Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển hôm 5-10 đã thông báo quyết
định trao giải Nobel Vật lý cho hai nhà khoa học của Đại học Manchester ở
Anh là Andre Geim và Konstantin Novoselov do “những thí nghiệm mang
tính đột phá về chất liệu graphene”
Theo trang web
Nobelprize.org, giáo sư Andre Geim là công dân Hà Lan, sinh năm 1958 tại
thành phố Sochi của Nga và bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1987 tại Viện Vật
lý Trạng thái rắn thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga ở thành phố
Chernogolovka.
Ông là Giám đốc Trung tâm Khoa học trung gian và Công nghệ nano thuộc Đại học Manchester.
Giáo sư Konstantin Novoselov hiện giữ hai quốc tịch Anh và Nga. Ông
sinh năm 1974 tại thành phố Nizhny Tagil của Nga và tốt nghiệp tiến sĩ
năm 2004 tại Đại học Radboud Nijmegen ở thành phố Nijmegen của Hà Lan.
Ông hiện là hội viên Hội Nghiên cứu Hoàng gia Anh, giáo sư tại Đại học Manchester.
Hai nhà khoa học Andre Geim (phải)và Konstantin Novoselov . Ảnh: AFP
Graphene là một chất
liệu hoàn toàn mới, một mảnh carbon trong suốt, mỏng nhất nhưng bền chắc
nhất trong tất cả các chất liệu từng được biết đến. Graphene có thể dẫn
điện tốt hơn cả đồng và dẫn nhiệt tốt hơn bất cứ chất liệu nào khác.
Hai ông đã trích ly graphene từ một mẫu than chì với độ dày chỉ bằng một
nguyên tử.
Trước đó, nhiều người
tin rằng một chất liệu kết tinh với độ mỏng như thế không thể tồn tại
ổn định. Những đặc tính nói trên khiến graphene có thể được ứng dụng để
chế tạo vi mạch máy tính và điện thoại di động với tốc độ truyền dữ liệu
rất cao. Tuy nhiên, việc sản xuất graphene hiện nay tốn chi phí rất
cao.
(TNO) Đó là Andre Geim, nhà vật lý gốc
Nga đã đoạt giải Nobel Vật lý 2010 cùng với đồng nghiệp Konstantin
Novoselov vào hôm 5.10 cho công trình phát hiện ra siêu vật liệu
graphene.
Theo tạp chí Time (Mỹ), cách đây 10 năm, ông Geim cũng đã được
xướng tên trong lễ trao giải Ig Nobel cho công trình nghiên cứu sử dụng
nam châm để tạo ra con ếch bay.
Cũng giống như giải Nobel Vật lý năm nay, ông Geim đã chia sẻ giải Ig
Nobel của 10 năm về trước cùng với Sir Michael Berry cho công trình ếch
bay kể trên.
“Chúc mừng Andre Geim, người mới đoạt giải Nobel Vật lý. Nhà khoa học
này đã trở thành cá nhân đầu tiên vừa đoạt cả giải Ig Nobel lẫn giải
Nobel”, theo các nhà tổ chức giải Ig Nobel.
Cũng theo Ủy ban trao giải Ig Nobel, nhà vật lý 51 tuổi này không
phải là người đầu tiên nhận giải Ig Nobel lẫn Nobel nhưng ông là người
đầu tiên nhận cả hai giải này với tư cách cá nhân.
Andre Geim (trái) và
Konstantin Novoselov ngồi trước trường Đại học Manchester (Anh) sau khi
họ được thông báo nhận giải Nobel Vật lý - Ảnh: Reuters
Cách đây vài năm, nhà khoa học Bart Knoll cũng đã được trao giải Ig
Nobel (năm 2006 cùng với chuyên gia Ruurd de Jong) lẫn giải Nobel. Nhưng
nhà khoa học này đã chia sẻ giải Nobel Hòa bình 2005 cùng với hàng trăm
nhân viên của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).
Trở lại công trình nghiên cứu được giải Nobel Vật lý 2010 của Geim và
Novoselov, siêu vật liệu graphene là một tấm carbon chỉ dày bằng một
nguyên tử.
Đây là vật liệu mỏng nhất cũng như có lẽ là cứng nhất thế giới.
Nhờ đặc tính mỏng, cứng, dẫn điện và nhiệt cực tốt này, graphene có
thể dùng cho việc sản xuất màn hình cảm ứng, cho các vệ tinh thế hệ mới,
máy bay, xe hơi và pin mặt trời…., theo báo Time dẫn nguồn tin từ Ủy
ban Nobel.
Geim và Novoselov đã chế tạo ra siêu vật liệu graphene vào năm 2004.
Đại học Greenwich đào tạo nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới
Một số nhân vật hoạt động trong lĩnh vực chính
trị, nghiên cứu khoa học, thương mại, giải trí... từng học tại ĐH
Greenwich, Anh.
Trường đại học của nước Anh có bề dày lịch sử 126 năm. Không chỉ nổi
tiếng với những toà lâu đài cổ kính từng xuất hiện trong hàng chục bộ
phim bom tấn của Hollywood, Đại học Greenwich còn là cái nôi đào tạo
nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới.
Trường có cơ sở liên kết tại Việt Nam với Tổ chức Giáo dục FPT từ năm
2009. Đại học Greenwich tại Việt Nam có trên 6.000 sinh viên từ hơn 10
quốc gia trên thế giới đã và đang theo học như Pháp, Hà Lan, Nhật Bản,
Nigeria, Hàn Quốc...
Dưới đây là những nhân vật nổi bật từng theo học tại ĐH Greenwich (Anh) do Tổ chức Giáo dục FPT cung cấp.
Charles K. Kao - Nhà khoa học đoạt giải Nobel
Charles K.Kao là kỹ sư điện và nhà vật lý đoạt giải Nobel năm 2009. Ông
là người đi tiên phong trong việc phát triển và sử dụng sợi quang trong
viễn thông. Phát minh của ông là bước đột phá lớn đặt nền móng cho quá
trình phát triển của Internet.
Ông Charles K.Kao từng đoạt giải Nobel Vật lý năm 2009.
Nhà khoa học đoạt giải Nobel được mệnh danh là “Cha đẻ của băng thông
rộng” và “Ông tổ của sợi quang học”. Chủ tịch Học viện Kỹ thuật Quốc gia
Anh từng chia sẻ, truyền thông hay kể cả Internet sẽ không tồn tại nếu
không có phát minh về sợi quang của Charles K.Kao.
Gareth Thomas - Cựu bộ trưởng Ngoại giao Anh
Gareth Thomas có nhiều đóng góp trong phát triển quan hệ giữa Anh và Việt Nam.
Gareth Richard Thomas từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao Anh. Trong
thời gian đương nhiệm, ông đã có nhiều chuyến thăm và làm việc tại Việt
Nam. Thời gian này đánh dấu nhiều thay đổi trong quan hệ giữa Anh và
Việt Nam từ quan hệ viện trợ trở thành đối tác chiến lược.
Gareth Thomas từng cùng Thứ trưởng Ngoại giao Anh Alan Duncan giúp đỡ
Việt Nam trong các lĩnh vực bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu và quản
lý điều hành nhà nước. Quan trọng nhất là ông đã góp một cánh tay trong
mở rộng hợp tác giáo dục và các lĩnh vực công nghiệp khác tại Việt Nam.
George Rose - Doanh nhân
George gia nhập Tổ chức Hàng không Anh năm 1992 và là thành viên Ban
giám đốc của Công ty Quốc phòng, An ninh và Hàng không quốc tế Anh BAE
Systems. Ông đồng thời là Giám đốc điều hành Công ty Lưới điện Quốc gia
Transco. Song song đó là thành viên của ban quản trị Tập đoàn Hàng không
và vũ trụ SAB AB của Thụy Điển.
Doanh nhân George Rose là cựu sinh viên trường đại học Greenwich.
George Rose từng có tên trong danh sách 100 người quyền lực của Tạp chí Times năm 2006.
Bên cạnh đó, Đại học Greenwich còn là nơi học tập của nữ ca sĩ nhạc pop
Natasha Bedingfield, diễn viên trẻ John Boyega (ngôi sao mới nổi trong
loạt phim Star Wars) hay người dẫn chương trình Jme.
Một số nhân vật nổi tiếng khác từng là sinh viên ở đây có nữ ca sĩ nhạc
jazz Sarah Gillespie, nhà văn Helen Bailey, cầu thủ bóng đá Leo Fortune
- West, nữ diễn viên Pipa Guar, cùng nhiều chính trị gia từng làm bộ
trưởng và chủ tịch những liên đoàn, hiệp hội lớn của Anh.
Năm 2017, Đại học Greenwich Việt Nam tuyển sinh các chuyên ngành
Công nghệ thông tin, Thiết kế đồ họa và Quản trị Kinh doanh (Quản trị
Marketing, Quản trị Tài chính và Quản trị Sự kiện).
Sinh viên hoàn thành khoá học tại Việt Nam được kiểm định chất
lượng và nhận bằng cử nhân có giá trị toàn cầu của Đại học Greenwich.
Đối tượng tuyển sinh gồm học sinh tốt nghiệp THPT hoặc tương đương,
sinh viên chuyển đổi tín chỉ từ các trường đại học và cao đẳng khác.
Trường ưu tiên tuyển thẳng đối với thí sinh có điểm tổng kết lớp 11 hoặc
kỳ I lớp 12 từ 6.5 trở lên hoặc điểm tổng một trong ba môn toán, tiếng
Anh và tin học từ 7.0 trở lên.
Theo VnExpress
Giải Nobel Vật lý 2009 thuộc về ba nhà khoa học Mỹ
TP - Chiều 6/10, Ủy ban Giải thưởng Nobel 2009 thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học Hoàng gia Thụy Điển công bố giải Nobel Vật lý năm nay thuộc về ba
nhà khoa học Mỹ vì đã có những cống hiến to lớn vào công nghệ truyền dẫn
thông tin và hình ảnh kỹ thuật số qua hệ thống dây cáp sợi quang.
Giáo sư Willard Boyle (trái) và Giáo sư George Smith đang làm thực nghiệm truyền dẫn tín hiệu ảnh kỹ thuật số
Trang web chính thức của Ủy ban Giải thưởng Nobel www.nobelprize.org
công bố rằng: một nửa Giải thưởng Nobel Vật lý 2009 thuộc về Giáo sư
Charles K. Kao vì ông là người đầu tiên đạt được các thành tựu truyền
dẫn các tín hiệu dưới dạng ánh sáng qua cáp sợi quang.
Nửa còn lại của Giải thưởng Nobel Vật lý năm nay chia
đều cho Giáo sư Willard S. Boyle và Giáo sư George E. Smith vì đã sáng
chế ra công nghệ bán dẫn số hóa các hình ảnh và đọc được các tín hiệu số
thường được gọi là công nghệ CCD sensor.
Phát minh của hai ông dựa trên hiệu ứng từ phát minh về
quang điện của nhà Vật lý thiên tài Albert Eistein - người đoạt giải
Nobel vật lý năm 1921. Công nghệ CCD được ứng dụng trong ảnh kỹ thuật
số, ghi hình và truyền hình qua và từ vệ tinh...
Ngân khoản Giải thưởng Nobel Vật lý 2009 trị giá 10 triệu kronor Thụy Điển (1,4 triệu USD).
Giáo sư Charles K. Kao
Mang hai quốc tịch
Trang thông tin điện tử Wikipedia.org cho biết: Giáo sư
Charles K. Kao là người gốc Hoa hiện nay đang mang hai quốc tịch Mỹ và
Anh.
Ông Charles K. Kao sinh năm 1933 tại quận Jinshan,
Thượng Hải, Trung Quốc, trong một gia đình có hai anh em trai, bố làm
nghề luật sư. Sau khi học hết trung học phổ thông, ông vào học ngành
điện Trường Cao đẳng Kỹ thuật Saint Joseph ở Hong Kong. Sau đó ông sang
học tiếp để năm 1957 lấy bằng kỹ sư điện tại trường Cao đẳng Hoàng gia
London, Vương quốc Anh.
Tiếp đó, cũng tại trường này, ông tiếp tục nghiên cứu
và được cấp bằng thạc sĩ, rồi năm 1965 nhận bằng tiến sĩ điện. Trong khi
nghiên cứu sinh tiến sĩ, Giáo sư Charles K. Kao làm việc như một kỹ sư
điện cho Cty Standard Telephones and Cables (STC) của Anh và nghiên cứu
ngay tại Phòng thí nghiệm Viễn thông Standard ở Harlow, Vương quốc Anh.
Hiện nay ông vừa giảng dạy tại trường Đại học Hong
Kong, Trung Quốc, vừa nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Viễn thông
Standard ở Harlow, Anh.
Năm 1966 ông đã công bố kết quả phát minh công nghệ
truyền dẫn các tín hiệu dưới dạng ánh sáng qua cáp sợi quang, đạt tới độ
xa hơn 100 km so với chỉ 20m truyền dẫn qua cáp thông thường cùng thời.
Từng tham gia Hải quân Hoàng gia Canada
Giáo sư Willard S. Boyle là người Mỹ gốc Canada sinh
ngày 19/8/1924 tại Amherst, tỉnh Nova Scotia, Canada. Ông từng tham gia
lực lượng Hải quân Hoàng gia Canada trong Thế chiến II.
Từ năm 1947 ông liên tục nhận bằng cử nhân vật lý, 1948
bằng thạc sĩ vật lý, 1950 bằng tiến sĩ vật lý đều tại trường Đại học
McGill, Canada. Sau khi nhận bằng tiến sĩ vật lý, Willard Boyle làm việc
một năm tại Phòng Thí nghiệm phóng xạ Canada, hai năm giảng dạy vật lý
tại trường Cao đẳng quân sự Hoàng gia Canada.
Năm 1953 ông sang Mỹ làm việc tại phòng thí nghiệm Bell
Labs và đã phát minh ra tia laser đỏ tại đây. Ông được mời chọn giúp
nơi đổ bộ trên Mặt trăng cho Chương trình Vũ trụ Appollo của Mỹ. Sau đó
ông lại trở về làm việc tại Bell Labs từ năm 1975 đến 1979 khi ông về
hưu.
Trước đó, ông và Giáo sư George E. Smith đã phát minh
ra công nghệ CCD năm 1969. Hiện nay ông đang sống tại quê hương ở tỉnh
Nova Scotia, Canada.
Giáo sư George E. Smith sinh ngày 10/5/1930 tại White
Plains, New York, Hoa Kỳ. Năm 1955 ông tốt nghiệp ngành vật lý, Đại học
Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Bốn năm sau ông được nhận bằng tiến sĩ vật lý tại Đại
học Chicago, Mỹ, sau đó về nghiên cứu tại phòng thí nghiệm Bell Labs từ
năm 1959 đến 1986.
Trong thời kỳ này, năm 1969 Giáo sư George E. Smith đã
cùng với Giáo sư Willard S. Boyle phát minh ra công nghệ số hóa hình ảnh
và đọc tín hiệu số CCD để được trao Giải thưởng Nobel Vật lý 2009.
Nguyễn Đại Phượng
Giải Nobel Vật lý 2009
19/10/2009 11:53 -
Ngày 6/10/2009 Hàn lâm Viện Khoa học Hoàng gia Thụy
Điển đã thông báo trao giải Nobel Vật lý 2009 cho ba nhà khoa học. Công
trình của ba nhà Vật lý đã đặt cơ sở cho công nghệ thông tin hiện đại
(modern information technology). Charles K.Kao đưa ra ý tưởng truyền
thông bằng cáp quang và nghiên cứu cách làm giảm thiểu cường độ ánh sáng
khi lan truyền trong các sợi quang học. Willard S.Boyle và George
E.Smith sáng chế thiết bị CCD (charge-coupled device) mà hiện nay là
linh kiện chính yếu của nhiều camera số và tất cả thiết bị công nghệ cao
sử dụng trong y học và trong khoa học nói chung, trong thiên văn, trong
vũ trụ (Hubble space telescope).
Truyền ánh sáng trong sợi để thực hiện truyền thông quang học Kính được
chế tạo từ 4500 năm về trước ở Mesopotamia và Ai Cập. Con người đã biết
tạo ra những hình ảnh lung linh bằng cách tác dụng ánh sáng vào kính. Và
100 năm trước người ta đã tìm cách bắt nhốt các tia sáng. Một tia sáng
nếu hướng vào một sợi quang (optical fiber) thì tia sáng sẽ đập vào
thành sợi qua lại khi hệ số chiết xuất của kính lớn hơn của môi trường
xung quanh (hình 1) và ánh sáng lan truyền về phía trước. Và ý tưởng
truyền thông tin bằng cáp quang xuất hiện. Truyền
thông bằng cáp quang trong thời đại ngày nay là một khái niệm thông
thường, nhưng khi K.Kao đưa ra ý tưởng này thì nó được đón nhận một cách
bi quan.
Từ trái sang phải: Charles K.Kao (1/2 giải), Phòng thí
nghiệm Standard Telecommunication, Harlow, Anh; ĐH Trung Quốc HongKong,
sinh năm 1933, Thượng Hải, Trung Quốc. Willard S.Boyle (1/4 giải),Phòng thí nghiệm Bell,Murray Hill,NJ.Mỹ, sinh năm 1924,Amherst, NS, Canada George E.Smith (1/4 giải), Phòng thí nghiệm Bell, Murray Hill, NJ.Mỹ, sinh năm 1930. Số tiền thưởng của giải: 10 triệu SEK (krona Thụy Điển), khoảng 1.435.441 USD (8/10/2009)
Các sợi quang ngắn được ứng dụng vào ngành y vào năm 1930. Người ta đã
bọc sợi quang bằng một vỏ bọc có hệ số chiết xuất nhỏ hơn. Song đối với
một quãng đường dài thì không có hiệu quả. Người ta nghĩ đến việc dùng
ánh sáng laser. Mọi thông tin có thể mã hóa thành số 1 & 0, song sau
quãng đường 20m thì chỉ còn lại 1% ánh sáng. Nhiều nghiên cứu ở các
phòng thí nghiệm khác nhau trên thế giới đều không dẫn đến kết quả khả
quan.
Hình 1. Sợi quang rất mảnh
chừng 125 micro mét. Tâm sợi có đường kính khoảng 10 micre mét, nhỏ
nhiều hơn một sợi tóc; ánh sáng hồng ngoại với bước sóng 1,55 micro mét
sẽ bị giảm cường độ ít nhất dọc sợi quang và hiện nay được dùng trong
truyền thông quang học.
Đây là một thử thách lớn đối với Charles Kuen Kao, lúc bấy giờ là một kỹ
sư trẻ tuổi tại STL (Standard Telecommunication). Sinh năm 1933 ở
Thượng Hải ông bảo vệ Ph.D tại Đại học London năm 1965. Mục đích của ông
là làm sao cho 1% ánh sáng nói trên sẽ đi xa hơn. Ngoài việc nghiên cứu
sự lan truyền ánh sáng trong sợi quang K.Kao đã đi đúng hướng khi xét
đến các tính chất của vật liệu cấu tạo nên các cáp quang. Tháng giêng
năm 1966 K.Kao đưa ra các kết luận nghiên cứu của mình tại London và
công bố kết quả vào tháng sáu [1]: sự hao tổn ánh sáng là do hiện tượng
hấp thụ (absorption) và khuếch tán (scattering) vì các tạp chất đặc biệt
ion sắt. Những tạp chất trong sợi quang làm giảm thiểu cường độ ánh
sáng truyền đi. K.Kao cùng
T.W.Davies, M.W.Jones và C.R. Wright đã thực hiện nhiều thí nghiệm đo sự
giảm cường độ ánh sáng khi lan truyền trong sợi quang theo độ dài của
nhiều bước sóng. K.Kao đưa
ra ý tưởng dùng silica (SiO2) nóng chảy. Nhiệt độ nóng chảy là 2000oC,
một nhiệt độ khó điều khiển nhưng có thể giúp chế tạo những sợi siêu
nhỏ. Sau 4 năm các nhà công nghệ tại Corning Glass Works (Mỹ) với hơn
100 năm kinh nghiệm đã chế tạo được một cáp quang dài 1km nhờ công nghệ
gọi là CVD (Chemical Vapor Deposition) đạt các tiêu chuẩn mà K.Kao đã đề
ra. Hệ thống
cáp quang xuyên đại dương được lắp đặt đầu tiên năm 1988 dài 6000 km nối
liền châu Mỹ và châu Âu. Ngày nay độ dài cáp quang lên đến 1 tỷ km (độ
dài 25.000 lần quanh Trái đất). Một ví dụ
đặc biệt đáng chú ý là việc sử dụng mạng cáp quang phát triển tại LHC
(Máy va chạm hadron lớn) tại CERN để chuyển tải số lượng thông tin khổng
lồ thu được từ các detector đến tất cả trung tâm nghiên cứu lớn trên
toàn thế giới.
Mạch bán dẫn ghi hình – cảm biến CCD (Imaging semiconductor circuit –the CCD sensor) Lịch sử
phát triển các camera và ghi lại hình là một lịch sử lâu dài trong quá
khứ. Có lẽ bức ảnh chụp đầu tiên còn lại hiện nay là do J.N.Niepce thực
hiện năm 1826 nhờ một camera với thời gian thu ảnh bằng 8 giờ. Âm bản
làm bằng một lớp bitumen. Phim cuộn được sáng chế năm 1887 và năm 1888
camera với phim cuộn được bán trên thị trường. Năm 1908 G.Lippman đoạt giải Nobel vì phát minh ra ảnh màu.
Hình 2 . Minh họa nghệ thuật truyền thông toàn cầu
Song việc ghi ảnh chỉ trở thành một cuộc cách mạng số nhờ sự phát minh ra CCD. Năm 1969
Willard S.Boyle và George E. Smith tại Phòng thí nghiệm Bell (Bell
Laboratories) phác thảo sơ đồ cấu trúc của CCD và sau đó thực hiện thành
công [2]. CCD là tên do hai tác giả trên đặt cho thiết bị. CCD còn
được gọi một cách đơn giản tuy không chính xác lắm là image sensor – cảm
biến hình ảnh hoặc electron eye- mắt điện tử . Tiếng Anh: CCD là Charge
(Điện tích)- Coupled (Kết nối) Device (Thiết bị). CCD được sáng chế dựa
trên các tính chất của MOS (Metal Oxide Semiconductor) để tạo ra một
thiết bị tích hợp nhằm thu và đọc thông tin. Boyle sinh năm 1924 tại Amherst, Nova Scotia. Smith sinh năm 1930 tại NewYork. Cả hai làm việc tại Bell Laboratories. CCD được
làm bằng silicon, kích thước cỡ một con tem, bản silicon này chứa hàng
triệu tế bào quang học (photocell) nhạy cảm với ánh sáng (hình 2). Kỹ
thuật ghi hình dựa trên hiện tượng quang điện (Einstein, Nobel 1921):
ánh sáng đập vào bản silicon và đánh bật ra các electron trong các tế
bào quang điện. Các electron được giải thoát tích tụ lại trong tế bào
như trong một cái giếng. ánh sáng càng mạnh thì số electron càng nhiều
và chúng chiếm đầy các giếng đó. Khi
một điện thế được áp vào bề mặt CCD thì nội dung các giếng sẽ được đọc:
từng hàng một các electron sẽ trượt khỏi bề mặt để đi vào một băng
chuyền (hình 3). Như thế ví dụ một bề mặt 10 x 10 điểm ảnh sẽ biến thành
100 điểm xếp theo một chuỗi dài. Bằng cách đó CCD biến một hình quang
học thành một chuỗi số 1 & 0. Mỗi tế bào quang như thế được tái tạo
thành một điểm ảnh, một pixel. Ví dụ một CCD chứa 1280 x 1024 pixels sẽ
có một dung tích là 1,3 megapixels. Camera video sử dụng CCD xuất hiện
vào năm 1970. Thiết bị
CCD cung cấp hình ảnh đen trắng, muốn có màu phải dùng các màng lọc
(filter) như màng lọc RGB đặt trên mỗi tế bào quang điện (màng lọc
Bayer). Công nghệ
CCD sau này bị cạnh tranh bởi công nghệ CMOS (Complementary Metal Oxide
Semiconductor). Cả hai công nghệ đều sử dụng hiện tượng quang điện song
trong CCD các electron được tập hợp thành hàng để được đọc ra thì trong
CMOS mỗi tế bào được đọc tại chỗ ở vị trí của mình. CMOS ít tiêu năng
lượng hơn song chất lượng hình ảnh có phần kém hơn.
Hình 3 . Nguyên lý hoạt
động: CCD chuyển các hình ảnh quang học thành các tín hiệu điện tử, các
tín hiệu này sau đó được dịch mã sang số 1 & 0
Hiện nay CCD là thiết bị chính yếu trong tất cả các camera số sử dụng
trong mọi lĩnh vực, từ giải trí, y học, nghiên cứu, vũ trụ...Kính viễn
vọng không gian Hubble (Hubble Space Telescope) được trang bị nhiều
camera CCD trong nhiều mục đích khác nhau. *** Những công
trình của ba nhà vật lý Charles K.Kao và Willard S.Boyle, George E.Smith
đã kiến thiết hai cuộc cách mạng trong công nghệ quang học làm thay đổi
hoàn toàn bộ mặt truyền thông của thế giới số ngày nay. Không thể kể
hết các ứng dụng to lớn phong phú do các công trình của họ đem lại cho y
học, nghiên cứu khoa học, truyền thông trên Trái đất, trong vũ
trụ...Các nhà khoa học trên thế giới chúc mừng quyết định trao giải
Nobel Vật lý 2009 cho ba nhà vật lý Charles K.Kao ,Willard S.Boyle,
George E.Smith của Hàn lâm Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển. CC. biên dịch ---------------- [1] C.K.Kao and G.A. Hockham, “Dielectric-Fibre Surface Waveguides for optical frequencies” Proc. IEEE, 113, 1151 (1966). [2] W.S.Boyle & G.E.Smith, Bell Systems Technical Journal 49 (1970) 587 -93:Leon Max Lederman 1922- Mỹ Vật Lý
Leon Max Lederman , (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1922, New York , NY, Hoa Kỳ), nhà vật lý người Mỹ, cùng vớiMelvin Schwartz vàJack Steinberger , nhận giải Nobel Vật lý năm 1988 cho nghiên cứu chung về neutrino.
Lederman được đào tạo tại trường Cao đẳng Thành phố New York (BS, 1943) và nhận bằng Tiến sĩ. trong ngành vật lý từ Đại học Columbia
, thành phố New York, năm 1951. Ông gia nhập khoa tại Columbia cùng năm
và trở thành giáo sư đầy đủ ở đó vào năm 1958. Ông là giám đốc Phòng thí nghiệm gia tốc quốc gia Fermi ở Batavia, Ill., 1979-1989 . Từ năm 1960 đến năm 1962, Lederman cùng với các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Columbia, Schwartz và Steinberger, đã hợp tác trong một thí nghiệm quan trọng tại Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven ở Long Island, NY Họ đã sử dụng máy gia tốc hạt để sản xuất chùm phòng thí nghiệm đầu tiênneutrino - các hạt hạ nguyên tử không thể phát hiện được và không có điện tích và đi theo tốc độ ánh sáng .
Người ta đã biết rằng khi các neutrino tương tác với vật chất, hoặc các
electron hoặc các hạt giống electron được gọi là muon (meson mu) được
tạo ra. Tuy nhiên, người ta không biết liệu điều này cho thấy sự tồn tại của hai loại neutrino khác biệt. Công trình của ba nhà khoa học tại Brookhaven đã thiết lập rằng các neutrino tạo ra muon thực sự là một loại neutrino khác biệt (và trước đây chưa biết), một loại mà các nhà khoa học đặt tênmuon neutrino .
Việc phát hiện ra các neutrino muon sau đó đã dẫn đến sự thừa nhận của
một số “gia đình” khác nhau của các hạt hạ nguyên tử, và điều này cuối
cùng dẫn đến mô hình chuẩn, một sơ đồ đã được sử dụng để phân loại tất
cả các hạt cơ bản đã biết.
Các nhà khoa học đạt giải Nobel nghĩ gì về Đức Chúa Trời?
GIÁO SƯ:“Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời, những ngày khác thì không.” Những lời trên là của một nhà vật lý học từng đoạt giải Nobel vật lý – Tiến sĩ Leon Lederman [LED-er-man].
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Việc một nhà khoa học tin rằng Chúa Trời có thể tồn tại có phải là bất thường không?
GIÁO SƯ:Tôi
cũng đã tự hỏi điều đó khi đọc lời bình luận của tiến sĩ Lederman. Vì
vậy tôi đã nghiên cứu những điều một số nhà khoa học đoạt giải Nobel đã
nói về Chúa Trời. Nếu bạn thể dành ra được 15 phút, tôi sẽ rất vui được
thảo luận về những điều mình khám phá được.
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Xin cho tôi biết thêm về lời phát biểu mà Giáo sư đã trích
dẫn vài phút trước. Nhà vật lý học nói rằng, “Có những ngày tôi tin vào
Chúa Trời, những ngày khác thì không” có giải thích thêm chi tiết nào
không?
GIÁO SƯ:Vâng. Không lâu sau khi đoạt giải Nobel vật lý năm 1988, tiến sĩ Leon Lederman đã phát biểu với tờ Chicago Tribune, tôi
xin được trích ở đây, rằng “...Sẽ luôn có chỗ cho Chúa Trời. Nếu chúng
ta khám phá được mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn, đó là ‘Ai đã
thiết lập các quy luật nầy?’ ”
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Từ nhiều năm nay tôi đã được bảo là tất cả các nhà khoa học
đều là người vô thần. Có phải tiến sĩ Lederman là nhà khoa học duy nhất ở
tầm cỡ đoạt giải Nobel tin rằng Chúa Trời tồn tại không?
GIÁO SƯ:Không
phải vậy đâu! Nhà vật lý học người Đức Max Born đoạt giải Nobel vật lý
năm 1954 về cơ khí lượng tử. Có lần ông đã bình luận “Những người cho
rằng nghiên cứu khoa học khiến một người trở nên vô thần, là những người
ngốc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Tại sao ông ấy lại nói như vậy?
GIÁO SƯ:Ông
ấy không nói rõ. Nhưng những nhà khoa học đoạt giải Nobel khác đã giải
thích vì sao tin vào Chúa Trời cũng hoàn toàn có lý đối với họ. Chẳng
hạn, nhà nghiên cứu người Anh gốc Đức, tiến sĩ Ernst Boris Chain đã được
trao giải thưởng Nobel y khoa về công trình nghiên cứu liên quan đến
khả năng chữa trị của pê-ni-xi-lin. Ông đã bình luận “Xác xuất để một sự
kiện như việc hình thành phân tử ADN xảy ra bởi một sự trùng hợp tuyệt
đối là quá nhỏ để có thể được xét đến một cách nghiêm túc...Giả thuyết về quyền năng
chi phối trong sự hình thành và phát triển của các quá trình cần thiết
cho sự sống trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, phải có một bộ não kiểm soát sự sáng tạo.
GIÁO SƯ:Đúng
vậy. Erwin Schrodinger [ER-win SHROH-ding-er], một nhà vật lý học người
Áo tiên phong trong vật lý lượng tử được trao giải Nobel vật lý năm
1933, cũng phát biểu một ý kiến tương tự.
Nhưng Schrodinger đã đi xa hơn mục đích của vũ trụ, đến mục đích của cuộc sống con người. Tôi xin được trích dẫn:
“Tôi hết sức ngạc nhiên rằng bức tranh khoa học của thế giới thực xung quanh tôi thật thiếu hụt.
Nó cho rất nhiều thông tin xác thực và sắp xếp những kinh nghiệm của
chúng ta theo một trật tự thích hợp, đẹp đẽ, nhưng nó lại yên lặng đáng
sợ về tất cả những điều thật sự quan trọng đối với chúng ta. Nó không
thể phân biệt đắng và ngọt, đau buồn và vui sướng. Nó không biết gì về
đẹp hay xấu, tốt hay không tốt, Đức Chúa Trời và cõi đời đời. Đôi khi
khoa học giả vờ trả lời những câu hỏi thuộc về những lĩnh vực nầy, nhưng
những câu trả lời thường ngây ngô đến mức chúng ta không có chiều hướng
xem trọng chúng.”
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Đó đúng là một điểm thú vị. Khoa học tự nhiên quá khách quan
đến mức không thể cho chúng ta biết đâu là đẹp hay xấu, tốt hay không
tốt.
GIÁO SƯ:Đúng vậy. Và việc quyết định liệu Chúa Trời có tồn tại hay không là vượt quá khả năng của khoa học.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Không có thí nghiệm nào của khoa học có thể phát hiện được Chúa Trời.
GIÁO SƯ:Đúng
rồi. Một số lời phát biểu uyên thâm nhất về Chúa Trời đến từ những nhà
khoa học sống trước thời có giải Nobel. Giải thưởng Nobel chỉ được lập
ra vào thế kỷ 20. Nếu giải thưởng này ra đời sớm hơn, nhà toán học và
vật lý học người Pháp vào thế kỷ thứ 17 là Blaise Pascal [blez pas-KAL]
hẳn đã được trao giải.
Pascal
tin rằng Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài qua cái mà ông [Pascal] gọi là
“hai cuốn sách.” Thứ nhất, Đức Chúa Trời bày tỏ sự khôn ngoan và quyền
năng của Ngài qua những tạo vật của Ngài – đó là cuốn sách của cõi thiên
nhiên. Thứ hai, Đức Chúa Trời cho chúng ta thêm thông tin về Ngài trong
lời của Ngài đã được chép ra, đó là Kinh Thánh.
Tôi
xin được trích dẫn Pascal, “Đừng ai nghĩ rằng một người nào đó có khả
năng nghiên cứu sâu xa hay quá kỹ lưỡng quyển sách lời Chúa hay quyển
sách về những công việc của Ngài.”
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Ý tưởng đó mới đối với tôi đấy– ý tưởng rằng cõi thiên nhiên
là một cuốn sách được viết bởi Đức Chúa Trời, và chúng ta có thể học
được một điều gì đó về Đức Chúa Trời bằng cách nghiên cứu thế giới mà
Ngài đã tạo dựng. Tôi muốn biết thêm.
GIÁO SƯ:Bạn
có thể nói rất nhiều về một kỹ sư hay một nghệ sĩ mà không cần phải
từng gặp gỡ người đó. Ngắm một bức tranh hay lái thử một chiếc xe, bạn
có thể biết người đó tài năng đến mức nào, và người đó làm việc cẩn thận
đến đâu.
Tương
tự, Kinh Thánh chép rằng “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức
Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm. Ngày này giảng cho
ngày kia, đêm này tỏ sự tri thức cho đêm nọ.” (Thi Thiên 19:1 & 2)
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, trật tự của các tinh tú bày tỏ sự khôn ngoan và trật tự của Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng.
GIÁO SƯ:Vâng.
Kinh Thánh cho biết thêm rằng cuốn sách của cõi thiên nhiên rõ ràng đến
mức cách duy nhất con người bỏ sót thông điệp của nó là cố ý đóng suy
nghĩ của họ lại.
Sách
Rô-ma trong Kinh Thánh chép rằng “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ
trên trời tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công
bình của những người dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật.Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi, bởi
những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời
đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy,
khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình
được.”
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Khi chúng ta nghiên cứu dải ngân hà hoặc ADN, chúng ta thấy
sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời chứa đựng trong đó.
GIÁO SƯ:Đúng vậy. Pascal còn nói thêm “Đức Chúa Trời đã đưa ra đủ bằng chứng về sự tồn tại của Ngài, để chúng ta có thể tin. Nhưng Ngài không đưa ra đủ bằng chứng để khiến niềm tin đó trở nên ràng buộc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Có phải ông ấy nói rằng Đức Chúa Trời bày tỏ đủ về Ngài để chúng ta có thể tin vào Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không bày tỏ về Ngài một cách thuyết phục để buộc chúng ta phải tin Ngài không?
GIÁO SƯ:Đúng
vậy. Đức Chúa Trời tôn trọng sự khôn ngoan của chúng ta bằng cách
khuyến khích chúng ta tư duy trong quá trình khám phá Ngài. Và Ngài tôn
trọng quyền tự do của chúng ta, bằng cách không buộc chúng ta phải tin
ngược lại với ý chí của mình.
Pascal
nghĩ như vậy bởi vì, thay vì tạo ra chúng ta là những rô-bốt hay con
người máy, Đức Chúa Trời muốn chúng ta lựa chọn Ngài và yêu Ngài. Pascal
nói rằng nếu Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta mọi quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài, điều đó sẽ không sản sinh ra tình yêu, mà là sự khiếp sợ.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Như vậy là có một số lớn các nhà khoa học lỗi lạc tin vào Đức Chúa Trời.
GIÁO SƯ:Đúng vậy. Nhiều nhà khoa học thấy rằng càng học biết nhiều về tự nhiên bao nhiêu, họ càng dễ tin vào Đức Chúa Trời bấy nhiêu.
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Điều đó nhắc tôi nhớ đến phát ngôn của một người nào đó,
rằng: “Thiên nhiên là một hệ quả, mà nguyên nhân là Đức Chúa Trời.”
GIÁO SƯ:Đó là một sự tóm lược toàn hảo cho những gì Pascal và những nhà khoa học khác đã khám phá ra.
Trước
khi hết giờ, tôi muốn được trích dẫn từ nhà vật lý học người Mỹ thế kỷ
hai mươi, tiến sĩ Arthur Holly Compton [KOMP-tun]. Nhờ khám phá ra Hiệu
ứng Compton, liên quan đến tia X, Compton đã được trao giải thưởng Nobel vật lý.
Tiến sĩ Compton
đã viết: “Với tôi, đức tin bắt đầu bởi sự nhận biết rằng một sự khôn
ngoan siêu việt đã dựng nên vũ trụ và tạo nên con người. Không khó để
tôi có niềm tin này, bởi một vũ trụ thông minh, trật tự đã xác nhận cho
phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI
PHỎNG VẤN: Chúng ta đã thảo luận được khá nhiều thông tin trong ngày
hôm nay. Giáo sư sẽ tóm lược những điều các nhà khoa học đoạt giải Nobel
nghĩ về Đức Chúa Trời như thế nào?
GIÁO SƯ:Tiến
sĩ Leon Lederman đã từng nói: “Có những ngày tôi tin vào Chúa Trời,
những ngày khác thì không. Sẽ luôn luôn có chỗ cho Chúa Trời. Dù chúng
ta có khám phá ra mọi quy luật của vật lý, câu hỏi vẫn còn đó: ‘Ai đã
thiết lập các quy luật nầy?’”
Tiến sĩ Ernst Chain nhìn thấy mục đích và sự khôn ngoan trong các cấu trúc tự nhiên như ADN. Ông kết luận rằng: “Giả thuyết về quyền năng chi phối … trở nên một điều thiết yếu trong bất cứ lối giải thích nào.”
Tiến sĩ Compton
gọi Đức Chúa Trời là “sự khôn ngoan siêu việt” và nói rằng: “một vũ trụ
thông minh, trật tự đã xác nhận cho phát ngôn vĩ đại nhất: ‘Ban đầu,
Đức Chúa Trời dựng nên trời đất...’”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, không hẳn các nhà khoa học đoạt giải Nobel đều là người vô thần.
GIÁO SƯ:Đúng
vậy. Tiến sĩ Richard đến từ đại học Stanford [STAN-ford] đã nhận xét:
“Số lượng các nhà khoa học vô thần cũng nhiều như số các tài xế xe tải
vô thần.”
Và
đây là lời trích dẫn cuối cùng từ nhà vật lý học đoạt giải Nobel vật lý
năm 1997. Tiến sĩ William Phillips nói rằng ông không thể đi hết sảnh
nhà thờ của mình mà không gặp hàng chục nhà khoa học.
Trí
tuệ không phải là một trở lực đối với niềm tin nơi Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời kêu gọi chúng ta yêu Ngài bằng lý trí của chúng ta.
Abstract: The search for the
‘God particle’ is over, but the story of God particle is not! The
question about Higgs boson’s existence is now answered, but new
questions arise. Inspired by these questions, Physics will live forever,
and the wish of discovering lives forever, too. Với sự hiện diện
của hạt Higgs, bài toán thống nhất 4 lực vừa loé lên niềm hy vọng sẽ có
cơ may nắm lấy “Chiếc Chén Thánh” (The Holy Grail) của vật lý. Nhưng
“Chiếc Chén Thánh” ấy lập tức lại bị đẩy ra xa… Tại sao vậy?
Theo Mô hình Chuẩn của vật lý hạt cơ bản,
hạt Higgs là một boson truyền khối lượng. Sự tồn tại của nó đã được
Peter Higgs dự đoán trên lý thuyết từ những năm 1960. Vai trò của nó
quan trọng đến nỗi Leon Lederman, nhà vật lý đoạt giải Nobel năm
1988, đã gọi đó là “Hạt của Chúa” (God particle). Trong cuốn “The
God particle” xuất bản năm 1993, Lederman thuyết phục chính phủ
Mỹ cấp cho các nhà khoa học 10 tỷ USD để chế tạo một chiếc máy
gia tốc đủ mạnh hòng tìm kiếm Hạt của Chúa. Ông nói quả quyết:
“Hãy giao cho chúng tôi 10 tỷ dollars và các nhà vật lý sẽ giao
nộp Chúa cho các ông!”[1].
Quả nhiên 19 năm sau, ngày 04.07.2012,
các nhà khoa học tại CERN đã “giao nộp Chúa” cho toàn nhân loại. Tờ
Daily Mail của Anh loan tin: “Cuộc săn lùng ‘Hạt của Chúa’ đã kết thúc”
(The search for the ‘God particle’ is over)!
Đó là một sự kiện vĩ đại có khả năng làm
thay đổi thế giới, được ví như sự kiện Christophe Colomb khám phá ra
Châu Mỹ năm 1492, hoặc Neil Amstrong đặt chân lên Mặt Trăng năm 1969,
hay thậm chí còn hơn thế nữa.
Suốt tháng 7 vừa qua, câu chuyện về hạt
Higgs được thảo luận sôi nổi trên khắp địa cầu, từ những trao đổi cá
nhân cho tới các diễn đàn quốc gia, quốc tế. Hiếm khi một sự kiện khoa
học gây chấn động dư luận đến như thế. Những người không chuyên hỏi nhau
“Higgs là cái gì vậy?”, còn những người yêu vật lý trên toàn thế giới
thì thở phào: rốt cuộc thì loại hạt được coi là “the most elusive” – hay
lảng tránh và khó nắm bắt nhất – sau mấy chục năm cũng đã lộ diện!
Mặc dù CERN thận trọng tuyên bố rằng họ
chỉ mới tìm thấy một loại hạt giống như hạt Higgs, nhưng hầu hết mọi
người nghĩ rằng đó chính là hạt Higgs. Higgs boson đã có mặt như một đại
diện cuối cùng, bổ khuyết vào chỗ trống chưa được kiểm chứng trong Mô
hình Chuẩn suốt mấy chục năm qua. Thiếu nó thì Mô hình Chuẩn giống như
một ngôi nhà có cấu trúc không an toàn, có nguy cơ sụp đổ bất kỳ lúc
nào. Có nó thì Mô hình Chuẩn trở thành một kỳ đài khoa học nguy nga,
tráng lệ, vững chắc.
Vậy phải chăng câu chuyện về “Hạt của Chúa” đã kết thúc?
KHÔNG! Cuộc săn lùng Hạt của Chúa về căn
bản đã kết thúc, nhưng câu chuyện về Hạt của Chúa không kết thúc! Nó mở
ra những chương mới với những câu hỏi mới vô cùng hấp dẫn, báo hiệu một
giai đoạn mới của các khám phá vĩ đại đã lấp ló ở phía chân trời.
1. Viễn cảnh vật lý sau ngày 04.07.2012:
Ngày 04 Tháng 07 năm 2012 sẽ đi vào lịch
sử khoa học như một trong những ngày trọng đại nhất, khi CERN thông báo
đã khám phá ra loại hạt mới giống như hạt Higgs. Khai mạc buổi lễ, Tổng
giám đốc CERN, ngài Rolf-Dieter Heuer, long trọng tuyên bố:
“Chúng ta đã đạt tới một cột mốc vô cùng quan trọng trong sự hiểu biết
tự nhiên. Việc khám phá ra một loại hạt phù hợp với Higgs boson mở ra
một con đường đi tới những nghiên cứu chi tiết hơn, đòi hỏi những thống
kê lớn hơn cho phép xác định những tính chất của loại hạt mới này, và có
khả năng rọi ánh sáng vào những bí mật của vũ trụ”[2].
Paul Dauncey,
giáo sư vật lý hạt cơ bản tại Đại học Imperial ở London nói: “Đây là
một đột phá trọng đại đối với sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ. Nếu
loại hạt mới này đúng là hạt Higgs như chúng ta nghĩ, thì đó là một loại
hạt hoàn toàn mới chưa từng thấy. Chúng ta có thể coi đây là phần cuối
cùng của một thách đố, hoàn tất cái được xem như là Lý thuyết Tiêu
chuẩn. Nhưng không ai nghĩ đó là điểm kết thúc của câu chuyện, mà có thể
là điểm khởi đầu cho một chương mới của vật lý – bước đầu tiên đi tới
một cái nhìn căn bản hơn đối với vấn đề làm thế nào mà hình thành nên
vạn vật. Đó là lý do vì sao các nhà vật lý bị kích thích; chúng ta chỉ
không biết rõ điều này sẽ dẫn đến đâu mà thôi”[3].
Giáo sư Jerome Gauntlett, chủ
nhiệm khoa vật lý lý thuyết cũng thuộc Đại học Imperial, nhận định: “Sự
kiện khám phá ra Higgs boson thực sự là một khoảnh khắc vĩ đại của khoa
học. Ý tưởng của nó bắt nguồn từ những năm 1960 với những công trình
đóng góp của Peter Higgs tại Đại học Edinburgh và bởi Tom Kibble và nhà
vật lý đoạt Giải Nobel Abdus Salam tại Đại học Imperial. Hơn 50 năm sau
tư tưởng thâm sâu của họ đã được xác nhận một cách đầy ấn tượng và đây
là thời điểm huy hoàng của nền khoa học Anh. Giống như mọi khám phá vĩ
đại khác, những nghiên cứu chi tiết hơn về hạt Higgs có khả năng có một
tác động vô cùng lớn đối với những câu hỏi mang tính nền tảng của khoa
học trong tương lai. Tôi cho rằng nó sẽ làm sáng tỏ bản chất bí ẩn của
vật chất tối đang xâm chiếm vũ trụ, cho biết liệu có tồn tại những chiều
bổ sung đối với không gian 3 chiều mà chúng ta vẫn quan sát hay không,
và cuối cùng là làm thế nào để thống nhất Mô hình Chuẩn của vật lý hạt
cơ bản với Lý thuyết Hấp dẫn của Einstein”[4].
Nhưng muốn hiểu rõ những ý kiến nói trên, phải có một cái nhìn hệ thống và toàn cảnh đối với Higgs boson.
Nhà vật lý lý thuyết Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc nghiên cứu tại CNRS[5],
Giáo sư Đại học Marie Curie ở Pháp, đã đưa ra một cái nhìn toàn cảnh và
hệ thống về Higgs boson trong bài báo mới nhất của ông: “Hạt Higgs, lực
cơ bản thứ năm mới lạ?”[6].
2. Lực cơ bản thứ năm, một câu hỏi thách thức:
Tiêu đề của bài báo đã lập tức gợi lên
một suy ngẫm triết học mà Immanuel Kant từng nhắn nhủ: “Mỗi câu trả lời
lại làm dấy lên những câu hỏi mới”.
Vâng, sự tồn tại của hạt Higgs đã được
trả lời, và lập tức hàng loạt câu hỏi mới đã xuất hiện. Đó là quy trình
bất diệt của nhận thức làm cho cuộc sống của chúng ta mãi mãi lý thú và
hấp dẫn bởi sự thách thức và lôi cuốn của cái mới lạ.
Albert Einstein từng nói: “Cái đẹp nhất
mà chúng ta có thể chiêm nghiệm là sự bí ẩn. Đó là ngọn nguồn của mọi
nghệ thuật và khoa học”[7]. Hạt Higgs đã lộ diện, vì thế cái đẹp bây giờ nằm ở những câu hỏi nẩy sinh chính từ sự lộ diện đó:
“Tuy trường Higgs truyền khối lượng cho
vạn vật, nhưng cái gì mang lại cho chính hạt Higgs cái khối lượng 126
Gev/c2 mà chiếc máy siêu gia tốc LHC vừa khám phá ra?”, GS Yêm chất vấn,
rồi ông lưu ý: “Đừng quên là khoảng 96% năng-khối lượng trong toàn vũ
(mệnh danh là năng lượng tối và vật chất tối) hãy còn ở ngoài sự hiểu
biết hiện nay của con người”.
Bài viết của GS Phạm Xuân Yêm là một bài
báo “khổng lồ” với khoảng 7500 chữ và rất nhiều chi tiết học thuật làm
cho người không chuyên rất khó nắm bắt, nhưng tư tưởng xuyên suốt của
bài báo lại biểu lộ một cách rõ ràng và lý thú ở ngay cái tiêu đề: Hạt
Higgs, lực cơ bản thứ năm mới lạ?
Đó là một câu hỏi rất lớn, bởi nó đụng
tới nền tảng của vật lý, và là một câu hỏi thách thức, bởi nếu không trả
lời được câu hỏi đó thì vật lý không bao giờ có thể thoả mãn được khát
vọng “biết được ý Chúa” của Albert Einstein nói riêng và của các nhà vật
lý nói chung.
Nhưng để cảm nhận được tầm mức sâu sắc
của câu hỏi lớn nói trên, không thể không nhắc lại rằng trước sự kiện
khám phá ra hạt Higgs, khoa học đã biết 4 lực cơ bản: hấp dẫn, điện từ,
hạt nhân yếu, hạt nhân mạnh. Lý thuyết thống nhất vật lý hiện đại, dưới
tên gọi “TOE – Theory of Everything” (Lý thuyết về mọi thứ) hoặc “The
Final Theory” (Lý thuyết cuối cùng) trong hàng thập kỷ qua đã và đang
dồn mọi nỗ lực vào việc thống nhất 4 lực cơ bản. Năm 1969, ba nhà khoa
học là Steven Weinberg, Sheldon Glashow và Abdus Salam chia nhau Giải
Nobel vì đã chứng minh được bản chất thống nhất của lực điện từ với lực
hạt nhân yếu. Thành công vang dội đó làm cháy bùng lên niềm hy vọng rằng
rốt cuộc rồi vật lý sẽ chứng minh được bản chất thống nhất của 4 lực –
“tất cả là một, một là tất cả”.
Đó chính là lý do ra đời tên gọi “Lý
thuyết về mọi thứ”, hoặc “Lý thuyết cuối cùng”, mà về mặt triết học, có
thể thấy ngay rằng những tên gọi này không ổn. Cả trực giác lẫn logic
đều cho thấy không thể có một túi khôn nào cho phép giải thích mọi thứ,
không thể có một câu trả lời nào là cuối cùng mà không cần giải thích
thêm.
Nhưng vật lý những năm 1970-1980 đã chấp
nhận những tên gọi đó. Không phải do các nhà vật lý kém triết học. Đơn
giản vì họ tin rằng con đường thống nhất vật lý là tất yếu, và nếu đã là
tất yếu thì trước sau nó phải đi tới đích cuối cùng.
Nhưng chẳng bao lâu sau, trên con đường
thống nhất vật lý, người ta gặp phải trở ngại vô cùng lớn khi cố gắng
hợp nhất lực hấp dẫn vào trong khuôn khổ của vật lý hạt cơ bản. Trong
bối cảnh đó, hạt Higgs càng được coi là một ứng cử viên sáng giá cho mục
tiêu hợp nhất này, bởi nó là hạt truyền khối lượng cho các hạt khác,
tức là nguồn gốc sâu xa tạo nên trường hấp dẫn.
Madeleine Nash, tác giả bài báo “Unfinished Symphony”[8]
trên tạp chí Times ngày 31.12.1999 là một trong những người tin tưởng
vào “ứng cử viên Higgs” cho một lý thuyết thống nhất, khi bà nói rằng
với chiếc máy LHC bắt đầu đi vào hoạt động tại Geneve từ năm 2005, sẽ có
cơ may khám phá ra Hạt của Chúa, và do đó sẽ có cơ may dẫn tới việc
hoàn thành “Bản giao hưởng bỏ dở” của Einstein, tức Lý thuyết Trường
Thống Nhất (Unified Field Theory) do Albert Einstein khởi xướng từ những
năm 1920, mà TOE sau này chỉ là một hậu duệ nối tiếp.
Giờ phút này, có lẽ Nash đang là một
trong những người phấn khởi nhất với việc khám phá ra hạt Higgs. Nhưng
nếu bà được đọc bài báo của GS Phạm Xuân Yêm, “Hạt Higgs, lực cơ bản thứ
năm mới lạ?”, hẳn là bà sẽ phải bình tâm suy nghĩ lại: Nếu quả thật tồn
tại một loại lực mới, lực thứ năm, thì mục tiêu “biết được ý Chúa” vẫn
còn xa vời lắm.
Thật vậy, khi hạt Higgs vẫn còn là một dự
đoán, những môn đệ của Lý thuyết về mọi thứ vẫn thường nghĩ rằng nếu
thống nhất được 4 lực trong Siêu lực (superforce) thì sứ mệnh căn bản
của vật lý coi như đã được hoàn thành. Khi đó, mọi hiện tượng vật lý đều
có thể giải thích được, giấc mơ của Einstein muốn “biết được ý Chúa”
coi như đã trở thành hiện thực.
Nhưng thay vì hạt Higgs làm cho chúng ta
tiến gần hơn tới chỗ “biết được ý Chúa”, những người sâu sắc lại sớm
nhận thấy rằng mục tiêu ấy vẫn còn quá xa: hoá ra tự nhiên không chỉ có 4
lực như đã biết, mà có những 5!
Đọc câu thơ của Nguyễn Bính, “Chín năm
đốt đuốc soi rừng”, mà GS Yêm lấy làm đề từ cho bài viết, tôi có cảm
tưởng ông cũng chia vui và thở phào cùng cộng đồng vật lý toàn thế giới
vì đã trải qua không chỉ chín năm, mà những nửa thế kỷ chờ đợi phút lộ
diện của hạt Higgs. Nhưng dường như ông thuộc trong số những tâm hồn
lãng mạn, không thích sự thoả mãn, nên đã ngay lập tức để tâm tới những
thách đố mới, mà có lẽ theo ông, thách đố lớn nhất là sự xuất hiện của
một loại lực mới: lực cơ bản thứ năm!
GS Yêm viết: “Nó[9] mở đầu một chương mới trong vật lý vì đây
là lần đầu tiên con người khám phá ra một lực mới lạ, lực mang khối
lượng cho vật chất, coi như lực cơ bản thứ năm của Tự nhiên, bên cạnh bốn lực cơ bản quen thuộc…”[10].
Với sự hiện diện của hạt Higgs, bài toán thống nhất 4 lực vừa loé lên niềm hy vọng sẽ có cơ may nắm lấy “Chiếc Chén Thánh”[11] (The Holy Grail) của vật lý. Nhưng “Chiếc Chén Thánh” ấy lập tức lại bị đẩy ra xa bởi nó đòi hỏi phải hợp nhất 5 lực!
Mặc dù sự xuất hiện của một loại lực mới,
lực thứ năm, được GS Yêm nêu lên dưới dạng một câu hỏi nghi vấn, nhưng
đó là một nghi vấn hoàn toàn thuyết phục. Một lần nữa xin nhắc lại câu
hỏi chất vấn của ông:
“Tuy trường Higgs truyền khối lượng cho
vạn vật, nhưng cái gì mang lại cho chính hạt Higgs cái khối lượng 126
Gev/c2mà chiếc máy siêu gia tốc LHC vừa khám phá ra?”.
Thật vậy, khối lượng của các hạt được
giải thích bởi sự tương tác giữa chúng với trường Higgs, nhưng chính hạt
Higgs – những lượng tử của trường Higgs – thì tương tác với “ai” để có
khối lượng?
Đó là một câu hỏi không thể né tránh. Một
lần nữa tư tưởng bất hủ của Kant lại được minh hoạ một cách tuyệt vời:
“Mỗi câu trả lời lại làm dấy lên những câu hỏi mới”.
Đọc một bài báo với 7500 chữ, có nhiều
chữ trong đó độc giả có thể quên, nhưng không thể quên câu hỏi chất vấn
nói trên. Đó là câu hỏi thú vị nhất và có lẽ là duy nhất, trong số không
ít những bài báo liên quan đến sự kiện khám phá ra hạt Higgs mà tôi đã
đọc trong thời gian vừa qua.
Và mặc dù bài báo của GS Yêm không đả
động gì đến bài toán thống nhất 5 lực, nhưng một cách tất yếu người đọc
sẽ phải nghĩ tới bài toán đó: Nếu tồn tại 5 lực thì hiển nhiên là Lý
thuyết thống nhất vật lý chỉ có thể thành công nếu nó chứng minh được
bản chất thống nhất của 5 lực.
Vì thế, tuy Stephen Hawking bị mất 100
USD vì đã thua khi đánh cược với Gordon Kane tại Đại học Michigan rằng
sẽ không thể tìm thấy hạt Higgs, nhưng ông sẽ càng có nhiều lý do hơn để
củng cố quan điểm cho rằng không thể có một Lý thuyết về mọi thứ, như
ông đã trình bầy trong bài báo “The Elusive Theory of Everything”[12] trên Scientific American ngày 27.09.2010.
Nếu việc khám phá ra hạt Higgs làm cho
bài toán thống nhất các lực trở nên phức tạp hơn gấp bội phần, thì nó
lại làm sáng tỏ nhiều khái niệm cơ bản của vật lý học mà từ xưa tới nay
chúng ta tưởng rằng “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Điển hình là nhận thức
hoàn toàn mới về bản chất của khối lượng.
Theo GS Yêm, nguồn gốc của khối lượng là
sự tương tác của vật chất với trường Higgs trong chân không lượng tử,
thay vì là số đo lượng vật chất chứa trong vật thể như một thuộc tính
“vốn có” của tự nhiên mà chúng ta vẫn thừa nhận một cách mơ hồ trong
hàng trăm năm qua.
Thiết nghĩ đây là điểm đặc biệt đáng lưu
tâm đối với các nhà viết sách giáo khoa vật lý, bởi khối lượng là một
khái niệm cơ bản của vật lý, bắt buộc phải trình bầy cho học sinh từ cấp
phổ thông. Các nhà cải cách giáo dục nghĩ gì khi đặt bút (gõ computer)
để viết sách giáo khoa vật lý cho niên học 2012-2013, khi định nghĩa
khối lượng là gì? Liệu có thể chấp nhận khái niệm mù mờ khối lượng là số
đo lượng vật chất chứa trong vật thể nữa hay không? Hay khối lượng là
đặc trưng vật chất quyết định tương tác hấp dẫn giữa các vật thể với
nhau? Hay khối lượng là đặc trưng vật chất được quyết định bởi tương tác
giữa các hạt cơ bản cấu tạo nên vật thể đó với trường Higgs? Rõ ràng
định nghĩa sau cùng là đúng nhất, kể từ sau ngày 04.07.2012 – ngày hạt
Higgs lộ diện. Với định nghĩa đó, chúng ta mới có thể hiểu được một tính
chất vô cùng hệ trọng của vật lý hiện đại: khối lượng có thể thay đổi,
tuỳ thuộc vào tương tác với trường Higgs mạnh hay yếu! Điều này đã được
biết trong vật lý hạt cơ bản, ngay cả khi hạt Higgs chưa được xác nhận
sự tồn tại.
Nhưng làm thế nào để nói với học sinh phổ
thông, nhất là ở các lớp dưới, về những chuyện phức tạp rắc rối của
trường Higgs? Đây là một thử thách đối với các nhà giáo dục, đặc biệt
với các nhà viết sách giáo khoa.
Về mặt triết học nhận thức, đặc biệt là
nhận thức tự nhiên, việc khám phá ra hạt Higgs là một cuộc cách mạng
trong nhận thức đối với khái niệm khối lượng. Hoá ra Định luật vạn vật
hấp dẫn của Newton có nguồn gốc xa xôi là hạt Higgs. Hoá ra Lý thuyết
hấp dẫn của Einstein, tức Thuyết tương đối Tổng quát, cũng bị chi phối
bởi hạt Higgs.
Chỉ chừng ấy thôi có lẽ cũng đã quá đủ để
hình dung được tầm vóc ảnh hưởng vô cùng sâu rộng của hạt Higgs đối với
tương lai của vật lý, mà hiện nay ít ai có thể lường trước hết được.
Hạt Higgs quan trọng như thế đấy, nhưng
trớ trêu thay, cho đến lúc này, hạt Higgs vẫn nổi tiếng hơn rất nhiều so
với “nhà tiên tri” đã tiên đoán sự hiện hữu của nó. Điều này có phần
tương tự như Tháp Eiffel nổi tiếng hơn rất nhiều so với cha đẻ của nó,
Gustave Eiffel. Vậy sẽ là công bằng hơn nếu chúng ta dành chút thì giờ
để tìm hiểu người mà hạt Higgs đã phải mang tên.
3. “Nhà tiên tri” thầm lặng:
Ngày 29.05.2012 vừa qua, Peter Higgs vừa
kỷ niệm sinh nhật lần thứ 83. Ông sinh tại tại Wallsend, North Tyneside,
thuộc Scotland, nước Anh. Thân phụ ông là một kỹ sư âm thanh của Đài
BBC. Thời trẻ, Higgs có giai đoạn theo học tại Cotham Grammar School,
nơi Paul Dirac, một trong những nhà sáng lập của Cơ học lượng tử, đã
từng là một cựu học sinh. Higgs cho biết ông đã từng được truyền cảm
hứng từ các công trình của Dirac ngay từ hồi còn là học sinh của trường
đó.
Năm 17 tuổi, ông theo học Đại học City of
London, chuyên ngành toán, rồi tiếp tục học Đại học King’s College, nơi
ông đã tốt nghiệp với thành tích đứng đầu về vật lý. Cũng tại đó ông đã
hoàn thành luận án thạc sĩ, rồi tiến sĩ. Sau đó trở thành hội viên
nghiên cứu cao cấp tại Đại học Edinburgh, rồi đảm nhiệm nhiều chức vụ
khác nhau tại Đại học College London và Đại học Imperial London, trước
khi trở thành giảng viên tạm thời môn toán tại Đại học College London.
Năm 1960 ông trở lại Đại học Edinburgh và
làm giảng viên tại Học viện toán lý Tait. Mãi tới 1980 ông mới được bổ
nhiệm chức giáo sư vật lý lý thuyết tại Đại học Edinburgh. Vinh quang
đầu tiên đến với ông vào năm 1983 khi ông được bầu làm hội viên Hội
Hoàng gia Anh. Năm sau ông được trao tặng huân chương và giải thưởng
Rutherford. Năm 1991 trở thành thành viên Hội vật lý. Năm 1996 ông về
hưu và trở thành giáo sư danh dự của Đại học Edinburgh. Năm 2008 ông
được bầu làm giáo sư danh dự của Đại học Swansea vì những công trình về
vật lý hạt cơ bản.
Tại Đại học Edinburgh, Higgs bắt đầu quan
tâm đến vấn đề khối lượng của các hạt cơ bản. Ông đã phát triển một tư
tưởng cho rằng vào lúc ban đầu của vũ trụ, các hạt không có khối lượng,
nhưng sau một khoảnh khắc cực kỳ ngắn, chúng bắt đầu có khối lượng do
tương tác với một trường đặc biệt mà sau này được gọi là trường Higgs.
Ông nêu giả thuyết cho rằng trường này tràn lan khắp vũ trụ, truyền khối
lượng cho tất cả các hạt cơ bản tương tác với nó.
Sẽ là thú vị nếu biết rằng tư tưởng của
Higgs lấy cảm hứng từ những công trình của nhà vật lý lý thuyết Nhật Bản
Yoichiro Nambu, Giáo sư Đại học Chicago, đoạt Giải Nobel vật lý năm
2008.
GS Nambu đề xuất một lý thuyết được gọi
là sự phá vỡ đối xứng tự phát (spontaneous symmetry breaking), dựa trên
những hiện tượng siêu dẫn. Tuy nhiên lý thuyết này dẫn tới việc tiên
đoán các hạt không có khối lượng, một tiên đoán bị coi là sai (định lý
Goldstone).
Năm
1964, một “ánh chớp cảm hứng” loé lên trong đầu Higgs trong khi ông đi
bộ trong công viên quốc gia Cairngorms. Về tới nhà, ông viết ngay một
công trình ngắn khai thác một lỗ hổng trong định lý Goldstone và cuối
năm đó công trình đã được công bố trên tạp chí Physics Letters, một tạp
chí Âu châu được biên tập tại CERN, Thụy sĩ.
Sau đó ông viết một công trình thứ hai mô
tả một mô hình lý thuyết, nay được gọi là “cơ chế Higgs” (Higgs
mechanism), nhưng công trình này bị từ chối đăng. Ban biên tập của tạp
chí Physics Letters nhận xét công trình này “không có mối liên hệ rõ
ràng đối với vật lý” (of no obvious relevance to physics).
Higgs liền viết một phụ lục bổ sung và
gửi toàn bộ công trình tới tạp chí Physical Review Letters, một tạp chí
vật lý hàng đầu khác, và tạp chí này đã công bố công trình của ông vào
cuối năm đó. Chính trong công trình này, ở phần kết, lần đầu tiên Higgs
đã đề cập tới sự tồn tại của một trường vô hướng mà các lượng tử của
trường đó là các bosons truyền khối lượng. Steven Weinberg nhận thấy vai
trò thiết yếu của các bosons này và ông gọi chúng là Higgs bosons. Và
như chúng ta đã biết, Leon Lederman gọi đó là “Hạt của Chúa”, mặc dù lúc
đầu ông định gọi là “Hạt chết tiệt”[13].
Khả năng “tiên tri” của Higgs thật kỳ lạ.
Ánh chớp loé lên trong đầu ông khi ông đi bộ trong công viên Cairngorms
đã dẫn tới việc tiên đoán sự hiện hữu của một loại boson chưa từng
biết, và niềm tin ấy mạnh mẽ đến nỗi nó không hề lay chuyển và đeo đẳng
ông trong suốt cuộc đời, ngay cả khi ông phải đối mặt với những thử
thách như chơi đỏ đen. Thật vậy, trong đợt thí nghiệm được chuẩn bị công
phu nhất, hùng mạnh nhất, khởi động từ cuối năm 2008 tại CERN, mà Higgs
được mời tới chứng kiến, với dự đoán của nhiều nhà khoa học rằng đây là
cuộc thí nghiệm “một mất một còn”, “được ăn cả ngã về không” với Higgs
boson, thì Peter Higgs, lúc đó đã chuẩn bị bước vào tuổi 80, vẫn biểu lộ
niềm tin của ông một cách rất giản dị, nhưng quả quyết: “Có nhiều khả
năng là hạt này sẽ lộ diện trong chớp nhoáng … Tôi chắc chắn tới 90%
rằng điều đó sẽ xẩy ra”, Higgs nói với các nhà báo.
Đó là một tiên tri nhỏ nằm trong một tiên
tri lớn: Higgs boson ắt phải tồn tại! Ông chỉ đoán sai chút xíu về thời
điểm phát hiện được hạt Higgs, khi nói rằng ông hy vọng thí nghiệm tại
CERN cuối năm 2008 đầu 2009 sẽ phát hiện được nó trước dịp sinh nhật lần
thứ 80 của ông, tức trước ngày 29.05.2009. Có thể người thân, bạn bè và
đồng nghiệp của ông còn sốt ruột và mong đến dịp sinh nhật đó hơn ông,
để được chúc mừng ông những lời chúc tốt đẹp nhất. Nhưng chính ông đã
lường trước mọi khó khăn để kiên trì chờ đợi. “Tất cả sẽ xẩy ra quá
nhanh đến nỗi sự xuất hiện của Higgs boson có thể bị che lấp trong đống
dữ liệu thu thập được, và cần phải có một thời gian dài để tìm thấy nó”,
Higgs nói, rồi kết luận:
“Có lẽ tôi phải uống sâm banh có đá để chờ đợi”[14].
Rốt cuộc, cái gì phải xẩy ra đã xẩy ra:
hạt Higgs đã xuất hiện! Ngày 04.07.2012 là một cột mốc chói lọi trong
lịch sử khoa học, khép lại Chương đầu tiên của câu chuyện “Hạt của
Chúa”, mở đầu một chương mới mà chỉ những người mê đọc sách mới có thể
dự đoán chuyện gì sẽ xẩy ra.
Bản thân Higgs nghĩ gì về khám phá mới này?
Ông lau nước mắt khi nghe giám đốc của
CERN tuyên bố dõng dạc đã xác định được dấu vết của loại hạt mới giống
như hạt Higgs. Nhưng với tính cách thầm lặng và khiêm tốn vốn có, ông
cho rằng vì “tuổi thọ” của hạt Higgs quá ngắn ngủi nên nó khó có thể có
ứng dụng thực tiễn. Phát biểu tại Đại học Edinburgh, Higgs giải thích:
“Có lẽ đó là một phần triệu của một phần triệu của một phần triệu của
một phần triệu của 1 giây. Tôi không biết làm thế nào mà ứng dụng một
hạt như thế cho bất kỳ cái gì hữu ích. Tìm ứng dụng hữu ích cho những
hạt cơ bản có tuổi thọ dài hơn cũng đủ khó lắm rồi. Có thể một số loại
hạt có đời sống kéo dài khoảng một phần triệu của 1 giây đã được ứng
dụng trong y khoa. Nhưng làm thế nào để tìm được ứng dụng cho một loại
hạt quá ngắn ngủi như hạt Higgs thì tôi không biết”[15].
Có một “chuyện nhỏ” về Higgs tưởng cũng
nên biết: bản thân ông là người vô thần, nên ông không hài lòng khi
người ta gọi hạt Higgs là “Hạt của Chúa”. Theo ông, cách gọi này có thể
xúc phạm những người có tôn giáo. Vậy tại sao người đời lại nghĩ ra tên
gọi đó?
4. “Hạt của Chúa”, tại sao?
Chính Lederman đã giải thích rằng ông gọi
Higgs boson là “Hạt của Chúa” vì hạt này đóng vai trò “vô cùng trọng
yếu đối với vật lý hiện đại, vô cùng quyết định đối với sự hiểu biết
cuối cùng của chúng ta về cấu trúc vật chất, mà đến nay (hạt này) vẫn vô
cùng khó nắm bắt”[16].
Ai
cũng biết, nền văn minh Tây phương vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền
văn minh Thiên Chúa giáo, trong đó Chúa đóng vai trò sáng tạo ra cái ban
đầu, quyết định những giá trị cốt lõi của cuộc sống, đồng thời tạo nên
nền tảng của mọi cấu trúc trong vũ trụ. Nếu vậy thì Higgs boson chính là
“Hạt của Chúa”, tên gọi ấy hoàn toàn phù hợp với những gì khoa học nghĩ
về hạt Higgs.
Nó là cái khởi đầu của vũ trụ, vì theo
Peter Higgs, lúc đầu các hạt không có khối lượng, nhưng do tương tác với
trường Higgs mà nhận được khối lượng. Nó cũng là trung tâm của vật lý
hiện đại, đóng vai trò quyết định đối với sự hiểu biết cuối cùng, bởi vì
trước ngày 04.07.2012, Mô hình Chuẩn có 17 hạt, trong đó 16 hạt đã được
thực nghiệm xác nhận, chỉ còn một hạt duy nhất chưa tìm thấy, đó là
Higgs boson. Có nghĩa là nếu tìm thấy hạt Higgs thì Mô hình Chuẩn sẽ trở
nên hoàn hảo, khoa học đã khám phá ra bản chất tận cùng của vật chất,
và giấc mơ “biết được ý Chúa” của Einstein có cơ may trở thành hiện
thực. Nhưng….
Câu hỏi lớn nêu lên trong bài báo của GS
Phạm Xuân Yêm đặt chúng ta vào một tình thế trung dung, không thái quá:
trong khi vui mừng vì một thắng lợi vĩ đại của khoa học vừa đạt được,
chúng ta biết rằng không có lý do để lạc quan tếu – để nói rằng chúng ta
đã đạt được những hiểu biết cuối cùng của cấu trúc vật chất.
Cấu trúc vật chất có nhiều tầng. Tầng vĩ
mô, tầng phân tử, tầng nguyên tử, tầng hạ nguyên tử. Đối với hiểu biết
hiện nay, tầng hạ nguyên tử được coi là tầng sâu nhất, nhỏ nhất. Đó là
lý do để nhiều nhà vật lý nghĩ rằng nếu tìm thấy hạt Higgs thì coi như
chúng ta đã đạt được những hiểu biết cuối cùng của cấu trúc vật chất,
bởi khi đó tất cả 17 hạt cơ bản đều được thực nghiệm khám phá hết, không
còn gì thiếu sót, như GS Yêm đã nói.
Tuy nhiên, GS Yêm không nói đó là những
hiểu biết cuối cùng của cấu trúc vật chất. Ông vẫn hướng chúng ta tới
những phát triển xa hơn:
“Điều này khẳng định hơn bao giờ hết sự
vững chắc của Mô Hình Chuẩn, một lý thuyết nền tảng, một hệ hình mà từ
đây mọi phát triển sau này đều phải dựa vào để phát triển xa hơn nữa”,
GS Yêm viết.
Thật vậy, những ai đã thấm nhuần tư tưởng
của Niels Bohr về hiện thực lượng tử thì hẳn sẽ không bao giờ nói đến
cái cuối cùng. Con mắt triết học gợi ý cho chúng ta thấy rằng vật chất
là vô cùng vô tận, thậm chí vật lý giao thoa với Phật học để giải thích
những khái niệm cực kỳ khó hiểu như “sắc sắc không không” – có đấy mà
hoá không, không đấy mà hoá có.
Đối với Einstein, nếu mặt trăng không tồn
tại thì ông sẽ ngừng nghiên cứu vật lý. Các hạt cơ bản cũng vậy. Nhưng
Bohr ngờ rằng không có một hiện thực lượng tử như ta tưởng. Đối với
Bohr, thế giới hạ nguyên tử bản thân nó chứa đựng những đặc trưng hoàn
toàn khác mà mọi mô tả của chúng ta đều không thể nắm bắt chính xác
được, đơn giản vì ngôn ngữ chúng ta sử dụng để mô tả thế giới, bất kể ở
cấp độ nào, đều là sản phẩm của đời sống vĩ mô. Vì thế, một khi đã thấm
nhuần tư tưởng của Bohr, chúng ta có thể nghĩ rằng Mô hình Chuẩn là mô
hình tốt nhất hiện có để mô tả thế giới lượng tử, thay vì coi đó là
những hiểu biết cuối cùng. Nhưng có bao nhiêu nhà vật lý suy nghĩ như
Bohr? “Các nhà vật lý ngoài miệng thì nói theo Bohr và phủ nhận
Einstein, nhưng cuối cùng phần lớn trong số họ lại chẳng hiểu những gì
Bohr nghĩ và rồi vẫn suy nghĩ như Einstein”, nhà vật lý Basil Hiley đã
nói như vậy[17].
Hồi nhỏ học vật lý, thầy giáo dạy: “phân
tử là thành phần nhỏ nhất của vật chất, các phân tử gộp lại tạo nên các
vật thể như chúng ta trông thấy…”. Sang môn Hoá, thầy dạy Hoá cũng nói
“nguyên tử là thành phần nhỏ nhất của vật chất,…”. Cái đầu trẻ con của
tôi lúc đó cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi không hiểu tại sao lại có
nhiều cái “nhỏ nhất” khác nhau như thế. Tất nhiên đó là lỗi của người
dạy học. Con búp-bê Matryoshka của Nga có con đầu và con cuối, chiếc hộp
Trung Hoa (Chinese box) cũng có hộp đầu và hộp cuối, nhưng cái đầu trẻ
con của tôi ngày xưa đã biết hỏi thầy dạy Sinh vật rằng “con gì tiến hoá
thành con A-míp?”, bởi vì thầy dạy con A-míp là động vật đơn giản nhất,
có duy nhất 1 tế bào, nó là động vật đầu tiên để tiến hoá dần dần lên
thành những động vật cao cấp hơn.
Nhưng bất chấp những câu hỏi triết học,
con người có xu hướng đi tìm nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng.
Không phải những người ít học mắc lỗi đó. Nhiều bộ não vĩ đại nhất cũng
mắc sai lầm này. Điển hình là David Hilbert, nhà toán học lỗi lạc của
thế kỷ 20, phạm sai lầm lớn khi mơ tưởng sẽ khám phá ra một hệ thống
toán học cuối cùng – một hệ logic tuyệt đối phi mâu thuẫn được xây dựng
trên một hệ tiên đề độc lập, đầy đủ, phi mâu thuẫn. Nhưng Kurt Godel đã
chỉ ra rằng không tồn tại một hệ logic hình thức nào là đầy đủ – mọi hệ
logic đều bất toàn.
Vật lý tuy không phải là một hệ logic
hình thức, nhưng ngôn ngữ diễn đạt nó là toán học và ngôn ngữ thông
thường. Cả hai thứ ngôn ngữ này đều bất toàn, vậy làm sao có thể có một
hệ thống vật lý tuyệt đối hoàn hảo để coi là cuối cùng? Mô hình Chuẩn
hôm nay được coi là đầy đủ, nhưng có thể nó sẽ không còn đầy đủ nữa nếu
một ngày nào đó khoa học xác nhận sự tồn tại của loại lực thứ năm mới lạ
mà GS Yêm đã chất vấn.
Nhận thức có giới hạn. Chúng ta có thể
đặt câu hỏi cho cái xẩy ra trước (previous) và cái xẩy ra tiếp theo
(next) chứ không thể khẳng định cái đầu tiên và cái kết thúc.
So sánh việc khám phá hạt Higgs với các
sự kiện trong quá khứ, tôi có cảm giác nó cũng vĩ đại tương tự như việc
khám phá ra Bảng nguyên tố tuần hoàn Mendeleev cách đây vài thế kỷ, hoặc
việc khám phá ra mô hình phân tử DNA cách đây 59 năm, hoặc gần đây nhất
là Bản đồ gene người, công bố năm 2000.
Nếu Bản đồ gene người quan trọng đối với
sinh học, di truyền học và y học như thế nào thì có lẽ Mô hình Chuẩn của
vật lý cũng quan trọng đối với vật lý như thế ấy. Khó có thể nói cái
nào quan trọng hơn cái nào. Nhưng có lẽ không ai dám nói việc khám phá
ra Bản đồ gene người có nghĩa là đã đạt tới hiểu biết cuối cùng về cơ
chế di truyền ở con người!
Ngược lại, chính việc công bố Bản đồ gene
người đã làm giới khoa học sửng sốt ngạc nhiên vì hoá ra con người cũng
chỉ có khoảng hơn 3 vạn gene, xấp xỉ như loài chuột! Ngay tức khắc một
hệ luận vô cùng quan trọng được rút ra: số lượng gene không quyết định
mức độ phức tạp của sinh thể.
Đây là một đòn trời giáng vào những bộ óc
bảo thủ quen nhìn vũ trụ bằng con mắt vật chất định lượng – sinh vật có
càng nhiều gene thì càng phức tạp và ngược lại, càng phức tạp thì càng
nhiều gene.
Từ chỗ biết rằng số lượng gene không nói
lên tính phức tạp sinh học, gần đây di truyền học đã khám phá ra rằng
đặc trưng sinh học không tương ứng 1 – 1 với gene, có nghĩa là không
phải cứ mỗi gene quyết định một đặc tính sinh học. Steve Jones, giáo sư
di truyền học tại Đại học London, nói: “Một từ ngữ bị hiểu sai nhiều
nhất trong di truyền học là chữ ‘for’ (dành cho), như trong câu ‘gene
dành cho một cái gì đó’. Chẳng có một gene dành cho bất cứ cái gì cả.
Một gene chỉ là một chất hoá học mà bạn có thể nhỏ vào một ống nghiệm. Các gene chỉ biểu lộ tác động của chúng theo những tổ hợp riêng biệt, và quan trọng nhất là trong những môi trường riêng biệt. Đó là yếu tố cơ bản”[18].
Có nghĩa là mỗi đặc tính sinh học không
tương ứng với một gene cá biệt, mà tương ứng với một tổ hợp gene. Thậm
chí các gene trong tổ hợp lại hoạt động theo những cơ chế bật/tắt rất
khó hiểu, mà hầu như hiện nay khoa học chưa biết gì về cơ chế đó. Vả
lại, với 3 vạn gene, chúng ta sẽ có hàng tỉ tỉ tổ hợp, như thế thì làm
sao có thể tự phụ để tuyên bố rằng khoa học đã đạt tới sự hiểu biết tận
cùng về cấu trúc di truyền? Và do đó có nên nói rằng Mô hình Chuẩn là sự
hiểu biết tận cùng về cấu trúc vật chất? Nếu tồn tại lực thứ năm thì
cái gì ẩn đằng sau lực đó? Lại một hạt khác nào nữa chăng?
Đó là cả một câu chuyện dài không có hồi kết. Và chính vì thế mà vật lý sẽ sống mãi. Khát vọng khám phá sẽ sống mãi!
Sydney 12.08.2012
PVHg
[1] Xem “Hạt của Chúa thách thức Mô hình Tiêu chuẩn”, Phạm Việt Hưng, Tia Sáng Tháng 04.2002.
[7] The most beautiful thing we can experience is the mysterious. It is the source of all true art and all science
[8]
“Unfinished Symphony” (Bản Giao hưởng Bỏ dở) là tên bản giao hưởng rất
nổi tiếng và cuối cùng của Franz Schubert, được coi là một tuyệt tác âm
nhạc. Nhiều nhạc sĩ hậu duệ tài ba muốn hoàn thành nốt nhưng không ai
thành công. Thậm chí người ta đã dùng computer để giải mã “Schubert’s
style” (phong cách Schubert) để theo đó mà viết tiếp, nhưng rồi cũng
thất bại. Đối với Madeleine Nash, Lý thuyết Trường thống nhất của
Einstein cũng là một “Bản Giao hưởng Bỏ dở”.
[11]
Một thành ngữ trong nền văn hoá Tây phương. Nghĩa đen là chiếc chén
Chúa Jesus đã dùng trong “bữa tiệc ly” – bữa tiệc cuối cùng với các môn
đệ trước khi Chúa bị hành hình; nghĩa bóng ám chỉ những siêu tham vọng,
những kế hoạch không tưởng, khó với tới. Nền văn hoá Tây phương thường
dùng thành ngữ này với nghĩa bóng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét