Tuyệt kỹ Ngọc trản thần công
Đất
võ Bình Định có nhiều dòng họ nổi danh võ thuật từ hàng trăm năm qua.
Trong đó, họ Trương ở làng Kỳ Sơn có nhiều người bất bại trong những lần
thượng đài.
Võ
đường họ Trương ở làng Kỳ Sơn (xã Phước Sơn, H.Tuy Phước) hiện do võ sư
Phi Long Vịnh, tên thật là Trương Văn Vịnh (78 tuổi), cai quản. Thượng
đài từ năm 18 tuổi, đến nay đã trải qua hàng trăm trận tỉ thí nhưng võ
sư Vịnh chưa một lần thất bại. “Võ phái chúng tôi có quan niệm “ăn sớm,
ăn muộn thì ăn, không ăn được thì về nghỉ”, tức là nếu thấy đánh thắng
thì nên đánh, nếu biết đánh không thắng thì hoãn lại, về nhà tìm hiểu kỹ
đòn thế của đối phương để đánh được thì mới đánh. Người học võ phải có
trí, chứ xông vào đánh bừa thì mất mạng như chơi”, võ sư Vịnh nói.
Trong
những lần thượng đài, lão võ sư Trương Văn Vịnh nhớ nhất vẫn là 2 lần
hạ các võ sư ngoại quốc bằng tuyệt kỹ Ngọc trản thần công. Năm 1962, võ
sư Vịnh đang dạy võ tại Vũng Tàu thì một võ sư người Khmer tên Thạch
Khen, đang dạy boxing ở đó, đến khiêu chiến. Vốn coi thường võ cổ truyền
Việt Nam, khi hai bên thượng đài, Thạch Khen dùng sức mạnh tấn công tới
tấp khiến võ sư Vịnh gặp rất nhiều khó khăn. Được vài hiệp đấu thì võ
sư Vịnh đã “dính” nhiều đòn, mặt sưng vù, răng muốn rụng… Cuối cùng, ông
áp sát, dùng Ngọc trản thần công điểm vào các huyệt đạo của đối thủ
khiến Thạch Khen ngã gục trên sàn đài.
Võ sư Trương Văn Vịnh đang múa quyền
Năm
1968, võ sư Vịnh có cuộc tỉ thí với một võ sư taekwondo tứ đẳng huyền
đai người Hàn Quốc (đang huấn luyện võ cho sư đoàn Mãnh Hổ) tại Gia Lai.
Vào cuộc, võ sư taekwondo dùng chân đá tới tấp vào đối phương. Biết
taekwondo chỉ giỏi đánh đòn xa nên võ sư Vịnh áp sát, rồi sử dụng hổ
trảo, một chiêu trong Ngọc trản thần công, móc vào mạng sườn, sau đó kéo
xuống bụng, đánh vào vùng gan. Võ sĩ Hàn Quốc gục trên sàn đấu. “Khi đã
dùng Ngọc trản thần công thì phải ra đòn liên hoàn, không thể nương tay
nếu đối thủ chưa gục ngã. Vì đây là loại đòn độc, không hạ được đối
phương ắt sẽ tự giết mình”, võ sư Vịnh nói.
Ngoài
ra, võ sư Trương Văn Vịnh còn dùng Ngọc trản thần công trên đài một lần
nữa vào năm 2007 nhưng không phải để hạ đối phương mà để biểu diễn,
quảng bá võ cổ truyền Việt Nam. Năm đó, Tổng hội Quán khí đạo (Qwuan Ki
Do) mời võ sư Vịnh sang Ý biểu diễn trong dịp khai mạc đại hội lần thứ 4
của môn phái. Ông Vịnh biểu diễn bài Ngọc trản thần công khiến hàng
trăm võ sư của gần 40 nước trên thế giới thán phục. Lần đó, chưởng môn
của Quán khí đạo là võ sư Phạm Xuân Tòng đích thân tặng ông 3 chữ “Đại
danh sư”.
Múa võ như rồng bay
Theo
võ sư Vịnh, võ đường họ Trương thờ ông Quan Thánh (tức Quan Công - Quan
Vân Trường) là để nhắc nhở con cháu, đệ tử của môn phái biết trọng
nghĩa khí, học võ là để hành hiệp trượng nghĩa. Hầu hết người trong họ
Trương từ xưa đến nay đều học võ. “Truyền thống này có từ thời ông tổ
của dòng họ là danh sư Trương Văn Hiến, tức thầy giáo Hiến, người dạy cả
văn lẫn võ cho anh em nhà Tây Sơn và nhiều vị văn thần, võ tướng của
triều đại này”, võ sư Trương Văn Vịnh cho biết.
Ông
nội của võ sư Vịnh là ông Trương Hổ và em trai Trương Ninh đều là những
người giỏi võ nghệ. Ông Trương Hổ có 3 người con để lại tên tuổi trong
làng võ thuật là Trương Văn Cẩn, Trương Hoàng (Ba Chăm), Trương Xuân Ba
(Sáu Hòa). Trong đó, ông Trương Hoàng là một trong những người thầy của
võ sư Hà Trọng Sơn (biệt danh Hùm xám miền Trung). Ông Trương Xuân Ba
cũng từng đoạt cúp vô địch Đông Dương thời Pháp thuộc.
Võ
sư Trương Văn Vịnh được cha là võ sư Trương Văn Cẩn truyền thụ võ nghệ
từ nhỏ. Sau đó, ông Vịnh học thêm võ từ 2 người bác là võ sư Trương Xuân
Ba và võ sư Trương Hoàng. Võ sư Vịnh kể: “Năm 1970, trong chương trình
giao lưu võ thuật với các võ sư nổi tiếng trong nước và quốc tế, tôi
biểu diễn bài Ngọc trản thần công quyền cước biến hóa trên một chiếc
chiếu nên được họ khen là “Phi Long”, tức rồng bay. Từ đó, tên Phi Long
gắn liền với cuộc đời tôi. Khi dạy võ, tôi lấy tên võ đường của mình là
Phi Long. Nhưng sau này nhiều võ đường cũng lấy tên Phi Long nên tôi
chuyển thành Phi Long Vịnh”.
Các
con trai của võ sư Trương Văn Vịnh là: Trương Trọng Khiêm, Trương Trọng
Hải, Trương Trọng Hùng, Trương Trọng Vinh, Trương Trọng Quang đều biết
võ nghệ. Trong đó, võ sư Trương Trọng Hùng đã mở lò võ riêng và Trương
Trọng Hải cũng đang dạy võ cùng với cha. Cháu nội, cháu ngoại của võ sư
Vịnh đến nay đã hơn 20 người và cũng đều được học võ. “Trong học võ,
“cha truyền con nối” thì đương nhiên nhưng mấy đứa không ham thì chịu
chứ làm sao mà bắt ép? Nhưng các cháu của tôi rất ham luyện võ, bất kỳ
khi nào có thời gian là chúng luyện với nhau. Thấy các cháu ham luyện
tập vậy nên tôi cũng yên tâm, dòng họ võ nhà họ Trương rồi sẽ có thế hệ
kế nghiệp xứng đáng”, võ sư Vịnh nói.
Ông Chảng ngang thiên
Trong
đó nhiều người vẫn hay nhắc đến câu thành ngữ "ngang như ông Chảng"
hoặc "ông Chảng ngang thiên" và nhiều giai thoại về nhân vật này.
Cha nuôi anh em nhà Tây Sơn
Ông Chảng về làng
Từ
bài văn tế của họ Đào ở TX.An Nhơn, tên thật của ông Chảng được xác
định là Đinh Viết Nhưng (có sách nói là Đinh Văn Nhưng), công thần của
nhà Tây Sơn. Sau khi nhà Tây Sơn mất, ông Nhưng đổi từ họ Đinh sang họ
Đào để tránh sự truy sát của triều Nguyễn. Ngày nay, 2 nhánh con cháu
của ông Chảng sống ở khu vực Bằng Châu (thuộc P.Đập Đá, TX.An Nhơn) và
thôn Thanh Liêm (thuộc xã Nhơn An, TX.An Nhơn) vẫn giữ tục “Sinh Đào tử
Đinh”.
Theo
Địa chí Bình Định, ông tổ họ Đinh ở Bằng Châu tên Đinh Viết Hòe, đi
lính cho chúa Nguyễn, lấy vợ ở đây và sinh ra 3 người con là Đinh Văn
Diệm, Đinh Văn Nhưng và Đinh Thị Triêm. Lúc nhỏ, nhà nghèo, ông Nhưng
phải có cuộc sống tự lập, tính ngang bướng, không chịu luồn cúi ai nhưng
lại giỏi võ nghệ. Nhờ có tầm nhìn xa nên ông đã tổ chức khai hoang tại
các vùng Thanh Liêm, Kim Tài và trở thành người giàu có, trong nhà có
nhiều người giúp việc. Ông Nhưng còn là một võ sư, một quân sư có tiếng
trong vùng.
Trong
sách Võ nhân Bình Định, hai tác giả Quách Tấn, Quách Giao có miêu tả về
họ Đinh tại thôn Bằng Châu: “Thôn Bằng Châu được tổ chức thành một thôn
biệt lập. Người trong thôn phần nhiều có liên hệ thân thuộc với nhau.
Không một gia đình xa lạ nào có thể vào mua ruộng đất lập nghiệp tại
thôn này. Những kẻ tha phương tầm thực ghé đến xin việc làm đều được họ
Đinh vui lòng thâu nhận. Thôn Bằng Châu nổi tiếng là khu an toàn nhất
trong vùng. Nhờ tổ chức an ninh giỏi, nhất là hầu hết các tráng đinh
trong thôn đều biết võ nghệ nên vùng đất này luôn an toàn”.
Ông
Đào Duy Thu (67 tuổi, ở khu vực Bằng Châu), cháu đời thứ 9 của họ Đào,
kể: Nghe tiếng ông Nhưng, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đến xin học võ.
Ông Nhưng nhận họ làm con nuôi và dốc lòng dạy dỗ. Lúc nhà Tây Sơn khởi
nghĩa, ông Nhưng ủng hộ rất nhiều ngựa và lương thực. Khi Nguyễn Nhạc
xưng vương tại thành Hoàng Đế đã phong cho ông Nhưng chức Điện tiền đại
đô đốc tả thân vệ úy, tước Sanh Sơn bá.
Tuy
nhiên, ông Nhưng nói lại rằng: "Ông làm vua là làm vua với thiên hạ,
chứ với tôi, ông vẫn là con cháu. Con cháu mà ban chức tước cho cha ông
thì hơi nghịch, chi bằng để tôi phê rồi ông lục thì hơn...". Nhà vua
đồng ý, ông Nhưng cầm bút viết 4 câu chữ Nôm, được phiên âm: "Bùng binh
chi tướng/Uýnh cướng chi quan/Bộn bàng chi chức/Chảng chảng ngang thiên"
(Nhà nghiên cứu Đặng Quý Địch dịch nghĩa 4 câu này như sau: Tướng
lớn/Quan to khiến người được phong mừng quýnh lên/Chức nhiều/Chảng ngang
hàng với trời).
Mỗi
lần vào thăm vua Thái Đức, ông Chảng thường ngồi trên một cái ghế thang
có bốn người khiêng, hai bên có vài chục người cầm cào cỏ, cuốc,
thuổng... thay cho cờ biển và hai cây du du (dụng cụ che nắng của nông
dân làm đồng ngày xưa) dùng làm lọng. Phía sau, phía trước lại có hai
đoàn người thổi kèn, đánh trống bằng miệng tưng bừng nhộn nhịp, mọi
người kéo ra xem rất đông, vui như hội. Nguyễn Nhạc cũng rất kính trọng
ông nên không bắt bẻ gì.
Nhân vật lịch sử bị lãng quên ?
Từ
đường chính của ông Đinh Viết Nhưng ngày xưa không còn nữa, nay chỉ còn
bàn thờ tại nhà ông Đào Văn Hùng (ở thôn Thanh Liêm). Di vật của từ
đường cũ chỉ còn lại hai tấm liễn bằng chữ Hán viết trên ván gỗ nhưng đã
bị mờ, rất khó đọc. Hằng năm, nhánh họ Đào ở Thanh Liêm vẫn tổ chức kỵ
cơm ông Nhưng vào ngày 27 tháng giêng. Cụ Đào An (87 tuổi, ở thôn Thanh
Liêm) cho biết: “Khi ông Nhưng qua đời, con cháu phải lập đến 6 hay 7
ngôi mộ giả vì sợ bị khai quật nên ngày nay tộc họ cũng không biết chính
xác mộ ông ở đâu”.
Theo
cuốn gia phả họ Đào do ông Đào Văn Hỷ (đời thứ 9) biên soạn, ông Nhưng
còn xuống tận vùng Đa Tài, Kim Ngọc (nay là thôn Kim Tài, xã Nhơn Phong,
TX.An Nhơn) lập trại khai hoang, lấy vợ thứ và sinh con cái ở đó. Từ
đường thờ ông Nhưng ở Kim Tài bị cháy từ năm 1968 do chiến tranh. Con
cháu kể lại rằng từ đường này ngày xưa đặt 6 dụng cụ tượng trưng cho
công việc khai hoang, gồm: cào cỏ, mỏ gãy, du du, cuốc, xẻng, chìa ba.
“Ông Chảng là nhân vật lịch sử có tiếng tăm thời Tây Sơn, có công khai
phá nhiều vùng đất ở TX.An Nhơn, nhưng đến nay vẫn chỉ là truyền miệng
dân gian và có nguy cơ bị lãng quên. Mong chính quyền, ngành văn hóa
quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu để có kết luận chính xác nhằm tôn vinh
công lao của ông, giáo dục con cháu đời sau noi gương”, cụ Đào An nói.
Theo
ông Đào Duy Thu, con cháu dòng họ Đào ở các thôn Thanh Liêm, Kim Tài,
Bằng Châu ngày nay không còn ai giỏi võ nghệ, các tài liệu võ của dòng
họ đã bị tiêu hủy sau khi phong trào Tây Sơn thất bại. Tài liệu võ duy
nhất còn lại của họ Đào là một tập tư liệu cổ do võ sư Phan Thọ (ở xã
Bình Nghi, H.Tây Sơn, Bình Định) cung cấp, trong đó có ký tên Đào Thống.
“Hiện truyền nhân duy nhất của dòng họ Đào biết nhiều võ nghệ là ông
Đào Xích (ở Bằng Châu, đời thứ 8) nay đã trên 80 tuổi. Những năm trước,
hầu hết các con cháu họ Đào ở Bằng Châu đều đến nhà ông Xích học võ. Từ
khi ông Xích nghỉ dạy võ thì trong tộc chẳng còn võ đường nào”, ông Đào
Duy Thu cho hay.
Người giữ lửa làng quyền An Vinh
Lão
võ sư Phan Thọ (88 tuổi, ở làng Thủ Thiện Thượng, xã Bình Nghi, H.Tây
Sơn, Bình Định) là người thông thạo 18 ban binh khí của võ cổ truyền
Bình Định.
Danh
tiếng làng quyền An Vinh (xã Tây Vinh, H.Tây Sơn) có từ hơn 200 năm
trước, bắt nguồn từ những người mang họ Nguyễn. Theo võ sư Phan Thọ, ông
Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) là sáng tổ của làng quyền An Vinh. Dân
gian truyền lại rằng bà tổ cô của ông Ngạc là thầy dạy võ cho nữ tướng
Bùi Thị Xuân. Ngay từ nhỏ, ông Ngạc đã học võ nghệ của gia đình và lớn
lên theo học ông Khách Bút ở Kiến Hàng (thuộc TX.An Nhơn, Bình Định ngày
nay). Ông Khách Bút nhận 2 học trò cùng ở làng An Vinh là ông Năm Nghĩa
và ông Nguyễn Ngạc. Hai học trò có hai tư chất khác nhau nên ông Khách
Bút chú tâm luyện cho mỗi người một chuyên biệt võ công. Trong khi ông
Ngạc được thầy chuyên tâm hướng dẫn về quyền thì ông Năm Nghĩa được rèn
luyện về roi.
Võ sư Lê Công Hoàng biểu diễn lại chiêu dùng mông đánh ngã cột nhà của ông Hương Kiểm Mỹ
Năm
1908, ông Ngạc và ông Năm Nghĩa tham gia yểm trợ cho đồng bào An Vinh,
An Thái chống thuế. Ông Hương mục Ngạc lấy uy tín của mình tập hợp tất
cả bằng hữu và môn sinh ở An Vinh, An Thái, kêu gọi họ “thi hành võ đạo,
ủng hộ chính nghĩa” bằng cách tiêu diệt bọn ác ôn, bảo vệ đồng bào. Ông
Ngạc sinh được tám người con nhưng chỉ có ông Bảy Lụt (tên thật là
Nguyễn An), Chín Giác và bà Tám Cảng để lại nhiều giai thoại trong giới
võ thuật. Các học trò của ông Ngạc cũng có nhiều người rất nổi tiếng là
Sáu Hà, Hương Kiểm Mỹ, Tám Tự, Hai Tửu...
Võ sư Phan Thọ bắt đầu học quyền An Vinh từ năm 17 tuổi với thầy Bảy Lụt.
Sau
đó, trong vòng 20 năm “cơm nhà, áo vợ”, ông lần lượt theo học các thầy
Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), Lê Hải (Sáu Hà), Đinh Hề (Hương Kiểm Mỹ), Hồ
Ngạnh… Mỗi người thầy của võ sư Phan Thọ đại diện cho một môn phái, có
thế mạnh riêng và tất cả đều là những cao thủ đương thời. Tuy nhiên, sở
trường của võ sư Phan Thọ vẫn là quyền của phái An Vinh. Võ sư Phan Thọ
từng hạ heo rừng, đánh bại nhiều cao thủ cùng thời nhưng ấn tượng nhất
vẫn là hạ 3 võ sĩ Đại Hàn (Hàn Quốc ngày nay).
Tiếng
lành đồn xa, võ đường của võ sư Phan Thọ có nhiều võ sinh từ các miền
của đất nước đến trọ học. 18 môn binh khí của võ cổ truyền xuất phát từ
thời phong trào nông dân Tây Sơn (thập bát ban binh khí), gồm: quyền,
roi, siêu, kiếm, đao, độc tiên (tức khăn xéo), thương, kích, giảng, thủ,
chùy, mỏ gẩy, xà mâu, côn, xích, thước, ba chĩa và trống thiên cung đều
được võ sư Phan Thọ mang ra truyền lại cho các học trò. Hai người con
của võ sư Phan Thọ, võ sư Phan Thanh Sơn dạy võ ở tỉnh Bình Dương, còn
võ sư Phan Hữu Đức đang dạy võ tại Quy Nhơn. Các cháu của võ sư Phan Thọ
cũng rất nhiều người theo nghiệp gia truyền và đang được ông truyền lại
các chiêu thức của 18 môn binh khí.
Các
thế hệ học trò của võ sư Phan Thọ, như: Đỗ Hượt, Lê Công Hoàng, Kim
Dũng, Phan Trường Hận, Nguyễn Xuân Nam… đều thành danh trong nghiệp võ.
Trong đó, Đỗ Hượt từng đánh nốc ao võ sĩ ngũ đẳng huyền đai người Đại
Hàn trên sàn đấu Tây Sơn. Ông Hượt còn nổi tiếng trong trận giáp chiến
tại cầu Đập Bộng (xã Bình Nghi), một mình ông đương đầu với một trung
đội lính Đại Hàn trang bị lưỡi lê sáng quắc, giữa hai cuộn thép gai dã
chiến. Bị chúng bao vây và tới tấp đâm lê vào người, Đỗ Hượt vừa đánh
vừa tránh đòn rồi chui xuống cống Đập Bộng để thoát thân.
Học võ không chỉ dùng lực mà phải dùng trí
Võ
sư Lê Công Hoàng (70 tuổi, ở thôn 1, xã Bình Nghi) kể, ngày xưa học võ
rất khó khăn, đến giờ người ta vẫn còn nhắc câu “giàu học võ, khó học
văn”. Người học võ phải quyết tâm, kiên trì thì các thầy dạy võ mới nhận
và chỉ dạy cho. Thầy Phan Thọ là người rất nghiêm khắc trong dạy bảo
học trò.
Có
lần, ông Hoàng đang ở nhà thầy Phan Thọ một mình thì ông Hương Kiểm Mỹ
đến và nói: “Tao nghe Phan Thọ nói mày học võ tốt lắm, tao đố nếu mày
trả lời được thì sẽ bày thêm cho vài đường. Cây cột ở giữa nhà này (ngày
xưa cột nhà bằng gỗ dựng trên một tảng đá vuông), mày dùng thế võ nào
để đánh nó bay ra khỏi cục đá?”. Ông Hoàng suy nghĩ một lát rồi trả lời:
“Trung bình tấn xuống thấp rồi dùng vai đánh vào cột”. Ông Hương Kiểm
Mỹ bảo: “Cách đó được nhưng chưa hay”. Sau khi uống ly trà, ông Hương
Kiểm Mỹ trụ người xuống tấn, dùng mông hất một cái, cây cột bay ra khỏi
cục đá kê. Sau khi kê lại cây cột, ông Hoàng áp dụng thế của ông Hương
Kiểm Mỹ, dùng hết lực hất một cái thật mạnh, cây cột cũng văng ra khỏi
cục đá nhưng vài ngày sau cái mông của ông Hoàng vẫn còn ê ẩm.
“Cây
cột giữa nhà gánh rất nhiều lực, càng lên cao thì lực gánh càng nhẹ đi
nên đánh khó ngã, đánh dưới thấp thì cột dễ ngã hơn. Bài học đó, ông
Hương Kiểm Mỹ muốn dạy tôi rằng học võ không chỉ dùng lực mà phải dùng
trí, phải biết thế thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn”, võ sư Lê Công Hoàng
nói.
“Roi Thuận Truyền, quyền An Thái”
Họ
Hồ bắt đầu nổi danh trong giới võ thuật từ thời võ sư huyền thoại Hồ
Ngạnh (1891-1976). Từ đó đến nay đã có 5 thế hệ tiếp nối truyền thống võ
học của gia tộc. Võ đường của họ Hồ hiện do võ sư Hồ Sừng (75 tuổi),
cháu nội võ sư Hồ Ngạnh, cai quản.
Theo
võ sư Hồ Sừng, ông Hồ Ngạnh tên thật là Hồ Nhu, con của ông Đốc Năm (Hồ
Đức Phổ) và bà Lê Thị Huỳnh Hà. Tuy cha mẹ đều là những người giỏi võ
nghệ nhưng ông Đốc Năm làm võ quan cho triều Nguyễn tại Huế nên ông Hồ
Ngạnh được mẹ truyền dạy võ nghệ từ nhỏ. Lớn lên, ông theo học rất nhiều
danh sư đương thời tại đất Tây Sơn, trong đó có ông Đội Sẻ và Hồ Khiêm.
Từ những bài roi học được của các môn phái, Hồ Ngạnh sáng tạo tuyệt kỹ
roi “đánh nghịch”, ngược với cách đánh thuận thông thường. Khi giao
chiến với các cao thủ, thế roi đánh nghịch bất ngờ nhiều lần giúp ông Hồ
Ngạnh thắng thế.
Võ
sư Hồ Ngạnh để lại nhiều giai thoại về các trận tỉ thí, trong đó có
trận đối đầu với bọn cướp Dư Đành. Khi đó, bè đảng của Dư Đành có 11 cao
thủ rất giỏi võ, chính quyền đương thời không sao bắt được. Biết Hồ
Ngạnh nổi tiếng về roi, Dư Đành cho người đến đề nghị nhập bọn nhưng ông
từ chối. Chúng bèn nhắn tin thách đấu, nếu Hồ Ngạnh thua thì phải gia
nhập đảng cướp. Mặc dù bạn bè can ngăn, ông Hồ Ngạnh một mình xách roi
đến điểm hẹn. Khi Hồ Ngạnh về nhà, quần áo rách tơi tả nhưng không một
thương tích trên người.
Võ
sư Hồ Sừng kể sau lần đó, Dư Đành quyết tâm tìm cơ hội phục thù. Một
hôm, ông Hồ Ngạnh đang ở nhà thì được người báo tin nương sắn của gia
đình bị nhổ hết nhưng củ sắn vẫn để nguyên trên rẫy. Ông Hồ Ngạnh ra rẫy
gánh sắn về nhà. Tuy nhiên, trên đường về thì gặp Dư Đành đang phục sẵn
rồi bất ngờ xông ra tấn công. Lần nay, Dư Đành bị ông Hồ Ngạnh đánh
văng vào bụi tre và mắc kẹt trong đó nên phải xin tha và hứa không về
làng Thuận Truyền quậy phá nữa.
Cùng
thời với Hồ Ngạnh, ở làng An Thái (nay thuộc xã Nhơn Phúc, TX.An Nhơn,
Bình Định) có một người gốc Tàu tên Diệp Trường Phát (Tàu Sáu) rất giỏi
võ nghệ, đặc biệt là võ Thiếu Lâm. Nghe tiếng ông Tàu Sáu, Hồ Ngạnh đến
làm quen, giao đấu để tìm hiểu võ nghệ lẫn nhau. Theo võ sư Hồ Sừng, ông
Hồ Ngạnh cầm roi bọc vải trắng có đệm bông được thấm mực xanh, ông Tàu
Sáu cầm roi thấm mực đỏ. Ông Hồ Ngạnh dùng đường roi nghịch tấn công
liên tiếp làm Tàu Sáu không kịp phản công mà chỉ lo chống đỡ. Sau một
hồi giao đấu, Tàu Sáu nhảy ra ngoài xin chịu thua. Trên áo của ông Tàu
Sáu chi chít những chấm mực xanh tại các điểm tương ứng với huyệt đạo
trong thân thể. Từ đó, hai người kết nghĩa thâm giao, trao đổi võ nghệ
lẫn nhau. Tàu Sáu đã tặng Hồ Ngạnh câu: Đoản côn Thuận Truyền duy hữu
nhất (Roi Thuận Truyền chỉ có một), Hồ Ngạnh cũng tặng lại câu: Thủ vũ
An Thái ngã vô song (Tay quyền An Thái cũng không hai). Câu ca “Roi
Thuận Truyền, quyền An Thái” bắt nguồn từ giai thoại này.
Võ
sư Hồ Sừng cho biết: “Ông nội tôi còn được triều đình Huế triệu ra kinh
đô dạy võ cho các thanh niên hoàng tộc. Tại Huế, ông nội tôi đã dùng
roi đánh thắng một võ sư gốc Trung Quốc, thuộc phái Thiếu Lâm, đang hành
nghề Sơn Đông mãi võ tại chợ Đông Ba tên là Trịnh Hùng Trí. Sau trận
đấu, Trịnh Hùng Trí nói: “Hồ Ngạnh danh bất hư truyền” và từ đó không
dám coi thường võ cổ truyền Việt Nam”.
Tre già măng mọc
Võ
sư Hồ Ngạnh có một người con trai nhưng mất sớm, để lại người cháu nội
duy nhất là võ sư Hồ Sừng. Trong sách Võ nhân Bình Định, hai tác giả
Quách Tấn, Quách Giao có kể lại câu chuyện truyền miệng dân gian về sự
“mất sớm” của con trai võ sư Hồ Ngạnh: Hồ Ngạnh dạy cho con trai nhiều
năm võ nghệ song vẫn giữ lại một món nghề để phòng thân. Người con nhiều
lần cầu xin cha dạy cho món nghề đó nhưng đều bị từ chối. Một hôm, nhân
dịp tối trời, con bịt mặt lẻn vào đánh lén Hồ Ngạnh để học trộm võ. Hai
cha con giao đấu với nhau, người con trúng đòn độc của cha nên phải
tháo thân chạy trốn. Sáng hôm sau, khi vợ chồng ông Hồ Ngạnh sang thăm
con trai thì chứng kiến cảnh con trai đang thoi thóp trên giường.
Võ sư Hồ Sừng biểu diễn đường roi nghịch của ông nội
Tuy
nhiên, võ sư Hồ Sừng cho biết: “Đấy là lời đồn đại sai sự thật, cha tôi
bị bệnh rồi mất. Khi ông nội tôi còn sống, một người bạn trong giới võ
thuật đưa ông tập sách có đề cập đến câu chuyện cha đoạt mạng con, ông
phản đối kịch liệt và yêu cầu nhà xuất bản rút lại câu chuyện nói trên”.
Trong
7 người con của võ sư Hồ Sừng, ông Hồ Cương vừa được phong danh hiệu võ
sư thì qua đời. Võ sư Hồ Bé đang dạy võ cùng với cha tại võ đường của
gia tộc. Võ sư Hồ Sỹ đang công tác tại Bảo tàng Quang Trung (H.Tây Sơn).
Các anh Hồ Dư, Hồ Sửu, Hồ Hiệp đang dạy võ tại gia đình. Thế hệ tiếp
theo, họ Hồ cũng trình làng những gương mặt đang là vận động viên hoặc
từng là vận động viên đội tuyển võ thuật tỉnh Bình Định như: Hồ Thứ, Hồ
Thị Kim Tâm, Hồ Đức Thiệt (con của võ sư Hồ Cương), Hồ Thị Thảo (con của
võ sư Hồ Bé), Hồ Đức Hạnh (con của Hồ Hiệp)…
Độc chiêu “Mèo rửa mặt”
Họ
Lý ở phường Đập Đá (thị xã An Nhơn, Bình Định) là chủ nhân của bài
quyền “Miêu tẩy diện” nổi tiếng, được lưu truyền qua nhiều đời.
Người
sử dụng bài quyền “Miêu tẩy diện” (Mèo rửa mặt) thuần thục nhất hiện
nay là võ sư Lý Xuân Hỷ (73 tuổi), thế hệ thứ 5 của dòng họ Lý tại Bình
Định. Bài quyền này được ông tổ của dòng họ có tên là Lý Thế dựa theo sự
nhanh nhẹn, nhẹ nhàng của loài mèo mà dựng nên. Cái hay của bài quyền
là ở những bộ trửu (chỏ) thuộc bộ thủ (tay) và ra đòn rất nhanh nên phát
huy thế mạnh khi cận chiến.
Võ sư Lý Xuân Hỷ đang thị phạm bài "Miêu tẩy diện"
“Tôi
bắt đầu học với cha là võ sư Lý Tường từ năm 8 tuổi, nhưng đến năm 12
tuổi mới bắt đầu được dạy bài “Miêu tẩy diện”. Tôi luyện tập cả ngày lẫn
đêm, nắng thì luyện ngoài sân, mưa thì luyện trong nhà mãi rồi cũng sử
dụng được. Bây giờ đã luyện bài quyền “Miêu tẩy diện” gần một đời người
mà tôi còn chưa hiểu hết những bí ẩn của nó”, võ sư Lý Xuân Hỷ nói.
Khi
còn trẻ, võ sư Lý Xuân Hỷ có hàng trăm lần thượng đài nhưng chỉ có lần
duy nhất ông bị trọng tài xử thua. Những năm trước giải phóng, ông đoạt
HCV tại giải vô địch Cao nguyên Trung phần và được mệnh danh là “Hùm xám
cao nguyên”. Hầu hết những lần thượng đài trong cuộc đời, võ sư Lý Xuân
Hỷ dù cân nặng chừng 50-55 kg nhưng luôn thi đấu với những võ sĩ nặng
hơn mình từ 10 đến 20 kg. Tuy nhiên, mỗi khi ông dùng “Miêu tẩy diện”
thì đối phương bao giờ cũng lâm nguy.
Võ
sư Lý Xuân Hỷ kể, năm 1990 ông cùng Liên đoàn Võ thuật Việt Nam sang
Nga dự Festival Võ thuật cổ truyền quốc tế (16 nước tham gia). Đối thủ
của ông là một võ sư Ba Lan cao lớn, nặng hơn ông gần 10 kg và biết nói
tiếng Việt lơ lớ. Đến giờ thượng đài, thấy ông Hỷ đứng yên chẳng thủ thế
gì, võ sư Ba Lan ngạc nhiên hỏi sao không chuẩn bị. Ông trả lời: “Võ
thuật Việt Nam chúng tôi là vậy đấy, đứng chơi chơi cũng là thủ rồi” để
trêu tức đối phương. Võ sư Ba Lan nổi nóng xông vào đá thật mạnh, võ sư
Lý Xuân Hỷ tránh đòn rồi đánh trả khiến đối phương ngã xuống sàn đấu.
Điên người, võ sư Ba Lan ngồi dậy, tạo lực rồi phóng một đòn thẳng vào
võ sư Lý Xuân Hỷ. Ông bình tĩnh né đòn trong gang tấc rồi để chỏ vào
ngực đối phương và tung tiếp đòn thứ 2 vào bụng dưới khiến võ sư Ba Lan
ngã xuống sàn. Bất ngờ, võ sư Ba Lan bò dậy rồi quỳ sụp xuống nói “sư
phu… ụ”.
Năm
2007, một võ sĩ người Ý tìm đến Bình Định và nhờ các ngành chức năng
dẫn đến tìm võ sư Lý Xuân Hỷ để giao đấu. Thấy võ sĩ người Ý trẻ tuổi,
nặng hơn ông Hỷ khoảng 30 kg nên có người khuyên ông từ chối. Tuy nhiên,
võ sư Lý Xuân Hỷ vẫn nhận lời vì “thể diện quốc gia” và giao ước trận
đấu chỉ diễn ra trong 30 phút. Khi giao đấu, võ sĩ người Ý liên tục dùng
cước pháp đá vào người võ sư Lý Xuân Hỷ nhưng ông đều né được. Đến khi
võ sĩ người Ý tung cú đá thật mạnh về mặt Lý Xuân Hỷ, ông né đòn rồi
quét vào chân trụ khiến đối phương ngã gục, lúc đó trận đấu mới chỉ diễn
ra được vài phút.
Phát huy tinh hoa môn phái
Dòng
họ Lý đến Đập Đá lập nghiệp từ đời ông Lý Thế, vốn là một người rất
giỏi võ nghệ. Đến đời thứ 2 là ông Lý Xuân Hùng thì lấy tên môn phái là
Lý Gia võ đạo. Ông Hùng truyền lại võ nghệ cho con trai là Lý Hân. Đời
thứ 4 nhà họ Lý có hai anh em rất giỏi võ nghệ là Lý Xuân Tạo và Lý
Tường. Võ sư Lý Xuân Tạo và Lý Tường đã đào tạo ra nhiều võ sư nổi tiếng
như: Lý Xuân Hỷ, Nguyễn Đức Thọ, Lê Xuân Cảnh, Lý Thành Nhân… Trong đó,
võ sư Lê Xuân Cảnh đã mở lò dạy võ tại thị xã An Nhơn và được công nhận
là một trong 6 võ đường tiêu biểu của tỉnh Bình Định hiện nay. Võ sư Lý
Thành Nhân, con của võ sư Lý Xuân Tạo, từng là Chủ tịch Hội Võ cổ
truyền Bình Định, sử dụng nhuần nhuyễn bài “Miêu tẩy diện”. Võ sư Lý
Xuân Hỷ cũng đang đảm nhận nhiệm vụ Phó chủ tịch Hội Võ cổ truyền Bình
Định.
Theo
võ sư Lý Xuân Hỷ, bài thảo “Miêu tẩy diện” có hơn 20 động tác dù tha
thướt, nhẹ nhàng, không gây tiếng động nhưng lại là một ẩn họa cực lớn
với đối phương khi bị tấn công. Khi sử dụng trảo thì như mèo, như hổ,
khi dùng ngón điểm chỉ vào tử huyệt đối phương. Tập “Miêu tẩy diện”
không khó, nhưng luyện cho đến mức thân pháp và bộ pháp thành thục thì
không dễ. Ông Hỷ có 5 con đều đã được phong võ sư. Hiện ông đã giao võ
đường lại cho con trai đầu của mình là võ sư Lý Xuân Vân (50 tuổi) trông
coi việc đào tạo các thế hệ trẻ. Thế hệ thứ 7 của Lý Gia võ đạo cũng có
nhiều người sớm thành danh trong nghiệp võ như: Lý Xuân Vũ (27 tuổi,
cháu gọi võ sư Lý Xuân Hỷ bằng ông nội), Trần Minh Trí, Lý Xuân Hảo, Lý
Xuân Hợp…
Võ
sư Lý Xuân Hỷ cho biết: “Ngày xưa, do quan niệm hẹp hòi nên các bài võ
của dòng họ chỉ được truyền dạy cho con cháu. Nhưng cứ làm mãi như thế
thì làm sao mà phát huy được tinh hoa môn phái và rất dễ thất truyền.
Hiện lò võ của gia đình tôi đang truyền dạy võ cho tất cả võ sinh đến
học. Ai có chí thì sẽ học được võ, trong đó có cả bài “Miêu tẩy diện”
gia truyền của dòng họ Lý”.
Tinh hoa phái võ chùa
Ra
đời sau những làng võ danh tiếng như An Thái, Thuận Truyền, An Vinh...
nhưng phái võ chùa Long Phước đang dần khẳng định được vị thế trong dòng
võ cổ truyền Bình Định.
Môn
phái võ cổ truyền chùa Long Phước (ở thôn Tân Thuận, xã Phước Thuận,
H.Tuy Phước, Bình Định) ra đời từ sau những ngày đất nước giải phóng, do
hòa thượng Thích Hạnh Hòa trụ trì chùa (nay là hòa thượng Viện trưởng
chùa Long Phước) sáng lập. Ban đầu, hòa thượng Thích Hạnh Hòa và đệ tử
của ông là Thích Vạn Thanh (tức võ sư Nguyễn Đông Hải) trực tiếp đứng ra
dạy võ thuật. Mãi đến năm 1986, ông Lê Thì, Giám đốc Sở TDTT Bình Ðịnh
lúc ấy, đã thuyết phục được hòa thượng Thích Hạnh Hòa mở CLB võ thuật cổ
truyền chùa Long Phước để phổ biến võ học.
Hiện
CLB võ thuật cổ truyền chùa Long Phước do võ sư Nguyễn Văn Thắng làm
chủ nhiệm, 2 hòa thượng Thích Vạn Thông và Thích Vạn Nguyên làm phó chủ
nhiệm. Ngoài ra, còn có 3 hòa thượng và 3 võ sư khác tham gia trong công
tác huấn luyện võ thuật. “Những bài võ cổ truyền được ghi trong 2 tập
“Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiếu pháp” (tạm dịch là: Sao
chép binh thư võ thuật của những vị tướng qua nhiều đời khác nhau) và
Tây Sơn danh tướng mộ hùng thao (còn gọi là Tây Sơn bí kíp) đã được dạy
tại chùa Long Phước từ nhiều năm nay. Các sư thầy là những người biết
chữ Hán, chữ Nôm nên việc nghiên cứu, dịch tài liệu võ cổ truyền từ thời
xưa để lại rất thuận lợi”, võ sư Nguyễn Văn Thắng cho biết.
Lò
võ chùa Long Phước đã lần lượt xuất hiện hàng loạt những tên tuổi thành
danh tại các giải vô địch quốc gia như Nguyễn Ðức Thắng với bài U linh
thương, Nguyễn Văn Cảnh với bài Tru hồn kiếm, Võ Văn Tính với bài Chấn
lôi âm tiên, Trần Duy Linh với bài Lôi long đao... Võ sư Nguyễn Văn Cảnh
(44 tuổi), HLV Trường Năng khiếu thể dục - thể thao Bình Định, cho
biết: “Chùa Long Phước là nơi đóng góp nhiều võ sinh cho đội tuyển và
các lớp năng khiếu võ thuật của tỉnh Bình Định. Ngoài bản thân tôi thì 2
đồng môn là các võ sư Trần Duy Linh, Võ Văn Tính đang là nòng cốt trong
công tác huấn luyện các đội tuyển võ thuật của tỉnh Bình Định”.
Theo
hòa thượng Thích Vạn Nguyên, ngoài võ thuật, các võ sinh chùa Long
Phước đều được nghe giảng giải về giáo lý nhà Phật. Thông qua việc dạy
võ, nhà chùa cũng rèn luyện đạo đức cho võ sinh.
Bảo tồn, phát huy bí kíp võ học
Võ
sư Trần Duy Linh (39 tuổi, ở xã Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định), HLV
Trường Năng khiếu thể dục - thể thao Bình Định, là một trong những đệ
tử xuất sắc của phái võ cổ truyền chùa Long Phước. Anh bắt đầu học võ
tại chùa Long Phước năm 13 tuổi với hòa thượng Thích Hạnh Hòa và Thích
Vạn Thanh. Thời còn đi thi đấu, võ sư Trần Duy Linh đã đoạt nhiều huy
chương về các bộ môn võ cổ truyền. Ngoài công tác huấn luyện cho các đội
tuyển võ thuật tỉnh Bình Định, hiện võ sư Linh còn tham gia các nhóm
sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lại những tuyệt kỹ võ học cổ truyền của
dân tộc và được mời vào Ban chuyên môn, Ban huấn luyện Liên đoàn Võ cổ
truyền Việt Nam.
Theo
võ sư Trần Duy Linh, võ sư Nguyễn Đông Hải (Hư Linh Tử) có thời gian tu
ở chùa Long Phước, vốn là đệ tử đời thứ 13 của hệ phái Hư Minh. Ông tổ
hệ phái Hư Minh (sáng tổ của môn phái Long Hổ Không Hồng) sống vào thời
hậu Lê có để lại cuốn Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiếu pháp.
Cuốn sách có sao chép hơn 150 bài võ cổ truyền của các danh tướng từ
thời hậu Lê về trước, như: U linh thương (thời nhà Đinh), Động địa thủy
tiên (của Đinh Tiên Hoàng), Tru hồn kiếm (thời Lý), Tây quy kinh môn
tiên (của Lý Công Uẩn), Lôi long đao (của Trần Quang Khải), Mai hoa
quyền (của Phạm Ngũ Lão), Vệ la thành thương, Đằng vân sát kiếm, Sa vân
kiếm pháp…
Đến
đời thứ 8 của hệ phái Hư Minh có người tên Nguyễn Trung Như (Hư Linh
Ẩn), vốn là quan võ nhà Tây Sơn, để lại cuốn Tây Sơn danh tướng mộ hùng
thao có ghi chép lại các bài võ, thân thế, sự nghiệp các danh tướng nhà
Tây Sơn. Trong đó có cái bài võ nổi tiếng như Nghiêm thương của Nguyễn
Huệ, Hiệp hộ đàn thương của Nguyễn Trung Như, Song phượng kiếm của Bùi
Thị Xuân, Lôi phong tùy hình kiếm của Trần Quang Diệu, Lôi long đao của
Võ Văn Dũng, Hùng kê quyền của Nguyễn Lữ…
Hàng
trăm bài võ trong 2 tập sách bằng chữ Hán này được võ sư Nguyễn Đông
Hải dịch ra, tập luyện rồi truyền lại cho nhiều thế hệ học trò võ ở chùa
Long Phước, trong đó có võ sư Trần Duy Linh. Võ sư Trần Duy Linh lại
tiếp tục công việc của thầy, lại nghiên cứu, biên soạn, chú giải những
bài võ cổ xưa sao cho dễ hiểu, dễ tiếp nhận hơn đối với người học võ
ngày nay. “Học võ cũng cần có chữ “duyên”. Tôi may mắn được học võ tại
chùa Long Phước và đã tiếp cận được nhiều bài võ bí truyền của dân tộc.
Giờ đây, tôi phải tiếp tục tìm kiếm, truyền dạy những bài võ của các thế
hệ cha ông cho các học trò”, võ sư Trần Duy Linh nói.
Theo Hoàng Trọng (Thanh niên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét