấn của người S'tiêng thì cũng khó
lòng tìm được những người phụ nữ để ngực trần. Có chăng, chỉ còn một số
người lớn tuổi, họ vẫn giữ thói quen từ mấy chục năm trước và cũng không
cảm thấy dễ chịu khi mặc đồ của người miền xuôi.
Nói về lịch sử và nguyên nhân khiến những người S'tiêng để ngực trần,
già Điểu Năm bảo rằng, do trước kia, phần lớn người S'tiêng đều theo
quan niệm Mẫu hệ. Thậm chí ngày nay, nhiều đôi trai gái S'tiêng cưới
nhau, chàng trai vẫn đến nhà vợ ở.
Một thời gian sau, thường là khi có con, họ mới tìm đến nơi khác để
tạo lập gia đình riêng của mình. Trong quan niệm sống, họ tôn thờ các
thần thuộc giống Cái như Nữ thần Mặt trời, thần Mẹ lúa, dòng sông Mẹ…
cùng sự đề cao vai trò chủ chốt của người phụ nữ trong cuộc sống.
Đặc biệt hơn, mặc dù có thói quen để ngực trần nhưng váy, áo của phụ
nữ S'tiêng lại mang phong cách độc đáo riêng biệt. Váy áo cũng như chiếc
gùi của người S'tiêng ở Bình Phước có nhiều nét khác hẳn với các cộng
đồng dân tộc thiểu số khác ở đây, hoặc ở Tây Nguyên.
Họ dành nhiều tâm huyết và công sức để hoàn thành những bộ váy áo đó
bằng chất liệu sợi thô lấy từ các loài thực vật trong rừng cùng những
loại màu đơn (không pha) có gam nóng rực rỡ như đỏ, vàng, cam, đen
tuyền…lấy từ cây lá ở tự nhiên.
Ngoài cách chọn nguyên vật liệu, sự phối màu cũng chính là yếu tố làm
lên nét đặc sắc của những trang phục thổ cẩm của người phụ nữ S'tiêng.
Nó đều mang hơi hướng của núi rừng, sông suối và cảnh vật xung quanh nơi
họ sống.
Tôi đã đi lại thêm nhiều lần nữa trên tuyến quốc lộ 14, hay những
tuyến đường tỉnh lộ, những con đường đất đỏ không tên ngoằn nghèo nhưng
chưa gặp lại những người phụ nữ để ngực trần thong dong như trước. Không
phải bởi họ đã mặc áo mà bởi thói quen di chuyển, từ thảm rừng này qua
thảm rừng khác.
Có thể năm ngoái tôi gặp họ ở Bù Nhau, Bù Lạch nhưng năm nay, họ đã
di cư sang Bù Đek, Bù Ka… Bất cứ nơi đâu trong những cánh rừng biên giới
thâm u này cũng có thể là nơi nương náu của họ.
Những người đàn bà sinh ra từ núi rừng, mang trọn vẹn vẻ đẹp hoang sơ, huyền bí của núi rừng. Đoàn Đại Trí
Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe
10:03 25/07/2018
Một khi đã không thể trình bày cặn kẽ suy nghĩ về một vấn đề nào đó, cách tốt nhất là hãy im lặng.
Đã đọc đâu đó, ở trang sách nào đó, đại khái có người lên núi tu tập,
một hôm xuống núi, thiên hạ hỏi: "Ba mươi năm qua, ngài đã học được
những gì?". Ông ta đáp: "Tôi học cách im lặng".
Im lặng khó đến thế ư? Thời trẻ, hễ thấy gì trái tai gai mắt, thông
thường con người ta há mồm ra xoèn xoẹt. Nhưng rồi, đến một lúc nào đó,
họ lại chọn cách im lặng. Ấy cũng là lúc tuổi già đã đến; nếu chưa già,
chỉ có thể là sự vô cảm. 1. Thời buổi này, chọn lấy thái độ nào cũng thấy khó. Thôi thì, hãy tự nhủ bằng câu thơ: "Khạc
chẳng ra cho nuốt chẳng vào/ Miếng tình nghẹn lắm biết làm sao/ Muốn
kêu một tiếng cho to lắm/ Rằng ối ai ôi, nó thế nào?".
Thơ Nguyễn Gia Thiều. Vấn đề là kêu lên với ai? Hay lại chọn cách như Tản Đà tiên sinh: "Bóng ơi mời bóng vào nhà/ Ngọn đèn khơi tỏ, đôi ta cùng ngồi/ Cùng nhau rãi một đôi nhời/ Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe". Xét ra, tâm thế này cô đơn, não nùng quá đi mất.
Sao không chọn lấy cách nói với vợ? Thế lại hay. Y sẽ nói gì? Chớ dại
nói năng, tâm sự, kể lể, chuyện trò về "miếng tình" đã qua. Dễ chịu
nhất và khôn ngoan nhất vẫn là nói với nhau về "miếng ăn".
Nói rằng, thời buổi này, không khéo sẽ chết đói nếu học theo cách ăn
của ngài Khổng Tử. Nghe lạ tai quá phải không? Tục ngữ Việt Nam có câu:
"Đói ăn rau, đau uống thuốc". Dễ dàng lắm. Dễ như lật bàn tay.
Thế mà, ừ, Khổng Tử có khác, ông ấy bảo: "Cơm càng trắng tinh càng
tốt, (càng thích), gỏi thái còn nhỏ càng tốt. Cơm hẩm và thiu, cá ươn mà
thịt đã nhão thì không ăn. (Thức ăn mà) sắc đã biến, hư rồi, không ăn;
mùi hôi cũng không ăn. (Có sách dịch là những vật trái mùa). Cắt không
ngay ngắn (hoặc không đúng cách), không ăn. Nước chấm không thích hợp,
không ăn. Dù có thịt, cũng ăn ít thịt hơn cơm. Duy có rượu là không hạn
chế, nhưng không uống tới say. Rượu bán ở cửa hàng, không uống; thịt mua
ở chợ, không ăn. Bữa nào cũng ăn gừng. Không ăn tới quá no. Tế ở công
miếu rồi, được phần thịt thì phân phát ngay, không để cách đêm. (Vì thịt
tế vào buổi sáng thì làm vào hôm trước, nếu để cách đêm nữa, qua ngày
hôm sau là ba ngày, thịt ôi đi). Thịt cúng tổ tiên, không để quá ba
ngày, quá ba ngày thì không ăn. Khi ăn, không đàm luận, khi ngủ không
nói chuyện. Tuy là cơm thô, canh rau, mà trước khi ăn cũng cung kính
cúng vái như lúc trai giới".
Đoạn này trích từ thiên Hương đảng của sách Luận ngữ, bản dịch Nguyễn Hiến Lê.
2. Vừa rồi, tìm đọc lại quyển Hà Nội cũ in
năm 1943 của Sở Bảo Doãn Kế Thiện (1891-1965), trong đó có kể về "xóm
học trò" xưa. Đại khái, gần đến ngày thi, thí sinh các nơi tề tựu về
Thăng Long. Tất nhiên họ phải ở trọ nơi gần trường thi để thuận tiện
việc đi lại và đỡ tốn kém, dần dần nơi ấy có tên gọi là "Xóm học trò" -
tương tự như Xóm La-tinh ở Paris.
Vị trí ấy khoảng đầu vườn hoa Cửa Nam cho tới ngõ Hội Vũ ở Hà Nội bây
giờ. Cứ những năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu có thi Hương thì hàng quán nơi này
mọc lên, đón các thí sinh đến ăn ở, trở thành nơi đông đúc vui vẻ. Khoa
thi càng đông thì các cô bán cơm, cho thuê phòng trọ ở Xóm học trò lại
phát tài.
Các o Hà Nội đáo để, hóm hỉnh lắm, họ còn biết đặt ra bài vè để chào mời thí sinh. Nội dung như sau: "Ba gian nhà khách/ Chiếu sạch giường cao/ Mời các thầy vào/ Muốn sao được thế/ Mắm Nghệ lòng dòn/ Rượu ngon cơm trắng".
Sau khi "tiếp thị" hàng quán của mình, các o còn khôn khéo biết "đánh đòn tâm lý" vào những người đi thi: "Các
thầy dù chẳng sá vào/ Hãy dừng chân lại em chào cái nao/ Đêm qua em mới
chiêm bao/ Có năm ông Cử mới vào nhà em/ Cau non bổ, trầu cay têm/ Đựng
trong đĩa sứ em đem kính mời/ Năm thầy tốt số hơn người/ Khoa này tất
đỗ nhớ lời em đây".
Nghe thế, thí sinh nào mà không sướng phổng mũi? Dù mua bán nhưng lời
mời chào lại thanh lịch, văn minh. Khác hẳn với thời buổi của phở quát,
bún mắng, cháo chửi... cũng lên sóng truyền hình CNN (Cable News
Network).
Có giai thoại cực hay mà ông Doãn Kế Thiện đã kể trong tập sách này.
Thú lắm. Hãy ghi lại như một tài liệu cho những ai cần tham khảo vậy.
Rằng, trong số các cô bán cơm có quán của cô Thanh.
Ngày nọ, quán bên cạnh ồn ào tiếng đọc thơ, loạn xạ bình luận văn
chương, thi phú của các sĩ tử. Ai cũng đều cho thơ của mình là nhất, cãi
nhau ỏm tỏi, ồn ào hơn cái chợ. Bấy giờ, ngồi chung quán có chàng trẻ
tuổi tự xưng học trò nhưng chẳng hề thấy béng mảng vào trường thi, suốt
ngày chỉ tì tì nốc rượu.
Lúc nghe đám học trò cãi nhau rác cả tai, chàng bèn cất tiếng ngâm như cọp rống: "Thôi
đừng đọc nữa, khổ tai tôi/ Cho cả nhà hàng bịt mắm thôi/ Tiếng súng bên
thành kêu dậy đất/ Thần thi thánh phú ích cho ai?".
Từ "mắm" khiến ta nhớ đến câu thơ của Cao Bá Quát: "Ngán thay cái mũi vô duyên/ Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An". Thuyền Nghệ An thời ấy chuyên chở mắm bán xa gần. Ngon thì ngon nhưng so sánh câu thơ với mùi mắm thì éo le lắm lắm.
Biết bị chửi xéo, lũ học trò nổi giận, lại đang say nên hùa nhau dạy
cho kẻ lếu láo ấy bài học nên thân. Chẳng hề sợ hãi, chàng đứng dậy, lạ
thay, chỉ với đôi đũa tre nhưng lại thừa sức gạt phăng các gậy, gộc đằng
đằng sát khí. Lũ học trò hoảng sợ chạy tán loạn như vịt.
Sau cuộc ẩu đả, chủ quán đuổi tất và buộc chàng phải trả hết tiền cơm
rượu. Không nói, không rằng, chàng trả tiền nhưng lại thiếu 5 quan, bị
cô chủ quán đòi lột áo. Quan sát nãy giờ, cô Thanh tủm tỉm cười, bèn sai
người mang tiền qua trả giúp.
Về sau, có câu vần vè trêu chọc: "Cô kia kén cá chọn canh/ Đem tiền
chực rước cái anh lạc loài/ Thực là đáng bực tài giai/ Có tài ăn bửa một
hai đâm liều". Cô Thanh cũng chẳng thèm "thanh minh thanh nga", bỏ mặc
ngoài tai lời đàm tiếu ấy. Ít lâu sau, thiên hạ ngạc nhiên khi thấy cô
kết duyên cùng lãnh binh Trần Thiện Minh - chính là anh chàng "lạc loài "
kia.
Thì ra, lúc nước mất nhà tan, nghĩ rằng, cái học cử nghiệp chẳng hữu
ích gì, chàng chuyên tâm theo võ nghệ, gia nhập quân đội và được danh
tướng Nguyễn Tri Phương phong chức lãnh binh. Như vậy, giai thoại này
diễn ra vào năm 1873 - năm giặc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. 3. "Có tài ăn bửa một hai đâm liều". Nhân
đây giải thích luôn vài từ có liên quan đến ăn, chẳng hạn, ăn bửa là ăn
quỵt; ăn chõm là ăn chực; ăn gọ là ăn ghé - ăn của người khác, đồng
nghĩa với ăn bòn, ăn khín, Nam bộ có câu "Ăn khín bà chín bẻ răng"; ăn
mót là ăn nhặt - lượm đồ rơi rớt mà ăn, theo tự điển Việt-Bồ-La (1651)
thì thuở ấy, ăn mót đồng nghĩa với ăn mày; ăn vả là ăn nhờ, ăn bám; ăn
vã (dấu ngã) là ăn đồ ăn không v.v…
Đủ kiểu ăn nhưng "ăn đất/ ăn bom/ ăn bùn" chắc chắn là ngủm củ tỏi; "ăn xôi nghe kèn" cũng là mặc áo sơ mi gỗ: "Giàu
thì thịt cá cơm canh/ Khó thì lưng rau dĩa muối, cúng anh tôi đi lấy
chồng/ Hỡi anh chồng cũ tôi ơi/ Anh có khôn thiêng thì anh trở dậy ăn
xôi nghe kèn...". Kèn đây là kèn đưa đám. Đã thế, còn ăn cái nỗi gì?
Thời trước, khoái chí nhất vẫn lúc được ăn yến tiệc do vua ban. Muốn
thế, ngay từ trẻ nhỏ phải lo dùi mài kinh sử, rồi lều chõng, thi đậu, ra
làm quan ắt có cơ hội. Mà thi cử ngày trước cũng không ít trường hợp
oái oăm.
Chẳng hạn, có trường hợp ngoại lệ dù không qua khảo hạch mà vẫn được thi Hương. Trong quyển Nam thiên trân dị tập
của Vũ Xuân Tiên in năm 1917 cho biết: "Nguyễn Toàn An, người xã Thời
Cử, huyện Đường An, sung làm lãnh binh (lính coi giữ và dọn cỏ ở cung
điện) vào đầu niên hiệu Hồng Đức (1470- 1497). Nhân đêm trung thu, các
quan vào triều chầu hầu. Bấy giờ ánh trăng mờ tối, vua ra đầu đề Trung
thu vô nguyệt (Đêm trung thu không trăng) để các quan làm thơ vịnh. Vua
nóng lòng chờ đợi mà chưa thấy ai lên tiếng.
Chợt thấy Toàn An quỳ dâng một bài thơ Đường luật. Mọi người cười ồ:
"Lãnh binh mà vẫn làm được thơ à?". Vua sai xem lấy. Bài thơ làm bằng
chữ Nôm, với câu kết như sau: "Chớ thấy phen này mà rẻ nguyệt/ Thu sau trông nguyệt, nguyệt càng cao".
Ai nấy đều thán phục, nhân đấy xin vua cho Toàn An được giải chức
lãnh binh để về quê đi thi. Sau đó, ông thi đậu Hương thi. Đến khoa Nhâm
Thìn (1472), Toàn An đậu Bảng nhãn, lúc này ông mới 23 tuổi. Vinh quy
được ít lâu thì cha mất.
Thời bấy giờ luật pháp rất nghiêm. Người nào trong khi để tang cha mà
vợ có mang thì bị coi là vô đạo. Ông vì vậy thủ chế suốt ba năm, không
dám gần vợ. Đến khi mãn tang thì ông mất, không có con nối dõi. Vua được
tin này, lấy làm thương xót. Từ đấy mới bỏ lệ cấm sinh đẻ trong lúc cư
tang" (Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - tập II, tr.1064, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm - NXB Thế Giới - 1997).
Mà giai thoại thú vị liên quan đến chuyện thi cử ngày xưa, kể ra cũng nhiều. Phạm Đình Hổ chép trong Vũ trung tùy bút,
đọc lại, cứ như đùa: "Đầu đời Cảnh Hưng (1740-1786) có ông Ngô Thì Sĩ
nổi tiếng là bậc hay chữ, bị bọn quan đương thời ghen ghét, khi đến thi
Hội, các khảo quan dò xét hễ thấy quyển nào giọng văn hơi giống thì bảo
nhau: "Quyển này hẳn là khẩu khí Ngô Thì Sĩ", thế là họ hết sức bới móc
đánh hỏng đi.
Trịnh chúa Nghị Tổ (Trịnh Doanh) biết có thói tệ ấy nên khi thi cử
xong rồi, truyền đem quyển hỏng của Ngô Thì Sĩ ra duyệt lại. Các khảo
quan bấy giờ, nhiều người bị truất phạt, nhưng vẫn không cấm chỉ được
cái tệ ấy. Khoa Bính Tuất (1766), Ngô công bị bệnh tả, vào trường đệ tứ,
cố làm qua loa cho xong quyển.
Khảo quan chấm quyển bảo nhau: "Quyển này làm văn thì luyện đạt lắm,
đáng là văn Hội nguyên, nhưng văn khí hơi yếu, không phải giọng văn Ngô
Thì Sĩ".
Chấm đến quyển của ông Nguyễn Bá Dương lại bảo nhau: "Quyển này văn
khí khác thường, giống giọng văn Ngô Thì Sĩ nhưng làm văn lại kém, Thì
Sĩ tất không làm như thế". Vì họ hồ đồ không biết định quyển nào là văn
Ngô Thì Sĩ mà đánh hỏng nên Thì Sĩ mới đỗ hội nguyên".
Về sau, ông Ngô Thì Sĩ để lại một sự nghiệp đồ sộ về văn chương, có
tài kinh bang tế thế. Trong quyển Việt sử tiêu án, ông đã giải thích rõ
ràng những từ thuộc khoa cử nước nhà mà nay không phải ai cũng tường
tận.
Về trạng nguyên, ai cũng rõ nhưng tại sao có lúc sử chép "Kinh trạng
nguyên/ Trại trạng nguyên"? Ngô Thì Sĩ cho biết: "Đời nhà Trần thi cử có
chia ra Kinh - Trại cũng như đời Thanh (Trung Quốc) chia ra Mãn - Hán.
Vì đời Trần lấy Hoan - Ái (tức Thanh Hóa - Nghệ An) làm các châu ở
xa, giáo dục chưa được thấm nhuần, nhân tài không nhiều bằng các kinh
trấn, cho nên mỗi khoa thi lấy người giỏi nhất về bên Trại gọi là Trại
trạng nguyên, cho ngang tài với Kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến
khích".
Qua đó ta thấy sự phân biệt này là chính sách nhằm khuyến khích việc học, việc thi ở các vùng cao, vùng xa, không gần kinh đô. 4. À, lan man từ chuyện ăn qua chuyện thi cử, có
chán không? Tất nhiên là không. Tại làm sao thế? Bởi vì rằng, đọc sách
nhẩn nha rồi ghi chép đôi điều dù lộn xộn, lộn lạo cũng là một cách "Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe" đấy thôi. Lê Minh Quốc
Phỏng vấn một quả bóng
09:10 04/07/2018
Phóng viên (PV): Thưa anh, đầu tiên xin hỏi anh một câu có vẻ rất buồn cười: Tại sao trái bóng tròn?
Bóng: Tại vì trái bóng giống hành tinh của chúng ta. PV: Đúng. Và nhân dịp World Cup đang diễn ra, anh hãy cho biết đâu là sức mạnh thực sự của bóng đá? Bóng: Bóng đá không phải là thể thao. Nó là văn hoá. Một thứ văn hoá có ngôn ngữ toàn cầu. PV: Và điều cơ bản nhất của văn hoá là gì, thưa anh? Bóng: Là đẹp. Cái đẹp làm sao phải tràn lên mỗi trận
đấu, mỗi tình huống và mỗi bàn thắng. Thậm chí cái đẹp còn vang lên
trên những lời ca hát trên sân. PV: Đúng. Thưa anh, vậy mà vừa qua, một
số quan lớn bóng đá Việt Nam trong một cuộc họp, đã lộ ra những lời nói
vô cùng không đẹp. Anh biết chứ? Bóng: Tôi biết. Những lời nói ấy chả những không đẹp, nó còn chợ búa xôi thịt đầy mùi vị của một cuộc cãi lộn vỉa hè.
Minh họa: Lê Tâm.
PV: Đúng vậy. Bóng: Nghe xong đoạn băng ghi âm ấy, tôi kinh hoàng.
Tôi nghĩ đấy không phải là thể thao. Đấy là một cuộc làm ăn và người
ta, để có lợi, chả ngại gì văng tục. PV: Chính xác. Bóng: Nhà báo có biết nếu như ở mỗi trận đấu bóng đá
quan trọng, đều có tặng hoa, có phát biểu, có cả chào cờ và hát Quốc ca
để làm gì không? PV: Biết chứ. Để cho tính văn hoá của thể thao được nâng cao, để đánh thức nét đẹp trong mỗi người xem và mỗi cầu thủ. Bóng: Cho nên mọi thứ trở nên lố bịch khi công chức
nghe được đoạn ghi âm này. Nó chứng tỏ nhiều người làm bóng đá có tư
tưởng con buôn, tư tưởng thực dụng và cả tư thế giang hồ. Nó khiến người
ta nghĩ mỗi trận đấu có thể chỉ là một cú áp phe. PV: Thật đáng tiếc! Bóng: Không phải đáng tiếc. Đáng phẫn nộ. Làm sao
thể thao Việt Nam nói chung và bóng đá Việt Nam nói riêng có thể đi vào
lòng người với những vị cầm đầu trần tục như thế. PV: Một gia đình tri thức, nếu định đưa con trai vào học viện bóng đá, nghe xong đoạn băng ghi âm ấy, chắc chắn sẽ ngần ngại. Bóng: Rõ ràng. Đã từ lâu, bóng đá Việt Nam bị nghi
ngờ bởi những âm mưu, những tiểu xảo, những gian lận, những cú móc ngoặc
sau hậu trường. Sự thiếu minh bạch là điều mà bóng đá nước ta đã khiến
khán giả nghi ngờ rất mạnh. Nay nghe thêm đoạn băng ghi âm đó, sự nghi
ngờ này có cơ sở thêm ra. PV: Nói tóm lại là gì. Nếu chỉ cầu thủ phải có năng khiếu, thì những người điều hành bóng đá phải có văn hoá. Bóng: Không còn cách nào khác. Nếu không, môn thể
thao này sẽ chỉ là một cái chợ, và đau buồn hơn cả, một cái chợ đen, nơi
người ta có thể mua bán dưới gầm bàn. PV: Chỉ gầm bàn với nhân dân thôi, chứ
thật ra trong cuộc bàn thảo nội bộ, nếu cứ theo cái băng ghi âm ấy, thì
người ta văng vào nhau những từ ngữ rất công khai. Bóng: Vâng. Công khai đến phát sợ. Nó khiến cho khán
giả có quyền đặt câu hỏi: Phải chăng ban điều hành bóng đá thật sự có
thái độ, có hành vi và có cách suy nghĩ như thế về nhau và về thể thao.
Phải chăng những bộ comple đẹp đẽ, những lời phát biểu long trọng trước
trận đấu của nhiều vị chỉ là sự trang trí loè loẹt, không hơn. PV: Cho nên sự rò rỉ đoạn băng này, suy cho cùng, có khi là tốt. Bóng: Tất nhiên. Nó cho thấy một sự thật. Về nguyên tắc, sự thực luôn tốt, dù nó khá đau lòng.
Việt Nam sẽ không khi nào có một nền thể thao chân chính, khi những người làm ra nó không có văn hoá thực sự!
Lê Thị Liên Hoan
Mùa hè trên ngực biển
07:03 05/06/2018
Đêm gió mượt mà bên bãi biển Bingin, ở Bali, Indonesia.
Một người đàn ông ngồi chiêu chai bia Bintang cuối cùng trong ngày.
Ông là chủ một quán cafe cho dân lướt ván, tên Didi. Du khách ghé qua,
mua một quả dừa, quăng quần áo và thiết bị trên bờ, lao vào cơn sóng.
Người ta nhớ tới Bali như một chốn để tránh thoát những tổn thương
xảy ra đâu đó trong cuộc đời ở phần khác của thế giới. Biển chữa lành
vết thương. Những buổi chiều dưới hoàng hôn, bài tập yoga trị liệu có
thể giúp cơ thể và tâm hồn quay về lại hòa hợp sau những bối rối bất an
ngoài kia.
Đã nhiều năm tôi không đến nơi nào có biển. Hầu hết con đường chỉ
diễn ra trên núi, đồi, những cuộc chạy xe máy mải miết vào rừng sâu.
Biển làm tôi kiệt sức.
Didi lại gần, cho một cốc nước nóng và nói: "Đừng sợ, cô sẽ sớm quen
thôi. Con người đều từ biển. Chúng ta sinh ra từ biển. Rồi cô sẽ học
được biển không có ý định hại mình".
Ngoài xa, sóng cuộn thành từng dải thẳng băng, gấp nếp vào nhau và chậm rãi ủi vào bờ san hô nhuốm rêu xám.
Didi tới Bali 27 năm trước, khi bãi biển này còn là những khối đá nhô
ra chưa có tay con người nào khuất phục. Ông yêu một cô gái người Java,
rồi cưới bà, ở lại đảo, mở một quán cafe. Con trai ông được mệnh danh
là một trong những tay lướt ván cự phách nhất Bali. Có hàng ngàn người
đã biến Bali trở thành quê nhà như vậy.
Một cô kế toán từ Hà Lan quyết định dành vài năm nghỉ ngơi ở Bali, và
chọn nơi này làm nhà. Tay lướt ván người Đức tới đây mỗi mùa hè, và
cùng vợ sinh ba con, rồi quyết định dọn hẳn về đây ở. Hai cô gái người
Trung Quốc quyết định chọn Bali làm ngôi nhà thứ hai, khi muốn mở một
tiệm bán trang phục bơi cho du khách trên đảo.
Chừng 5 năm trước, ở bãi biển Balangan, Bingin - phần đuôi của Bali -
chỉ toàn đàn ông. Cánh đàn ông đổ về đây tìm sóng, lướt ván. Phụ nữ
không đến đây. Họ tập trung ở Ubud, tập yoga, chăm sóc cơ thể, nghỉ
dưỡng. Những tác phẩm văn học thương mại bán chạy trở thành “kinh thánh”
của người du lịch để họ tìm đến Bali.
"Các cậu trai luôn hỏi tôi tại sao ở đây chẳng có cô gái nào. Giờ thì
họ tha hồ. Cả thiên đường rồi đó!" - Didi cười. Con đường du lịch bừng
nở tại Bali đã đưa những phụ nữ mê lướt ván về đây, hiện hữu, sống động,
cười khúc khích trên sóng.
Bãi biển Bingin như một thiên đường. Phụ nữ khắp thế giới xuất hiện,
xinh đẹp, rạo rực và khỏe khoắn. Họ như muốn thoát khỏi quần áo để hòa
tan mình vào cát biển, san hô và bầu trời.
Họ bơi trên những quãng sóng với ngực trần và mảnh quần bikini mỏng
tang. Họ đứng dậy trên ván và đỉnh ngọn sóng, thân thể mảnh mai và cong
vút như một mũi tên phóng về phía mặt trời trên cao.
Hiếm nơi nào ở Đông Nam Á giống Bali, nơi du khách không say ngập
ngụa trong quán bar ngoài bãi biển, hay chìm trong cuộc chơi thâu đêm
không dứt ở phố đèn đỏ. Mỗi bãi biển có một nhóm du khách theo từng sở
thích riêng. Họ chơi lướt ván trên sóng dài. Họ cưỡi các đợt sóng ngắn.
Họ chơi lặn gần bờ để ngắm cá và san hô.
Nhiều người đến đây nhiều tháng mỗi năm để tập thể thao, chăm sóc cơ
thể, để ngắm mặt trời lên giữa biển xanh biếc. Bali là con mắt giữa biển
khơi, trong veo, yên lặng.
Xa biển hơn, những nghệ sĩ trẻ, họa sĩ, người làm đồ thủ công tụ về
các ngôi làng ẩn sau đồng lúa tại Ubud. Dòng xoáy văn hóa Hindu giáo,
Hồi giáo, nét địa phương của người Nam Đảo, Java... quấn quýt thành một
dải đầy màu sắc trong kiến trúc, điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, in vải, đồ
tre, lá...
Mỗi sớm mai, người cầu nguyện đặt thức quà cúng những vị thần trời
đất lên hiên cửa nhà, rảy vài giọt nước hoa thơm, cắm nhang lầm rầm khấn
nguyện. Anna là một nhà thơ. Cô mở một tiệm bán đồ tắm ở sát biển.
Những bộ bikini được may thủ công, đặt hàng trong những gia đình
người Bali, hoặc tự Anna thực hiện khi yêu thích. Anna chuyển về Bali
sống sau một biến cố lớn trong đời. Cô ly hôn và muốn dành thời gian cho
bản thân nhiều hơn.
Trước biển mỗi sớm, cô viết thơ, viết bất cứ những gì trào lên trong
tâm trí, và uống một tách trà nhẹ. Và đó là khi ngày bắt đầu. Anna kể,
Bali đã chữa lành cô, chữa lành những năm tháng lơ lửng, ồn ào và không
giúp cô nhìn sâu vào bản thân.
“Khi có đủ tĩnh lặng, người ta mới nhìn vào bản thân. Kỳ nghỉ ở Bali
trong hai tuần đã tháo gỡ tôi thành từng phần. Tôi lướt ván mỗi chiều.
Ngã xuống sóng biển. Chân tay bị san hô cào xước. Nhưng dường như tôi
thấy lại mình trong những năm tháng đi học, ước mơ trở thành nhà thơ,
muốn có một ngôi nhà nhỏ cạnh biển, và sống bên ai đó thấu hiểu mình và
mình thấu hiểu họ”.
Anna nói cô chưa có ai thấu hiểu mình. Nhưng thấu hiểu bản thân đã là
điều quá khó, sao ta có thể trông đợi ai đó thấu hiểu mình trọn vẹn
trong đời? – Cô cười buồn bã. Ánh mắt đong đầy nước. Nhưng thật yên ả và
thư thái.
Có điều gì ở Bali khiến người ta phải nhìn sâu hơn vào tâm can? – Sự
cô đơn tuyệt đối trước biển, nỗi sợ bị bỏ lại, bị trôi đi ngoài xa vĩnh
viễn khiến con người độ lượng hơn với bản thân và dần độ lượng hơn với
cả kẻ đã làm tổn thương mình. Níu kéo một tình yêu. Giận dữ vì sự mất
mát. Hay nhầm lẫn về giá trị cuộc đời.
Chẳng gì ở Bali có thể giải quyết. Nhưng hòn đảo cho người ta một cơ
hội nhìn thấy bản thân dưới làn nước trong veo và tự thấy bản ngã mình
hòa vào ngày có nắng biển trong suốt.
Một doanh nhân người Úc ngồi cạnh tôi trong quán nói: “Nếu bạn tới
Bali lần một, đó chỉ là kỳ nghỉ; nếu bạn tới lần hai, bạn yêu nó; và đến
lần thứ ba quay lại, bạn không thể trở về nữa” – David cười.
Ông quyết định đưa cả gia đình đến Bali sống, dừng lại toàn bộ công
việc kinh doanh ở Sydney. Ông lướt ván hàng ngày. Con gái ông cũng trở
thành một tay lướt ván.
Ông nói: “Những gì bên trong bạn, Bali sẽ phóng chiếu lên hàng chục
lần. Bạn nghiện rượu, bạn dùng thuốc, bạn si mê, Bali sẽ là cơn sóng
đánh dạt bạn đi. Ở đây, bạn phải nhìn vào bản thân nhiều hơn bất cứ nơi
nào khác”.
Giọng của Didi có mùi cồn. Cốc nước nóng ông rót đã giữ ấm tôi trong
gió biển chiều. Giọng Didi khản như một người uống whisky lâu năm. Trầm.
Đục. Và khát.
Một cậu trai ở Bali suốt sáu năm trời để lướt ván, sống trong căn nhà
nhỏ kế quán của Didi kể: "Lần đầu tiên tôi tới đây, đêm nào cũng xuống
quán ngồi uống với Didi. Ông ấy luôn giúp đỡ, chuyện trò. Ở tuổi 20, khi
rời khỏi nhà và chẳng có bạn bè, cậu hiểu sự cô đơn không? Ông ấy luôn
giúp đỡ những người mới đến Bali, chuyện trò với họ, giúp đỡ họ tìm quán
ăn, xe máy, đường đi, bác sĩ...".
Cậu trai đã trò chuyện với ông suốt hai năm, mỗi buổi tối sau giờ ra
biển, trước khi bắt rễ và thương quen với ngôi làng lướt ván.
"Tôi không biết tại sao con người luôn muốn có nhiều hơn. Họ không
thể ngừng lại. Nhưng thứ chúng ta cần là sống hòa thuận với Trái Đất chứ
không phải ăn thịt nó. Tại sao không thể dừng lại khi vừa đủ? Tại sao
phải luôn chế ra xe hơi chạy nhanh hơn, những công trình tiêu thụ nhiều
nguyên liệu hóa thạch hơn? Tại sao phải giết nhiều loài động vật hơn,
khi thứ để ta sống suốt đời chỉ là thịt gà, bò hay những món hoa trái
đơn giản?".
"Bali là nơi của sự đầy đủ. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi nhiều hơn. Người
ở Bali sống hàng ngàn năm giữa biển khơi, chẳng thiếu thốn gì. Thiên
nhiên cho họ tất cả và hòa thuận với họ. Ngay cả những ngọn sóng, chúng
cũng chơi đùa với ta. Đâu có gì mà phải hi sinh một bên để bên kia sinh
tồn?".
Tôi nói với Didi, có lẽ con người không biết dừng lại. Họ không thể
kiểm soát được bản thân trong cơn đói thèm được nhấn chìm tất cả dưới
bàn chân chinh phục của mình.
Họ không thể ngừng lại. Những người ở Bali như Didi quá xa với "loài
người" xa xôi trong đất liền, nơi họ định vị cả thế giới bằng các chiều
kích và tốc độ xuyên qua thanh quản và lồng ngực nhau. Phải có thứ gì đó
hi sinh. Để con người tồn tại.
Như với Didi, ông đã đóng băng thời gian Paris lại thành 27 năm dài ở
Bali, để tìm thấy hạnh phúc, để mỗi chiều cưỡi sóng băng về hoàng hôn,
để nhìn con trai lớn lên như vị thần biển và con gái cài đóa hoa bừng nở
như hoa trái thiên đường.
Như David đã tìm thấy hệ phóng chiếu lên cơn mê cuồng sóng biển của ông.
Như Anna đã tìm được nơi để thả những vần thơ và nỗi đau của cô xuống hiên nhà sớm mai – trước biển.
Bali đã mọc mầm trong ngực từng người như cách ta được một vùng đất cho ân phước được hạnh phúc. Khải Đơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét