Môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà có đủ kỷ thuật quyền cước và binh khí như các môn Võ Việt Nam khác. Về binh khí , môn Võ Lâm có mười tám loại chính ( còn gọi là thấp bát an võ nghệ như sau: 1. Đao 2.Thương 3. Kiếm 4. Kích 5. Đảng 6. Côn 7. Quải 8. Liêm 9. Trảo 10. Câu 11. Xoa 12. Ba 13. Tiên 14. Giản 15. Chuỳ 16. Phủ 17. Cung , tiển 18. Đẳng bài.
Ngoài ra , còn có mười hai loại binh khí phụ khác ( gọi là thập nhị phân cơ), như : thiết lĩnh , khăn quấn dầu , sợi dây… Binh khí đả hổ của môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà trong những phe đả hổ và phá cướp : côn ,tiên và trường thương. Quyền
cước trong Tân Khánh Bà Trà thì gồm: bộ pháp , thân pháp , cước pháp ,
thủ pháp , quyền pháp và đấu pháp , được phân ra nhiều trình độ từ thấp
lên cao. Võ Lâm Khánh Bà Trà cũng có nhiều công phu phu như : ngoại công
, khí công , điểm huyệt , giải huyệt và y lý dành cho môn sinh cao cấp.
Các môn võ Trung Quốc trong mỗi bài quyền và binh khí đều có thiệu
để ghi tên đòn thế, nhưng không là một bài thơ như trong các bài võ Việt
Nam. Nói khác đi, một đặc điểm của các bài quyền và binh khí của các
môn võ Việt Nam, trong đó có môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà, là luôn luôn
có bài thiệu ghi tên những đòn thế trong bài là một bài thơ làm theo các
thể: tứ tự (mỗi câu bốn chữ), ngũ ngôn( mỗi câu năm chữ), thất ngôn(mỗi
câu bảy chữ), lục bát(câu sáu chữ liền với câu tám chữ), song thất lục
bát(hai câu bảy chữ liền với hai câu lục bát)… Ở những bài thiệu làm
theo thể lục bát hay song thất lục bát, các từ trong câu hầu hết là từ
Việt thỉnh thoảng xen một vài từ Hán Việt, còn ở các bài thiệu làm theo
những thể thơ khác thì đều là từ Hán Việt:
-Thủ chấp thần đồng Ngư ông trì thế Hổ bộ si phongPhản hồi toạ địa… (bài quyền Thần Đồng)
-Chấp thủ lập đồng nhi Khuynh thân bạt thủ chi Tiền tấn du luân thích Đình bộ lập song phi… (bài quyền Bát Tiên)
-Tấn nhứt trung bình đả số biên Tàng sương giáng hạ thích đương tiên Toạ tả toạ hữu giai trùng nhị Tấn khởi tề mi phụng võ tiền… (bài côn Tấn Nhứt)
-Chống roi đứng thủ thần đồng Bắt qua bên trái đánh càn hai bên … (bài roi Thần Đồng).
Trong
kho tàng võ thuật của môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà có nhiều bai quyền và
binh khí trùng tên với các bài trong môn võ Tây Sơn, nhưng thiệu và
những đòn thế kỹ thuật của những bài trong Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà có
phần nhiều hơn: bài côn Tấn Nhứt trong võ Tây Sơn có tám(
câu thiệu thì bài côn Tấn Nhứt trong Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà lại có tới
mười sáu câu thiệu (16), bài quyền Thần Đồng trong võ Tây Sơn có mười
hai câu thiệu (12 thì bài quyền Thần Đồng trong Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà
lại có đến mười tám câu thiệu (18)… Ngoài ra, trong Võ Lâm Tân Khánh
Bà Trà cũng ẩn hiện, chan hoà kỷ thuật các môn võ: Trung Quốc (Thiếu
Lâm). Chân Lạp, đặc biệt là trong các nghi thức chuyên môn. Bản sắc của môn Võ Lâm Tân Khánh Bà trà còn là ở kỷ thuật chiến đấu và phương pháp tập luyện.
Trong chiến đấu, Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà có đủ các kỷ thuật:công, thủ,
phản, biến, với những cự ly chiến đấu gần xa nhau, bằng cả kỹ thuật đòn
chân lẫn đòn tay, đòn đôi, thuận, nghịch, bay nhảy, song đấu, hỗn đấu
(đấu với nhiều người). Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà chú trọng cách đách liên
hoàn, nhanh lẹ, phối hợp nhịp nhàng tay chân, công kích bám sát đối
phương để đạt hiệu quả cao, trong thế công đã ngầm thế thủ, và trong thế
thủ đã chứa thế công.Cái đẹp trong Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà là công kích
trung mục tiêu chớ không phải ở chỗ múa quyền, đánh lớp cho huê vạn. Đó
phải chăng là tính thực tế phảng phất tinh thần những người đi khai
phá? Trên lãnh vực tập luyện, môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà giúp cho
người tập rèn luyện được thể lực, ý chí, bình tĩnh và lòng quả cảm. Giáo
trình và kỹ thuật huấn luyện của môn Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà mang tính
thực tế nhanh chóng giúp cho người tập đạt hiệu quả tốt về rèn luyện thể
lực, tự vệ và chiến đấu, mang dấu ấn đặc tính thể tạng của từng người.
Tóm lại, Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà được sáng tạo tổng hợp từ những kinh
nghiệm chiến đấu, va chạm thực tế của người Việt trên bước đường mở
nước, một nghệ thuật nhỏ chống lớn, ít chống nhiều, khôn ngoan, quyền
biến lanh lẹ áp chế địch thủ, thích hợp với tâm lý, thể tạng và hoàn
cảnh sinh hoạt của người Việt Nam. Bên cạnh đó, Võ Lâm Tân Khánh Bà trà
cũng bằng bạc nét huê vạn của các môn võThiếu Lâm (Trung Quốc) và môn Võ
Dân Tộc Chân Lạp (Campuchia) trong từng kỹ thuật diễn quyền cũng như
chiến đấu, phảng phất một thời khai phá vùng đất mới Đồng Nai mà ba dân
tộc cùng chung sống.
“Mãnh sư” Thiếu Lâm một chiêu đánh gục võ sĩ ngoại quốc
Thiên Hà |
67
Bị võ sĩ nước ngoài tới tấp tấn công, cao thủ Việt bất ngờ hạ
thấp tấn pháp rồi bật ngược lên tung đòn “xà vương phún khí” hiểm hóc,
khiến đối phương gục ngã.
Vị cao thủ ấy chính là cố võ sư Trần Tiến - chưởng môn võ phái Thiếu Lâm Nội gia quyền Việt Nam, người được ca ngợi là “đệ nhất” làng võ Việt. Võ lâm khuynh đảo
Theo nhiều huynh đệ làng võ thì trong số các võ sư hàng đầu Việt Nam ở thế kỷ 20, Trần Tiến xứng đáng được đứng ngôi đầu.
Võ sư Phan Dương Bình, một cao đồ Vovinam và Vịnh Xuân quyền cũng đã
liệt Trần Tiến vào vị trí “đệ nhất” cao thủ làng võ Việt Nam.
Trần Tiến (1911-2011) vốn mang họ Hoàng, gốc Bắc Giang nhưng khi
nghĩa quân Yên Thế tan rã, ông nội Hoàng Hảo và người cha Hoàng Tân đã
phải thay tên đổi họ, lẩn tránh về Đồ Sơn (Hải Phòng).
Trần Tiến được khai tâm võ học từ năm 10 tuổi. Một hôm, ba lính Pháp xông vào cướp kho đường do cha Trần Tiến cai quản.
Cha con Trần Tiến lao ra chống trả quyết liệt, nhưng sức vóc hai cha con không thể nào chống nổi toán lính to lớn.
Đang yếu thế, bất ngờ một bóng người bay vụt vào. Chỉ trong chớp mắt,
người này tung ra mấy cú liên hoàn cước đá văng cả ba tên lính ra
đường.
Người nghĩa hiệp đó xoa đầu khen Trần Tiến: “Cậu bé nhỏ tuổi mà có dũng khí. Nếu cậu có chí luyện võ, đến chùa gặp ta”.
Ngay tối đó, cậu bé Trần Tiến tìm đến ngôi chùa cổ, cậu mới biết ân
nhân của cha con mình chính là võ sư Lý Giang Nam, một cao thủ Thiếu Lâm
Nam phái, bị Nhật truy lùng nên bỏ quê hương Phúc Kiến - Trung Quốc
sang Việt Nam lánh nạn.
Kể từ đó, Trần Tiến bái võ sư Lý Giang Nam làm sư phụ. Thấy đệ tử có
thiên chất, sư phụ đã truyền thụ hết những tuyệt kỹ Thiếu Lâm nội gia
cho Trần Tiến.
Sau khi sư phụ hồi hương, Trần Tiến tiếp tục thụ giáo nhiều môn võ
khác nhau với nhiều võ như danh tiếng như học Nhu thuật với võ sư Tanabe
(Nhật), Judo với võ sư Karachi (Nhật) và quyền Anh cùng võ sĩ Lafleur
(người Pháp gốc Phi).
Võ sư Trần Tiến truyền thụ võ công cho đồ đệ.
Với căn cơ võ công và sự khổ luyện, ông sớm trở thành một cao thủ khi còn rất trẻ.
Năm 24 tuổi, Trần Tiến đoạt chức vô địch kiếm thuật Bắc kỳ. Chưa dừng
lại, gót chân Trần Tiến còn lang bạt khắp giang hồ, ở đâu có võ đài lớn
nhất là đều ghi dấu chân của ông.
Năm 1936, do bị giặc Pháp săn đuổi vì lý do “kích động kẻ xấu luyện
võ gây mất an ninh trật tự” nên võ sư Trần Tiến phải khăn gói vào Nam.
Quãng thời gian này, bởi mưu sinh và sự hiếu thắng của tuổi trẻ nên
võ sư Trần Tiến đã rất nhiều lần thượng đài ở khắp các võ đài từ Bắc -
Trung – Nam.
Ông còn chinh chiến ở khắp các nước Đông Nam Á với nhiều đối thủ khác nhau và đều giành phần thắng
Ông tham gia thượng đài và đánh hạ các đối thủ sừng sỏ ở nhiều võ đài
tại các nước Thái Lan, Philippines, Malaysia, Myanmar, Singapore và cả
Hồng Kông khiến quá nhiều cao thủ phải khiếp sợ và thán phục.
Bí quyết để trở thành nhà vô địch của Trần Tiến, ngoài trình độ võ
công thượng thừa, quan trọng còn phải biết sở trường, sở đoản của từng
đối thủ để có đòn thế khắc chế và có đấu pháp hợp lý. Trận tử chiến cuối cùng với Tiểu Lâm Xung
Theo võ sư Trần Tiến từng kể lại thì trận thượng đài đáng nhớ nhất và
cũng chính là trận chiến cuối cùng của ông diễn ra trên đất Singapore.
Sau khi đả bại loại hàng loạt các đấu thủ, trận cuối cùng ông gặp một
đối thủ là võ sĩ người bản địa có biệt hiệu là Tiểu Lâm Xung.
Đây là võ sĩ cao lớn như hộ pháp nhưng lại có thân hình rất rắn chắc, được ví là một lực sĩ.
Cao thủ này là bậc thầy về ngạnh công, có thể đưa ngực, bụng chịu những cú đấm đá như trời giáng mà không hề hấn gì.
Tiểu Lâm Xung còn có bàn tay mệnh danh "thiết thủ" có thể đấm vỡ tấm
gỗ dày 5 phân. Khi đã thấm mệt, chỉ một đòn là Tiểu Lâm Xung cũng có thể
khiến cho đối thủ phải bỏ mạng.
Võ sư Trần Tiến trong một buổi lễ bái sư.
Trước trận quyết đấu với Trần Tiến, Tiểu Lâm Xung đã thề sẽ đánh gục
võ sĩ người Việt để “rửa hận” cho những người Singapore từng bại trận.
Trận tử chiến cuối cùng cũng đến. Trận đấu được qui định trong 8
hiệp, mỗi hiệp dài 3 phút. Các võ sĩ chỉ bị cấm đánh xòe tay, còn đòn
hiểm như cùi chỏ, đầu gối đều được sử dụng và không mặc áo giáp bảo hộ.
Bước lên võ đài đài, với “bàn tay sắt” sở trường, Tiểu Lâm Xung đã
thị uy, tung những cú đấm sấm sét của mình vào những tấm gỗ dày đến 5 cm
khiến chúng vỡ tan.
Xong, anh ta quay sang hỏi Trần Tiến có thi chặt ván với mình không.
Trần Tiến chỉ im lặng lắc đầu. Tiểu Lâm Xung hỏi tiếp: “Vậy thì tự xin
thua đi”.
Trần Tiến vẫn chỉ lắc đầu. Tiếng chuông báo hiệp một vang lên, hai võ sĩ bước vào trận chiến.
Cậy sức, Tiểu Lâm Xung tới tấp tung đòn mãnh liệt, Trần Tiến buộc
phải lui vào thế phòng ngự, thỉnh thoảng mới tìm cách phản công.
Tiểu Lâm Xung ra hổ quyền thì Trần Tiến dùng hầu quyền để tránh. Tiểu
Lâm Xung tiếp tục tung xà quyền, Trần Tiến lại khống chế bằng hạc
quyền.
Bốn hiệp đấu trôi qua, võ sĩ người Việt vẫn chưa có được một đường
tấn công đáng kể. Còn Tiểu Lâm Xung càng đánh càng hưng phấn, ham công
và để lộ những sơ hở.
Trong khoảnh khắc chủ quan khinh địch của đối thủ, Trần Tiến bất ngờ
hạ thấp tấn pháp, trườn người nhập nội như con rắn và bật ngược lên tung
đòn “xà vương phún khí” hiểm hóc đúng vào hạ bộ đối thủ.
Trong chớp mắt, Tiểu Lâm Xung rũ người đổ ập xuống lăn lộn, rồi bất tỉnh. Cả khán đài sững sờ không hiểu chuyện gì xảy ra.
Chính Trần Tiến cũng bàng hoàng không hiểu tại sao mình ra đòn hiểm
này. Ông lặng lẽ cúi xuống xem Tiểu Lâm Xung bị thương thế nào. Miếng
bảo hộ vùng hạ bộ của anh ta đã bị vỡ vì cú đánh quá mạnh.
Thấy Tiểu Lâm Xung nằm bất động không thể thi đấu, trọng tài nắm tay
Trần Tiến giơ lên cao, tuyên bố phần thắng bất ngờ đã thuộc về võ sĩ
người Việt.
Thế nhưng, trong khoảnh khắc vinh quang ấy, thấy Tiểu Lâm Xung nằm
bất động trên sàn, Trần Tiến bỗng thấy ăn năn, day dứt. Ông rút tay lại,
chắp bái xin lỗi rồi tự nhận phần thua cuộc.
Trần Tiến lặng lẽ cúi đầu rời võ đài trong tiếng huýt sáo phản đối
của những kẻ thua cược và cả tiếng vỗ tay của những người cảm phục khí
khái ông.
Thật ra, đòn ấy với võ đài tự do thì chẳng có gì là sai luật, thế
nhưng với tinh thần võ đạo, cú đánh ấy lại là cấm kỵ bởi tính sát thủ
tàn khốc.
Với Trần Tiến, sau đòn hiểm độc trong tình huống một mất một còn, suốt đêm hôm đó ông không tài nào chợp mắt nổi.
Nhưng rồi ông đã bình tâm trở lại. Ông nhận ra rằng, võ đài không cần
phải quyết đấu nữa. Thắng bại chỉ như gió thoảng qua và sau trận đấu
ấy, ông đã tránh xa “kiếp sống võ đài”. Vị chưởng môn huyền thoại
Năm 1945, Trần Tiến từ Campuchia ra Hà Nội, được Việt Minh giác ngộ và tham gia cách mạng.
Vào quân ngũ, với khả năng quyền thuật siêu đẳng, ông đã được phân
công huấn luyện võ thuật cho bộ đội tinh nhuệ, chính là lực lượng đặc
công sau này.
Năm 1978, ông rời quân ngũ nhưng vẫn tự nguyện tham gia dạy võ thuật
cho một số sĩ quan quân đội Campuchia suốt hơn chục năm trời.
Sẵn vốn liếng võ cổ truyền Việt Nam cộng với tinh hoa các tông phái
Trung Quốc và Nhật Bản, lão võ sư Trần Tiến đã sáng lập nên võ phái
Thiếu Lâm nội gia quyền Việt Nam.
Lão võ sư Trần Tiến biểu diễn khí công ở độ tuổi 100.
Đến giờ, võ phái của ông đã thu hút cả ngàn môn sinh. Trong số ấy, có
rất nhiều môn sinh người Âu, Mỹ, Phi… bởi nghe danh mà lặn lội tìm về
theo học.
Suốt cuộc đời, lão võ sư Trần Tiến cứ đau đáu một nỗi niềm là làm sao
để võ học Việt Nam được bảo tồn và phát triển. Ông đào tạo ra hàng ngàn
môn đệ, võ sư, HLV tài năng cho làng võ Việt Nam.
Với nhiều đóng góp to lớn, Trần Tiến được Liên đoàn võ thuật cổ
truyền Việt Nam tặng HCV danh dự; được Bộ trưởng – Chủ nhiệm Ủy ban TDTT
tặng Huy chương vì sự nghiệp thể thao.
Điều đặc biệt là khi đã ở gần ngưỡng tuổi bách niên, lão võ sư Trần
Tiến vẫn rất khỏe mạnh, minh mẫn và vẫn có thể biểu diễn khí công trước
sự trầm trồ thán phục của hàng ngàn người.
Tới ngày 21/2/2011 do tuổi cao, lão võ sư Trần Tiến đã vĩnh viễn ra
đi tại Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM), hưởng thọ 101 tuổi. Làng võ Việt mất
đi một tên tuổi quá lớn!
Nhưng với cộng đồng làng võ Việt, cái tên Trần Tiến vẫn còn sống mãi
bởi đơn giản, ông là một huyền thoại, một cây đại thụ sẽ còn mãi tỏa
bóng cho hậu thế.
Published: Tuesday, 02 June 2015 03:48 | Written by Super User | Hits: 348
Bài 1
ĐƯỜNG ĐAO CỦA ĐẠI SƯ MAI VĂN PHÁT
Giới võ lâm Sài Gòn – Chợ Lớn luôn dành vị trí trang trọng nhất trong
những lần họp mặt cho một vị thiền sư tóc búi cao, râu bạc dài, đôi mắt
sáng quắc tinh anh trong bộ cà sa vàng mượt, tác phong ông thư thái, tay
lần chuỗi hạt. Đó là vị chưởng môn phái Trung Sơn võ đạo Mai Văn Phát,
pháp danh Thích Thiện Tánh, trụ trì tại Long Hoa tự (phường Tân Định,
TPHCM)…
LÃNH HỘI TUYỆT KỸ CHỐN THÂM SƠN
Đại
sư Mai Văn Phát sinh năm 1917 tại xã Thới Đông, huyện Ô Môn, tỉnh Cần
Thơ trong một gia đình nông dân. Thuở nhỏ ông là một đứa trẻ ốm yếu,
thường hay bệnh tật, nên khoảng 10 tuổi được gia đình đưa lên Hải Sơn tự
ở núi Thất Sơn (Châu Đốc – An Giang) theo hòa thượng Thích Thiện Hoa tu
học. Vị hòa thượng trụ trì Hải Sơn tự nguyên là thủ hạ của Nguyễn Trung
Trực – vị anh hùng cầm đầu nghĩa quân đốt cháy tàu Espéranto của thực
dân Pháp trên dòng Nhật Tảo. Khởi nghĩa thất bại, người cận tướng của
Nguyễn Trung Trực bị thực dân Pháp truy lùng, phải lánh nạn tại Hải Sơn
tự, mai danh ẩn tích dưới pháp danh Thích Thiện Hoa. Chốn thiền môn
không chỉ là chỗ người nghĩa quân dung thân, ông còn dùng sân chùa đêm
đêm bí mật rèn luyện võ nghệ cho thanh niên trai tráng trong làng dưới
chân núi. Nơi cửa chùa, ngoài Phật pháp, cậu bé Phát còn được sư phụ
truyền dạy võ công. Sau 14 năm, cậu bé Mai Văn Phát gầy gò bệnh tật năm
nào giờ đã trở nên rắn rỏi, săn chắc, tinh thông quyền cước và thập bát
ban binh khí. Năm 24 tuổi sư phụ viên tịch, Mai Văn Phát xuống núi đem
sở học mà thầy đã chân truyền ra giúp đời.
Năm
1941, võ sư Mai Văn Phát về quê nhà Cần Thơ, đêm đêm dạy võ cho trai
tráng trong thôn. Một hôm ông may mắn được võ sư Lào Thêm – một bậc cao
thủ người Hẹ ẩn tích tại núi Bà Đen (Tây Ninh) tình cờ hành hiệp ngang
qua sân luyện võ, thấy Mai Văn Phát cốt cách tinh anh, tác phong quân tử
nên đem lòng yêu mến và nhận làm nghĩa tử, sau đó chân truyền các tuyệt
kỹ võ công Thiếu Lâm Bắc phái Bạch Hạc và Thiếu Lâm Chu Gia (võ Hẹ).
Năm 1955, võ sư Mai Văn Phát rời Ô Môn lên Sài Gòn sinh sống, vừa đi
làm vừa dạy võ tại nhà, đồng thời nghiên cứu, hệ thống hóa tinh hoa võ
thuật từ hai vị ân sư, sắp xếp thành chương trình huấn luyện từ thấp đến
cao. Năm 1963, sau khi chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính
quyền miền Nam xáo trộn, nhằm thu hút thanh thiếu niên sinh hoạt lành
mạnh, võ sư Mai Văn Phát quyết định xuống tóc xuất gia, lấy pháp danh
Thích Thiện Tánh với ước mong dùng việc dạy võ để giáo huấn thế hệ trẻ
lòng yêu nước, đạo đức làm người và khả năng tự vệ hữu hiệu, ông sáng
lập môn phái Trung Sơn võ đạo (Thiếu Lâm Nguyên thủy Mật truyền) từ chi
đoàn Trúc Lâm (hướng đạo sinh Phật tử), võ đường đặt tại Long Hoa tự
(P.Tân Định, TPHCM).
Năm
1969, cùng với 13 võ sư, đại sư Mai Văn Phát vận động thành lập Tổng
hội Võ học Việt Nam, giữ chức phó chủ tịch (nhiệm kỳ 1969 – 1971, 1973 –
1975), chủ tịch (1971 – 1973). Sau 1975, đại sư Mai Văn Phát tham gia
tổ chức Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, được cử giữ chức trưởng
ban cố vấn. Tại Liên hoan Võ thuật Việt – Pháp tổ chức tại NTĐ Phan Đình
Phùng (TPHCM) tối 11-11-1997, dù đã bước qua tuổi 80, đại lão võ sư Mai
Văn Phát vẫn biểu diễn bài đại đao với những đường múa uyển chuyển, đầy
uy lực trong tiếng vỗ tay tán thưởng của hàng ngàn cặp mắt ngạc nhiên
lẫn thán phục của các võ sư, môn sinh và quan khách. Ngoài dạy võ, đại
lão võ sư Mai Văn Phát còn nhận chữa trị các bệnh khớp xương và thần
kinh tọa. Tạp chí chuyên về võ thuật của Pháp Karate Bushido (6-1995) đã
đăng bài viết của võ sư Việt kiều Phan Châu Toàn về đại lão võ sư Mai
Văn Phát, tác giả Phan Châu Toàn đã gọi đại lão võ sư Mai Văn Phát là
“vị thầy tu giỏi võ, một huyền thoại sống”.
Ngày 8-12-1997, đại lão võ sư Mai Văn Phát viên tịch sau một cơn bạo
bệnh, để lại môn phái Trung Sơn võ đạo đã tồn tại đến nay tròn 45 năm,
hiện TPHCM có 24 đơn vị đang hoạt động, số môn sinh khoác áo Trung Sơn
võ đạo đã lên đến hàng vạn.
Các võ sư Trung Sơn võ đạo bên bàn thờ tổ môn phái
VANG DANH TRUNG SƠN VÕ ĐẠO
Sau 45 năm thành lập, Trung Sơn võ đạo của đại lão võ sư Mai Văn Phát
sản sinh ra nhiều đệ tử tài năng như Lê Ngọc Điệp, Nguyễn Thanh Sơn,
Trần Văn Hồng, Phạm Ngọc Hùng, Lê Tấn Phát, Lư Kim Toàn, Trần Hùng
Khanh, Nguyễn Minh Trang, Trần Minh Tâm, Nguyễn Văn Thanh (Tâm Lương),
Lê Thị Nhiều, Thanh Phượng… Là thiền sư, lấy chữ Bi làm đầu, đại sư Mai
Văn Phát cấm môn đồ thượng đài, bởi ông tâm niệm “võ thuật nhằm rèn
luyện nhân cách, học võ không phải để tranh tài cao thấp, phân định hơn
thua”, dù vậy trong hai thập kỷ 60 – 70, võ đường Long Hoa tự vẫn thu
hút hàng ngàn thanh thiếu niên đến xin tập luyện.
Trung Sơn võ đạo là môn võ cương nhu tương tế, trong đó có các bài
quyền đặc trưng: La Hầu quyền, Hắc Long đao, Song tô lão hổ… Môn đồ
Trung Sơn võ đạo thiện nghệ binh khí đơn đao, song tô, kiếm, côn. Đơn
đao sử dụng hai tay gọi là Song thủ đới, chú trọng vào sức mạnh và tốc
độ ra đòn, chiêu thức đơn giản nhưng đòi hỏi môn sinh phải khổ luyện.
Đao pháp Trung Sơn võ đạo, trong thì ý, khí, lực, ngoài thì thân, thủ,
bộ pháp uy lực đúng với khẩu quyết “đao như mãnh hổ”. Trung Sơn võ đạo
còn có 10 thế điểm huyệt mật truyền: Nữ hầu chưởng ngọc; Thiết sa
chưởng; Hầu xiềng; Bạch hổ thủ điểm hầu trung cực; Phụng hoàng sang điểm
thủy; Hắc hổ du tâm; Hầu xiềng điểm huyệt yết hầu; Song hầu thủ điểm
giáng kinh; Đơn hầu thủ, điểm huyệt toàn cơ; Mãnh hổ du sơn.
Mời các bạn bấm vào chữ next phía dưới để đọc thêm
Bài 2
"Tam Nguyệt Danh Gia" Quách Văn Kế
Hằng năm, vào dịp hạ tuần tháng 8 Âm lịch, võ đường Lam Sơn võ đạo đều
tổ chức lễ giỗ vua Lê Thái Tổ – Thánh tổ của môn phái, tức người anh
hùng áo vải đất Lam Sơn – Lê Lợi, vị chưởng môn sáng lập Lam Sơn võ đạo
là võ sư Quách Văn Kế. VỊ VÕ SƯ - CHIẾN SĨ CÁCH MẠNG
Cố chưởng môn Quách Văn Kế (1897 – 1976) sinh tại Tô Lịch (Hà Nội). Từ
nhỏ đã có niềm đam mê võ thuật đến kỳ lạ, hễ nghe ở đâu có thầy võ giỏi
là ông tìm đến bái sư. Người thầy đầu tiên là Ba Cát – vị võ tướng cuối
cùng của triều Nguyễn. Năm 1918, Quách Văn Kế thọ giáo thầy Lê Bái –
chưởng môn phái Hàn Bái đường. Học được mười năm thì thầy Hàn Bái đột
ngột từ trần. Năm 1930, Quách Văn Kế bỏ xứ vào Sài Gòn làm kế toán viên.
Tại đây ông may mắn hội ngộ và thọ giáo võ thuật với thầy Bảy Mùa. Võ
sư Quách Văn Kế đâu thể ngờ rằng ông đã “có phước lớn” khi được lãnh
giáo võ học của Tam Nhật danh gia trong lịch sử võ thuật Việt Nam là Ba
Cát, Hàn Bái và Bảy Mùa.
Sau 33 năm khổ luyện nội công, quyền cước và binh khí, Quách Văn Kế
được xem là một trong những cao thủ của làng võ Sài Gòn – Chợ Lớn thập
niên 40 – 70. Ngưỡng mộ tài nghệ võ sư Quách Văn Kế, ký giả Trần Văn
Hạnh – chủ nhiệm Nhật báo Dân Báo kiêm chủ nhà in Tín Đức thư xã đã bỏ
tiền lập võ đường để thầy Kế truyền lại sở học cho thế hệ trẻ.
Võ sư Quách Phước trong một thế kiếm…
Tháng 8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, hưởng ứng lời kêu gọi của Bác
Hồ, nhân dân cả nước nổi dậy kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Hòa trong khí thế cách mạng, võ sư Quách Văn Kế trở thành bộ đội Cụ Hồ
cầm súng đánh giặc, lập được nhiều chiến công. Năm 1949, với tư cách Hội
phó “Hội Bắc Việt tương tế”, võ sư Quách Văn Kế sáng lập Hội TDTT Lam
Sơn, sau đó ông còn tổ chức dạy Phương pháp cận chiến cấp tốc cho thanh
niên tiền phong ở SVĐ Hoa Lư và Phan Đình Phùng (Sài Gòn), được một năm
ông về Vườn Thơm (Đức Hòa – Đức Huệ, Long An) huấn luyện võ thuật cho
lực lượng vũ trang rồi quay lại Sài Gòn làm nhiệm vụ bảo vệ cơ sở hoạt
động nội thành cho tới ngày ký kết Hiệp định Geneve (1954). Thời gian
này, võ sư Quách Văn Kế dạy võ ở đền thờ Trần Hưng Đạo (36 đường Mayer,
nay là Võ Thị Sáu, Q1) dưới danh nghĩa Hội TDTT Lam Sơn và sau đó chính
thức thành lập môn phái Lam Sơn võ đạo, nhận vị anh hùng dân tộc Lê Lợi
làm thánh tổ. Năm 1967, khi đã 70 tuổi, võ sư Quách Văn Kế truyền chức
chưởng môn lại cho con trai út là võ sư Quách Phước (34 tuổi) nhằm tiếp
tục truyền bá môn phái Lam Sơn võ đạo cho thế hệ sau. Những học trò tài
danh của chưởng môn Lam Sơn võ đạo Quách Văn Kế là võ sư Nghiêm An Thạch
(sau lập Nam Hải võ đạo ở Ý), võ sư Nguyễn Văn Du, Huỳnh Thị Ngọc
Sương, Nguyễn Sô… Võ sư Quách Văn Kế được xem là một trong Tam Nguyệt
danh gia (hai võ sư còn lại là cụ Võ Bá Oai – môn phái Hàn Bái Đường và
cụ Trương Thanh Đăng – môn phái Sa Long Cương).
Môn phái Lam Sơn võ đạo kết hợp tinh hoa hai dòng võ Thiếu Lâm (Trung
Hoa) và Tây Sơn – Bình Định. vì thế tính chiến đấu cao. Sở trường đòn
ngắn, nhập nội, thế đánh tốc độ, dũng mãnh. Lam Sơn võ đạo có các bài võ
trấn môn như Phượng Hoàng quyền, Phượng Hoàng song đao, Lão Mai côn,
Quách gia đại đao… danh bất hư truyền!
… và một bài đao
TUYỆT KỸ QUÁCH GIA ĐẠI ĐAO
Không chỉ thừa hưởng tinh hoa võ thuật từ cha – chưởng môn Lam Sơn võ
đạo Quách Văn Kế, võ sư Quách Phước còn tìm học thêm với bác sĩ – võ sư
Đỗ Như Ánh, võ sư Thanh Vân (Thiếu Lâm Bắc phái Thăng Long) và võ sư Tám
Kiển (chưởng môn phái Nam Tông). 18 tuổi, võ sư Quách Phước đã được
Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam cấp bằng HLV, tiếp tục cùng cha truyền bá
môn phái Lam Sơn võ đạo tại đền thờ đức Trần Hưng Đạo. Năm 1969, võ sư
Quách Phước được bầu chọn vào chức vụ Tổng Thư ký của Tổng cuộc Quyền
thuật Việt Nam, cũng năm đó ông cùng 13 võ sư là Tám Kiển, Mai Văn Phát,
Trần Xil, Mười Mách, Kim Kê, Từ Thiện, Xuân Bình, Minh Sang… thành lập
Tổng hội Võ học Việt Nam mà ông là tổng thư ký.
Vóc người nhỏ con (cao 1m58, nặng 50kg) nhưng võ sư Quách Phước đã vang
danh thiên hạ hơn nửa thế kỷ qua với biệt danh Song thần thủ, sở trường
cây Quách gia đại đao (dài 1m98, nặng trên 4kg), sử dụng thuần thục các
tuyệt kỹ của môn phái như Cửu khúc Bạch long tiên (9 khúc sắt nối liền
nhau, dài 1m33, nặng 32kg) và cây trượng Phượng Hoàng với nhiều đòn thế
cương mãnh, Liên hoàn thiên địa trảm (đao), Phi thân trảm (kiếm), Phi
thân tảo địa Thăng Long cước, Song long hổ cước…
50 năm truyền bá Lam Sơn võ đạo, võ sư Quách Phước đã đào tạo nhiều đệ
tử tài năng như võ sư Trần Văn Ba Jacques, Đặng Đức, Hồ Ngọc Toàn, Lam
Ngọc, Quách Phát (con trai võ sư Quách Phước)… Võ sư Trần Văn Ba Jacques
quản lý 20 võ đường Lam Sơn võ đạo trải dài từ Montpellier đến Paris
(Pháp), tại miền Nam Australia, Lam Sơn võ đạo đã phát triển ba chi
nhánh ở Woodville Gardens, Mansfield Park, Salisbury do võ sư Hồ Ngọc
Toàn và Lam Ngọc phụ trách, thu hút hàng ngàn môn sinh, Pháp, Úc, Tây
Ban Nha, Ý, Mỹ… tham gia luyện tập. Các tạp chí chuyên về võ thuật như
Budo International, Karate Bushido, Arts Combat, Ceinture Noire,
Castries… đã có nhiều bài viết kèm ảnh giới thiệu môn phái Lam Sơn võ
đạo, đặc biệt nhấn mạnh về thân thế và sự nghiệp vị chưởng môn đời thứ
hai Quách Phước.
Võ sư Quách Phước còn là họa sĩ (ông tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Gia
Định năm 1953 loại xuất sắc), ông đã xuất bản hai cuốn sách võ thuật:
Cẩm nang Lam Sơn võ đạo và 120 thế tự vệ cho phụ nữ. Cẩm nang Lam Sơn võ
đạo đã có ấn bản bằng Anh ngữ, Pháp ngữ phát hành rộng rãi ở Pháp và
Australia.
Mời các bạn bấm vào chữ next phía dưới để đọc thêm
Bài 3
VÕ LÂM TÂN KHÁNH - BÀ TRÀ
Võ lâm Tân Khánh – Bà Trà hình thành vào khoảng thế kỷ XVII tại làng
Tân Khánh thuộc vùng đất Đồng Nai xưa (nay là xã Tân Phước Khánh, huyện
Tân Uyên và xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương). Các bậc
tiền bối góp phần sáng lập võ phái đặc thù Nam bộ này là những tay võ
dũng trong đoàn người Việt khai phá vùng đất mới vừa được quốc vương
Chân Lạp nhượng cho chúa Nguyễn ở đàng Trong. Chốn rừng thiêng nước độc,
những người đi khẩn hoang đa số là dân đất võ Tây Sơn – Bình Định đã
cùng một số người Hoa vốn là binh sĩ, nhà sư, cướp biển võ nghệ siêu
quần hợp sức chống lại thú dữ: cá sấu, trâu rừng, heo rừng và nhất là
cọp, từ đó dần hình thành môn võ miệt rừng: Võ lâm Tân Khánh.
Võ sư Từ Thiện (thứ ba từ phải sang) cùng 13 võ sư thành lập Tổng hội Võ học Việt Nam
Đến thế kỷ XIX, môn Võ lâm Tân Khánh ghép thêm một tên người: Võ lâm
Tân Khánh – Bà Trà. Bà Trà là cao thủ võ lâm, con gái một bộ tướng của
Tây Sơn Nguyễn Huệ. Bà Trà lập căn cứ tại Truông Mây (Tân Uyên – tỉnh
Sông Bé cũ) chiêu mộ nghĩa binh chống lại triều đình Tự Đức (năm 1850),
bà nổi tiếng với cặp kiếm, xông trận như vào chỗ không người. Năm 1853,
có kẻ tạo phản trong hàng ngũ nghĩa quân, nửa đêm căn cứ Truông Mây bị
quân triều đình “đánh úp”, bà Trà “mở đường máu” thoát thân cùng sáu nữ
binh thân tín chạy đến vùng Chòm Sao (gần chợ Bún ngày nay) lập một ngôi
chùa, ẩn náu tại đây đến những ngày cuối đời…
Võ lâm Tân Khánh – Bà Trà ngoài các bậc danh sư như Hai Ất, Ba Giá, Năm
Vuông, lớp hậu duệ có Sáu Trực, sau đó đào tạo được đệ tử giỏi là Bảy
Phiên (Võ Văn Phiên) – một thầy võ danh tiếng ở Tân Khánh (1939-1959),
nhà cách mạng Nguyễn An Ninh từng là học trò ông Trực, Võ Văn Đước, Đỗ
Văn Mạnh… lẫy lừng với những chiến công đả hổ. KỲ NHÂN HỒ VĂN LÀNH
Võ sư Hồ Văn Lành sinh năm Giáp Dần (1914) tại làng Tân Khánh, xuất
thân từ một gia đình nông dân nghèo, thuở nhỏ ông đi làm thuê ở lò gốm
để nuôi thân và phụ giúp gia đình. Quá hâm mộ ngọn roi đả hổ của thầy
Hai Ất, Ba Giá, năm 14 tuổi cậu bé Lành theo thọ giáo nghề võ với người
dượng thứ sáu tức võ sư Bảy Phiên (đệ tử đời thứ hai của lão sư Hai
Ất).
Di ảnh cố Võ sư Từ Thiện và người con kế nhiệm, chưởng môn TKBT
Sau
bốn năm miệt mài khổ luyện, Hồ Văn Lành lẫy lừng với những pha nhập nội
thần tốc khiến các đồng môn đàn anh phải bái phục! Năm 20 tuổi, Lành có
tên trong đoàn võ sĩ xứ Tân Khánh (do Cai tổng Thêm làm trưởng đoàn) đi
đánh võ đài, đánh đâu thắng đó, vang dội khắp miền Đông Nam bộ. Năm
1939, Hồ Văn Lành mở lò dạy Võ lâm Tân Khánh – Bà Trà, lấy biệt danh “Từ
Thiện” với mong muốn dùng võ thuật để hướng môn đồ đến điều thiện. Thời
gian này, võ sư Từ Thiện đã giúp vốn cho ông Huỳnh Bá Phước – một cao
thủ môn phái Thiếu Lâm Bạch Hạc, người gốc Vân Nam – Trung Quốc, mở tiệm
thuốc Đông y, nên được Huỳnh sư phụ truyền dạy Thiếu Lâm Bạch Hạc và
Vịnh Xuân cũng như khoa trật đả. Năm 1955, võ sư Từ Thiện vào Sài Gòn
truyền bá môn võ xứ đả hổ ở Khánh Hội (Q4) sau qua Cầu Muối (Q1). Năm
1959, ông gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam, đào tạo võ sĩ thượng
đài, võ sư Từ Thiện còn học hỏi thêm quyền anh với Lư Hòa Phát, Denis
Minh, Kid Dempsey…
Võ lâm Tân Khánh – Bà Trà giai đoạn 1955-1970 đào tạo nhiều võ sĩ nổi
tiếng như Từ Thanh Tòng, Từ Thanh Nghĩa, Từ Trung Tín, Từ Y Văn, Hồ Ngọc
Thọ, Từ Y Tuấn, Hồ Thanh Phượng, Từ Hoàng Minh, Từ Hoàng Út… từng hạ
nhiều võ sĩ Campuchia, Lào, Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông, Miến Điện…
Những võ sĩ chưa một lần thất bại sau 10 trận đăng đài của “võ đường Từ
Thiện” là Từ Hùng, Hồ Hoàng Thủy, Từ Dũng, Hồ Hoàng Hạnh, Từ Bạch Long,
Hồ Tố Nguyệt… Cần nói thêm, võ sĩ “võ đường Từ Thiện”, nam được đặt họ
“Từ”, nữ họ “Hồ” – hai họ của chưởng môn Hồ Văn Lành tức Từ Thiện.
TUYỆT KỸ VÕ LÂM TÂN KHÁNH – BÀ TRÀ
Võ sư Hồ Tường (con trai võ sư Từ Thiện), chưởng môn đời thứ hai Võ Lâm
Tân Khánh – Bà Trà: “Ngoài thập bát binh khí, môn phái còn có 12 loại
binh khí phụ gọi là thập nhị phân cơ như thiết lĩnh, khăn quấn đầu, sợi
dây… Binh khí đả hổ của môn phái là côn, tiên và trường thương. Võ Lâm
Tân Khánh – Bà Trà lừng lẫy với các loại binh khí như Độc kiếm, Song
kiếm, Tứ Môn côn, Ngũ Môn côn, Roi Phụng Hoàng, Roi Thần Đồng, Roi Giáng
Hỏa, Côn Tấn Nhứt và các bài danh quyền như Lão Mai, Ngọc Trản, Bạch
Hạc, Tiểu Niệm đầu, Đồng Nhi, Thái Sơn… với cách đánh liên hoàn, xuất
thủ chớp nhoáng, công thủ toàn diện, uyển chuyển của Thiếu Lâm Bạch Hạc
pha trộn quyền thuật võ dân tộc Chân Lạp cùng cước pháp và binh khí đặc
trưng võ trận Tây Sơn – Bình Định.
Võ sư Từ Thiện vang danh khắp võ đài Sài Gòn – Chợ Lớn nhờ tuyệt kỹ
“rờ-ve” (đòn tay móc ngược) thần tốc. Năm 1969, võ sư Từ Thiện cùng 13
võ sư Tám Kiển, Mai Văn Phát, Trần Xil, Mười Mách, Kim Kê, Quách Phước,
Xuân Bình, Minh Sang… sáng lập Tổng hội Võ học Việt Nam nhằm trấn hưng,
bảo tồn và phát huy tinh hoa võ học nước nhà. Năm 1991, võ sư Từ Thiện
xuất bản sách Võ Lâm Tân Khánh – Bà Trà. Năm 2003, Ủy banTDTT quốc gia
trao tặng ông huân chương “Vì sự nghiệp TDTT”. Võ sư Từ Thiện từng cho
rằng: “Luyện võ giúp ta tăng cường sức khỏe, kỹ năng tự vệ đồng thời đó
cũng là cách luyện tinh thần, tính kiên nhẫn và lòng tự tin”.
Cố Võ sư Từ Thiện và VLTK ngày nay
Năm 2005, đại lão võ sư Từ Thiện về cõi vĩnh hằng, thượng thọ 91 tuổi.
Người con trai – võ sư Hồ Tường tiếp tục truyền bá môn phái Võ Lâm Tân
Khánh – Bà Trà tại NVH Thanh Niên (4 Phạm Ngọc Thạch, Q1), nơi đây từng
đào tạo nhiều võ sĩ tài danh đoạt HCV qua các giải thi đấu võ cổ truyền
cấp thành phố và cả nước.
Như câu chuyện của những anh hùng hiệp khách thời xưa, 15
tuổi Lê Xuân Cảnh đã đi khắp nơi để 'tầm sư học đạo'. Hơn chục năm trời
rong ruổi theo học võ, trở về quê nhà ông mở lõ võ truyền dạy những tinh
hoa võ thuật mình học được cho học trò.
Tầm sư học đạo đậm nét... anh hùng hiệp khách
Đã
ngoài tuổi thất tuần nhưng lão võ sư Lê Xuân Cảnh (75 tuổi, ngụ thôn
Cẩm Văn, xã Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) vẫn không chịu
nghỉ ngơi mà luôn tất bật với nghiệp võ. Hiện nay, ông là trưởng môn của
lò võ mang tên Lê Xuân Cảnh, đào tạo được hàng ngàn võ sinh, cung cấp
nhiều vận động viên cho đội tuyển võ cổ truyền tỉnh Bình Định. Ông còn
gây dựng phong trào võ cổ truyền thị xã An Nhơn trên cương vị Phó chủ
tịch chi Hội võ thuật An Nhơn suốt 10 năm liền. Không những thế, ông còn
đa mang khi khởi xướng và đào tạo những võ sinh để thi đấu cờ võ rất
độc đáo ở Nhơn Hưng...
Chúng tôi từng gặp nhiều
võ sư có tiếng ở “đất Võ” nhưng hiếm có lão võ sư nào đảm trách nhiều
công việc như vậy khi tuổi đã cao. Khi chúng tôi hỏi về lý do, ông Cảnh
cười đôn hậu, rồi nói: “Mình đi học võ của các thầy, học được cái đạo
cái nghĩa của võ rồi, mà nhìn thấy những ngón đòn mình đam mê suốt đời
đang mất dần đi thì có lỗi với công lao truyền dạy của các thầy lắm”.
Lão võ sư Lê Xuân Cảnh
Cũng
như cố võ sư Phan Thọ, lão sư Lê Xuân Cảnh từng học nhiều thầy. Con
đường tầm sư học đạo của ông ly kỳ, mang đậm nét anh hùng hiệp khách
thời xưa. Ba lần bái sư là ba lần ông được học những bài võ đắt địa mà
sau này ông đã chắt lọc những nét độc đáo tạo thành những bài quyền,
cước độc đáo để truyền dạy tại võ đường của mình.
Học
võ từ năm 15 tuổi, cao thủ đầu tiên Lê Xuân Cảnh khi ấy tìm đến bái sư
chính là võ sư Lý Tường (cha của võ sư Lý Xuân Hỷ), một trong những
truyền nhân của môn phái dòng họ Lý lừng danh ở Đập Đá (An Nhơn, Bình
Định). Sau ba năm thọ giáo võ công nhà họ Lý, khi đã phần nào lĩnh hội
được những bài quyền nổi tiếng của môn phái, ông quyết định giã biệt
thầy lên đường rong ruổi tiếp tục học võ.
Người
thầy thứ hai của Lê Xuân Cảnh là ông Phạm Thế Giáo (xã Nhơn An, thị xã
An Nhơn), một trong những đệ tử của cố võ sư Hồ Nhu. Ở đây, Lê Xuân Cảnh
đã được tiếp cận với những bài roi vang danh thiên hạ của làng võ Thuận
Truyền. Những tưởng bước chân giang hồ đã dừng lại ở đó, nhưng sau một
năm Lê Xuân Cảnh lại tiếp tục lên đường học hỏi.
“Tôi
đi khắp nơi, thì nghe nói ông thầy Bửu Thắng, tu hành trong một ngôi
chùa ở Tuy Phước, có những đường roi rất hay, được truyền dạy từ võ sư
Văn Bảo Hiến (Gò Bồi), vốn là cao thủ Thiếu Lâm Tự từ Trung Quốc lưu lạc
sang. Tôi mạnh dạn đến xin làm học trò, nhưng thầy nói: “Cậu có đủ kiên
trì để học võ của tôi không?”. Sau đó, tôi đã xin nguyện với thầy: “Nếu
như cuộc đời con mà không học được bài roi của thầy thì con không nói
chuyện võ nữa”. Và tôi kiên trì ở lại “võ luyện” suốt 11 năm trời”, ông
Cảnh nhớ lại.
Không mạnh mẽ đầy uy lực nhưng... hiệu nghiệm
Lão
võ sư Cảnh không chỉ uyên thâm về kiến thức võ học mà còn rất hồn hậu,
chân chất, mang đậm bản chất của người dân xứ Nẫu. Theo lão võ sư Lý
Xuân Hỷ (con của cố võ sư Lý Tường-thầy của Lê Xuân Cảnh), lão võ sư
Cảnh nổi tiếng trong làng võ với những bài roi, bài đao nhưng ông không
thượng đài, phân tài cao thấp. Lão võ sư Cảnh lại vốn tính ít nói, không
thích ồn ào, sống thanh đạm, nên ông được mọi người ví như một “tiên
ông” của làng võ Bình Định.
Vốn tính ít nói,
không thích ồn ào, những tưởng Lê Xuân Cảnh sẽ giữ mãi những đòn võ
thuật cho riêng mình. Nhưng 1975, ông quyết định mở lò võ mang tên mình
để truyền dạy võ cho con cháu trong làng, khiến nhiều người bất ngờ.
“Cái nghiệp võ đã thấm vào da thịt tôi, khiến tôi không thể yên tâm “ở
ẩn” mãi. Tôi không muốn những tinh hoa võ thuật mà mình rong ruổi theo
học suốt 15 năm trời đang dần bị mai một. Vì vậy tôi quyết định mở lò
dạy võ, như một cách để giữ lại tinh hoa võ thuật dân tộc”, lão võ sư 75
tuổi bộc bạch.
Những thành tích lão võ sư Cảnh đạt được
Với
mục đích đó nên lão sư Xuân Cảnh thu học phí rất ít, gọi là có chút
tiền để chăm chút thêm cơ sở vật chất cho võ đường. Ban đầu chỉ với 10
môn sinh, ngày nay lò võ của lão sư Cảnh đã nức tiếng một vùng. Hàng
ngàn võ sinh đã được rèn dạy các bài võ binh khí như Song đao, Song
phủ... và các bài roi Thái Sơn, Trực chỉ, Bát quái.
Đặc
biệt, điều tạo nên thương hiệu võ đường Lê Xuân Cảnh chính là bí kíp
“binh khí” khăn. Lão võ sư Cảnh giải thích: “Trong Thập bát ban võ nghệ
có 18 món binh khí, “binh khí” khăn được xếp vào loại “nhuyễn tiên”.
“Nhuyễn” là mềm, “tiên” là roi, thuật ngữ “nhuyễn tiên” dùng chỉ chung
cho các loại hình binh khí mềm, uyển chuyển như: khăn quấn đầu, khăn
quàng cổ, dải lụa đào, dây thắt lưng, chuỗi tiền, dây xích sắt, phất
trần, xà vĩ tiên, lưu tinh chùy…”.
Theo lão sư
Cảnh, “binh khí” khăn có thể đánh, quật, móc, khóa, trói… Người giỏi
dùng “binh khí” khăn có thể thắng đuợc các loại binh khí khác. “Binh
khí” khăn có thể đánh vung ra một vùng rộng, phóng ra uốn lượn như rồng
bay; có thể tấn công dài, ngắn, xa, gần đều thích hợp. Không mạnh mẽ đầy
phô trương uy lực như đao, kiếm, chiếc khăn quàng trên người, quấn trên
đầu là một vật dụng gần gũi với con người, chỉ đến khi gặp khó khăn mới
thực sự bộc lộ tính năng là một binh khí hiệu nghiệm, linh hoạt, uyển
chuyển. Đó cũng chính là tinh thần của võ Việt: Học võ để phòng thân và
cứu giúp người hoạn nạn chứ không phải để phách lối, khoa trương.
Nhưng
không phải ai cũng học được các kỹ pháp “binh khí” khăn. Lão sư Xuân
Cảnh tiết lộ thêm: “Cũng như các binh khí “nhuyễn tiên” khác, “binh khí”
khăn lấy chuyển động vòng tròn làm chính, sức công phá trên nguyên lý
ly tâm, là một loại binh khí mềm nên dễ quấn bắt, cột trói… nhờ vào sự
linh hoạt của cánh tay, cổ tay và cơ bắp phối hợp các phần trên thân
thể, bộ pháp, thân pháp mà tấn công mục tiêu. Việc tập luyện “binh khí”
khăn sẽ trở nên dễ dàng khi người tập đã trải qua một thời gian tập
luyện quyền cước của một môn võ nào khác. Bởi lẽ, nghệ thuật đánh khăn
đòi hỏi sự nhịp nhàng, uyển chuyển, quyền biến, nhanh nhẹn, mạnh mẽ,
thăng bằng… Muốn được vậy, người sử dụng nhuyễn tiên phải phối hợp thuần
thục tấn pháp, bộ pháp, thân pháp… cùng các kỹ pháp “binh khí” khăn”.
Kể
từ khi giải võ cổ truyền toàn tỉnh Bình Định ra đời, năm nào võ đường
Lê Xuân Cảnh cũng tích cực tham gia và đều có võ sinh đạt được huy
chương, nhất là ở nội dung biểu diễn. Không những thế, võ đường Lê Xuân
Cảnh còn khởi xướng và đào tạo đội võ sinh để thi đấu cờ võ rất độc đáo ở
Nhơn Hưng. Rồi đào tạo các đội múa lân quy mô để thường xuyên đi biểu
diễn khắp trong và ngoài tỉnh Bình Định.
Trước
khi chia tay chúng tôi, lão sư Cảnh tâm sự: “Tiếc là tôi mới khỏi bệnh
nên không thể biểu diễn vài chiêu trong “binh khí” khăn, cho các cô xem
được. Tuổi đã cao nên cũng bệnh tật đầy người, vợ con đối lúc cũng cằn
nhằn, tôi cũng định nghỉ nhưng mấy đứa học trò cứ nài nỉ. Thôi ngày nào
còn khỏe, ngày ấy tôi còn cống hiến cho võ thuật”.
Ông
Thái Văn Thoại, Phó Chủ tịch xã Nhơn Hưng nhận xét: “Võ đường Lý Xuân
Cảnh từ lâu là nơi đào tạo được hàng ngàn võ sinh, cung cấp nhiều vận
động viên cho đội tuyển võ cổ truyền tỉnh Bình Định. Đáng trân trọng
nhất ở võ đường của thầy Lê Xuân Cảnh là truyền thống giỗ tổ hàng năm
vào ngày 17/5 âm lịch. Đó như một cách để giáo dục tinh thần tôn sư
trọng đạo, nhắc nhở các thế hệ môn sinh ý thức trách nhiệm trong việc
bảo tồn di sản võ cổ truyền Việt Nam”
Dương Kha
Vua ám khí Việt & chiếc khăn giết người trong chớp mắt
Vô Danh |
39
Những tuyệt chiêu phóng ám khí tưởng như đã thất truyền trong
thế giới hiện đại, nhưng hóa ra nó vẫn luôn hiện hữu, vượt ngoài sự hiểu
biết của người thường.
Hai lần tung đạn cay làm “mù” mắt người thường
Trong giới “giang hồ” Việt Nam, chẳng ai không biết tới thầy Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo, danh chấn Hà Thành.
Ông gần như giỏi tất cả các “ngóc ngách” của võ thuật, từ kungfu tới khí công, trị bệnh hay thậm chí là... phong thủy. Ngoài ra, vị võ sư này còn có một “món” bí truyền: Ám khí.
Nhắc tới ám khí, nhiều người sẽ liên tưởng ngay đến thuật phi dao, phóng tiêu như trong phim kiếm hiệp.
Nhưng thực tế, thế giới ám khí rộng lớn hơn rất nhiều và có muôn nghìn cách để một cao thủ áp dụng vào cuộc sống.
“Thời trẻ, có lần vì đói quá, tôi phải sang bãi sông Hồng để bẻ trộm
ngô. Khi đang bẻ ngô thì bị người chủ phát hiện. Mình chạy khắp ruộng
hòng thoát thân mà không được.
Đến lúc ra sát mép nước, định nhảy xuống bơi vào bờ thì người chủ
cũng đuổi kịp. Bí quá, tôi phải phóng ám khí vào mắt người này rồi thoát
đi” – thầy Nguyễn Văn Thắng kể lại.
“Một lần khác, tôi đi Yên Tử ở Tây Thiên, khi về thì gặp sự cố. Một
tài xế của chiếc xe khác xô xát, muốn đánh tài xế xe tôi. Tôi khéo léo
vào giả vờ can ngăn.
Rồi tôi lén vung tay, ném ám khí vào mắt tài xế đối phương, sau đó
đẩy nhẹ cho ngã, để bác tài bên mình nhanh nhẹn lên xe, đi luôn cho được
việc” – Chưởng môn Thăng Long võ đạo tiếp.
Loại ám khí mà thầy Thắng đã 2 lần sử dụng đó là gì? Tất nhiên chúng
không phải những mũi kim hay phi tiêu bằng kim loại, có thể làm hỏng mắt
đối phương như trong các phim kiếm hiệp.
Đó là loại đạn than, có trộn với ớt bột chỉ để làm địch thủ cay mắt,
“mù” đi trong khoảnh khắc mà thôi. Thông thường, loại ám khí này dùng
trong chiến đấu để đối phương phân tâm rồi tung người đến tấn công.
Trong 2 trường hợp trên, võ sư Thắng chỉ sử dụng để thoát thân!
Võ sư Nguyễn Văn Thắng có kho vũ khí rất đa dạng, các ám khí đa phần là "bí truyền".
Chiếc khăn mùi xoa “giết người”
Có một ám khí khác ngoài đạn cay mà võ sư Thắng rất thích sử dụng, đó
là... chiếc khăn mùi xoa. Tất nhiên một chiếc khăn bình thường khó lòng
“hạ sát” được địch thủ.
“Tôi dùng một đoạn dây thép nhỏ, buộc vào đầu chiếc khăn mùi xoa, đầu
kia buộc vào viên bi thép. Khi không dùng thì mình gói lại, để viên bi
thép vào bên trong.
Khi cần dùng, mình lấy khăn ra, tay cầm một đầu không có bi thép, rồi
giả vờ động tác như đưa khăn lên, lúc ấy vung thật nhanh bắn viên bi về
phía đối phương. Lúc thu về, mình tiếp tục động tác như đưa khăn lên
lau mặt, không ai biết được.
Sau đó, mình lén đưa khăn xuống mồm, ngậm bi vào, cắn đứt dây sắt và
lén nhả ra, vứt đi là không ai biết được “hung khí” – võ sư Thắng giải
thích.
Tất nhiên với loại vũ khí sát thương cao này, võ sư Thắng chưa sử
dụng để gây thương tích nặng cho ai, chứ đừng nói đến sát địch.
Nhưng nếu ở khoảng cách gần, lại xuất chiêu trúng điểm yếu đối phương, thì quả thực dễ lấy mạng như chơi!
Một vài ám khí của võ sư Thắng: Tiêu nhuyễn dây mềm, tiêu xích sắt... Ngay cả chiếc đồng hồ cũng có thể làm ám khí.
Ám khí là chiếc phi tiêu, là chiếc ghế, là tất cả mọi thứ
Mọi người thường hiểu, ám khí là những vật rất nhỏ, lén lút đánh vào
người đối phương. Nhưng thực tế, từ “ám” cần hiểu theo nghĩa “lén đánh
vào đối phương” chứ không nhất thiết phải “nhỏ”.
Theo võ sư Thắng giải thích, việc sử dụng ám khí vì thế thực ra rất
phổ biến trong thế giới hiện đại, chứ không phải đã “tuyệt tích” như
nhiều người vẫn lầm tưởng.
Một người khi bất ngờ cầm ghế đánh ai khác, hoặc một phụ nữ khi bị
tấn công, sử dụng bình xịt hơi cay vào mắt đối phương... tất cả đều là
ám khí.
Tất nhiên đó là các “biến thể” của ám khí. Còn những món ám khí công
phu thì được chế tạo kĩ lưỡng hơn và phân loại rõ ràng: Ám khí cận chiến
(dao, kiếm ngắn...), ám khí dây và ám khí phóng... Luyện ám khí thế nào?
Nhưng dù sử dụng loại ám khí nào, quan trọng nhất vẫn là bản thân
người xuất chiêu. Kĩ năng của người xuất chiêu xuất sắc thì mới đem lại
hiệu quả như ý.
Kĩ năng đầu tiên phải kể tới, là khả năng đưa ám khí đi trúng đích.
Để rèn điều này, không có cách nào khác ngoài ngày đêm tập luyện sử dụng
ám khí cho đến mức tinh thâm.
Kĩ năng thứ 2 cũng vô cùng quan trọng, là “lực” cho ám khí. Ở kĩ năng
này, người luyện ở mức độ thông thường chỉ sử dụng lực ném ngoại công
đơn giản.
Còn với các cao thủ, sẽ kèm theo nội lực truyền vào ám khí mỗi khi ném đi.
Chỉ riêng luyện lực ném ngoại công thông thường cho việc sử dụng ám khí, để rèn bài bản cũng không hề đơn giản.
Thứ nhất, trong quá trình luyện khả năng ném chính xác ám khí, cũng
đã góp phần nâng cao lực ném của cánh tay. Thứ hai, võ sĩ có thể kết hợp
luyện môn ngoại công cầm nã thủ, rất hữu ích cho việc tăng lực ném ám
khí.
Phi tiêu dây có thể trở thành thứ vũ khí cận chiến vô cùng nguy hiểm.
Clip võ sư Thắng sử dụng phi tiêu dây xích 1 đầu
Với riêng ám khí cận chiến, cách sử dụng có phần khác biệt, khá giống
với cách đánh của những vũ khí thông thường và rất đa dạng.
Ví dụ, côn tam khúc thực chất là biến thể của ám khí. Loại vũ khí này
vừa có thể dùng tấn công lại phòng ngự rất hữu hiệu. Côn tam khúc cũng
có thể sử dụng để đánh gần, hoặc đánh xa, đánh chống lại số đông địch
thủ.
Với ám khí là 2 phi tiêu dây xích (2 chiếc phi tiêu được nối bởi dây
xích), cách dùng lại hoàn toàn khác biệt. Ám khí này có thể dùng để
phóng ở cự li gần, tận dụng yếu tố bất ngờ.
Khi đã bị lộ, nó lại biến thành loại vũ khí cận chiến, vừa tấn công (mũi tiêu), vừa phòng ngự (phần dây xích dùng để đỡ đòn).
Vận dụng linh hoạt, nhanh nhẹn phi tiêu dây xích khi cận chiến, có
thể tấn công vào liên tiếp các điểm yếu của đối phương, gây tử thương
tức thì! Clip võ sư Thắng sử dụng phi tiêu dây 2 đầu
* Theo võ sư Thắng, ám khí vốn được cho là cách đánh “thiếu trong sáng” khi thi đấu võ công.
Các võ sĩ chỉ sử dụng ám khí khi bị dồn đến đường cùng, hoặc muốn
chiếm trước lợi thế, triệt tiêu bớt khả năng chiến đấu của đối phương.
Tuy nhiên trong chiến tranh, việc sử dụng ám khí lại là cách thức rất
tuyệt vời, đặc biệt cho các công tác tình báo, hoạt động ngầm.
Những thông tin trên đây chỉ là một phần cách thức sử dụng ám khí trong võ thuật. Bản thân võ sư Thắng khẳng định, chỉ ở riêng Việt Nam còn
rất nhiều cao nhân giỏi sử dụng ám khí hơn ông nhưng có thể đang tu
luyện ở các vùng hẻo lánh và ít người biết tới!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét