Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

ĐỊNH HƯỚNG ĐI ĐÂU? 39

-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"!
-QUAN "NỔ" = MỴ DÂN
-Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường".  
-Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội!
-Không có KTNN sẽ không có CNXH! Nhưng KTNN phải hoạt động theo KTTT.
-Phí không khéo, sẽ làm cho "sưu cao thuế nặng", và như vậy, khác gì thời phong kiến!?-Không thể chối cãi: xã hội yếu kém phổ biến, là sai lầm của thể chế!
-Nhà nước "của dân, do dân và vì dân" là như thế à? Thế nào là định hướng XHCN !?
 -------------------------------------- 
(ĐC sưu tầm trên NET)

Tín dụng đen bẫy và bủa vây người nghèo

Thương xót người nghèo sập bẫy “tín dụng đen.” (Ảnh: Báo lao động)
Thương xót người nghèo sập bẫy “tín dụng đen.” (Ảnh: Báo lao động)
Do cuộc sống khó khăn, thiếu vốn để sản xuất, thiếu tiền khi ốm đau, bệnh tật nên đã có biết bao nhiêu người nghèo bị sa vào bẫy “tín dụng đen”, họ đang bị dồn vào đường cùng, cuộc sống của họ bị đe dọa.
Nhưng hàng ngày, hàng giờ vẫn có những người nghèo đang tiếp tục bị dính bẫy này.

Theo báo cáo của Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an) công bố tại Hội thảo giải cứu người nghèo khỏi bẫy “tín dụng đen” tháng 9/2015, từ năm 2010 đến nay, cả nước đã có hơn 49.000 vụ việc liên quan đến tội phạm tín dụng đen, trung bình có 10.000 vụ/năm, mỗi ngày có 29 vụ lừa đảo tín dụng đen xảy ra, mỗi giờ làm việc có 3,6 vụ xảy ra. Thử hỏi như vậy có còn bình thường nữa không?

Tình hình vẫn đang ngày càng có xu hướng gia tăng tại các thành phố lớn trong cả nước, lợi dụng sự thiếu hiểu biết, khó khăn về kinh tế của người nghèo nên những đối tượng cho vay tín dụng đen này đã tổ chức phát, dán tờ rơi ở tất cả các ngõ ngách, các khu dân cư, các chợ, thậm chí công khai ở tất cả các nơi… với nội dung “cho vay không thế chấp, nhận tiền ngay” kèm theo tên công ty, số điện thoại liên lạc nhằm lừa người dân vay tiền với lãi suất cao.
Các biển quảng cáo cho vay này dán công khai đầy các nơi như thế, mà không có ý kiến phản hồi, hoặc gỡ bỏ, hoặc phạt của cơ quan chính quyền, có vẻ như chứng tỏ rằng hoạt động cho vay “tín dụng đen” này là công khai? Vì có cả tên công ty cho vay, địa chỉ, số điện thoại công khai? Thực chất theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng thì hoạt động này là bất hợp pháp, nhưng chính quyền các nơi đã buông lỏng, cho rằng đó không phải là trách nhiệm của mình.
Người dân đang thực sự khó khăn, nên đã rất nhiều hộ gia đình, cá nhân, chủ yếu là người nghèo khi cần tiền với rất nhiều lý do như có người nhà bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn giao thông; vay tiền cho con đi học đại học, đi lao động nước ngoài; vay vốn bổ sung sản xuất và hàng trăm lý do mà người nghèo là tầng lớp dễ chịu tổn thương nhất của tín dụng đen.
Ngân hàng nhiều như thế, đến phố phường nào cũng có chi nhánh ngân hàng, nhưng người nghèo hầu như khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, vì có thể thiếu hiểu biết về thủ tục vay vốn ở ngân hàng, không có tài sản thế chấp, thủ tục vay tiền rất rườm rà, phức tạp, với khoản tiền trên 100 triệu còn không được nhận trực tiếp mà phải trả thông qua đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Thêm một lý do nữa là trụ sở ngân hàng nào cũng sang trọng, nhân viên mặc áo trắng tinh, đối với người nghèo, công nhân, xe ôm, xích lô…thì chỗ đó quá sang trọng nên họ không dám vào và họ đã chọn con đường vay tín dụng đen có ở mọi ngõ ngách, nhan nhản khắp mọi nơi, vay được tiền rất đơn giản, nhanh gọn, có thể không cần hợp đồng, chỉ cần ký vào sổ vay tiền và thực hiện biện pháp bảo đảm trả tiền vay cho bên cho vay, hoặc có thể không cần thế chấp.
Khi người vay không có khả năng chi trả, các tổ chức tín dụng đen này sẽ điện thoại chửi bới, đe dọa, đánh đập, khủng bố tinh thần, đập phá tài sản, cưỡng đoạt tài sản của nạn nhân, hàng loạt người vay đã dính bẫy này mà không biết tự bảo vệ mình. Khi khoản vay cả gốc và lãi đã quá nhiều do lãi suất cắt cổ, người vay không thể trả được nữa thì sẽ phải đưa sổ đỏ cho người cho vay, đưa công chứng thế chấp cho người cho vay, hoặc họ giúp vay ngân hàng để lấy tiền trả nợ và lãi của tín dụng đen, đẩy người vay vào mất khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ thu hồi tài sản thế chấp.
Ngày 17/2 Công an TP.HCM đã đưa ra cảnh báo một số phương thức, thủ đoạn cho vay nặng lãi, “tín dụng đen” xảy ra trên địa bàn TP.HCM để người dân phòng tránh. Xin dẫn chứng một số vụ sau:
Ngày 16/12/2015, Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM kiểm tra hành chính các căn hộ tại chung cư SAMLAND và chung cư Gia Việt phát hiện 22 đối tượng gốc Bắc không đăng ký tạm trú và thu giữ 484 hồ sơ cho vay, 49 sổ theo dõi cho vay, 90 giấy thu tiền góp, 01 khẩu súng quân dụng. Khoảng tháng 10/2015, các đối tượng này vào Thành phố Hồ Chí Minh để đứng ra cho vay và thu tiền mỗi ngày với lãi suất 15% đóng trong 40 ngày. Người vay thế chấp sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân bản chính hoặc photo.
Ngày 24/6/2015, tại Phường 4, Quận 8, Phòng Cảnh sát hình sự Công an TP HCM bắt giữ 02 đối tượng cho vay nặng lãi, thu giữ 01 gậy sắt, 01 dao dài 15cm. Từ tháng 4/2014 đến tháng 6/2015, các đối tượng đã tổ chức cho vay lấy lãi với lãi suất 15% – 20% bằng hình thức đóng góp 24 ngày/tháng; số lượng người vay trên 20 người.
Ngày 09/3/2015, tại Phường 4, Quận 6, Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ 02 đối tượng cho vay nặng lãi. Khoảng tháng 10/2015, các đối tượng tổ chức cho vay và thu tiền mỗi ngày với lãi suất 15% đóng trong 40 ngày; người vay thế chấp sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân bản chính hoặc bản photo để vay từ 01 đến 10 triệu đồng.
Tín dụng đen đã và đang hoành hành, gây ra hậu quả đẩy hàng loạt người dân nghèo vào tình cảnh mất nhà, gia đình ly tán, cuộc sống rất vất vả mà không biết kêu ai.
Chính quyền các cấp cần mạnh tay vào cuộc, không thể để những biển quảng cáo dán đầy đường về cho vay tín chấp trái luật công nhiên như thế được, xã hội văn minh không thể chấp nhận có những hoạt động tín dụng chui thiếu nhân văn như thế này.
Các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho vay tiêu dùng cũng cần cải tiến thủ tục cho sát với thực tiễn để người dân có thể vay được tiền, đừng đẩy người dân khốn khổ vào vòng tay của “tín dụng đen.”
Thành Tâm

Nợ xấu, trong đó hầu hết là nợ “tín dụng đen” ở Tây Nguyên: Vì đâu nên nỗi?

Đối với nhiều hộ gia đình người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên gánh nặng nợ nần vẫn rất trầm trọng. (Ảnh: Internet)
Đối với nhiều hộ gia đình người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên gánh nặng nợ nần vẫn rất trầm trọng. (Ảnh: Internet) 
Tình trạng nợ nần của người dân tộc ở Tây Nguyên đang thực sự trở thành trầm trọng, gần 90% số hộ có nợ, trong đó hầu hết là nợ “tín dụng đen” với lãi suất cao đang thiết chặt vào cổ những người dân nghèo khổ.
Thảm cảnh người dân tộc Tây Nguyên đã thực sự rung động, thu hút sự quan tâm của báo chí, truyền thông và dư luận xã hội. Gần đây những thông tin xác thực từ Hội thảo “Chuyển đổi sinh kế và tình trạng tài chính của một số tộc người thiểu số ở Việt Nam” do Liên minh Nông nghiệp tổ chức, do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn miền Nam (SCAP) tiến hành tại Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Thực tế là từ khi trồng cây cà phê gần 30 năm trời, chưa lúc nào người dân thoát khỏi cảnh nợ nần, vay đầu vụ, trả nợ cuối vụ, gần như tất cả số cà phê làm ra đều được gán để trả nợ, vấn đề là nợ càng ngày càng nhiều hơn, người dân khó thoát ra khỏi cái gông của tín dụng đen.
Nông dân Tây Nguyên là những người lao động chăm chỉ, rất cần cù, nhưng nợ xấu không chừa một ai. Ví dụ, ở Buôn Tinh 2, được coi là khá giả trong khu vực Buôn Hồ, tỉnh Dak Lak, không một gia đình nào là không mang nợ, ít thì vài chục, nhiều thì đến vài trăm triệu đồng.
Nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cho rằng 90% hộ dân tộc thiểu số Tây Nguyên được hỏi cho biết gánh nặng nợ nần đang rất trầm trọng với họ.
Theo một khảo sát khác thực hiện cách đây 2 năm, chỉ có hơn 13% số vốn vay ở nông thôn là qua hệ thống ngân hàng, còn lại phần lớn phải vay tiền sản xuất thông qua các kênh phi chính thức, “tín dụng đen”, với lãi suất tới 60%/năm.
Ban đầu thì người dân ở Buôn Tinh 2, cũng có nhiều hộ tiếp cận được nguồn vốn vay có lãi suất thấp từ Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), có nguồn vốn ưu đãi cho nông dân, nhưng những khoản vay đó là không đủ lớn để sản xuất, hơn nữa, những thủ tục ngân hàng phức tạp, chưa phù hợp với thực tiễn của người dân tộc nên nhiều khi cũng làm họ ngần ngại, rồi tặc lưỡi bỏ qua. Bà con phải đi vay tiền của các đại lý thu mua cà phê, gọi là “bà buôn”.
Với lãi suất trên trời, 60%/năm, một gia đình chỉ có hơn 1 mẫu cà phê gần như chắc chắn không bao giờ trả hết nợ. Một vụ mùa thu được 20 triệu thì 18 triệu đã phải dành để gán nợ. Chi tiêu của hộ gia đình, tiền đầu tư cho vụ mới, hay cả tiền học cho con, người dân phải đi vay với lãi suất lên đến 50%– 60%/năm. Cứ thế, năm này qua năm khác, quy trình này trở thành một vòng xoáy không lối thoát. Bây giờ đã đến đỉnh điểm rồi, gánh nặng nợ quá lớn, lãi suất quá cao, người dân gần như đã kiệt quệ, đang kêu cứu.

Vì sao phải vay tín dụng đen?

Tại các huyện đều có Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nhưng với 53 dân tộc khác nhau, có nhiều đặc điểm khác nhau, khó phù hợp với chính sách cho vay đang áp dụng cho người Kinh được, bởi vì người dân tộc có thể không thành thạo chữ viết để đọc hợp đồng tín dụng, thậm chí họ còn chưa có cả giấy chứng minh thư.
Ngân hàng thì cứ thực hiện theo quy trình cho vay để an toàn rủi ro, vì phải bảo toàn, tránh mất vốn. Còn tín dụng đen thì cho vay dễ dàng, thuận tiện, phù hợp với người dân nên dù có phải chịu lãi cao thì người dân cũng phải chấp nhận.
Ngay như ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn thì tín dụng đen cũng tràn ngập, chỗ nào cũng gặp, thấy quảng cáo công khai. Như vậy, thực tế là tín dụng đen đang có thị trường thực sự, người dân đang phải vay tín dụng đen là có thực.





Ngõ ngách nào cũng có mời chào cho vay ngoài ngân hàng. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)
Ngõ ngách nào cũng có mời chào cho vay ngoài ngân hàng. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)
Ở Hà Nội, nơi có rất nhiều ngân hàng, mà vẫn công khai treo bảng cho vay “tín dụng đen” ở phố Tây Sơn, quận Đống Đa, thì chuyện cho vay tín dụng đen ở Tây nguyên cũng không lạ gì. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)
Ở Hà Nội, nơi có rất nhiều ngân hàng, mà vẫn công khai treo bảng cho vay “tín dụng đen” ở phố Tây Sơn, quận Đống Đa, thì chuyện cho vay tín dụng đen ở Tây nguyên cũng không lạ gì. (Ảnh: Đại Kỷ Nguyên)

Như vậy, nếu không có những khoản vay “đen”, người dân khó lòng tiếp tục quay vòng sản xuất, mất thu nhập, và rơi vào tình trạng “phá sản”.





Nỗi lòng người mẹ dân tộc lo cho tương lai của con mình. (Ảnh: Báo Gia Lai)
Nỗi lòng người mẹ dân tộc lo cho tương lai của con mình. (Ảnh: Báo Gia Lai)

Vậy là đành chấp nhận để người dân tộc ở Tây Nguyên nợ tín dụng đen?

Ở những quốc gia khác, từ những nước phát triển như Đức, Canada, Nhật Bản cho đến nghèo như Bangladesh đều có các tổ chức tài chính vi mô để lấp khoảng trống về hỗ trợ vốn này cho nông dân, nông nghiệp.
Có những kinh nghiệm từ các ngân hàng vi mô theo mô hình Grameen Bank của nhà kinh tế đoạt giải Nobel Muhammad Yunus cung cấp tín dụng quy mô nhỏ cho nông dân, trong khi các hiệp hội nghề độc lập sẽ hỗ trợ họ về kỹ thuật sản xuất, kỹ năng bán hàng, và cả mối liên kết trong sản xuất, như mô hình ở Nhật Bản, Canada.
Nhiệm vụ của nhà nước đơn giản là cung cấp khuôn khổ pháp lý để các tổ chức đó hoạt động hiệu quả.
Ở Việt Nam, đáng tiếc là những mô hình hỗ trợ độc lập kể trên chưa có điều kiện phát triển. Hệ thống tài chính vi mô đang ở giai đoạn sơ khai, còn các hiệp hội độc lập chưa được tạo hành lang pháp lý để hoạt động.
Các cơ quan chức năng cần nỗ lực để đưa ra những chính sách phù hợp đối với người dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng và 53 dân tộc thiểu số khác nói chung để giúp nông dân thoát khỏi cảnh nợ nần chồng chất, thoát khỏi đói nghèo, vươn lên.
Thành Tâm

Nông dân Tây Nguyên có thể thoát bẫy “tín dụng đen” khi được vay tái canh cà phê lãi suất 6,5%/năm?

Nông dân Tây Nguyên có thể thoát bẫy “tín dụng đen” khi được vay tái canh cà phê lãi suất 6,5%/năm? (Ảnh: thebank.vn)
Nông dân Tây Nguyên có thể thoát bẫy “tín dụng đen” khi được vay tái canh cà phê lãi suất 6,5%/năm? (Ảnh: thebank.vn)
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành văn bản số 9973/NHNN-CSTT gửi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam về việc công bố lãi suất cho vay tái canh cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên năm 2016 để thoát bẫy “tín dụng đen”.
Theo chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại văn bản 3227/NHNN-TD, để triển khai chính sách cho vay tái canh cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020, văn bản 9973/NHNN-CSTT công bố lãi suất cho vay áp dụng trong năm 2016 đối với dư nợ các khoản cho vay tái canh cà phê trong thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi của ngân hàng đối với khách hàng là 6,5%/năm. Mức lãi suất cho vay sau thời gian ân hạn trả nợ là 9%/năm.
Trước đó, theo văn bản 3227/NHNN-TD ngày 11-5-2015, NHNN quy định mức cho vay do khách hàng và ngân hàng thỏa thuận nhưng đối với phương pháp trồng tái canh cà phê mức vay tối đa là 150 triệu đồng/ha, thời hạn cho vay tối đa 8 năm, trong đó thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi là 4 năm tính từ thời điểm khách hàng và ngân hàng ký hợp đồng vay vốn.
Đối với phương pháp ghép cải tạo cà phê mức vay tối đa là 80 triệu đồng/ha. Thời hạn cho vay tối đa là 4 năm, trong đó thời gian ân hạn trả nợ gốc và lãi là 2 năm tính từ thời điểm khách hàng và ngân hàng ký hợp đồng vay vốn.
Chương trình được triển khai trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên là Lâm Đồng, Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai và Kon Tum.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, Việt Nam hiện là nước đứng thứ 2 về sản xuất cà phê và là nước XK cà phê Robusta (cà phê vối) đứng đầu thế giới. Trong đó, sản lượng cà phê Tây Nguyên chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cà phê cả nước.
Tuy nhiên, diện tích cà phê già cỗi cho năng suất, chất lượng thấp tại Tây Nguyên hiện chiếm tỷ lệ khá cao. Dự kiến, từ nay đến năm 2020, có tới 120 nghìn ha cà phê già cỗi ở Tây Nguyên cần được tái canh.
Mới đây, ngày 9/12/2015, tại Hà Nội, đông đảo đại biểu đã tham dự và lắng nghe những phân tích, chia sẻ từ những nghiên cứu về tình trạng mắc nợ của nông dân dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, trình bày tại Hội thảo “Chuyển đổi sinh kế và tình trạng tài chính của một số tộc người thiểu số ở Việt Nam” do Liên minh Nông nghiệp tổ chức.
Nghiên cứu này do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn miền Nam (SCAP) tiến hành tại Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Không thể tin được, phần lớn (khoảng 86%, theo thống kê đưa ra tại hội thảo) các hộ nông dân dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang phải gánh các khoản nợ khác nhau, đáng lo ngại là phần lớn các hộ dân này đang phải vay nặng lãi từ tín dụng đen với lãi suất lên tới 50-60%/năm để đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, đang là thực trạng đáng báo động hiện nay.
Kỳ vọng với quyết định này, cùng với sự cố gắng của Ngân hàng Thương mại thì đồng bào dân tộc vùng Tây Nguyên sẽ thoát được khỏi cái gông tín dụng đen đang thiết chặt vào cổ.
Thành Long

Trung bình mỗi ngày xảy ra 29 vụ lừa đảo tín dụng đen

Tín dụng đen công khai cả điện thoại và địa chỉ (Ảnh Đại kỷ nguyên VN)
Tín dụng đen công khai cả điện thoại và địa chỉ (Ảnh Đại kỷ nguyên VN)
Hội thảo giải cứu người nghèo khỏi bẫy “tín dụng đen” vừa được Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Phát triển, thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 7/9/2015, đã thu hút được sự quan tâm của dư luận.
Hội thảo đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về tín dụng đen đang nóng bỏng, đang hút máu người dân nghèo cho đến kiệt sức. Đại Kỷ Nguyên VN sẽ đưa thông tin chân thực, đầy đủ về vấn nạn tín dụng đen này và chuyện những người nghèo bị sập bẫy tín dụng đen.





Những quảng cáo cho vay có thể gặp khắp nơi (Ảnh Đại kỷ nguyên VN)
Những quảng cáo cho vay có thể gặp khắp nơi (Ảnh Đại Kỷ Nguyên VN)

Vài con số có thể bạn chưa biết
Theo tham luận của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống Tội phạm (Bộ Công an) công bố một con số khiến dư luận ngỡ ngàng, từ năm 2010 đến nay, cả nước đã có hơn 49.000 vụ việc liên quan đến tội phạm tín dụng đen được phát hiện. Như vậy, trung bình có 10.000 vụ/năm, mỗi ngày có 29 vụ lừa đảo tín dụng đen xảy ra, mỗi giờ làm việc có 3,6 vụ xảy ra. Thử hỏi như vậy có còn bình thường nữa không? Biết bao nhiêu người nghèo đã bị sa vào bẫy tín dụng đen, họ đang bị dồn vào đường cùng. Thiết nghĩ, đối với xã hội văn minh hiện nay thì cần phải hiểu và giải cứu những người nghèo này.
Tín dụng đen là gì?
Tín dụng đen, trước hết được hiểu là hoạt động cho vay, thu hút tiền gửi một cách bất hợp pháp, làm chui, lãi suất cao, có tính lừa đảo.
Ở Việt Nam “tín dụng đen” có hình thức khá đa dạng, với quy mô, hệ quả ngày càng khó lường. Thực tế rất nhiều hộ gia đình, cá nhân, chủ yếu là người nghèo khi cần tiền với rất nhiều lý do như: có người nhà bị ốm đau, đi viện; vay tiền cho con đi lao động nước ngoài, đi học đại học; cần vay vốn bổ sung sản xuất và hàng trăm lý do mà người nghèo là tầng lớp dễ tổn thương nhất của tín dụng đen.
Nhưng suốt một thời gian dài người nghèo hầu như khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, có rất nhiều nguyên nhân, có thể thiếu hiểu biết về thủ tục vay vốn ở ngân hàng, thủ tục mua bán chuyển nhượng nhà đất nên đã chọn con đường vay tín dụng đen.
Do lợi nhuận cao nên tín dụng đen len lỏi vào mọi ngõ ngách, nhan nhản khắp mọi nơi, vay được tiền rất đơn giản, nhanh gọn, có thể không cần hợp đồng, chỉ cần ký vào sổ vay tiền và thực hiện biện pháp bảo đảm trả tiền vay cho bên cho vay, hoặc có thể không cần thế chấp.
Đến khi khoản vay cả gốc và lãi đã nhiều lên, người vay không thể trả được thì sẽ phải đưa sổ đỏ cho người cho vay, đưa công chứng thế chấp cho người cho vay, hoặc họ giúp vay ngân hàng để lấy tiền trả nợ và lãi của tín dụng đen, đẩy người vay vào mất khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ thu hồi tài sản thế chấp.
Với lợi thế là thủ tục nhanh gọn, vài chục phút là người vay nhận được tiền, với lãi suất tính theo ngày, thường là 2.000đ/triệu/ngày. Lãi trả theo ngày hoặc tuần, trong thời hạn vay mà không trả được lãi, thì lãi sẽ được cộng vào gốc để tính lãi tiếp, gọi là “lãi mẹ đẻ lãi con”. Chỉ sau một thời gian, tiền lãi có khi gấp hàng chục lần tiền gốc. Hậu quả là từ đây sinh ra các tội phạm khác như cưỡng đoạt nhà, cướp đoạt tài sản, đánh dằn mặt để đòi nợ gây thương tích, gây chết người…





Tín dụng đen công khai cả điện thoại và địa chỉ (Ảnh Đại kỷ nguyên VN)
Tín dụng đen công khai cả điện thoại và địa chỉ (Ảnh Đại kỷ nguyên VN)

Khi cần vay đến hàng trăm triệu đồng thì cần đưa sổ đỏ đất cho chủ nợ, thế chấp, bảo đảm trả tiền vay bằng cách ký hợp đồng mua, bán, chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở cho bên cho vay, với giá chuyển nhượng bằng số tiền vay, thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực tế của tài sản chuyển nhượng, đây là một hình thức thế chấp tài sản cho bên cho vay tín dụng đen; hoặc ký hợp đồng ủy quyền, hoặc giấy ủy quyền cho bên cho vay tín dụng đen toàn quyền định đoạt tài sản nhà đất của mình (mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp), để bên cho vay được giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu hữu nhà ở, như một hình thức chế chấp tài sản.
Hậu quả là từ đây sinh ra chuyện lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sổ đỏ ấy được chủ nợ đem thế chấp ngân hàng để vay số tiền lớn gấp cả chục lần như thế. Chỉ đến khi ngân hàng thông báo sẽ thu hồi nhà trừ nợ, thì chủ nhân của sổ đỏ ấy mới biết mình bị lừa mà không biết kêu ai.
Hiện tại, tín dụng đen đã đan xen vào tín dụng ngân hàng ngày càng lớn, gây ra hậu quả tài sản thất thoát lớn, số người phạm tội ngày càng gia tăng, đẩy hàng loạt người dân nghèo vào tình cảnh mất nhà, gia đình ly tán, cuộc sống rất vất vả mà không biết kêu ai.

Loạn cho vay tín chấp: vay 9 triệu trong 1 năm trả lãi 4,8 triệu

(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)
(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM), các công ty tài chính đang ngày càng mở rộng, số lượng chi nhánh, phòng giao dịch hiện có khoảng 10.000 trải khắp từ các thành phố đến nông thôn. Nhưng thị trường tín dụng đang rất tự do, vô tổ chức, ai muốn cho vay cũng được, muốn cho vay lãi suất bao nhiêu cũng được, người vay thì bị bắt chẹt đủ đường mà không có ai bảo vệ.
Rùng mình với những đường dây ‘tư vấn tài chính’ ở Hà thành
Khi đọc bài này trên Vietnamnet, bạn sẽ không thể tin đó là sự thật, nhưng đó là sự thật, một sự thật xót xa, đã tồn tại từ rất lâu nhưng chưa ai mạnh dạn dám nói ra.
Theo bài báo này, người cho vay nặng lãi, quen gọi là dân làm tài chính,  đa số đều đã từng có thời gian làm cầm đồ. Những tiệm cầm đồ chính là bình phong để dân làm tài chính khởi nghiệp.
Nghề này lúc nào cũng tồn tại trong mảng tối của thị trường tín dụng, nhưng giờ đây thì có vẻ như hoạt động công khai hơn. Hà Nội, Sài Gòn và ở bất cứ đâu đều có. Quảng cáo rầm rộ, công khai, đi ngoài đường ở bất cứ đâu cũng gặp tờ rơi, tờ quảng cáo dán khắp nơi, trên cột điện, trên bờ tường, treo trên dây điện… hoặc trên mạng, tin nhắn trên điện thoại di động tràn lan những rao vặt về cho vay tín chấp. Thường quảng cáo chỉ có số điện thoại liên hệ, nhưng cũng không ít quảng cáo có tên công ty cho vay, địa chỉ cụ thể. Tên công ty không phải là ngân hàng, không phải công ty tài chính, mà là một công ty thương mại cũng có rất nhiều.
Xem quảng cáo, chúng ta tưởng rằng việc cho vay này là hợp pháp, được nhà nước thừa nhận thì họ mới dám quảng cáo thế. Thực chất thì trong đó có cả của một số ngân hàng, công ty tài chính, nhưng đa phần là của các tiệm cầm đồ và của dân tài chính cho vay nặng lãi nói trên. Theo luật các tổ chức tín dụng, thì chỉ các ngân hàng và các công ty tài chính mới được cho vay, còn các tiệm cầm đồ và các hoạt động cho vay của các tổ chức, cá nhân khác là bất hợp pháp.





(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)
(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)

Vậy thì tại sao họ lại được quảng cáo, được tồn tại cho vay từ hàng bao nhiêu năm nay? Đây là câu hỏi mà chỉ có cơ quan chức năng mới trả lời được? Có vẻ như nhà chức trách không nhìn thấy, hoặc là phớt lờ đi, mặc kệ thị trường thuận mua vừa bán. Ngân hàng nhà nước thì nói là trách nhiệm không phải của mình, công an thì nói cũng không phải của mình, có lẽ còn phải chờ khi có cục cảnh sát chống quảng cáo sai ra đời.
Tại sao có nhiều ngân hàng thế mà vẫn tồn tại cho vay nặng lãi?
Đúng là ở Hà Nội, Sài Gòn và ở các thành phố khác thì ngân hàng nhiều nhan nhản, ra cửa là gặp ngân hàng. Trước đây từng có thống kê rằng số lượng phòng giao dịch, chi nhánh ngân hàng, công ty cho thuê tài chính ở thành phố nhiều hơn số quán phở.
Thực tế Việt Nam đang có 40 ngân hàng thương mại, 17 công ty tài chính, 51 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.050 quỹ tín dụng nhân dân. Với tổng số khoảng 10.000 chi nhánh, phòng giao dịch, chủ yếu là ở Hà Nội và Sài Gòn. Theo đánh giá thì số lượng này quá lớn, nên NHNN đang đưa ra lộ trình sáp nhập để hướng tới chỉ còn khoảng 20 NH thương mại.
Ỏ đây đang có rất nhiều câu hỏi: nhiều ngân hàng, công ty tài chính đến thế, tại sao lại vẫn có nhiều tiệm cầm đồ và vẫn có nhiều công ty, cá nhân tham gia vào lĩnh vực cho vay? Nhu cầu vay quá lớn ư, không phải, vì ngân hàng đang cố gắng mà vẫn không đẩy dư nợ lên được.
Về lãi suất cho vay thì có khống chế không? theo  Điều 476 Bộ luật Dân sự, lãi suất hàng tháng do hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong khi lãi suất cho vay tiêu dùng đang vượt quá nhiều lần 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố thì đúng là cho vay nặng lãi. Vậy tại sao mấy năm nay các công ty tài chính, tổ chức, cá nhân khác đang cho vay nặng lãi vi phạm quy định, gây thiệt hại cho người vay mà không có cơ quan nào lên tiếng?

Thực sự là những câu hỏi khó, chỉ có NHNN và các cơ quan có trách nhiệm mới trả lời được.

Một thực tế là hiện đang có số lượng rất lớn người vay tiêu dùng tại các công ty tài chính, với hơn 2 triệu người đang có dư nợ. Trong đó, khách hàng của Home Credit và Prudential đã hơn 1 triệu người. Chưa kể đến số khách hàng của các tiệm cầm đồ, các cá nhân cho vay tài chính nói trên, chắc chắn cũng là con số không nhỏ. Chỉ tính 2 triệu người thôi cũng đã là 3,6% trên tổng số lao động Việt Nam phải vay nặng lãi, thật là một con số không nhỏ. Và vấn đề này cũng không phải là nhỏ để nói là thiểu số có thể bỏ qua. Mời xem thêm bài Người vay tiêu dùng đang bị “chặt” lãi suất cao và bài Cho vay tiêu dùng lãi suất cao, liệu có vi phạm pháp luật, chỉ có người dân thiệt mà Đại kỷ nguyên đã đưa trước đây.
Hậu quả khôn lường của cho vay nặng lãi
Người vay nặng lãi thường là dân nghèo thành thị, công nhân, sinh viên. Nhưng thực chất là họ phải có nhà ở Hà Nội, Sài Gòn, hoặc có việc làm ổn định, hoặc có tài sản như xe máy, tối thiểu như sinh viên cũng phải có thẻ sinh viên, có người đã vay trước giới thiệu.
Lý do họ phải vay thì có muôn vàn, có thể người nhà bị ốm phải đi viện, bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động phải đi bệnh viện với viện phí, chi phí thuốc rất lớn, có thể tới vài chục triệu. Hoặc khi ma chay, giỗ, kỵ, cưới hỏi, có thể là sinh viên nghèo đến kỳ đóng học phí, mua điện thoại, xe máy, máy tính… trả góp.

Họ phải vay với lãi suất rất cao. Đối với các công ty tài chính trước đây có thể cho vay từ 4-7%/tháng, hiện nay có giảm chút ít, nhưng vẫn rất cao , thường từ 36-70% năm. Với lãi này, cũng gần tương đương lãi suất 1,5 triệu đồng/ ngày cho 100 triệu đồng. Trường hợp anh Phùng Anh Dũng, ở phường An Hải Bắc, Đà Nẵng vay của Home Credit chi nhánh Đà Nẵng để mua ipad 4, trả trước 5,7 triệu, còn vay của Home Credit 9 triệu đồng, lãi suất 7 %/tháng, thời hạn 12 tháng, mỗi tháng trả 1.154.000 đ. Sau 12 tháng anh Dũng phải trả 13,848 triệu, trong đó tiền lãi là 4,8 triệu.





(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)
(Ảnh: Đại Kỷ Nguyên VN)

Nếu vay ở các nhân viên tài chính thì còn kinh khủng hơn, mặt bằng cho vay lãi hiện nay là mỗi ngày con nợ sẽ phải trả từ 2.000-3.000 đồng tiền lãi cho 1 triệu đồng vay. Vay 100 triệu đồng thì người vay sẽ phải trả chừng 6-10 triệu đồng tiền lãi mỗi tháng. Thoạt nghe thì có vẻ ít, nhưng bài toán dùng 100 triệu “kinh doanh” gì để trả lãi được số này cũng không hề đơn giản. Đa phần các con nợ đều “lỗ chổng vó”, và buộc phải kéo dài thời gian vay nợ. Từ đó lãi mẹ đẻ lãi con, chẳng mấy chốc số nợ phải trả thành một con số “khủng”.
Khi đã nợ thành rất lớn thì người vay (mà lúc này phải gọi là con nợ) phải là theo những yêu cầu của chủ nợ. Sinh viên thì phải làm bất cứ gì họ yêu cầu, vì thế có rất nhiều sinh viên học rất giỏi nhưng phải đi làm những việc bán mình để trả nợ. Những người có nhà cửa, tài sản thì đều được những nhân viên tài chính này hướng dẫn thủ tục vay ngân hàng để có tiền trả họ, và dĩ nhiên họ sẽ chẳng có tiền trả nợ ngân hàng, rồi đến một ngày sẽ bị ngân hàng xiết nợ. Những thực tế này không phải là ít, nhưng họ là người nghèo, là thân phận thấp hèn, quá khổ thì có ai còn lo cho họ nữa đây.
Không chỉ ở Hà thành mà Sài thành và hầu hết các địa phương khác đều như vậy. Theo tôi biết thì chỉ có ở ta mới có vậy, thật xót thương cho dân nghèo, đã nghèo thì lại bị o bế đến cùng cực, họ ở giữa một thủ đô văn minh, sắp có tháp truyền hình cao nhất thế giới, nhưng họ đang bị cùng quẫn mà không có ai bảo vệ. Các phương tiện truyền thông dường như không nhìn thấy, hoặc cố tình tránh né. Vì thế, đề nghị các nhà chức trách phải ra tay hành động, dẹp bỏ những thủ đoạn cho vay nặng lãi bất lương này để người dân sớm ngày thoát khỏi bể khổ của tín dụng đen.
Thanh Trung

Báo động 86 % nông dân dân tộc thiểu số đang phải vay tín dụng đen

Tín dụng đen đang thực sự ngày càng phát triển, nó len lỏi đến khắp nơi, đến vùng sâu, vùng xa, với lãi suất lên đến 60%/năm. (Ảnh: dantocviet.vn)
Tín dụng đen đang thực sự ngày càng phát triển, nó len lỏi đến khắp nơi, đến vùng sâu, vùng xa, với lãi suất lên đến 60%/năm. (Ảnh: dantocviet.vn)
Một điều khó tin là phần lớn các hộ nông dân dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang phải gánh các khoản nợ khác nhau, đáng lo ngại là đó chính là các khoản vay nặng lãi từ tín dụng đen với lãi suất lên tới 50-60%/năm để đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Đây là thực trạng đáng báo động hiện nay.
Chiều 9/12, tại Hà Nội, đông đảo đại biểu đã tham dự và lắng nghe những phân tích, chia sẻ từ một trong những nghiên cứu đầu tiên về tình trạng mắc nợ của nông dân dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay.
Đó là những điều được phân tích, trình bày tại Hội thảo “Chuyển đổi sinh kế và tình trạng tài chính của một số tộc người thiểu số ở Việt Nam” do Liên minh Nông nghiệp tổ chức. Nghiên cứu này do Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn miền Nam (SCAP) tiến hành tại Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Nghiên cứu cho thấy một tỉ lệ rất lớn các hộ nông dân dân tộc thiểu số tại chỗ đang phải gánh các khoản nợ khác nhau, với mức độ nợ từ 50 – 240 triệu. Đáng chú ý, tới 70% mục đích các khoản vay là để đầu tư cho nông nghiệp, 7 – 8% là để trả các khoản nợ đã có (đảo nợ). Khoảng 90% số hộ được hỏi cho biết họ cảm thấy gánh nặng nợ là nghiêm trọng cho tới rất nghiêm trọng.
Đáng chú ý hơn nữa, phần lớn các hộ dân này đang phải vay nặng lãi từ tư nhân để đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, với lãi suất lên tới 50-60%/năm, thay vì có thể vay ở các ngân hàng với lãi suất thấp như chính sách quy định.
Lý do người dân vay nặng lãi từ tư nhân rất đa dạng, do không có tài sản thế chấp để vay ngân hàng, do thủ tục vay ngân hàng quá phức tạp và giải ngân chậm, phải chờ đợi từng đợt vay với lượng tiền quy định, nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu đầu tư sản xuất. Trong khi đó vay từ tư nhân thủ tục rất đơn giản, không yêu cầu thế chấp, đáp ứng ngay khi có nhu cầu với lượng tiền cho vay cao hơn.
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra nhiều khuyến nghị cả ngắn hạn và dài hạn để giải quyết tình trạng nợ nghiêm trọng của nông dân dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên, bao gồm các công cụ tài chính, tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, cũng như nhìn nhận lại các mô hình sinh kế và triết lý phát triển vùng dân tộc thiểu số nói chung.
Bên cạnh khuyến nghị một số giải pháp ngắn hạn và lâu dài để giải quyết hiện trạng tài chính của người nông dân dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên, Liên minh Nông nghiệp sẽ tiếp tục thực hiện các chương trình xây dựng sự tự chủ và tiếng nói của người nông dân để họ có thể thực sự lên tiếng tham gia vì quyền và lợi ích của chính mình” – Bà Lương Minh Ngọc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) cơ quan chủ trì nghiên cứu nhận định.
Cuộc thảo luận bàn tròn tại hội thảo đã thu nhận được nhiều ý kiến của các cơ quan liên quan như Bộ Nông nghiệp, Ủy ban Dân tộc, đại diện nông dân, các tổ chức xã hội, báo chí và các nhà nghiên cứu đóng góp cho báo cáo nghiên cứu và chương trình hành động của Liên minh Nông nghiệp để giải quyết vấn đề này trong thời gian tới.
Theo đó, dựa trên các kết quả phân tích về hiện trạng và nguyên nhân của vấn đề nợ ở một số địa phương thuộc Tây Nguyên, cũng như hệ quả kinh tế- xã hội do vấn đề nợ tạo ra, nhóm nghiên cứu gồm: Hoàng Cầm, Ngô Thị Phương Lan, Hoàng Anh Dũng, Đào Chí Danh, Nguyễn Đức Lộc đã cùng đề xuất, cần thay đổi và bổ sung một số điều khoản trong Nghị định 55/2015/NĐ/CP về chính sách “tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn” mà cụ thể là cần phải chỉnh sửa, bổ sung Điều 3 và Điều 4 theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho nông dân là người dân tộc thiểu số. Đồng thời, có thể xem xét nâng trần lãi suất cho vay và chuyên nghiệp hoá tín dụng vi mô để tạo sự cạnh tranh giữa các mô hình tín dụng.
Tín dụng đen đang thực sự ngày càng phát triển, nó len lỏi đến khắp nơi, đến vùng sâu, vùng xa, với lãi suất lên đến 60%/năm, sẽ làm cho giá thành sản phẩm nông nghiệp đắt lên nhiều, nhưng nguy hiểm hơn là nó sẽ hút hết lợi nhuận còm cõi của người nông dân, thậm chí sẽ lấy hết tài sản, đẩy cuộc sống người dân thiểu số vào cùng cực. Các ban ngành có trách nhiệm cần khẩn trương đề ra giải pháp để cứu nông dân thoát khỏi nạn tín dụng đen này.
Thành Long

Báo động dân tộc thiểu số đói nghèo

Nhiều chỉ tiêu liên quan đến xóa bỏ đói nghèo cùng cực và thiếu đói, phổ cập giáo dục tiểu học, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, nâng cao sức khỏe bà mẹ, vệ sinh môi trường… ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn thấp. (Ảnh: sinhcafe.vn)
Nhiều chỉ tiêu liên quan đến xóa bỏ đói nghèo cùng cực và thiếu đói, phổ cập giáo dục tiểu học, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, nâng cao sức khỏe bà mẹ, vệ sinh môi trường… ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn thấp. (Ảnh: sinhcafe.vn)
Đây là thông điệp được đưa ra tại “Diễn đàn Phát triển dân tộc thiểu số 2015” do Hội đồng Dân tộc Quốc hội, Văn phòng Chính phủ và Tổ chức Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)… phối hợp tổ chức sáng 9/12 tại Hà Nội.
Nội dung chính của diễn tập trung bàn thảo việc triển khai các mục tiêu phát triển dân tộc thiểu số trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2016-2020.
Vùng dân tộc và miền núi chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên của Việt Nam, là địa bàn sinh sống của 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với trên 13 triệu người, chiếm 14,28% dân số cả nước. Nhưng 53 dân tộc thiểu số luôn bị thiệt thòi, tỷ lệ đói nghèo rất cao, do hầu hết ở các vùng sâu, vùng xa, núi cao nên những phúc lợi mà họ được hưởng rất ít, nhiều nơi còn chưa có điện, chưa phủ sóng điện thoại, chưa có nước sạch, chưa có đường nông thôn, chưa có trường học, trạm y tế…
Mặc dù công tác xóa đói, giảm nghèo đối với dân tộc thiểu số đã đạt được một số kết quả, nhưng theo ông Danh Út,  Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc Quốc hội thì có một thực tế vẫn rất đáng quan tâm là ở các vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo vẫn chiếm đến 47%, trong khi họ chỉ chiếm chưa đến 15% dân số cả nước, số hộ dân tộc thiểu số tái nghèo còn rất phổ biến…
Ông Sơn Phước Hoan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Chính phủ cũng thừa nhận rằng đến nay Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều thách thức mới có thể hoàn thành được mục tiêu đề ra, đối với dân tộc thiểu số đang còn cách khá xa so với mặt bằng chung của cả nước. Nhiều chỉ tiêu liên quan đến xóa bỏ đói nghèo cùng cực và thiếu đói, phổ cập giáo dục tiểu học, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, nâng cao sức khỏe bà mẹ, vệ sinh môi trường… ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn thấp.
Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho rằng, hầu hết chính sách mới chỉ mang tính hỗ trợ, thậm chí một số chính sách là bao cấp, cho không… nên một bộ phận người nghèo dân tộc thiểu số chỉ trông chờ, ỷ lại vào nhà nước và xã hội mà không chủ động vươn lên khi được tiếp động lực. Một số chính sách trùng lặp về đối tượng, địa bàn thụ hưởng. Chính sách đề ra còn có quá nhiều đầu mối dẫn đến nguồn lực bị phân tán, dàn trải, thiếu minh bạch, rõ ràng về đối tượng thụ hưởng; mục tiêu đặt ra lớn, nhưng nguồn lực bố trí lại không đủ, thậm chí có chính sách không được bố trí vốn… Quy trình xây dựng chính sách còn nhiều bất cập, nhiều chính sách xây dựng chưa thực sự dựa trên nhu cầu của đồng bào dân tộc thiểu số, chưa tiếp thu đầy đủ ý kiến đóng góp của các cơ quan, bộ, ngành liên quan và ở cơ sở cũng như của các đối tượng được thụ hưởng chính sách.
Vì vậy, ông Danh Út cho rằng, chính sách ưu tiên cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn cần phải được thể hiện mạnh mẽ bằng các chỉ tiêu cụ thể trong các chương trình, chính sách cụ thể trong giai đoạn phát triển 2016-2020…
Theo Đại sứ Ireland tại Việt Nam – Caits Moran, giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt tới ngưỡng cần phải có một cách tiếp cận dựa trên sự khác biệt và bản sắc của các nhóm đối tượng. Trong quá trình lập kế hoạch, thực hiện chính sách và ra quyết định đối với các dân tộc thiểu số trong 53 nhóm dân tộc thiểu số khác nhau cần thấu hiểu họ là ai, họ đang đối mặt với những khó khăn và nhu cầu ưu tiên của họ là gì. Đáp ứng điều đó, cần phải có cách tiếp cận mới, cởi mở và đưa ra các sáng kiến phù hợp, đảm bảo các nhu cầu của người dân tộc thiểu số do chính họ đề xuất dựa trên những bằng chứng, hay kết quả nghiên cứu phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện chính sách đối với dân tộc thiểu số.
Thành Long

Sếp ngân hàng làm thất thoát 966 tỷ đồng: 'Tôi chỉ là nạn nhân'

Trả lời toà về việc làm thất thoát số tiền lớn, nguyên giám đốc Agribank Chi nhánh 6 thừa nhận sai phạm, song cho rằng mình "chỉ là nạn nhân của hành vi lừa đảo".
    Đến chiều 22/10, VKS mới công bố xong cáo trạng vụ đại án làm thất thoát gần 1.000 tỷ đồng xảy ra tại ngân hàng Agribank Chi nhánh 6 (TP HCM).
    Là người đầu tiên được thẩm vấn, bị cáo Dương Thanh Cường (nguyên tổng giám đốc và giám đốc Công ty TNHH đầu tư xây dựng Tấn Phát) thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng.
    Theo đó, Thanh Cường đã chỉ đạo cấp dưới lập hồ sơ vay, tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại số 10 Âu Cơ (và trụ sở công ty của Cường tại 44 An Dương Vương, quận 8, để vay 170 tỷ đồng của Agribank Chi nhánh 6. Hồ sơ này không đủ điều kiện thế chấp.
    Chỉ một tháng sau bị cáo tiếp tục vay 628 tỷ đồng để thực hiện dự án khu biệt thự nhà vườn, thế chấp bằng 23 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Cường thu mua của người dân trong quá trình giải phóng mặt bằng và 3 bất động sản khác. Toàn bộ số tiền vay được, Cường dùng để trả các khoản nợ trước đó và đầu tư bất động sản nhưng thua lỗ.
    sep-ngan-hang-lam-that-thoat-966-ty-dong-toi-chi-la-nan-nhan
    Nguyên giám đốc Agribank Chi nhánh 6 cho rằng mình chỉ là nạn nhân của hành vi lừa đảo do Cường và đồng phạm thực hiện. Ảnh: Hải Duyên. 
    Trả lời xét hỏi của toà, bị cáo Thái Cường (nguyên giám đốc Công ty TNHH đầu tư xây dựng Tấn Phát), Phạm Hoàng Thọ (nguyên phó giám đốc Công ty TNHH sản xuất xây dựng thương mại Thanh Phát) thừa nhận hành vi phạm tội nhưng cho rằng, các bị cáo chỉ là người làm công ăn lượng, tất cả đều thực hiện theo chỉ đạo của Thanh Cường.
    Đối với nguyên giám đốc Agribank Chi nhánh 6 Hồ Đăng Trung, cáo trạng xác định, bị cáo dù biết hồ sơ của Thanh Cường không đủ điều kiện nhưng vẫn ký duyệt cho vay đến 2 lần với số tiền cực lớn. Trả lời toà về hành vi sai phạm, ông Trung thừa nhận sai phạm dẫn đến thất thoát số tiền 966 tỷ đồng. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng không cố ý mà là nạn nhân của hành vi lừa đảo do Thanh Cường và đồng phạm thực hiện.
    Bị cáo Hồ Văn Long (nguyên trưởng phòng tín dụng Agribank Chi nhánh 6), Trương Quốc Bảo, Trương Nhật Quang (nguyên cán bộ tín dụng Agribank Chi nhánh 6) thừa nhận có vi phạm quy định về cho vay như cáo buộc của VKSND Tối cao. Tuy nhiên, theo bị cáo Quang, còn nhiều tình tiết trong biên bản làm việc khi điều tra bổ sung chưa được đưa vào cáo trạng.
    Riêng bị cáo Nguyễn Hoàng Quốc Thụy không đồng ý với cáo buộc đưa tài sản không hợp lệ vào hợp đồng thế chấp. Cựu nhân viên tín dụng này cho rằng không thực hiện đúng quy trình nhưng "việc phê duyệt là do cấp trên chỉ đạo". Sau khi thực hiện hợp đồng tín dụng với công ty của Thanh Cường, Thụy đã nghỉ việc tại Agribank Chi nhánh 6.
    sep-ngan-hang-lam-that-thoat-966-ty-toi-chi-la-nan-nhan-1
    Bị cáo Thái Cường khai được Thanh Cường thuê là Giám đốc Công ty Tấn Phát tuy nhiên ông không biết gì, chỉ ký các giấy tờ theo chỉ đạo của Tổng giám đốc. Ảnh: Hải Duyên. 
    Trả lời HĐXX về việc hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi lập hồ sơ vay 170 tỷ đồng của Agribank Chi nhánh 6, Thanh Cường cho biết, khoảng tháng 9/2007 đã chỉ đạo cho Thái Cường mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời tại lô đất số 10 Âu Cơ, quận Tân Phú của Công ty Đông Phương để thế chấp. Cùng với bất động sản khác tại 44 An Dương Vương do công ty của Cường đứng tên.
    Sau khi được giải ngân, Cường mượn lại giấy tờ đất đang thế chấp để đi làm thủ tục. Tuy nhiên, sau khi làm được giấy tờ, Cường nghe nói Agribank không đồng ý cho vay tiếp nên ông ta nảy sinh ý định không trả lại tài sản thế chấp này mà mang sang Ngân hàng Phương Nam để vay hơn 15.000 lượng vàng.
    "Thời điểm đó, nếu ngân hàng không cho vay, dự án xây Trung tâm thương mại tại số 10 Âu Cơ sẽ bị thiệt hại nặng", Cường khai động cơ và cho biết sau khi bị Agribank liên tục đòi lại giấy tờ lô đất đã dùng 13 tài sản khác để bù cho ngân hàng.
    Phiên tòa ngày mai sẽ tiếp tục với phần xét hỏi các bị cáo liên quan đến khoản vay 170 tỷ đồng của Agribank.
    Hải Duyên
    Vì sao doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận vốn ngân hàng?
    BizLIVE - 23 Tháng Chín 2014        -


       
       
     
     


    Thiếu tài sản thế chấp, tình hình tài chính không minh bạch, khó khăn chồng chất trước bối cảnh kinh tế khó khăn…khiến doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) vốn đã khó tiếp cận ngân hàng lại càng khó hơn khi gõ cửa nhà băng, dù cầu vốn tăng. 
     
    Theo số liệu của NHNN, chỉ có hơn 1/3 DNNVV (chưa đến 36%) trong số các doanh nghiệp đang hoạt động có tiếp cận vốn ngân hàng. Thực tế, các DNVVN khó tiếp cận được vốn vay ngoài nợ xấu tăng và hết tài sản đảm bảo, một phần do tăng trưởng
    tín dụng bị hạn chế trong những năm gần đây. 
     
    Tất nhiên là với DNVVN cũng có những hạn chế của nó và không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để đáp ứng tiêu chí cho vay của ngân hàng. Ðáng chú ý là trước bối cảnh nợ xấu tăng hiện nay, các NHTM cũng sẽ phải thận trọng khi trao vốn. 
     
    Nhưng theo TS. Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DNVVN Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng thừa, nghiệp đói vốn vốn hiện nay cũng cần có chính sách hỗ trợ để giúp doanh nghiệp výợt quá khó khãn. 
     
    Cũng theo TS. Kiêm, hiện nhiều ngân hàng đã huy động đủ vốn vay nhưng đầu ra lại đang hạn chế, do nợ xấu và nhu cầu vốn của doanh nghiệp tốt không tăng. 
     
     
    Vì thế, các ngân hàng đành dùng nguồn vốn đó để mua trái phiếu Chính phủ với lãi suất thấp hơn. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất ngày càng tăng cao cũng khiến cho việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khó khăn.
     
     Nhiều DNVVN chỉ còn hoạt động cầm chừng và nhiều DNVVN đang đứng trước bờ vực phá sản. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng của ngành ngân hàng 8 tháng đầu năm, tín dụng tăng chưa đến 6%, dù thanh khoản của ngân hàng đã được cải thiện đáng kể. 
     
    Vốn khả dụng bắt đầu dôi dư ở các nhà băng lớn, nhưng rất khó để cho vay ra. 
     
    Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cũng giảm dần trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, mức lãi suất cho vay giảm nhiều chỉ áp dụng cho đối tượng khách hàng tốt và ngân hàng cũng có sự chọn lọc khá kỷ, tìm doanh nghiệp khỏe mới có thể trao vốn. 
     
    Ðiều đó cũng có nghĩa, chỉ với DNVVN đáp ứng được các điều kiện tín dụng của NH mới có thể vay được vốn lãi suất ưu đãi, chứ không phải doanh nghiệp nào cũng được sử dụng vốn rẻ. 
     
    “Các DNVVN sẽ khó khăn hơn khi muốn vay vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh và không thể kỳ vọng tiếp cận được vốn giá rẻ để giảm chi phí trong hoạt động”, T.S Kiêm nói và cho rằng, ngoài chính sách giảm lãi suất, thuế và các ưu đãi DNVVN, ngân hàng cũng nên có chính sách cho vay tín chấp để tháo gỡ khó khãn về vốn cho DNVVN dựa trên kết quả xếp hạng tín nhiệm của từng NHTM ðối với doanh nghiệp. 
     
     
    Đồng quan điểm, TS. Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cho rằng, để khơi thông được dòng chảy tín dụng, hỗ trợ vốn cho DN sản xuất, kinh doanh, nhất là các DNVVN, phía NHTM phải có sự chủ động xếp hạn tín nhiệm cho vay, nhưng doanh nghiệp cần minh bạch thông tin hoạt động.  
     
    Theo TS. Thành, lãi suất hiện không còn là áp lực quá lớn đối với doanh nghiệp, nhưng cái khó đó chính là nợ xấu tăng, ngân hàng ngại đẩy mạnh vốn cho vay. Trong khi, cái khó của doanh nghiệp hiện nay chính là tồn kho tăng, hết tài sản đảm bảo và có nợ xấu nên không thể tiếp cận được vốn, nhất là với DNVVN. 
     
    Nhưng với quỹ bảo lãnh tín dụng của Việt Nam còn quá mỏng. Thực tế, đối với các DNVVN để tiếp cận với Quỹ bảo lãnh tín dụng là điều hết sức khó khăn, trong khi đó nhu cầu vốn của những doanh nghiệp này để đầu tư, phát triển, kinh doanh là rất lớn.
     
     “Ở Việt Nam quỹ bảo lãnh tín dụng đã được thành lập nhiều và tiếp tục sửa đổi, nhưng kết quả đạt được rất hạn chế. Bởi không có độ dày về vốn. Nhưng theo tôi, vấn đề quan trọng hơn trong việc bảo lãnh tín dụng là năng lực và tính minh bạch cũng như rủi ro và hiệu quả trong quá trình bảo lãnh ở mức có thể chấp nhận được. Có như vậy thì không chỉ có vai trò nhà nước mà các tổ chức tư nhân cũng có thể tham gia thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để có thể hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, với các NHTM hiện nay cũng cần có sự thay đổi về cách nhìn đối với các DNVVN và đây chính là thị trường và lợi nhuận của mình”, TS. Thành nói.

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét