Ngồi trước thềm cửa, gió hiu hiu lùa qua
từng ngóc ngách của tâm hồn, khẽ lay nhẹ những tâm thức cũ kỹ đã ngủ
quên vào những ngày mưa gió đã đi trước. Bàn tay khẳng khiu vươn mình ra
trước gió, ôm lấy một khoảng trời bé nhỏ cho riêng mình, cầm, nắm và
rồi là bám víu đến mức khô cằn và kiệt quệ. Gió trót lòng làm xót làn da
mỏng manh dễ vỡ đó, hằn lại trên tay những vết xước trầy dù bé nhỏ
nhưng lại đau đớn đến tột cùng. Không phải vì gió mạnh làm rát tay, mà
là vì cũng vào một ngày có gió, đã có ai đó nỡ lòng làm rát buốt trái
tim tôi. Để rồi in sâu, để rồi thành sẹo. Và để dấu xước đó trên đôi tay
mãi mãi in dấu vào tâm hồn, vào trái tim và vào cả một cuộc đời còn
đang mở rộng hướng về phía trước.
Những ngày mắt miên mải tìm cho mình một điểm tựa. Gió kia lại nổi,
và mắt tôi lại buốt. Buốt đến nỗi cay nghẹn hóa thành nước, nhạt nhòa
chảy xuống thành từng dòng, đơn có, đôi có. Không nhiều nhưng cũng đủ
làm ướt nhầy cả một trang giấy trắng tôi đang cầm trên tay. Có khi nỗi
đau chất chồng chẳng còn thực sự là một nỗi đau đúng nghĩa nữa. Mà chỉ
là những vết sẹo in dấu qua ngang đời, để rồi những ngày quay về không
lời hẹn khiến tôi chợt nhận ra cái gai trong lòng dường như đã ghim quá
sâu, quá chặt vào trái tim. Thương tích sẽ lại lành, nhưng cái gai đó
vĩnh viễn cũng không gỡ ra được.
Tôi biết ở phía trước con đường tôi đi luôn sẽ có một ai đó đứng chờ,
một trạm dừng để tôi nghỉ lại. Nhưng khoảnh khắc đó, khi con người đã
nắm giữ bình yên trong tay, tôi tin là, không mấy ai sẽ biết cách trân
trọng.
Bởi quá khứ không phải là thứ có thể chối bỏ, và nỗi buồn là khó có thể quên đi.
Cuộc đời ồn ào với nhiều sự tranh chấp và cấu xé giữa những con người, trắc trở với lắm thứ muộn phiền và dối trá.
Nhớ nhớ-quên quên,
chúng chẳng còn là những khái niệm thật rõ ràng. Tôi chỉ biết dù quên
hay nhớ, sau những đêm thao thức một mình, mắt vô hồn ngước nhìn qua cửa
sổ, tâm hồn chỉ còn giống như một cái thùng rỗng, thỉnh thoảng như bị
cốc vài ba tiếng động đậy,
đau đớn, rỗng tuếch và nhệch nhạt làm sao.
Tôi không biết cuộc đời mình mai này sẽ sáng chói hay tối tăm, nhưng
những lúc như thế này, điều duy nhất tôi cần và nghĩ đến là
một bàn tay, một bờ vai và một ai đó để dựa dẫm.
Tôi không phải là kẻ yếu đuối, chỉ là tôi cần chúng để lấp đầy những
khoảng hổng cô đơn trong lòng. Tôi vẫn có những con người thương yêu
mình đấy chứ. Nhưng giữa những con người có tình, đâu phải rồi cũng có
người sẽ hiểu? Và giữa những con người đã hiểu, nào có mấy ai chấp nhận
dừng chân và bước đi cùng tôi?
Giữa trời gió mênh mang, một cái nhìn mộc mạc hướng về chân trời màu
đỏ thẫm. Trời lại sẽ sắp mưa, và con người rồi lại sẽ trốn ru rú trong
căn phòng ấm áp của mình. Chiếc đồng hồ trôi lặng lẽ qua từng giờ với
tiếng tích tắc quen thuộc. Không gian đó vẫn bất động, vẫn một mình bộn
bề cùng mớ công việc còn bỏ dở chưa xong. Và thời gian trôi...
...Cho đến khi mưa rơi xuống.
Mộc Yên Linh - Guu.vn
16. Con trai chọn cách im lặng cho những
, họ không khóc
òa lên như con gái, cũng không dễ dàng bày tỏ tâm sự với ai. Khi bạn
muốn lắng nghe, đừng cố gắng hỏi hết câu này đến câu khác, hãy im lặng
ngồi cạnh, siết chặt bàn tay đang run rẩy trong niềm đau ấy, và chờ họ
sẻ chia.
17. Bạn có thể che đôi mắt của mình khỏi những thứ mà
bạn không muốn nhìn. Nhưng thực sự bạn không để che trái tim của mình
khỏi những thứ mà bạn không muốn cảm nhận.
18. Trong cuộc sống, buồn vui là điều tất yếu, quan trọng là bạn biết cách tự an ủi và vượt qua.
Bảo
Ninh, trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, đã nhìn nhận nỗi buồn như
một cảm giác người căn bản nhất. Nỗi buồn chính là sức mạnh giúp con
người chiến đấu và chiến thắng cả sự tàn khốc của chiến tranh lẫn sự phi
nhân trong đời sống hòa bình. Với tác phẩm, nỗi buồn quy định cơ chế
vận hành của văn bản. Với nhân vật chính, Kiên, nỗi buồn vừa có tính di
truyền, vừa là sức mạnh kích hoạt hành động viết và duy trì khát vọng
sống...Nỗi buồn đã có lúc bị xem là cảm giác tiêu cực. Trong
giai đoạnchiến tranh, nó bị cho là đáng sợ đến mức mà đã có những chủ
trương cấm không được ủy mị, khôngđược buồn. Hậu quả của những chủ
trương đó, các nhà thơ như Hữu Loan, Quang Dũng phải gánhchịu
1.
Nhưng nỗi buồn là một cảm giác người, một cảm giác mà thiếu nó, con
người sẽkhông là con người. Các nhà văn nhà thơ Việt Nam thấu hiểu điều
đó nên đã dùng nỗi buồn để đối lậplại sự phi nhân của chiến tranh. Chiến
tranh có thể hủy diệt mọi thứ, nhưng nó không ngăn đượcngười ta cảm
thấy buồn, cảm thấy đau khổ. Chiến tranh có thể giết chết người, nhưng
không thể giếtchết được tính người. Nỗi buồn bị cấm đoán, người ta sợ nó
làm mất dũng khí. Nhưng thực ra chínhnỗi buồn làm nên sức mạnh cho
những người lính chiến đấu và chiến thắng. Không phải sự thù hận, màlà
nỗi buồn. Yêu nước trước hết là đau buồn vì đất nước bị xâm lăng, bị nô
lệ. Nỗi đau buồn đó làmột trong những cảm xúc khởi thủy của những trạng
thái cảm xúc khác trong chiến tranh, là sức mạnhnguồn cội từ đó hình
thành nên mọi sức mạnh khác mà người Việt Nam đã có trong chiến tranh.
Thế nên, bất chấp mọi cấm đoán, những câu thơ như "
Đôi mắt người Sơn Tây/ u uẩn chiều lưu lạc /buồn viễn xứ khôn khuây",
những bài thơ như Màu tím hoa sim trong thời chiến vẫn được lưu
truyềnrộng rãi dù là không công khai và chúng gìn giữ phẩm chất người
cho cả một dân tộc. Không một sựcấm đoán nào có thể khiến con người nơi
đây từ bỏ phẩm tính người. Họ đã gìn giữ những câu thơ,những tác phẩm
diễn tả tâm hồn, diễn tả đời sống tinh thần của họ. Những câu thơ như
vậy, hay nỗibuồn chiến tranh là những dấu hiệu cho thấy dân tộc này là
dân tộc của những con người chứ khôngphải là những cỗ máy chỉ biết phục
vụ chiến tranh hay phục vụ thể chế một cách vô điều kiện. Gìngiữ và
truyền bá những tác phẩm văn chương nghệ thuật thể hiện nỗi buồn trong
một hoàn cảnh như vậychứng tỏ cộng đồng này đã tìm cách bảo vệ quyền tự
do làm người, bảo vệ nhân tính của mình.
Chính trong tinh thần này mà cần đọc lại tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Ngay
từ trang đầu tiên ta đã nghe thấy giọng của nỗi buồn cất lên. Chính nó,
dù tác giả chưa gọitên. Chưa gọi tên nhưng đã cấp cho nó một diện mạo.
Nỗi buồn tạc dáng vẻ của nó vào không gian,khắc sự hiện diện của nó vào
thời tiết, triệu về kẻ đồng hành chết chóc của nó: chiến tranh. Nỗibuồn
chảy ra từ mưa, bốc lên từ những gói hài cốt, nỗi buồn phả ra từ không
khí ướtát.
2Âm hưởng của nỗi buồn lan tỏa suốt từ đầu
đến cuối tiểu thuyết. Nó là âm thanh chủ đạo. Âm thanhcủa nỗi buồn vượt
lên trên mọi âm thanh khác ở thời chiến. Nó trở thành một thứ âm thanh
cứu rỗi.Chính nỗi buồn giữ cho con người vẫn còn là con người trong cái
cỗ máy xay thịt của chiến tranh; nókhiến con người, dù bị hủy diệt bởi
bom đạn sắt thép, vẫn đứng cao hơn bom đạn, sắt thép. Vì nỗibuồn không
phải là âm thanh gào rú của máy bay, không phải là tiếng gầm của bom,
tiếng nổ của pháo,tiếng rít của đạn. Nỗi buồn là âm thanh "của tâm hồn
con người trong cuộc xung đột với chính nó,điều duy nhất có thể tạo ra
tác phẩm hay, bởi đấy là điều duy nhất đáng để viết, đáng để thống khổvà
nhọc nhằn"
3. Tôi trích ý của Faulkner trong diễn từ nhận
giải Nobel để nói như vậy.Gìn giữ nỗi buồn trong cảnh tàn sát và chém
giết diễn ra hằng ngày của chiến tranh cũng có nghĩa làchống lại sự tàn
lụi của tính người, chống lại sự hủy diệt con người. Faulkner còn nói rõ
ông từchối điều gì: "Tôi từ chối chấp nhận sự tàn lụi của con người.
[…] Tôi tin tưởng rằng, con người sẽchiến thắng. Nó bất tử không phải vì
giữa muôn loài nó có một tiếng nói không mệt mỏi, mà là vì nócó một
linh hồn, một tinh thần có khả năng trắc ẩn, hy sinh và nhẫn nại. Bổn
phận của nhà thơ vànhà văn là viết về những điều ấy. Đó là đặc quyền của
hắn để giúp con người chịu đựng bằng cáchnâng cao tâm hồn mình, bằng
cách nhắc nhở con người về sự can đảm, danh dự, hy vọng, kiêu hãnh,trắc
ẩn, tình thương và sự hy sinh, những gì đã từng là vinh quang trong quá
khứ củahọ."
4 Faulkner được biết đến như một nhà cách tân quan
trọng của tiểu thuyết thế kỷ XX,và như ta thấy, trong diễn từ nhận giải
Nobel này, ông đã không nói về kỹ thuật văn chương. Đối vớiông, sáng
tạo kỹ thuật là gì? Là "sáng tạo ra từ những chất liệu của tinh thần con
người một cái gìtrước đây chưa từng có". Và nếu văn chương quan trọng
thì bởi vì nó "là những điểm tựa, những trụcột giúp con người chịu đựng
và chiến thắng"5. Bảo Ninh đã viết trong tinh thần này, ông cho chúngta
thấy rằng nỗi buồn chính là một chất liệu của tinh thần con người, là
điểm tựa nhân tính giúpcon người chịu đựng và chiến thắng.
Cái
đẹp được bảo tồn trong nỗi buồn. Nỗi buồn là hiện thân của cái đẹp. Nỗi
buồn nâng cao tâm hồn con người. Do vậy, nỗi buồn ở đây không phải là
biểu hiện của sự yếu đuối, ủy mị, mà trái lại chính là sức mạnh của nhân
tính, sức mạnh của cái đẹp. |
Nỗi buồn
giúp con người tồn tại trong chiến tranh với tư cách là con người, nó
giúp con người rakhỏi chiến tranh mà vẫn còn là người. Ở cuốn tiểu
thuyết này, mọi cảm giác tiêu cực: sợ hãi, bấtlực, cảm giác nhục nhã,
tàn bạo, cảm giác chiến bại, tuyệt vọng, niềm vui sống sót mang tính
phinhân (niềm vui không cưỡng lại được khi người khác chết mà mình thì
còn may mắn được sống), cảmgiác căm thù… tất cả đều được thanh lọc trong
nỗi buồn, tất cả đều được thanh tẩy trong ánh sángcủa nỗi buồn. "Nỗi
buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của
tình yêu,như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên
bến sông bát ngát." (90) Các hồi ứcthời hậu chiến cũng được kết thúc
trong sự cứu rỗi của nỗi buồn: "Tuy nhiên bao nhiêu sợ hãi và đauđớn,
uất giận và căm hờn, những trạng thái tinh thần bạo liệt đã co giật và
giằng xé trong lòng anhkhi ấy trước tình cảnh kinh khủng quá sức chịu
đựng ấy, không còn có thể trỗi dậy cùng với hồitưởng. Bây giờ đây chỉ có
nỗi buồn, mênh mang nỗi buồn - nỗi buồn được sống sót, nỗi buồn
chiếntranh - tràn phủ tâm hồn anh" (206)
Tranh: Lê Thiết Cương
Cũng vậy, sẽ rất sai lầm trong việc tiếp nhận tác phẩm Chí Phèo của Nam
Cao, nếu chỉ nhấn mạnhkhía cạnh "con quỷ" trong Chí Phèo, nếu chỉ nhấn
mạnh khía cạnh nạn nhân của nhân vật, mà khôngthấy hết giá trị cái chết
của Chí. Đó là một cái chết có ý nghĩa7. Cái chết của một con người
cókhả năng từ chối sự tồn tại vật lý để bảo vệ các giá trị người của
mình, để bảo vệ các giá trị tinhthần của mình. Chí Phèo thực ra ý thức
rất rõ về hành động cuối cùng, về lựa chọn cuối cùng, dù nhàvăn đã cố
tình "đánh lừa" độc giả bằng cách đặt Chí vào tình trạng say. Trước khi
đi tìm giết BáKiến, Chí Phèo đã uống rất nhiều . Nhưng "càng uống càng
tỉnh. Tỉnh ra, chao ơi buồn". Buồn đến mức"hắn ôm mặt khóc rưng rức".
Chí Phèo đã hành động, đã chết với một ý thức hoàn toàn tỉnh táo, vớisự
"kiêu ngạo" và "dõng dạc" cất tiếng đòi làm người lương thiện. Điều đáng
nói ở đây là : cái cảmgiác mà Chí có trước khi chết là cảm giác buồn.
Và cảm giác mà Chí có sau khi tỉnh dậy vào buổisáng hạnh phúc đầu tiên
cũng là cảm giác buồn. Tính người trong Chí hồi sinh cùng với quátrình
trỗi dậy càng ngày càng mãnh liệt của cảm giác buồn: từ "mơ hồ buồn",
đến "chao ôi là buồn",rồi "hắn nôn nao buồn", "trong quan niệm của nhiều
nhà văn Việt Nam, nỗi buồn chính là cảm giácngười căn bản nhất. Nỗi
buồn là phần sâu thẳm của đời sống tinh thần. Chí nói rõ với Bá Kiến:
"Chỉcòn một cách... biết không ?" Chỉ còn một cách là chết đi để có thể
làm người. Chí phải chết để bảovệ phần người đã phục sinh trong Chí. Nam
Cao cũng nói chính điều đó: con người có thể chết nhưngnhân tính không
thể bị hủy diệt. Chí Phèo là một con người chân chính, con người đã dám
lựa chọncái chết để bảo tồn tính người thay vì kéo lê một sự tồn tại có
tính thú vật. Nam Cao cũng diễn đạtcái điều mà Faulkner tin tưởng: "con
người sẽ chiến thắng". Cái chết của Chí Phèo chính là sự chiếnthắng của
con người.
|
Mọi trạng thái kinh
khủng, tàn bạo, chết chóc của chiến tranh cũng được hòa vào trong nỗi
buồn.Chiến tranh để lại, trên những vùng đất mà nó tàn sát, không chỉ là
sự hủy diệt, mà còn là cái nỗibuồn đã trở thành đặc trưng của mọi sự
tồn tại trên mảnh đất đó: "đi đêm ở vùng này có thể nghethấy chim chóc
khóc than như người", "các loại măng lại nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy,
đỏ au nhưnhững tảng thịt ròng ròng máu". Có thể nhìn nhận những miêu tả
này như là dấu hiệu của phong cáchkinh dị, ma quái. Nhưng cũng có thể
nhìn thấy ở đó sự hiện diện của nỗi buồn, những đau đớn củachiến tranh
vẫn còn tiếp diễn nơi những sinh vật sống.
Tại sao nỗi buồn có
khả năng cứu rỗi? Vì nỗi buồn chính là tâm hồn, là một phương diện của
tâm hồncon người. TÂM HỒN. Từ này vang lên nhiều lần trong tác phẩm.
["Giấc mơ lay thức tâm hồn Kiên"(29), "Nhưng mà tâm hồn tôi thì đã ngưng
bước lại ở những ngày tháng ấy" (43), "ở ngoài tầm với củatâm hồn anh"
(47), "theo dần năm tháng tâm hồn anh càng ngày càng chín muồi hơn cái
khát vọng thểhiện thiên chức thiêng liêng của đời mình" (49), "cũng như
Kiên, hầu hết anh em ở đội hài cốt đã rakhỏi chiến tranh với một tâm hồn
tràn ngập bóng tối tang thương" (88). "Dường như bóng tối của giờiđất
khẳng định bóng tối trong tâm hồn anh" (115), "mặc cảm về sự què quặt
hiển nhiên của tâm hồnmình" (123); "Tâm hồn anh trong đau khổ dường như
đã biến hình" (183)…] Song hành với từ "tâm hồn"là một từ khác: TRÁI
TIM. ["trái tim của anh, trái tim thực thụ của người lính chiến không
đời nàocho phép anh ra tay hành động như vậy" (28), "và trái tim tôi run
rẩy nhói đau" (44)…] Nghịch lýcủa chiến tranh là như vậy, giữa bạo lực
tàn khốc, giữa sự hủy hoại mù quáng, giữa một thế giới phinhân thì những
gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính, tâm hồn, trái tim, lại hiện ra một
cách lồnglộng. Kiên hoàn toàn chắc chắn là anh có một tâm hồn. Anh dùng
từ đó, "tâm hồn tôi", một cách tựnhiên, anh biết rất rõ nó tồn tại, anh
biết rõ nó là gì.
Nỗi buồn không chỉ đưa con người siêu vượt
guồng máy chiến tranh. Nhờ nó Kiên mới có thể tồn tạitrong hòa bình.
Không có nỗi buồn, có lẽ cuộc sống sẽ chỉ còn là một sự chịu đựng dai
dẳng. Nhờ nỗibuồn mà Kiên vẫn thực sự sống. Nhờ nó mà Kiên biết thế nào
là cái đẹp và giá trị. Nỗi buồn đã giúpKiên hồi sinh trong hành động
viết. Nỗi buồn là sức mạnh kích hoạt hành động viết. Với Kiên thờihậu
chiến, sống có nghĩa là viết, hành động có nghĩa là viết. Và viết là để
tìm lại nỗi buồn chiếntranh, tìm lại cội nguồn của nhân tính. Thật
nghịch lý, đối với Kiên, chiến tranh mang lại sức mạnhcho tâm hồn con
người, còn những tấn thảm kịch của đời sống thường nhật đã làm tàn lụi
những sứcmạnh đó, đã hủy diệt tâm hồn. Bảo Ninh, vào thời điểm viết cuốn
tiểu thuyết, đã nhận thấy điều này:tâm hồn dường như trở thành một thứ
xa xỉ phẩm trong đời sống hiện tại. Đời sống không chiến tranhnày đã hủy
hoại nhân tính với một tốc độ mà ta không lường trước được. Nỗi buồn
chiến tranh, đóchính là cái đẹp mà đời sống thời bình đã đánh mất. Đối
với Kiên, nỗi buồn đó gắn với hai thứ đẹpnhất: tình yêu và tự do. Hai
thứ đó phải chăng giờ đây đã là quá khứ ? Đấy là lý do vì sao Kiên
cứđuổi theo mãi những hồi ức về thời đã qua: "Từ chân trời dĩ vãng ngọn
gió buồn vô hạn của tình yêuvà tự do như là niềm tiếc nuối không nguôi
cứ mãi thổi hoài qua thành phố, qua làng mạc, và trongđời tôi…" (46).
Hồi
ức khiến quá khứ trở thành hiện tại. Hồi ức khiến hiện tại bị xâm
chiếm, bị thay thế bởi quákhứ. Thế nên, Kiên suốt đời phải sống trong
cuộc chiến đó. "Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bâygiờ, tôi đã phải
chịu đựng hết hồi ức này đến hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm
thâu nàythấu đêm thâu kia thử hỏi đã bao năm ròng?" (44). "Thì ra cuộc
đời tôi kỳ thực có khác nào conthuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị
đẩy lui về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ởphía sau xa kia
rồi. […] những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức
mạnh tinhthần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay"
(45). Quá khứ chiến tranh, oái ăm thay,lại là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn,
lại là nguồn sức mạnh tinh thần, lại là thứ mà Kiên không muốnquên,
không thể quên khi đối diện với tấn trò đời của thời bình. Kiên nhiều
lần nhấn mạnh điều này: "Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong
tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnhcủa hồi tưởng" (45).
Hồi ức về chiến tranh có sức mạnh cứu rỗi, có khả năng duy trì niềm tin.
Hồiức đó gắn liền với nỗi buồn và tình người. Máu, sự chết chóc được
hóa giải trong nỗi buồn đó. Trongchiến tranh người ta ý thức được mình
là một con người, người ta biết hành động như thế nào cho racon người.
Đó là ý nghĩa của sự hy sinh, của lòng can đảm, vị tha… khi đối diện với
toàn bộ tínhphi nhân của cuộc chiến. Còn đời sống thời hậu chiến diễn
ra theo chiều hướng nào? Người ta khôngcòn dám đối mặt với sự phi nhân
được ngụy trang nhân danh tồn tại. Và nhân tính dần dần bị đánh mấtnhân
danh quyền được sống. Cuốn sách do vậy không chỉ có giá trị phản chiến,
nó còn có ý nghĩa cảnhtỉnh, nó cảnh báo về sự hủy diệt nhân phẩm của
những thảm kịch xã hội trong đời sống không chiếntranh.
Xã hội
hòa bình mà trong đó Kiên đang sống là một xã hội như thế nào để đến nỗi
một người cựu chiếnbinh phải đi tìm niềm tin và sức mạnh trong hồi ức
về cuộc chiến tranh mà anh đã vui mừng thoátkhỏi nó? Cách đặt vấn đề này
của tác phẩm khiến ta có thể xếp Bảo Ninh không chỉ vào hàng ngũ củacác
nhà văn viết về chiến tranh, mà còn có thể xếp ông vào hàng ngũ những
nhà văn viết để cảnh tỉnhvà bảo vệ các giá trị người theo nghĩa phổ
quát. Tác phẩm của Bảo Ninh là một tác phẩm nghệ thuật.Bởi nó được viết
ra trong mục đích tìm kiếm, bảo vệ, và duy trì cái đẹp. Ở đây chúng tôi
nhấn mạnhkhía cạnh này: cái đẹp được bảo tồn trong nỗi buồn. Nỗi buồn là
hiện thân của cái đẹp. Nỗi buồnnâng cao tâm hồn con người. Do vậy, nỗi
buồn ở đây không phải là biểu hiện của sự yếu đuối, ủy mị,mà trái lại,
chính là sức mạnh của nhân tính, sức mạnh của cái đẹp. Xã hội có thể bất
công, có thểthối nát, có thể tàn bạo, nhưng nếu các cá nhân trong xã
hội đó còn nỗ lực đi sâu giải mã nội tâm,tìm hiểu về sự thật của chính
mình, còn theo đuổi, tìm kiếm, gìn giữ phẩm giá người, gìn giữ cáiđẹp,
thì vẫn còn hy vọng, vẫn còn có khả năng thay đổi.
***
Ở
Kiên, sống đồng nghĩa với viết, và viết đồng nghĩa với hồi tưởng. Hồi
ức trả lại cho Kiên sứcmạnh. Hồi ức đòi được hiện hữu, đòi có một hình
hài, đòi được vật chất hóa, nghĩa là đòi Kiên phảighi lại, phải viết.
Tác phẩm của Kiên được phát động từ một sức mạnh buồn bã. Nhờ nó mà Kiên
có thểsống sót. Nhờ nó mà Kiên hồi sinh. Kiên hồi sinh vào quá khứ, chứ
không phải là hồi sinh từ quákhứ6. Ngòi bút của anh chỉ có một con
đường: lần trở lại dĩ vãng, làm sống lại sức mạnh được hunđúc từ dĩ
vãng, được cất giấu trong quá khứ. Sứ mệnh của Kiên là phải trở thành
nhà tiên tri củathời quá khứ. "Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ, ấy
cũng là ánh sáng thức tỉnh, ánh sáng cứurỗi của đời anh. Bằng sự trầm
mình sâu xa trong hồi tưởng, trong nỗi đau buồn chiến tranh không baogiờ
nguôi mà anh sẽ tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của
những người đã hy sinh,là nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi, người
báo trước thời quá khứ" (208). Tại sao lại báotrước thời quá khứ? Thật
kỳ lạ. Cứ như thể tương lai sẽ được làm bằng quá khứ, hay quá khứ chính
lànội dung của tương lai. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, sẽ thấy sự sâu sắc của
ngòi bút Bảo Ninh khi xâydựng nên nhân vật - người tiên báo quá khứ -
này. Đến một ngày người ta sẽ phải quay lại để nhìnnhận cái quá khứ
chiến tranh ấy như nó vốn tồn tại trong thực tế, với tất cả mọi sự thật
của nó;chứ không phải chỉ trình bày nó ở những khía cạnh người ta muốn
trình bày, chỉ nhìn nó ở những khíacạnh mà người ta muốn nhìn. Chừng nào
các sự thật về cuộc chiến còn chưa được hiển lộ, chừng nàoquá khứ còn
chưa hiện diện trong toàn bộ tính chân thực của nó, chừng đó vẫn còn
chưa có ký ức lịchsử (hoặc chỉ có một thứ ký ức lịch sử giả mạo) và
chừng đó quá khứ vẫn chưa phải là quá khứ. Trongý nghĩa này Kiên là nhà
tiên tri của những năm tháng đã qua.
TS. Nguyễn Thị Từ Huy
Xã
hội có thể bất công, có thể thối nát, có thể tàn bạo, nhưng nếu các cá
nhân trong xã hội đó còn nỗ lực đi sâu giải mã nội tâm, tìm hiểu về sự
thật của chính mình, còn theo đuổi, tìm kiếm, gìn giữ phẩm giá người,
gìn giữ cái đẹp, thì vẫn còn hy vọng, vẫn còn có khả năng thay đổi. |
Có
hai dòng hồi ức chính: hồi ức về chiến tranh và về tình yêu. Bắt đầu
bởi hồi ức về chiến tranhvà kết thúc bởi hồi ức về tình yêu, ở đoạn khốc
liệt nhất, đau đớn nhất, chết chóc nhất của mốitình không tàn phai ấy.
Cuốn
sách đề cập đến những chủ đề lớn: chiến tranh, hòa bình, cái chết, cuộc
sống và tình yêu. Nóđặt câu hỏi: sống là gì? và đâu là khả năng tồn tại
của tình yêu ? Có những lúc Kiên thực sự phânvân giữa cuộc chiến và
Phương, giữa lý tưởng và tình yêu. Kiên đã có ý nghĩ ở lại bên Phương,
vĩnhviễn, nhưng rồi "chiến tranh tình yêu của tôi" (189). Kiên đã lựa
chọn như nhân vật Le Cid củaCorneil. Đúng hơn Kiên đã lựa chọn điều mà
các thanh niên Việt Nam đã lựa chọn vào thời điểm đó,nói cách khác là
Kiên không có lựa chọn. Cuộc chiến đó là ý nghĩa của cuộc sống, là giá
trị làmngười. Rồi Phương bị cưỡng hiếp trên con tàu đưa Kiên vào chiến
trận, bị cưỡng hiếp bởi những kẻcùng chiến tuyến với Kiên. Thú tính. Vậy
ra thú tính không chỉ trỗi dậy khi người ta buộc phải bắngiết, khi
người ta bị buộc phải đứng về những phe đối lập nhau. Nó có thể hiện
diện khắp nơi, cóthể trỗi dậy khắp nơi. Mối tình bất thành của Kiên là
nạn nhân của thú tính nơi con người, một thứthú tính ở tầm phổ quát, chứ
không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, khi mà thú tính trở thành
mộtphản ứng có điều kiện.
Mối tình của Kiên và Phương không bao
giờ tàn phai, nhưng bất thành. Đây là lời giải thích đau đớncủa Phương
về việc tại sao hai người sống cạnh nhau trong cùng một hành lang mà
không thể đến đượcvới nhau, không thể trọn vẹn thuộc về nhau : "Ký ức
chẳng buông tha. Chúng mình đã lầm tưởng rằngcó thể vượt qua được một
hạt sạn. - Phương nói với anh khi bỏ ra đi - Không phải là hạt sạn mà
làmột quả núi. Lẽ ra lần ấy em nên chết đi… Như thế thì chí ít em vẫn là
cái gì tốt đẹp trong trắngđối với anh. Còn bây giờ em sống, sống cạnh
anh nhưng em là vực thẳm xấu xa và đen tối của đời anh.Phải không Kiên?"
(80) Kiên đã làm Phương cảm thấy nhơ bẩn bằng những phản ứng tức thời
trên contàu khi biết rằng Phương bị làm nhục, khi bỏ đi không một lời từ
biệt để Phương phải tìm kiếm mộtcách tuyệt vọng ở thị xã Thanh Hóa.
Kiên tiếp tục khiến cho Phương cảm thấy mình nhơ bẩn khi trở vềsau chiến
tranh, khi hai người đã thử cùng chung sống. Kết cục là Phương phải
thốt lên: "Đôi khi emcảm thấy mình như một con vật" (146). Phương ra đi
cùng người họa sĩ già, như một giải pháp duynhất để giải thoát cho cả
hai người, để cô còn có thể cảm thấy mình là một con người. Kiên đã
khôngbiết làm thế nào để giúp Phương thoát khỏi ám ảnh về sự nhơ bẩn,
nhục nhã. Kiên không biết làm cáchnào để vượt qua cái hạt sạn đã trở
thành quả núi ấy, không còn biết hành động như một người bìnhthường,
không còn biết yêu, biết quên như một người bình thường. Kiên không bằng
cả người đàn ôngtrong câu ca dao: "Giữa đường nhặt cánh hoa rơi / Hai
tay nâng lấy cũ người mới ta". Kiên khôngbằng cả cái anh chàng nho sinh
họ Thúc, người đã biết nâng niu giá trị của một cô gái lầu xanh nhưKiều.
Chiến tranh đóng vai trò gì trong việc tình yêu của anh bị hủy hoại như
vậy bởi chính anh?Chính ở sự bất lực này của Kiên, sự yếu đuối này của
Kiên mà cuốn tiểu thuyết giúp ta nhận thấytoàn bộ tính chất phức tạp của
tâm hồn con người. Kiên đau buồn mắc kẹt trong tấn bi kịch mà khôngai
ngoài anh có thể hóa giải nổi. Cả cái bi kịch này nữa cũng tắm trong ánh
sáng của nỗi buồn, mộtthứ ánh sáng lạnh, sâu, nhức nhối, sưởi ấm cuộc
đấu tranh nội tâm của con người.
Không phải ngẫu nhiên mà Kiên có
biệt hiệu là "Thần Sầu". Kiên là hiện thân của nỗi buồn. Kiên mangtrong
mình một nỗi buồn truyền kiếp, được cha anh trao lại trong lời trối
cuối cùng của ông: "khôngcòn những bất hạnh lớn lao nữa… Nhưng nỗi buồn
thì không nguôi… vẫn sẽ còn lại nỗi buồn… nỗi buồntruyền kiếp. Cha chẳng
để lại gì được cho con ngoài nó, nỗi buồn ấy." (126) Hẳn ông biết rằng
đó làmột gia tài quý giá mà không một tài sản vật chất nào có thể so
sánh nổi. Cuộc đời Kiên là một nỗibuồn dài dằng dặc; mọi nỗi buồn đều
biến thái từ nỗi buồn nguyên thủy ấy. Nó giúp anh không chỉnâng cao tâm
hồn mà còn kết nối anh với những người khác. "Chúng tôi còn có chung một
nỗi buồn, nỗibuồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh
phúc và vượt trên đau khổ. Chính nhờ nỗibuồn mà chúng tôi đã thoát khỏi
chiến tranh."(257-258). Nhờ nỗi buồn mà Kiên chống lại sự tàn lụicủa tâm
hồn, chống lại sự suy tàn của con người. Nỗi buồn cũng là tài sản duy
nhất mà anh để lạitrên mớ giấy tờ lộn xộn và trên những dòng chữ rối
loạn. Kiên bỏ đi, có thể là đã chết. Nhưng nỗibuồn của Kiên tiếp tục
sống cùng với người đàn bà câm, và tiếp tục sống với tất cả mọi người
khibản thảo của anh được công bố. Cùng với nỗi buồn mà anh sẽ tiếp tục
tồn tại.
Sẽ như thế nào nếu nỗi buồn chết đi mà con người vẫn sống ?
--------------
1
Vấn đề này cần được đào sâu và xem xét trong toàn bộ lịch sử của nó thì
mới có thể cắtnghĩa được hiện tượng: buồn từng là điệu hồn của các nhà
thơ mới rồi sau đó bị coi là tiêu cực, bịcấm đoán (rất nên nghiên cứu về
sự cấm đoán cảm giác người này để hiểu thêm những chuyện khác)trong một
thời gian dài, thậm chí kể cả sau khi chiến tranh kết thúc, cảm giác
buồn vẫn cứ bị cấmđoán, cứ như thể nó là tội lỗi. Bằng chứng là cuốn
sách của Bảo Ninh phải đổi nhan đề ở lần xuấtbản đầu tiên: "Nỗi buồn
chiến tranh" bị biến thành "Thân phận tình yêu".
2 "Nửa
đêm mưa xuống. Một màn mờ mỏng, dịu như sương, êm lặng rơi hầu như không
thànhtiếng. Tấm bạt xe cũ nát lấm tấm dột. Nước mưa rỉ xuống thong thả
rỏ giọt lên những bọc ni lông góihài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe.
Không khí ẩm sánh lại, quánh ướt, từ từ lùa những ngón tay dàingoằng
lạnh toát vào bên trong bọc võng. Chảy rào rào buồn buồn, miên man như
là dòng thời giantrôi thành tiếng, nghe nửa tỉnh nửa mơ. Cả trong lẫn
ngoài giấc ngủ đều một đêm tối như bưng và mịtmùng hơi ẩm. Gió ướt rượi
thở dài. Tự nhiên có cảm giác tuồng như chiếc xe bỗng dưng rời chỗ,
imlìm lăn bánh, chạy êm ru, không cần động cơ, không người cầm lái, một
mình mộng du trên con đườngrừng cô quạnh. Và âm thầm lẫn trong tiếng
suối là tiếng thở dài của rừng sâu nghe vời vợi xa xôi vàtuyệt mù hư ảo
như là âm vang vọng lại từ một thời nào đó, như là tiếng của lán lá vàng
rơi trênthảm cỏ từ lâu lắm rồi." (Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học,
bản in năm 2009, tr. 5-6. Kể từ đâycác trích đoạn của tác phẩm sẽ được
chú thích số trang đặt trong ngoặc đơn).
3 Diễn từ nhận
giải Nobel Văn học của William Faulkner, năm 1950. Trích theo bản
dịchcủa Phan Đan và Phan Linh trong cuốn Âm thanh và cuồng nộ, NXB Hội
Nhà văn, 1992, tr. 391.
4 Âm thanh và cuồng nộ, sđd, tr. 392.
5 Âm thanh và cuồng nộ, sđd, tr. 392.
6
"Kiên tin rằng anh đã phục sinh, nhưng là một sự phục sinh lùi về sâu
xa. Sẽ mỗi ngàymột lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài
tái hiện. Có vẻ như anh đã tìm ra cuộc đờimới của mình: đấy chính là
cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến
tranh"(83).
7 Dù rằng từ một góc độ khác, cái chết đó bộc
lộ sự yếu đuối của con người cá nhân bịkhuất phục trước ý thức cộng
đồng. Chúng tôi đã phân tích điều này trong bài viết "Ý thức cộng độngvà
số phận cá nhân".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét