Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016
TIẾU LÂM KIM CỔ 108 (Xiểm Bột, Ba Giai-Tú xuất)
Xiển Bột
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xiển Bột hay Xiển Ngộ là một nhân vật dân gian được cho là có thật, tên là Nguyễn Xiển, sống ở cuối thời phong kiến của Việt Nam, tại làng Hoằng Bột, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông được cho là hậu duệ của Trạng Quỳnh (chắt của Trạng Quỳnh), tương truyền khi mới sinh ra, Xiển mặt vuông chữ điền, tai to như tai phật, mồm rộng, mắt sáng. Người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê Xiển ở làng Hoằng Bột., ông sống bằng nghề làm thuốc.
Xiển Bột nổi tiếng trong dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đã kích vào những thói xấu của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo cao nhất là nhà vua.
Xiển Bột nổi tiếng trong dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đã kích vào những thói xấu của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo cao nhất là nhà vua.
Một số giai thoại tiêu biểu
Trả lời vua
Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi: Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không? Xiển đáp rằng Trạng có trăn trối một câu nhưng không dám nói, vua gặng hỏi, Xiển từ chối, đến cuối cùng Xiển mới thưa:“ | Tâu hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: "Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi rứa?", rồi tắt thở | ” |
Tứ chứng nan y
Xiển làm thuốc. cho nên vua thường vời vào kinh chữa bệnh. Một hôm, Xiển vào thăm vua vì nghe nói vua mắc phải bốn bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là "tứ chứng nan y". Và Xiển cho biết tứ chứng nan y đó là què, mù, câm điếc. Vua nổi giận vấn hỏi, Xiển Bột đáp rằng là có nguyên do vì:“ | Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc dày xéo mà Hoàng thượng cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họn lầm tưởng là ngài điếc | ” |
Xin tiền tổng đốc
Khi thi hỏng, Xiển và các bạn đồng môn ngồi buồn bàn luận. Mọi người biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc. Bây giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển nhận lời và một buổi sáng đến quỳ trước công đường xin quan tổng đốc dùng một gươm chém chết vì lý do là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa. Quan bảo rằng Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là "điên cuồng ngu ngộ" ta xem. Xiển vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:- Cao Tổ điên hào kiệt
- Võ Ðế ngộ thần tiên.
- Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
- Nhan Tử ngu thánh hiền
Chửi quan
Có một ông quan án lên là Nguyễn Văn Tiêu (hay còn gọi là Án Tiêu) về quê ngoại là làng Yên Lược ăn giỗ. Ông ta bắt dân làng phải dọn dẹp đường sá sạch sẽ, mang cờ quạt đón rước thật long trọng. Mọi người phải quét đường làng, phát quang cây cối.Khi gà gáy, Xiển dậy lấy cứt chó đem ra đường cái, cứ cách một quãng bỏ một bãi, bãi nào cũng cắm một quả ớt lớn (ở Thanh Hoá gọi ớt là hạt tiêu). Sáng ra, khi mọi người kính cẩn đón rước quan án Tiêu, Xiển vác cờ đi trước, cứ hễ trông thấy bãi cứt có cắm quả hạt tiêu, ông lại chửi: "Tổ cha đứa nào ỉa ra tiêu". Quan án Tiêu nằm trong cáng nghe tiếng chửi, biết là Xiển chửi mình nhưng không đủ lý do để bắt bẻ, đành gọi bọn lý hương lại, quở trách không chịu đôn đốc dân phu quét dọn đường sá cho sạch và bảo chúng truyền lệnh rằng: "Quan huyện trong người khó ở, mọi người không được to tiếng, ồn ào!"
Vả miệng quan
Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đợ là án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là án Tiêu. Ðể nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng "tiêu", ví dụ như hạt tiêu thì hải nói là hạt ớt v.v... và hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội.Một hôm, Xiển mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan và thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai. Tức thì quan giận mắng mỏ, Xiển thưa rằng "xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử..." Quan cướp lời: "Quân tử gì mày! Ðồ quân tử cùng quân tử cố!" Xiển đối lại: "Khổng Minh túng Khổng Minh cầm!".
Hai câu đối đáp trên đã đã làm thành đôi câu đối hay. Quan phục tài Xiển, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói: Bẩm quan, tiền này không "ớt" được ạ!. Quan vô tình mắng: Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?.
Chỉ chờ có thế, Xiển liền vả cho quan ba cái tát vào mồm. Quan hô lính bắt trói. Xiển ngăn lại nói: Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên huý quan án ngài mới ban ra. Tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!.
Quan đấy
Ở Thanh Hóa, cứ gần tết Nguyên đán, viên tri phủ Hoằng Hóa cùng vợ đi chợ tết. Từ phủ ra chợ Bút Sơn rất gần, nhưng vốn tính hách dịch, quan phủ bắt lính cáng ra tận cổng chợ và mang theo hai cái lọng xanh che. Xiển Bột lúc này còn nhỏ, rất ghét quan. Xiển mang một con chó con đi chợ, nhưng không bán, cứ ôm ở trước bụng, lúc thì chen đi trước quan, lúc thì lùi lại đi sau quan. Thấy Xiển mang chó, ai cũng tưởng Xiển mới mua, liên hỏi: Chó bao nhiêu?. Xiển trả lời: Quan đấy!Quan phủ biết thằng bé ôm chó chửi xỏ mình, cho lính bắt lại hỏi. Xiển đáp: "Bẩm quan, nhà con muốn nuôi một con chó con để dọn cứt cho em, nên bố mẹ con bảo con đi mua". Quan hỏi Xiển là con cái nhà ai, Xiển trả lời là chắt cụ Trạng Quỳnh. Quan hỏi: Ðã là chắt cụ Trạng tất phải hay chữ. Thế mày có đi học không?. Xiển đáp: Bẩm quan, con là học trò giỏi nhất vùng này ạ, quan lớn không đi học nên không biết đó thôi.
Quan thấy Xiển vẫn tìm cách xỏ mình, quan nổi giận và ra câu đối bắt phải đối, nếu không đối được thì phải bị đánh đòn. Quan đọc câu đề: "Roi thất phân đánh đít mẹ học trò".
Xiển hỏi thêm quan có cho phép dùng các cặp đối như "Roi" đối với "lọng", "đít" đối với "đầu", "mẹ" đối với "cha", quan đồng ý và quát Xiển phải đối. Xiển liền đối: "Lọng bát bông che đầu cha quan lớn!". Quan không ngờ Xiển lại dám chửi mình một lần nữa, để chữa thẹn, quan lấy giọng bề trên mắng Xiển qua loa một vài câu, rồi quát bảo lính hầu sửa soạn ra về.
Thằng Tri huyện
Một hôm, làng Hoằng Bột theo lệnh quan phải ăn mặc chỉnh tề để đi đón quan huyện Lê Kim Thằng về làng hiểu dụ, Xiển liền vào buồng ông nội lấy trộm chiếc áo thụng đỏ mặc vào, rồi đi thẳng ra đình, giả vờ chạy đi chạy lại lăng xăng ngay trước mặt quan huyện. Quan hỏi. Xiển xưng tên họ và nói là học trò. Tri huyện bắt Xiển phải đối câu: "áo đỏ quét cứt trâu". Xiển đối ngay: "Lọng xanh che đít ngựa".Tri huyện tức giận, thấy tóc Xiển đỏ hoe vì đãi nắng lâu ngày, huyện thằng liền ra câu đối và bắt nếu không đối được sẽ đòn:
Câu đề: "Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò".
Xiển đối tức khắc:
Câu đối: "Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện!"
Tri huyện Thằng tức nhưng vì Xiển đối rất chỉnh, không bẻ vào đâu được, đành câm miệng.
Hâm cứt chó
Vì là dân ngụ cư, Xiển thường bị bọn cường hào trong làng chèn ép. Ðể trả thù, nhân một hôm cả bọn đang họp việc làng, chè chén cãi nhau ỏm tỏi, Xiển tìm một cái nồi vỡ, bỏ vào tít cứt người lẫn nước, đem đến chỗ đầu gió vừa đun vừa khuấy. Gió đưa mùi thối bay vào chỗ bọn cường hào đang họp. Chúng không chịu được, chạy ra quát tháo ầm ĩ. Xiển xin lỗi và phân trần: Thưa các ông, nhà tôi có một ổ chó con trở chứng, đòi ăn cứt sốt, cho nên phải đun cho chúng một ít. Lý trưởng trừng mắt hỏi: Ai bảo chú làm thế?Xiển đáp: Thưa các ông, người ta thường nói: "Lau nhau như chó đau tranh cứt sốt". Thấy người ta nói như vậy thì tôi cũng làm như vậy thôi.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 15:38 ngày 12 tháng 5 năm 2015.
Tú Xuất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tú Xuất (??-??) tên thật là Nguyễn Đình Xuất (người gốc làng Chuông, Xã Phương Trung, huyện Thanh Oai Hà Tây Cũ) là một nhân vật có thật sống vào cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam, ông và Ba Giai đã tạo nên một giai thoại Ba Giai - Tú Xuất "thứ nhất Ba Giai, thứ hai Tú Xuất" được mọi người nhớ đến ở đất Hà Thành (cũ), Ông là một người thông minh, tri thức hơn người nhưng hay gặp thất bại trong khoa cử,
từ đó sinh ra tính hay bông đùa, trêu cợt, đặc biệt là đả kích vào
những thói hư, tật xấu và những tiêu cực của người đương thời.
Đây cũng là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20 và là một cặp bài trùng trong văn học Việt Nam, nhắc tới người này thì không thể quên người kia và ngược lại. Đó là những mẩu chuyện về hai nhân vật đầy cá tính, thích trào lộng và hay bày ra tình huống quái ác khiến đối tượng bị "chiếu tướng" phải dở khóc dở cười hay những giai thoại đầy mưu mẹo, lấy của quan tham chia cho dân nghèo. Hình ảnh và những câu chuyện của ông cùng với Ba Giai ngày nay được diễn tả nhiều trên sân khấu, kịch nói.
Đây cũng là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20 và là một cặp bài trùng trong văn học Việt Nam, nhắc tới người này thì không thể quên người kia và ngược lại. Đó là những mẩu chuyện về hai nhân vật đầy cá tính, thích trào lộng và hay bày ra tình huống quái ác khiến đối tượng bị "chiếu tướng" phải dở khóc dở cười hay những giai thoại đầy mưu mẹo, lấy của quan tham chia cho dân nghèo. Hình ảnh và những câu chuyện của ông cùng với Ba Giai ngày nay được diễn tả nhiều trên sân khấu, kịch nói.
Thân thế
Tú Xuất là con một đốc học Hà Nội, gốc ở Thanh Hóa hoặc Nghệ An thường trú ở xã Phương Trung huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông xưa, nay là Hà Tây, đến Tú Xuất là đời thứ tư. Tú Xuất cũng thuộc dòng họ Nguyễn Đình ông là con trai trưởng của Nguyễn Đình Lập người đỗ cử nhân năm Gia Long thứ 12 (1812), là đốc học Hà Nội, có thời gian ông đã làm đốc học lục tỉnh, là giám khảo khoa thi hương ở Nghệ An. Họ Nguyễn Đình có ba chi, Tú Xuất thuộc chi thứ ba.Ông nội Tú Xuất là Nguyễn Đình Linh. Đối với Tú Xuất, ông có học hành lăn lộn nhiều năm với khoa cử. Thông minh, tri thức hơn người, nhưng năm lần qua trường thi hương, ông vẫn không vượt qua được vũ môn để thành ông nghè, ông cống. Thế là một lần nữa trên đất Hà Thành lại rộ lên các chuyện mà mọi người cho là "táo trời" là "bạo thiên nghịch địa", dân chúng thì nhiều người khen và cảm phục. Cuối đời không ai rõ về ông, có người nói Tú Xuất vì tham gia trong đội quân Tam Đường chống Pháp nhưng thất bại nên ông lánh nạn và mất tích từ đó.
Giai thoại
Sự kết hợp giữa Ba Giai và Tú Xuất trở thành một cặp bài trùng và đã để lại rất nhiều giai thoại về các chuyện nghịch ngợm dân chúng đồn đại là các ông chẳng từ một đối tượng nào. Từ quan tổng đốc, tri phủ, tri huyện, chánh tổng lý hương, hào lý ở địa phương đến những người buôn bán ở chợ tỉnh chợ quê. Hễ cứ thấy họ nghênh ngang cậy tiền, cậy quyền thế để ức hiếp kẻ khác yếu hơn mình, ngứa mắt là hai ông chọc ghẹo gây cười để làm nhục họ cho bõ ghét.Thế là Ba Giai trở thành một cặp bài trùng với Tú Xuất. Từ việc căm ghét bọn "chó săn tay sai, nịnh bợ Tây" dùng lời thơ trào lộng chế diễu chúng, Ba Giai đã cùng Tú Xuất biểu lộ thái độ bất bình, không chấp nhận cái trật tự xã hội đó bằng trí tuệ theo cách riêng của mình để đánh gục uy thế của chúng bằng cách phơi trần bản chất và bộ mặt thực của chúng ra trước đông đảo quần chúng.[2]
Câu chuyện ngủ trọ
Sau khi Tú Xuất ăn chơi tại thành phố Nam Ðịnh, ông thấy túi đã cạn tiền, Tú Xuất đi mua cái vali, đem mấy cục gạch và giấy bồi bỏ vào, rồi mang đến đến một nhà hàng cơm, đánh chén một bữa no say, rồi ngủ trọ ở đó. Trước khi đi ngủ, Tú Xuất đưa vali cho bà chủ nhà hàng cất hộ. Bà chủ hỏi trong vali có chứa những gì. Tú Xuất nói lập lờ rằng:“ | "Có chút đỉnh thôi, còn thì quần áo và sách vở. Tôi đi thăm ông cụ tôi đang làm án sát Bắc Ninh, đâu cần phải đem nhiều tiền bạc" | ” |
“ | Làm sao, tôi biết đâu được, tôi gửi bà cất mà. Bà phải bồi thường chứ còn làm sao nữa? | ” |
Lý sự của mèo
Một hôm trời tối, Tú Xuất vào nghỉ tại một nhà hàng nọ ở bên đường cái quan, ở đó, đã có anh hàng mèo đến trước ngồi chễm chệ trên giường, bên cạnh để đầy lồng nhốt đầy mèo. Tú Xuất đành ngồi giường dưới. Chủ quán thấy vậy đề nghị với anh buôn mèo cho Tú Xuất nằm dường trên kẻo bất tiện nhưng người buôn mèo không chịu, lý sự rằng "Tôi tưởng cái phép ở hàng quán, ai đến trước thì ngồi trên, ai đến sau ngồi dưới, tôi đã ngồi đây thì cứ ở đây". Tú Xuất nghe nói thế, bèn bảo là không phải tranh cãi nữa.Ðêm khuya, thừa lúc người bán mèo ngủ say, Tú Xuất lẻn dậy, khẽ tháo mấy cái que cài miệng lồng. Bao nhiêu mèo đều chui ra hết, con nào con nấy, tự do đi lại, leo trèo khắp nơi, kêu rầm rĩ. Người buôn mèo giật mình thức dậy, vội vã gọi nhà hàng giúp bắt mèo. Lúc đèn thắp sáng rồi, người buôn mèo thấy con ở mặt đất, con ở giường trên, con giường dưới, có con leo tận xà nhà. Tú Xuất ở giường dưới, lúc đó thấy động, cũng thức dậy, trỏ tay vào lũ mèo, nói:
“ | Giống mèo cũng khôn ngoan và lý sự lắm đấy! Chà, con nào ra trước thì được ngồi trên cao, con nào ra sau thì phải ngồi dưới thấp. | ” |
Mèo biết nói
Một hôm Tú Xuất đi ngang quán ăn. Mùi thơm phức từ quán thoảng ra, Tú Xuất đã thấy đói bụng, dạ dày càng cồn cào. Mặc dù không có tiền trong người nhưng Tú Xuất đánh bạo vào quán no say một bữa ra trò. Đến khi chuẩn bị tính tiến, đang loay hoay tìm cách xoay xở thì có con mèo quấn quýt chân cậu tìm gặm xương.Cậu nảy ngay ra ý tưởng, cho mèo ăn, vuốt ve con mèo, sau đó gọi cô chủ quán bắt chuyện và qua đó khen ngợi con mèo của cô chủ và cho rằng đây là giống mèo rất quý, có khả năng hiểu và nói được tiếng người và còn biết được nhiều chuyện trên đời. Cô chủ không tin và hai người cá cược với nhau rằng nếu Tú Xuất làm cho con mèo nói được thì cô chủ quán sẽ chiêu đãi và không tính tiền cơm đối với Tú Xuất.
Hai bên đã thỏa thuận xong, trước mặt nhiều người, Tú Xuất ôm xốc con mèo lên tay, vuốt ve nựng nịu một hồi rồi xách con mèo lên nhìn vào nó và hỏi rằng:
“ | Này mèo, "của" cô mày tròn hay méo? | ” |
“ | Méo...![11]! | ” |
Chọc con ông Tổng đốc
Ông tổng đốc nọ có cô con gái, một bữa cô kia kia ngồi võng đi dạo phố. Tú Xuất đang ngồi chơi với anh em trong phố. Mọi người đố Tú Xuất có dám ra chọc ghẹo cô ấy không. Tú Xuất liền chạy đến gần cô gái, hướng về cô ta, con mắt thì nheo nheo, tay ngoắc ngoắc, làm cô ta xấu hổ, sượng sùng. Công ta về liền thưa với cha, nói có người ở ngoài phố chọc xấu hổ, tức phát khóc lên. Quan cho sai bắt Tú Xuất để trị tội.Trước tiên, ông ta hỏi Tú Xuất về xuất thân, nghề nghiệp, Tú Xuất cứ mắt nheo, tay ngoắc, nói lắp mà bẩm báo lại. Mỗi khi quan lớn hỏi mà y bẩm lại, y cứ làm cái miếng mắt nheo tay ngoắc mãi. Sau quan buộc phải tha về. Cô gái hỏi xa sao không trị tội Tú Xuất, ông ta nói với con là Tú Xuất bị tật nên làm vậy chứ không cố ý trêu chọc. Vậy là Tú Xuất đã trêu được cô gái mà không phải tội gì.
Giành mền ông huyện
Một hôm Tú Xuất đi lỡ đường trọ nhà quán. Có một ông quan huyện đâu cũng vô ngủ. Hai người làm quen với nhau và trò chuyện. Tú Xuất lừa khi ông huyện đi ra ngoài bèn làm dấu nơi góc mền để xỏ ông huyện. Nằm kề nhau, đêm khuya Tú Xuất lại giả đò ngủ mê, giựt mền ông huyện đắp.Ông huyện tưởng cơn mê ngủ cũng để cho đắp. Sáng ông huyện dậy sớm ra đi kêu Tú Xuất dậy. Anh ta đáp: "Quan huyện ngài có gấp ngài đi trước đi, tôi thong thả vậy" rồi nhắm mắt ngủ lại. Ông huyện nói: "Không thì trả cái mền cho trẻ nó bỏ vô xiểng cho rồi đặng có đi sớm chứ" Tú Xuất đáp: "Ủa, ngài làm quan mà ngài nói cái mới lạ cho chớ, nầy! Mền của tôi đang đắp sờ sờ, ngài nói ngài đòi, thật ngài làm bỉ mặt tôi quá. Mền tôi có dấu của tôi đây rõ ràng...". Cãi không lại miệng, ông huyện nhịn thua bỏ đi.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 15:45 ngày 15 tháng 5 năm 2015.
Ba Giai
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng ở cuối thế kỷ 19.
Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm mà đối tượng chính là các
quan lại tham nhũng, các người trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông
được biết đến như là một người trong cặp bài trùng Ba Giai - Tú Xuất.
Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà
nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận Hà thành chính khí ca, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25 tháng 4 năm1882.
Thân thế
Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, năm sinh và năm mất không rõ, tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu văn học, thì rất có thể ông sống vào khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883). Cha ông là cụ Nguyễn Đình Báu, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên có tên gọi là Ba Giai.Sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, cha mẹ đều mất sớm, năm 18 tuổi, chú bác muốn ông chăn giữ trâu, nhưng ông không thuận, chỉ muốn dùng tài học để lập thân. Vì vậy, ông phải đi gánh thuê để có tiền ăn học. Học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không đi thi.
Trong hoàn cảnh sở học không có sở dụng khi đất nước chuyển sang chuộng Tây học, Ba Giai trở thành một nho sĩ bất đắc chí. Về sau ông nghỉ học, lập một xưởng in sách Tam tự kinh ngay ở trong làng gọi là nhà sách Quảng Văn để sinh sống và có điều kiện học hỏi giao lưu với bạn bè. Một trong những di bút còn lại của ông được lưu giữ trong quyển tộc phả của dòng họ, do một người cháu chi trưởng chắp bút, ông viết đề tựa.
Trở thành giai thoại
Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất như thế nào, vào lúc nào. Theo tài liệu của ông Lữ Huy Nguyên kể lại trong bản kể về truyện Ba Giai Tú Xuất của mình qua lời kể của giáo sư Nguyễn Tường Phượng thì hai ông thường gặp gỡ rủ nhau chơi bời vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội (1872 và 1882). Lúc đó Ba Giai đang theo học cụ cử Tiến Song Ngô Văn Dạng ở trường Đại Tập Kim Cổ gần ngôi nhà số 7 phố Hàng Bè, nơi mẹ của giáo sư buôn bán ở đó. Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau .Cùng là những nhà nho bất đắc chí, thông minh, mưu mẹo nhưng tài năng bất sở dụng, cặp bài trùng Ba Giai - Tú Xuất dần được nhiều người biết đến qua những đồn đại về những trò trêu ghẹo, những bài thơ châm biếm, chế giễu những nhân vật có tai tiếng tại Hà Nội. Từ đó, dân gian tưởng tượng thêm thắt vào cho tăng phần hấp dẫn hơn, hoặc thật sự do một số người vô danh tinh nghịch quấy phá bừa bãi gây nên được gán cho Ba Giai và Tú Xuất, được phổ biến khắp nơi trở thành những giai thoại trong dân gian. Đến nỗi đương thời có câu:
- Hễ ai mà nói dối ai,
- Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà.
Tác phẩm
Tương truyền Ba Giai là tác giả các bài Hà thành chính khí ca, Hà thành hiểu vọng và Vịnh đề đốc Lê Văn Trinh. Qua đó, tác giả ca ngợi bậc trung dũng và phê phán những viên quan sợ chết, đã chạy trốn hay đầu hàng quân xâm lược.Mãi trăm năm sau, những giai thoại Ba Giai - Tú Xuất được dựng lại thành những vở tuồng chèo dân gian, kịch hài hiện đại, được xuất bản thành sách, truyện tranh.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 23:15 ngày 10 tháng 10 năm 2013.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét