Thứ Năm, 4 tháng 2, 2016

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 102

(ĐC sưu tầm trên NET)

Hé lộ “nữ điệp viên” xinh đẹp dưới trướng Trần Thủ Độ

 

Công chúa Ngoạm Thiềm quyết vì ngôi báu của họ Trần mà cam phận về với Nguyễn Nộn, kẻ không chút danh giá, lại là địch thủ của triều đình.

Theo sử sách, khi nhà Trần mới lập, Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng là hai thế lực lớn nhất chống "tân" triều đình, phò nhà Lý. Vì không thể đối phó cùng lúc với cả hai kẻ địch, Thái sư Trần Thủ Độ đã sắp đặt gả Công chúa Ngoạn Thiểm cho Nguyễn Nộn...

Sách Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần ghi: Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu (nay là vùng Hải Dương), còn Nguyễn Nộn chiếm cứ vùng Bắc Giang. Cả hai tuy đều chống đối họ Trần, nhưng lại đồng thời là kẻ thù "không đội trời chung". Biết rõ điều đó, Trần Thủ Độ định kiếm kế tiêu diệt từng thế lực một. Đang lúc lo lắng mưu toan thì cơ may đến. Tháng 12 năm Mậu Tí (1228), Nguyễn Nộn bất thình lình đem quân tấn công và giết được Đoàn Thượng. Con của Đoàn Thượng là Đoàn Văn đem hết gia thuộc đầu hàng Nguyễn Nộn. Thế là trong chỗ không ngờ, kẻ thù Nguyễn Nộn đã giúp triều Trần tiêu diệt bớt đối thủ mạnh.

 Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, từ buổi đó, thanh thế của Nguyễn Nộn rất lừng lẫy. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương; đồng thời đem Công chúa Ngoạn Thiềm gả cho kẻ thù.

Lúc ấy, theo Việt sử giai thoại, sứ mạng của Công chúa Ngoạn Thiềm rất lớn: phải làm sao để vừa từng bước lung lạc Nguyễn Nộn, vừa thường xuyên cung cấp tin tức về tình hình thế lực Nguyễn Nộn cho triều đình rõ. Vì thế, có thể xem Ngoạn Thiềm là nữ điệp viên đặc biệt, phát huy quyền lực mềm của Trần Thủ Độ.

Dù là kẻ chơi bời chè chén bừa bãi, nhưng Nguyễn Nộn vẫn rất tỉnh táo, hết sức cảnh giác đối với Công chúa Ngoạn Thiềm. Sách Đại Việt sử kí toàn thư chép: Nguyễn Nộn cho xây nơi ở riêng cho Ngoạn Thiềm và canh phòng rất cẩn mật, khiến Ngoạn Thiềm không sao thu thập được tin tức gì.

Để xoay chuyển tình thế, không thu được tin mật gửi Trần Thủ Độ thì phải tìm cách làm tiêu hao sinh lực địch, Công chúa Ngoạn Thiềm cùng một toán người hầu xinh đẹp đã triệt để tận dụng sắc đẹp, khiến viên tướng háo sắc này mê mệt trong nhục dục. Và chỉ ba tháng sau, Nguyễn Nộn bị bạo bệnh mà mất. Đó là năm Kỉ Sửu (1229). Trần Thủ Độ thở phào nhẹ nhõm. Song, từ thời điểm đó, mọi thông tin về Ngoạn Thiềm cũng bỗng dưng... mất vết.

Theo một số tài liệu, trong lịch sử tồn tại của Vương triều Trần, không phải duy nhất Công Chúa Ngoạn Thiềm được sử dụng như một quyền lực mềm, thâm nhập vào lòng dịch để làm nội gián, mà còn có công chúa Huyền Trân, An Tư... Tháng Chạp năm Ất Dậu (1285), hơn nửa triệu quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu, tràn sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Khi giặc áp sát kinh thành Thăng Long, tình hình trở nên vô cùng căng thẳng, nhiều tôn thất nhà Trần như: Trần Kiện, Trần Lộng và hoàng thân Trần ích Tắc đã đem toàn bộ gia quyến và liêu thuộc đi đầu hàng.

Trần Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của giặc không có kết quả, mà quân ta lại cần có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu, nên vua Trần Thánh Tông không còn cách nào khác, phải dùng đến kế mỹ nhân, tức sai dâng em gái út cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan, để tạm cầu hòa. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ viết vẻn vẹn: "Sai người đưa Công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy".

Tuân theo lệnh vua và vì an nguy của xã tắc, Công chúa An Tư từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình, vĩnh biệt bè bạn để hiến dâng tuổi trẻ, đời con gái, kể cả tính mạng để lâm trận đơn độc và làm nội gián cho triều Trần. Tháng 3 năm 1825, An Tư vào dinh Thoát Hoan (ở bờ Bắc sông Hồng). Ở trại giặc, Công chúa đã sống như thế nào, làm được những gì - không ai biết. Song, một điều rõ rằng, bà đã phải âm thầm nuốt nhục, chiều chuộng con trai của Hốt Tất Liệt... để làm tròn vai trò "hoà hảo", góp phần không nhỏ vào thắng của quân ta sau đó.

Bàn về việc làm này của nhà Trần, sử gia Ngô Thì Sĩ cho rằng: "Nhà Trần quen làm lối này, cốt được lợi trông thấy, đem má phấn đánh đổi lấy tràng thành, gả Ngoạn Thiềm cho Nguyễn Nộn, An Tư cho Thoát Hoan đều lối ấy cả...".

Chuyện về nàng “công chúa” 9 tuổi đã xin ra trận

 

(Kiến Thức) - Ngọc Hoa tuy nhỏ tuổi, nhưng khi xung trận cô bé vô cùng nhanh nhẹn và linh hoạt như một chiến binh dạn dày kinh nghiệm.

    Hơn chín tuổi đã xin ra trận

    Năm 1103, Chiêm Thành đem quân xâm lược biên giới phía Nam. Vua triệu Lý Thường Kiệt về triều để bàn kế hoạch chinh phạt quân Chiêm Thành. Được tin quan Thái úy về triều, ông thợ mộc già ở trang Đại Bi (sau đổi thành Đại Yên) là một trong "thập tam trại", vốn là bạn thân cũ của quan Thái úy, dắt cháu gái mới hơn chín tuổi đến phủ đệ của Thái úy ở phường Thái Hòa để xin cho cháu được ra trận.

    Mặc dù đã 19 năm xa cách nhưng Thái úy vẫn nhận ra người bạn đồng hương, người đã cùng mình xông pha trận mạc, bèn vồn vã mời hai ông cháu ngồi. Cụ già liền nói ngay vào mục đích chính của việc đưa cháu đến đây. Cha của cháu bé là Trần Ngọc Tường, đợt này cũng cùng Thái úy vào chinh chiến phương Nam. Cháu bé cứ nằng nặc đòi theo cha ra trận. Cha và ông ra sức khuyên giải, nhưng cháu vẫn không chịu.

    Thái úy nghe người bạn già nói và nhìn gương mặt thanh tú nhưng kiên quyết, cặp mắt sắc sảo lanh lợi của cô gái, thì biết cháu bé là người quả cảm, mưu trí, Thái úy Lý Thường Kiệt hỏi cháu: Cháu có biết chiến trường là nơi chết chóc, đầu rơi máu chảy không? Việc ra trận là bổn phận của người lớn, còn các cháu còn nhỏ tuổi, lại là con gái, các cháu phải lo tránh giặc và học để giúp ích cho đời.

    Thái úy nói chứ dứt lời, Trần Ngọc Hoa đã dõng dạc trả lời: Thưa Thái úy, nếu giặc tràn vào thì chúng đâu có tha người già trẻ con. Vì thế, không kể già, trẻ, lớn bé đều phải đánh giặc, cúi xin Thái úy cho cháu được ra trận.

    Trước quyết tâm của hai ông cháu, quan Thái úy đành chấp nhận cho cô bé được ra trận.

    Minh họa Lý Thường Kiệt làm đại tướng đi tiên phong đánh Chiêm Thành. 

    Giả trẻ nghèo bán hàng trong vùng giặc đóng quân

    Trần Ngọc Hoa giả làm trai đến quân doanh. Cô cũng được phát quân phục như mọi người, hành quân nếu mệt mỏi được ưu tiên cưỡi ngựa. Vốn là con nhà nghèo, lam lũ từ nhỏ, đã quen chịu đựng gian khổ, nên trên đường hành quân cô vẫn theo kịp đoàn quân.

    Đến vùng giặc đóng quân, Thái úy hạ trại cử người đi trinh sát. Nhưng giặc canh phòng hết sức nghiêm ngặt. Trần Ngọc Hoa xin với Thái úy cho được đóng vai đứa trẻ nhà nghèo đi bán thuốc lào, trầu cau, hoa quả để lọt vào doanh trại giặc. Thái úy hơi lo ngại, nhưng cô bé đã vạch ra kế hoạch cụ thể và rõ ràng, ông đành chấp nhận.

    Với nụ cười có duyên, lời mời chào khéo léo, bọn giặc cho phép cô vào bán thuốc, mặt khác chúng cũng nghĩ rằng cháu bé vì nghèo nên đi bán hàng, không biết gì chuyện quân cơ. Trong khi đó, trong doanh trại đang thiếu thốn đủ thứ, nên chúng để mặc cho cô bé đi lại tự do.

    Với sự thông minh và trí nhớ, cháu bé đã ghi vào tấm bản đồ những chấm son đỏ nơi chúng bố phòng đặt vũ khí và đóng quân, những kho lương thực, thuốc súng, đạn dược... và những đường đi lối lại...

    Trên cơ sở tấm bản đồ, Thái úy Lý Thường Kiệt đã họp các tướng và giao nhiệm vụ rồi định giờ xuất quân. Ngọc Hoa được Thái úy khen ngợi và giao cho nhiệm vụ dẫn đường.Trận đó quân ta đại thắng.

    Trên đường khải hoàn, Trần Ngọc Hoa không bệnh mà hoá. Thái úy cho phép tướng quân Trần Ngọc Tường đưa thi hài Ngọc Hoa về an táng tại làng Đại Bi. Thái úy tâu với nhà vua công trạng của Ngọc Hoa, vua sắc phong thần hiệu cho Ngọc Hoa là "Ngọc Hoa công chúa" cho dân Đại Bi lập đền thờ. Nhân dân làng Đại Bi tôn Ngọc Hoa làm thành hoàng làng.

    Bí ẩn cái chết của công chúa quên thân cứu nhà Trần

     

    (Kiến Thức) - Với kế sách "Mỹ nhân kế", Trần Thánh Tông đã dùng chính sắc đẹp tài hoa của An Tư công chúa để đối phó với giặc.

      Công chúa là con gái út của Trần Thánh Tông, em gái vua Trần Nhân Tông. Không rõ năm sinh và năm mất của bà. Hầu hết các sử sách đều chép bà là công chúa An Tư, duy chỉ có sách Việt sử tiêu án chép là công chúa Thiên Tư. Nói về công chúa An Tư, sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi ngắn gọn: "Vua Trần sai người đưa công chúa An Tư đến cho Thoát Hoan là có ý làm giảm bớt tai họa cho nước vậy". 

      Vì nước chấp nhận gian nan


      Ngày ấy, vào đầu tháng 2 năm Ất Dậu (1285), sau nhiều lần vua Nguyên Hốt Tất Liệt sai sứ sang buộc vua Trần phải sang chầu, nếu vì lý do chính đáng nào đó không sang chầu được thì phải đưa vàng bạc châu báu sang thay và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người. Yêu sách của vua Nguyên không được vua Trần đáp ứng, vì thế vua Nguyên phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, sai Thái tử Thoát Hoan đem đại binh đánh tới Gia Lâm, vây hãm kinh thành Thăng Long, khiến Thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông phải di tản chiến lược bằng thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng giặc, nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra.

      Ngày 9/3/1285, thủy quân giặc Nguyên bao vây Tam Trĩ, suýt bắt được 2 vua Trần, trong khi tướng Trần Bình Trọng lại lâm trận, dũng cảm hy sinh ở bờ sông Thiên Mạc. Trước thế giặc mạnh và tấn công như vũ bão, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần Nhượng và Hoàng thân Trần ích Tắc... mang gia quyến chạy sang trại giặc. Bấy giờ tướng Trần Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của giặc nhưng không có kết quả. Trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu phản công, kế sách đối phó hữu hiệu nhất là "Mỹ nhân kế".

      Bởi vậy, vua Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến sắc đẹp tài hoa tuyệt vời của người con gái út yêu quý của mình là công chúa An Tư. Vì nước, vì hiếu nghĩa, công chúa An Tư vâng lệnh vua cha và vua anh dũng cảm đi vào trận chiến chỉ có một mình, không một thanh gươm, không một tấc sắt. Hiểu rõ nạn nước, cảnh mình, nàng đành chấp nhận gian nan tủi nhục, kể cả cái chết.

       Ảnh minh họa. 

      Khoảng trống lịch sử

      Công chúa An Tư sang trại giặc không phải với tư cách đi lấy chồng mà là vật cống nạp, cũng còn là một người nội gián. Ở trại giặc, làm vợ Thoát Hoan, An Tư đã sống ra sao, làm được những gì, cả bí mật bao trùm khó ai hiểu biết. Nhưng có điều chắc chắn là kể từ tháng tư năm 1285, sau khi An Tư chung sống bên cạnh tướng giặc Thoát Hoan, có lẽ vì những bí mật quân sự của giặc đã được tiết lộ qua An Tư và cũng vì đắm say nhan sắc của An Tư, tạo cơ hội cho quân nhà Trần bắt đầu phản công hầu khắp các mặt trận khiến cho quân giặc Nguyên đại bại, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn qua bên kia biên giới. Không rõ trong các cuộc hỗn chiến ấy, việc sống chết của công chúa An Tư thế nào?

      Sau chiến thắng, các vua Trần làm lễ tế cáo tại lăng miếu, khen thưởng các công thần, truy phong các tướng lĩnh, nhưng không hề nhắc đến công chúa An Tư. Như vậy công chúa còn sống hay đã chết trong đám loạn quân? Hay nàng đã được mang về phương Bắc?

      Tại sách An Nam chí lược của Lê Tắc (Trắc) một thuộc hạ của Trần Ích Tắc và Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong có chép rằng: "Trước Thái tử (Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con...". Phải chăng người con gái họ Trần này là An Tư? Chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định định điều ấy, nhưng dù triều Trần và sử sách có quên sự cống hiến của nàng cho đất nước và dân tộc thời chống ngoại xâm thì các thế hệ muôn đời sau vẫn mãi mãi dành cho nàng chỗ đứng kính trọng và thương cảm trong lòng dân tộc. Khoảng trống lịch sử đó sẽ được lấp đầy bằng tình cảm tôn kính của các thế hệ mai sau.

      Bí mật động trời về nàng công chúa “hiếu dâm” bậc nhất nhà Lý

       

      (Kiến Thức) - Dù đã có chồng nhưng quen thói trăng hoa, công chúa Thiên Cực - người đàn bà "hiếu dâm" bậc nhất Lý triều đã khiến hai kẻ nhân tình, nhân ngãi là Phạm Du và Tô Trung Từ vì ham sắc mà hồn lìa khỏi xác.

      Trong sử nước Nam có hai công chúa Thiên Cực được biết đến. Trước hết là Công chúa Thiên Cực Lý thị sẽ được đề cập trong bài viết này. Bên cạnh đó, Kiến Gia Hoàng hậu Trần Thị Dung là vợ của vua Lý Huệ Tông, sang thời Trần nhằm tháng 8 năm Bính Tuất (1226) bị con rể là vua Trần Thái Tông “Truất ngôi Thái hậu nhà Lý là Trần thị xuống làm Thiên Cực công chúa, rồi đem gả cho Trần Thủ Độ” (Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Hậu thế biết nhiều đến Thiên Cực công chúa là Trần Thị Dung, nhưng ít ai biết đến Thiên Cực công chúa Lý thị của nhà Lý. Có chăng là qua những điều không tốt đẹp về bà được sử sách ghi lại.  

      Say men mật ngọt, lỡ chuyến đò ngang

      Phạm Du (? - 1209) vốn là quan Thượng phẩm phụng ngự dưới triều vua Lý Cao Tông. Tháng 3 năm Đinh Mão (1207), hào trưởng đất Hồng Châu (thuộc Hải Dương, Hải Phòng nay) là Đoàn Thượng nhân nhà Lý suy yếu đã nổi dậy làm loạn. Vua cho tướng đi đánh dẹp, Đoàn Thượng liệu thế không chống được đem của cải đút lót cho Phạm Du, nhờ Du xin với vua Cao Tông tha cho, nhờ đó mà toàn mạng. Cũng từ đó, mối quan hệ của họ Phạm và họ Đoàn trở nên thân thiết.  

      Đến năm Kỷ Tỵ (1209), Phạm Du được giao cai quản đất Nghệ An, nhưng lại tụ họp bè đảng làm loạn cướp bóc nhân dân, bị vua Lý Cao Tông sai tướng Phạm Bỉnh Di đem quân đánh trị tội. Phạm Du phải chạy trốn, bị tịch biên gia sản nên thù Di lắm, liền đem của đút cho quan trong triều làm trung thần Phạm Bỉnh Di bị vua Cao Tông hiểu lầm mà giết chết, dẫn đến loạn Quách Bốc nổi dậy trả thù cho chủ, còn vua phải chạy loạn khỏi Thăng Long. Nhà vua sai Phạm Du đến Hồng Châu để liên lạc với bọn hào trưởng Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi huấn luyện quân sĩ hòng dẹp quân Quách Bốc, lấy lại Thăng Long. 

       Đình làng Thân. 

      Tuân lệnh vua, Phạm Du lên đường đến đất Hồng Châu. Lại nói, nhà Lý thời ấy thường dùng chính sách “nhu viễn” nhằm ràng buộc và thắt chặt mối liên kết giữa các tù trưởng với vương triều, giữa chính quyền trung ương với các châu mục, địa phương miền núi. Vua Lý thường gả các công chúa cho những tù trưởng miền núi. Việt sử lược thời Trần cho biết, trong Châu Lạng có động Giáp (tức là động của họ Giáp rất to), chúa động là Giáp Thừa Quý lấy con gái vua Lý sau đổi ra họ Thân. Con trai của Giáp Thừa Quý là Thân Thiệu Thái lấy công chúa Bình Dương.

      Năm Bính Ngọ (1066), con trai của công chúa Bình Dương là Thân Đạo Nguyên cưới công chúa Thiên Thành. Năm Đinh Hợi (1167), công chúa Thiên Cực về với quan Lạng Châu là Nội hầu Vương Thượng. Lạng Châu lúc ấy chính là Lạng Sơn bây giờ, bao gồm cả một phần Bắc Giang, lại cũng có tên gọi là Lạng Giang. Công chúa Thiên Cực lấy chồng từ thuở mới tuổi trăng náu, đến năm Kỷ Tỵ (1209) chắc cũng khoảng 45 – 50 cái xuân xanh. Chẳng biết là bậc “kim chi, ngọc diệp” (lá ngọc cành vàng) phải lấy tù trưởng miền núi xa xôi nên không thỏa ý hay chăng mà nàng công chúa đất Kinh kỳ đến tuổi lên bà rồi, vẫn chẳng chịu thôi cái thói phong sương. Thế nên mới có chuyện…

      Khi Phạm Du đi đến đất Hồng Châu, phải qua Lạng Châu của nhà Thiên Cực. Vốn là mệnh quan triều đình, lại là võ tướng được vua Cao Tông tin tưởng trên đường đi làm nghĩa vụ quốc gia, nên việc đón tiếp người đất Kinh kỳ được Thiên Cực lấy làm vui lắm. Phạm Du thân là võ tướng, nhưng bụng dạ cũng chẳng tốt đẹp gì, tham nhũng, hối lộ đều đã kinh qua. Nay gặp được Thiên Cực công chúa đang ở cái tuổi hồi xuân, hai bên tâm sự lấy làm tương đắc lắm, lại được dịp Vương Thượng vắng nhà nên kéo nhau vào hậu phủ tư thông. Phạm Du là tên võ biền thô lỗ, được tình tự, “mây mưa” cùng công chúa nhà Lý thì lấy làm đắc ý, quên luôn cả nhiệm vụ vua giao.  

      Hương lửa của đôi gian phu, dâm phụ cũng đến lúc phải dứt. Phạm Du khi ấy mới gấp gáp lên đường đến Hồng Châu. Nhưng giờ hẹn gặp ở bến sông Cái với Đoàn Thượng qua từ lâu lắm rồi. Tưởng Phạm Du không đến, Đoàn Thượng đã cho quân duổi thuyền đi. Phạm Du bèn lên chiếc thuyền khác theo đường sông mà đuổi theo, đi đến Cổ Châu mới dừng lại rồi theo đường bộ đến xã A Cảo thuộc vùng Ma Lãng thì bị người ở Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải bắt lại đưa cho Thái tử Sảm. Thái tử Sảm lúc này đã dựa vào nhà Trần lập triều đình riêng, vốn không ưa gì Phạm Du bèn sai người giết đi. Vậy là, vì vài phút hoan lạc bên người đẹp, hồn Phạm Du đã lìa khỏi xác phàm. 

      Quyền nghiêng thiên hạ, bị vạ trên giường

      Bất ý gieo vạ cho Phạm Du, Thiên Cực công chúa cũng không vì vậy mà tắt lửa lòng. Bao nhiêu khát khao của nhu cầu đàn bà vẫn âm ỉ trong người, chỉ chờ cơ hội là bùng phát. Và dịp ấy lại đến hai năm sau. 

      Nhằm năm Tân Mùi (1211), Điện tiền Chỉ huy sứ Tô Trung Từ là cậu của Trần Tự Khánh và Nguyên phi Trần Thị Dung đã được vua Lý Huệ Tông phong cho làm Thái uý từ tháng 3 cùng năm. Quyền hành của quan Thái uý khuynh loát cả triều Lý đang trên con đường suy vi. Tô Trung Từ lúc ấy đã có con lớn rồi, nhưng chẳng rõ quyền cao chức trọng nên sinh lòng tà dâm hay bị Thiên Cực công chúa liếc mắt đưa tình mê hoặc, mà ba tháng sau ngày lên chức phải thân nhục, danh ô. 

      Bấy giờ, công chúa Thiên Cực không rõ vì lý do gì mà hai vợ chồng đang có mặt tại đất Gia Lâm. Thiên Cực thường xuyên vào trong hoàng thành để vấn an vua và thái hậu. Trong khi ấy, Tô Trung Từ là mệnh quan triều đình, hai người liên tục giáp mặt nhau. Kẻ có quyền, người có sắc, mối duyên tình của hai người nảy nở dần dần theo thời gian.

      Đình Phi Mô. 

      Tháng 6 năm Tân Mùi (1211), Tô Trung Từ ban đêm sang Gia Lâm để cùng với công chúa Thiên Cực làm trò “mèo mả, gà đồng”. Nhưng số của họ Tô đến đây đen đủi, cặp tình nhân đang mê đắm trên giường thì bị chồng của Công chúa Thiên Cực là Quan nội hầu Vương Thượng bắt được. Tức giận vì bị vợ cắm chiếc sừng to lên đầu, chẳng màng tới chuyện tên gian phu quyền thế oai phong tới nỗi “thét ra lửa” đến vua cũng sợ, Vương Thượng mặt đỏ phừng phừng rút gươm lao đến nhằm quan họ Tô mà đâm, Tô Trung Từ chưa kịp hưởng hết một trong cái “Tứ khoái” (ăn, ngủ, tình dục và đại tiểu tiện) của cuộc đời đã nhận trọn lưỡi gươm bén, chết tại trận. Luật pháp nhà Lý khi đó quy định, nếu nam nữ tư thông mà bị bắt quả tang, người chồng có thể kết liễu mạng sống của tình địch mà không bị tội. 

      Sử sách không cho biết số phận về sau của Vương Thượng, cũng như sau vụ ngoại tình tày trời ấy, Thiên Cực có bị trách phạt gì không. Nhưng về sau, nàng công chúa làm cho hai tình nhân phải xuống âm ty ác giả thì ác báo, lăng loàn thì cũng có hậu họa lớn nên tháng Giêng năm Nhâm Thân (1212), tất cả gia tài, của cải trong nhà Thiên Cực đều bị cướp sạch khi bọn Đinh Khôi đánh Lạng Châu, hàng phục được nơi ấy, xua quân đến nhà công chúa “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” rồi kéo nhau đi mất. 

      Ngày nay, dấu tích của nàng công chúa “hiếu dâm” họ Lý vẫn còn được ghi nhận khi ở đình làng Thân, thị trấn Đồi Ngô, huyện Lục Nam và đình Phi Mô, thuộc xã Phi Mô, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang là hai nơi có thờ bà cùng các công chúa nhà Lý được gả chồng ở xứ này.
      3 công chúa "hồng nhan bạc mệnh" của triều Nguyễn
      Thứ ba, 11/12/2012 14:50  
       
      Ba người chị em ruột này nổi tiếng về tài năng thơ phú, nhưng đều phải chịu những cảnh ngộ trớ trêu trong đời tư giữa chốn cung đình của mình.
      Cả ba đều là con gái của vua Minh Mạng với bà Thục Tần Nguyễn Thị Bửu. Họ lần lượt có tên tự là Trọng Khanh,Thúc Khanh và Quý Khanh, nên được mệnh danh là Tam Khanh của nhà Nguyễn.

      Công chúa Nguyệt Đình

      Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (1824-1892) tự Trọng Khanh, hiệu Nguyệt Đình, là con gái thứ 18 của vua Minh Mạng, chị cả trong Tam Khanh của nhà Nguyễn.

      Thuở bé bà ở trong cung, đến năm 1849 thì cùng mẹ và hai người em gái ra ở Tiêu Viên trong phủ của anh trai là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm – con trai thứ 10 của vua Minh Mạng, đồng thời cũng là một nhà thơ nổi tiếng đương thời.

      Vốn thông minh, ham đọc sách, lại được Tùng Thiện Vương dẫn dắt nên Nguyệt Đình sớm bộc lộ khả năng thi phú của mình.

      Năm 1850, bà kết hôn với Phạm Đăng Thuật, là con trai của Phạm Đăng Hưng, em của Phạm Thị Hằng, mẹ vua Tự Đức sau này. Hai vợ chồng cùng có tài nghệ thuật nên sống với nhau rất tâm đầu ý hợp. Tuy vậy, hai vợ chồng chỉ sinh được một con gái tên Uyển La, lại mất sớm vì bệnh tật.

      Năm 1858, thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, mở màn cuộc xâm lược Việt Nam. Bi kịch tiếp tục xảy ra với Nguyệt Đình vào năm 1861, khi chồng bà vâng mệnh triều đình vào Nam Kỳ và chết vì việc nước.

      Từ đó Nguyệt Đình thủ tiết, nuôi một đứa cháu là Phạm Đăng Tiến làm thừa tự, nhưng rồi thấy Tiến vô hạnh nên bà từ bỏ, dựng từ đường riêng ở trước mộ chồng. Bà mất năm 1892, dưới triều vua Thành Thái, được táng chung một chỗ với chồng.

      Công chúa Nguyệt Đình có để lại bản thảo thơ gọi là Nguyệt Đình thi thảo, nhưng chưa được in ấn và hiện nay đã thất lạc hoàn toàn.

      Công chúa Mai Am

      Nguyễn Phúc Trinh Thận (1826 – 1904), tự Thúc Khanh, Nữ Chi, hiệu Diệu Liên, bút danh Mai Am là con gái thứ 25 của vua Minh Mạng.

      Cùng với hai người chị em khác trong Tam Khanh, Lúc nhỏ bà sống trong Tử Cấm Thành, sau dời về Tiêu Viên của Tùng Thiện Vương, được tiếp xúc với thơ phú từ khi còn nhỏ.

      Trong Tam Khanh, Mai Am được coi là người tài năng và nổi tiếng nhất. Bà là người sáng lập ra Thỉnh Nguyệt Đình, nơi bà chủ trì các đêm thơ có sự tham gia của nhiều danh sĩ đất kinh kỳ.

      Năm 1850, bà kết hôn với hiệu úy Thân Trọng Di - cháu nội quan đại thần Thân Văn Quyền. Cuộc sống của bà với chồng tuy nhìn bề ngoài có vẻ yên ấm, nhưng bên trong thì không được hòa hợp.
       
      Năm 1863, bà mới sinh con trai đầu lòng đặt tên Thân Trọng Mậu. Tuy nhiên, Mậu bị bệnh qua đời khi chưa đầy 5 tuổi. Vì đau đớn, bà đã làm 15 bài thơ khóc con. Sau này Mai Am không sinh thêm người con nào nữa.

      Năm 1885, chồng bà theo vua Hàm Nghi ra Quảng Trị chống Pháp và mất tích giữa rừng trong một cuộc tấn công của kẻ thù, mãi mãi không tìm thấy xác. Mai Am lại viết 15 bài thơ khóc chồng, được khắc trên ngôi mộ giả của ông. Đến năm 1904 bà qua đời ở tuổi 79.

      Hầu hết những sáng tác của Mai Am tập trung trong tập thơ chữ Hán mang tên Diệu Liên thi tập hay Lại Đức công chúa Diệu Liên tập, gồm 370 bài, còn được lưu giữ đến nay. Các tác phẩm của bà đã nhận được sự ca tụng của nhiều danh sĩ đương thời cũng như sau này.

      Công chúa Tĩnh Hòa

      Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa (1830 - 1882), tự Quý Khanh, Dưỡng Chi, hiệu Huệ Phố, biệt hiệu Thường Sơn, là con gái thứ 34 của vua Minh Mạng và là cô út trong Tam Khanh.

      Cũng như hai người chị, Huệ Phố được lớn lên trong sự đào tạo bài bản về nghệ thuật. Vốn là người thông minh, bà sớm thông thạo kinh sử, thơ phú và âm nhạc.

      Năm 1853, Tĩnh Hòa kết hôn với phò mã Đặng Huy Cát. Vì cùng yêu thích thơ ca nên hai người sống rất tâm đầu ý hợp. Nhưng đường con cái của Tĩnh Hòa cũng không được trọn vẹn. Bà sinh được 4 người con thì 3 người chết sớm. Người con còn lại là Đặng Hữu Phổ thi đỗ Cử nhân và làm đến chức Thị độc Nội các.

      Khi Tôn Thất Huyết dấy binh chống Pháp, hai cha con Đặng Huy Cát - Đặng Hữu Phổ đã đi theo quân khởi nghĩa. Trong một cuộc tấn công quân Pháp ở Quảng Điền (Huế) năm 1885, cả hai đã bị bắt. Đặng Hữu Phổ bị kết án tử hình cùng năm, còn Đặng Huy Cát bị tù đày.

      Dù vậy, bà đã không phải chứng kiến những biến cố đau đớn này vì đã qua đời trước đó ba năm (1882).

      Công chúa Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa mất để lại cho hậu thế một tác phẩm duy nhất là Huệ Phố thi tập. Sáng tác này gồm bốn quyển với 216 bài thơ chữ Hán do bà viết từ năm 1845 cho đến những ngày cuối đời.


      Kiến thức

      Ai là nàng công chúa “vượng phu ích tử” nhà Trần?

       

      (Kiến Thức) - Phụng Dương công chúa được đánh giá là "vượng phu ích tử", là phụ nữ quý tộc tiêu biểu của nhà Trần. Vì sao vậy?

      Cùng với Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, Phụng Dương công chúa là một phụ nữ quý tộc tiêu biểu của nhà Trần, được chồng là Thượng tướng Trần Quang Khải đánh giá là "vượng phu ích tử".

      Thái ấp Độc Lập

      Thôn Độc Lập, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định) vốn là thái ấp của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Trong thời gian ông bận việc triều chính, thì việc cai quản thái ấp đều do phu nhân Phụng Dương coi sóc. Từ khi được lập làm thái ấp tại đây Trần Quang Khải đã cho xây dựng các công trình lớn có tường cao, hào sâu bảo vệ.

      Trong cuộc chiến tranh chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, phủ Thiên Trường là một trong những căn cứ chiến lược của nhà Trần, trong đó thái ấp Độc Lập có tầm quan trọng đặc biệt. Vì về đường thủy, từ thái ấp Độc Lập đi theo sông Vị Hoàng, sông Đáy, sông Vân là đến được Trường Yên, theo sông Châu, sông Hồng thì lên được Thăng Long, theo sông Vĩnh về được Thiên Trường... Tại đây nhà Trần còn lập các trạm gác đường thủy tại bến Than, bến Miễu, bến Viện... và các trạm gác đường bộ. Ngoài việc tích trữ lương thực, chiêu tập dân binh, rèn vũ khí, Trần Quang Khải còn thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông" (những người lính khi thái bình trở thành nông dân tham gia sản xuất).

      Công chúa Phụng Dương là người có công trong việc xây dựng thái ấp Độc Lập. Bà quán xuyến mọi việc từ trồng lúa, chăn nuôi, dệt vải, may quần áo cho binh lính đến những việc quản lý thái ấp.

      Vào những năm từ 1290 - 1294, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải về an dưỡng ở trang riêng tại phủ Thiên Trường. Bà về theo rồi năm Tân Mão (1291), bà bệnh nặng. Điều lạ là lúc ấy bà không hề hỏi han gì đến con cháu mà chỉ một lòng yêu thương lo nghĩ đến chồng. Đến thăm bà trên giường bệnh, Quang Khải viết thư đặt vào tay bà rồi bùi ngùi nói: "Kiếp sau xin được làm vợ chồng như xưa". Bà cảm động đến ứa nước mắt và mãn nguyện từ giã trần gian ngày 22/5, khi mới 47 tuổi.

      Thái sư Trần Quang Khải và công chúa Phụng Dương được thờ
      tại làng Cao Đài, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, Nam Định. 

      Được chồng lập bia

      Bà được an táng tại thôn Độc Lập, phủ Thiên Trường, nay là xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Con trai lớn trong gia đình là Trần Đạo Tái đứng làm chủ tang và xin Thái bảo Lê Củng Viên bài minh để khắc bia thờ. Quan Thái bảo Lê Củng Viên tự nhận mình dù không phải là người văn hay chữ tốt như Hàn Dũ đời xưa (Hàn Dũ là văn sĩ trứ danh của Trung Hoa, tự là Thôi Chi, người đời Đường, quê ở Nam Dương, tỉnh Hồ Bắc. Ông sinh năm 768 mất năm 823, đỗ tiến sĩ). Nhưng sau khi bàn luận, Tướng quân Trần Quang Khải quyết định để ông viết bài minh này. Cuối bài minh có những câu xiết bao cảm động: "Làm thiện tất được phúc chừ, là điều thường tình/Nói nhân tất được thọ chừ, trời đầu chẳng linh/Sống có nết na chừ, chết được lưu danh/Làm vợ của tướng chừ, đời đời khen mình/Nơi thôn Độc Lập chừ, núi cao mồ xanh".

      Sau đó, Đại vương Quang Khải đứng ra lập bia cho vợ. Trải qua nhiều năm tháng, chữ bị mờ nên năm Minh Mạng thứ 3 (1822), bia được khắc lại. Nhờ vậy, ngày nay bên cạnh sự nghiệp lẫy lừng của danh tướng Trần Quang Khải, chúng ta mới hiểu thêm đôi điều về đời riêng tư của ông.

      Nhân cách của bà được chính Thái sư phu quân đánh giá: "Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết lưu danh, vượng phu ích tử". Qua năm Giáp Ngọ (1294), Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, chồng bà cũng qua đời ở tuổi 53.
      Ngày nay Thái sư Trần Quang Khải và công chúa Phụng Dương được thờ ở nhiều nơi, nhưng thờ chính tại làng Cao Đài, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.

      Bí ẩn những mộ cổ “công chúa” gây chấn động VN

       

      (Kiến Thức) - Gần đây, việc phát hiện xác ướp, mộ của những hài cốt được cho là của các công chúa Việt Nam xưa cùng những câu chuyện ly kỳ liên quan được nhiều người quan tâm.

      Xác ướp nàng công chúa 20 tuổi ở Ninh Hiệp

      Tháng 9/2012, thông tin khai quật ngôi mộ xác ướp bí ẩn ở xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội khiến nhiều người xôn xao. Anh Nguyễn Văn Tuyến - Trưởng ban văn hóa xã Ninh Hiệp là người chứng kiến từ đầu cuộc khai quật cho biết, ngôi mộ được phát hiện dưới nền nhà anh Nguyễn Như Trung. Trong quá trình  khởi công xây nhà, anh Trung phát hiện rất nhiều mồ mả ở dưới. Trong đó có một ngôi mộ xây bằng bê tông nằm sâu dưới lòng đất 3m.

      Khi nhờ thợ khoan cắt bê tông mở được nắp quan tài, ai nấy đều hãi hùng, tái mặt khi thấy bên trong là một thiếu nữ đang nằm ngủ, mái tóc xõa dài, cơ thể được bó bằng 5 lớp vải trắng toát, buộc rất chặt, thắt nơ hoa. Những tấm vải lụa còn mới, chưa mục nát. Khoảng nửa tiếng sau, lớp da chuyển sang màu thâm, phần da ở cổ phù ủng...

       Cận cảnh xác ướp khai quật ở Ninh Hiệp.

      Nhìn người trong quan tài, ai cũng đoán khoảng 20 tuổi chứ không phải người già chết. Trong quan tài có một vài thứ như túi đựng trầu cau, chiếc quạt, đôi hài, bím tóc, một túi vải như túi giấy bùa. Quan tài khô ráo, dưới đáy là gạo rang, vỏ trấu và than củi. Từ ngôi mộ xộc ra mùi hắc, sau nhiều ngày chưa hết, người dân đoán đây là chất ướp xác. Gia đình anh Trung phải đi mua cỗ áo quan để đặt “xác ướp”.

      Bà Lộc, người tự nguyện trông nom ngôi mộ ở Ninh Hiệp đã gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở Hải Dương hỏi thông tin về ngôi mộ. Ông Liên khẳng định, người nằm trong ngôi mộ là công chúa Lê Thị Mai Hoa đời nhà Lê, hiệu diệu Thái Thành công chúa, mất ngày 16 tháng 3 năm Thìn. Bà Lộc cho biết, sau ông Liên, 7 nhà nghiên cứu và ngoại cảm khác cũng khẳng định người nằm dưới mộ là công chúa Lê Thị Mai Hoa.

      Cùng với sự xuất hiện của ngôi mộ cổ có xác ướp, nhiều câu chuyện ly kỳ được kể lại như: chuyện cây khế sai quả tỏa bóng mát, che cho ngôi nhà của công chúa, hoặc 12 tiểu sành chứa xương cốt người hầu của công chúa... Sau khi khai quật, người dân cũng đồn thổi, vợ anh Nguyễn Như Trung bị ốm đau bệnh tật suốt nhiều tháng trời, có người ăn trộm tấm ván mang đi bán rồi chết trẻ... Người dân ở đây đã xây mộ, thờ cúng dù chưa có sự công nhận chính thức nào.

      Trong khi đó, nhà sử học Đặng Hùng cho biết: “Tôi đã nghiên cứu các tài liệu, song không phát hiện bất cứ cô công chúa thời Hậu Lê nào có tên là Lê Thị Mai Hoa, hiệu diệu Thái Thành công chúa, chết năm 20 tuổi”. Chủ tịch xã Ninh Hiệp Nguyễn Bá Khánh cũng cho biết: “Người nằm trong mộ có phải công chúa Mai Hoa hay không, thì tôi không dám chắc, vì chưa có cơ sở khoa học”.

      Phát hiện mộ cổ công chúa Lý Kiều Oanh?

      Vừa qua, khi gia đình anh Phạm Văn Nam, ở tiểu khu 6, phường Hải Thành, TP Đồng Hới, Quảng Bình trong lúc đào móng xây dựng nhà đã phát hiện một ngôi mộ cổ. Ngôi mộ được xây bằng gạch, tường rào hình chữ nhật và có tấm bia đá khắc 5 chữ Hán cổ, được dịch là “Lý Kiều Oanh công chúa” và một số mảnh gốm thuộc thời Minh (thế kỷ XIV – XV). Theo nhận định của các chuyên gia về sử học thì rất có thể đây là mộ của công chúa Lý Kiều Oanh.

      Các chuyên gia và nhà nghiên cứu sử học cho rằng, chủ nhân ngôi mộ trên có liên quan đến nhân vật lịch sử Hồ Cưỡng - vị tướng vào cuối đời Trần, người được coi là vị Tổ đã có công sơ khai lập ấp ở vùng Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Ông cũng là vị tướng đã chống giặc nơi đây, tiêu biểu như trận đánh ở cửa sông Nhật Lệ, ở hồ Bàu Tró...

       Ngôi mộ cổ được cho là mộ của "Lý Kiều Oanh Công chúa" được phát
      hiện dưới móng nhà anh Phạm Văn Nam. 

      Tuy nhiên, theo tiến sĩ Hán Nôm học Mai Hồng - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng Phật học Việt Nam thì “công chúa” là một hàm tước thời ấy được vua ban chứ không hẳn là con của vua. Còn ông Trần Anh Tuấn - Giám đốc Bảo tàng Quảng Bình lại phân tích, đây có lẽ là một sự nhầm lẫn nào đó chứ ngôi mộ của “công chúa” không thể táng một cách đơn giản như vậy được. Ông Tuấn đã theo dõi rất kỹ việc khai quật này và khẳng định đây là một ngôi mộ rất bình thường, phía trên lát gạch và các bên là vôi vữa.

      “Mộ” công chúa Ngọc Hân ở Hà Nội

      Từ lâu, trong dân gian vẫn lưu truyền sự tích đền Ghềnh gắn với số phận bi thương của công chúa Ngọc Hân. 16 tuổi, công chúa Lê Ngọc Hân, con gái của vua Lê Hiển Tông và Từ cung Nguyễn Thị Huyền kết duyên với Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải ngay tại kinh thành Thăng Long năm Bính Ngọ (ngày 11/7/1786). 

      Ngọc Hân lên ngôi Bắc cung Hoàng hậu ở Phú Xuân (1789) nhưng chỉ hai năm sau, vua Quang Trung đột ngột ra đi, để lại cho Ngọc Hân bao nỗi xót xa đau đớn, cơ hàn vì sự trả thù của Nguyễn Ánh. Bà ở góa tám năm nuôi hai con nhỏ là Nguyễn Văn Ðức, Nguyễn Thị Ngọc và mất ngày 8 tháng 11 năm Kỷ Tỵ (4/12/1799) ở tuổi 29.

      Năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền đã lặn lội vào tận Phú Xuân, tìm cách đưa hài cốt Ngọc Hân về an táng ở quê bà - làng Nành, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) ngày 16/7/1804 tại bãi Cây Ðại đầu làng rồi lập miếu thờ.

       Cổng đền Ghềnh.

      Ðến đời Thiệu Trị, vua coi việc lập miếu thờ vợ Quang Trung là một trọng tội nên đã lệnh cho quan quân địa phương khai quật mộ mẹ con Ngọc Hân đổ hài cốt xuống sông. Vì sông Nguyệt Ðức gần làng, họ phải đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân đổ xuống sông Hồng, cách xa làng Nành. Ðó là quãng sông thuộc địa phận làng Ái Mộ.

      Thương xót Bắc cung Hoàng hậu tài hoa bạc mệnh, nhân dân Ái Mộ lập miếu thờ bà chính nơi bờ sông vớt được hài cốt. Dòng sông bên lở, bên bồi; ít lâu sau, ngôi miếu nhỏ cũng bị lũ cuốn trôi. Cho đến năm 1858, cụ Ðặng Thị Bản vốn là người nhân từ đã hằng tâm công đức để tôn tạo đền chùa ở Ái Mộ, Lâm Du, Phú. Cụ quyên tiền khách thập phương và đứng ra xây lại ngôi đền. Ðể bảo vệ đền, không cho quan quân nhà Nguyễn đập phá, nhân dân dùng hình thức "thờ các chư vị", nhưng thực ra là thờ Ngọc Hân.

      Năm 1872, đền lại bị giặc Pháp đốt sạch trong cơn binh lửa đánh Thành Hà Nội. Thêm một lần nữa, cụ Ðặng Thị Bản lại đi quyên góp xây lại đền khang trang hơn trước. Đó là ngôi đền Ghềnh, thuộc thôn Ái Mộ, phường Bồ Ðề, quận Long Biên, bên cầu Chương Dương. Như vậy, trải qua bao thăng trầm, đền Ghềnh vẫn được con cháu cụ Ðặng Thị Bản trông nom và dân làng gìn giữ đến ngày nay.

      Lễ cưới chấn động Thăng Long của công chúa câm

       

      Trong lịch sử, hiếm có một lễ cưới của công chúa nào lại có ảnh hưởng lớn đến xã hội đương thời như lễ cưới của Công chúa Ngọc Đường

        Lễ xuất cung hạ giá khác thường

        Chuyện hạ giá của Vệ Quốc Trưởng Công chúa tháng 11 năm Mậu Thìn (1448) là trường hợp hiếm gặp, công chúa là con gái của vua Lê Thái Tông và là chị của vua Lê Nhân Tông. Công chúa sinh năm Kỷ Mùi (1439), sử sách không cho biết rõ tên nhưng theo dã sử thì nàng tên là Lê Thị Ngọc Đường.

        Theo lệ, khi công chúa được 16 tuổi, tức là đến tuổi “hạ giá”, vua ra lệnh cho Bộ Lại và Bộ Binh lập danh sách con trai các công thần văn võ từ chánh nhị phẩm trở lên, với tờ trình chi tiết, để dâng lên vua với đầy đủ tên họ, quê quán, tuổi tác (tối thiểu phải 16 tuổi), tài năng.

        Những người trong danh sách đó phải khỏe mạnh, chưa vợ, không tàn tật, mặt mày sáng sủa, đẹp trai hoặc ít ra cũng dễ coi, thông minh, có học, hữu tài hữu đức. Sau khi xem xét, vua cử một hoàng thân hoặc một đại thần làm Chủ hôn, tức người thay mặt vua chủ trì hôn lễ và một viên đại thần làm Chiếu liệu đứng ra lo liệu việc tổ chức lễ cưới.

        Đây là những người đức cao vọng trọng, không đang trong thời kỳ tang chế, vợ chồng song toàn, con cái đông đúc, gia đình hòa thuận. Hai vị giữ vai trò Chủ hôn và Chiếu liệu sau đó sẽ lựa ra năm người trong danh sách được coi là có nhiều ưu điểm nhất, so đôi tuổi, tuổi nào hợp rồi tâu lên.

         Công chúa Lê Thị Ngọc Đường về nhà chồng khi vừa tròn 10 tuổi. (Ảnh minh họa).

        Vua duyệt lần cuối, chấp thuận người nào làm phò mã sẽ lấy bút khoanh một chấm son (châu điểm) lên tên người đó. Tiếp đến các quan ở Khâm Thiên Giám được lệnh chọn ngày lành tháng tốt để công chúa hạ giá và nhà trai đi sáu lễ.

        Sứ giả sẽ đến nhà trai thông báo về biết quyết định của vua và giao cho tiền bạc mà vua ban để chuẩn bị quần áo, mũ hia, lễ vật, lập phủ đệ … và chàng trai may mắn được chọn trở thành Phò mã Đô úy, hàm tòng tam phẩm.

        Mặc dầu lệ định rằng khi công chúa được 16 tuổi là phải tiến hành việc kén phò mã, nhưng không phải bao giờ cái mốc 16 cũng được tôn trọng, chính vì vậy khác với lệ thường, Vệ Quốc Trưởng Công chúa Lê Thị Ngọc Đường xuất cung, hạ giá lấy chồng khi tuổi còn nhỏ, bấy giờ mới lên 10.

        Tuy là con nhà đế vương quyền quý, lá ngọc cành vàng nhưng công chúa lại bị khiếm khuyết, từ khi sinh ra đã mắc bệnh câm, không nói được.

        Tuy bị bệnh câm, nhưng Vệ Quốc Trưởng Công chúa dù chưa đến tuổi lấy chồng nhưng em trai của nàng là vua Lê Nhân Tông xuống chiếu đem gả cho Lê Quát, con trai của đại thần Lê Thụ vào năm Mậu Thìn (1448); sách Đại Việt sử kí toàn thư cho biết như sau:

        “Tháng 11, đem chị cả của vua là Vệ Quốc Trưởng Công chúa gả xuống cho Lê Quát là con trai của quan Thái úy Lê Thụ. Bấy giờ, Công chúa mới lên mười, mắc chứng câm không nói được. Vua xuống chiếu giao cho quan Tư khấu là Trịnh [Lê] Khắc Phục làm chủ hôn”.

        Trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng có đoạn chép tương tự: “Tháng 11, mùa đông. Gả Vệ quốc trưởng công chúa cho Lê Quát. Quát là con Thái úy Lê Thụ. Công chúa mới lên mười. Nhà vua hạ chiếu cho Tư khấu Lê Khắc Phục đứng chủ trương về việc hôn nhân”.

        Một công thần khai quốc của triều Hậu Lê là Nguyễn Trãi cũng được lệnh thay mặt vua soạn một bài chế về sự kiện này.

        Chế là một loại văn bản của vua ban hành có nội dung phong thưởng tước vị, vật phẩm cho những đại thần có công hoặc để khen ngợi, ban thưởng cho một người nhất định. Bài chế mà Nguyễn Trãi soạn có tiêu đề là “Hạ giá Vệ quốc trưởng công chúa”.

        Nếu như chuyện công chúa câm Lê Thị Ngọc Đường 10 tuổi đã hạ giá lấy chồng là điều khác lạ so với điển lễ thì hôn lễ của nàng cũng là một sự kiện khiến không chỉ kinh đô Thăng Long chấn động mà cả các địa phương trong nước cũng xôn xao không kém.

        Một lễ cưới khiến cả nước rối bời

        Trong lịch sử, hiếm có một lễ cưới của công chúa nào, tuy không được mô tả chi tiết nhưng những gì xung quanh nó lại có ảnh hưởng lớn đến xã hội đương thời như lễ cưới của Vệ Quốc Trưởng Công chúa Ngọc Đường.

        Tuy nhiên, trước tiên cũng cần biết đôi nét về gia thế của người vinh dự trở thành Phò mã Hoàng triều, đó là Lê Quát.

        Sử sách không có dòng nào cho hay về tài năng, phẩm cách của Lê Quát, chỉ biết rằng vị Phò mã này quê ở đất Lam Sơn, huyện Cổ Lôi, xứ Thanh Hoa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), xuất thân trong một gia đình có thế lực lớn, cha là Lê Thụ, một bậc khai quốc công thần triều Hậu Lê.

        Lê Thụ từ người được xếp thứ 13 trong danh sách “Lam Sơn tam thập hổ tướng” (30 vị tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn) dần dần trở thành bậc thái tể, giữ chức Bình Chương quân quốc trọng sự, là chức Tể tướng nhà Lê.

        Tuy nhiên ông cũng có những hạn chế, lỗi lầm; sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có chép rằng: “Lê Thụ, ngay trong khi đang có quốc tang (tang vua Thái Tổ Lê Lợi - TG) đã lấy vợ lẽ và bắt binh lính về làm việc riêng cho mình như xây nhà và sai vặt.

        Thụ cất nhà đồ sộ, lại còn giao lưu với người nước ngoài để buôn bán. Bấy giờ, quan giữ việc can ngăn là Phan Thiên Tước đàn hặc các lỗi nói trên của Lê Thụ”.

        Vua Lê Thái Tông liền sai người đi điều tra để xác minh hư thực rồi giao Lê Thụ cho Pháp ti xét hỏi nhưng nhiều đại thần trong triều đã bào chữa, xin giúp nên vua đã tha tội cho Lê Thụ, chỉ bắt ông phải bỏ người vợ lẽ và phải truy nộp 15 lạng vàng, 100 lạng bạc và số tiền do buôn bán riêng mà có.

        Khi Lê Thái Tông băng hà vào tháng 12 năm Nhâm Tuất (1442), hoàng tử Lê Bang Cơ mới hơn 1 tuổi được đưa lên kế vị (tức Lê Nhân Tông).

        Có lẽ khi đó trước thế lực quá lớn của Lê Thụ, trong khi vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh phải buông rèm nhiếp chính đã thấy cần có sự ràng buộc mang tính thâm tình, gần gũi để có thêm chỗ dựa nhằm bảo đảm sự vững chắc cho ngai vàng của con mình nên đã nhân danh vua ban chuyện hôn nhân giữa Vệ Quốc Trưởng Công chúa với con trai của Lê Thụ để kết tình thâm giao.

        Theo qui định trong Hội điển về hôn lễ của công chúa, phải có 6 lễ đi cưới do Khâm Thiên giám chọn  tổ chức trong 6 ngày khác nhau, mỗi lễ lại có vật phẩm riêng biệt, như: vàng bạc, trầu cau, rượu, trâu, bò, lợn, dê, chim nhạn (hoặc ngỗng), nữ trang, hộp kim chỉ, các loại vải (gấm, lụa, lĩnh, sa)…

        Để làm đám cưới cho con trai mình với công chúa, coi đó là vinh dự lớn, một ân huệ đặc biệt nên Tể tướng Lê Thụ đã sai người đi mua sắm rất nhiều.

        Các quan lại ở Thăng Long thì đua nhau mua lễ vật đến mừng, khiến nhiều mặt hàng, nhất là gấm lụa hết sạch hàng, còn khắp các địa phương trong nước của hối lộ cũng đổ về kinh đô về nườm nượp.

        Sử sách cho hay: “Khi ấy, Lê Thụ lo sắm lễ cưới, những kẻ ưa cầu cạnh hay tin liền tranh nhau đem nạp của cải để mong được hưởng phú quý. Gấm thêu, lĩnh, là, vóc, lụa... đang bày bán ngoài phố đều bị chúng tranh mua hết cả.

        Lê Thụ còn bắt quan lại ở khắp các trấn, lộ phải sắm đủ trâu, bò và các thứ lễ vật khác. Các quan địa phương cũng muốn lấy lòng Lê Thụ nên bắt quân lính và nhân dân đóng góp rất nhiều.

        Đài quan lúc ấy là (Đồng) Hanh Phát (dâng sớ) tâu hặc. Lê Thụ cởi mũ để tạ tội, nhưng lệnh (của Lê Thụ) đã trót gửi đi khắp nơi rồi, nên các quan địa phương vẫn đưa lễ vật tới nhà Lê Thụ.

        Lê Thụ không từ chối mà (Đồng) Hanh Phát cũng không nói đến nữa. Sau đó, Hanh Phát cũng mang lễ vật đến nhà Lê Thụ lạy tạ. Kẻ thức giả đều lấy đó mà chê bai” (Đại Việt sử ký toàn thư).

        Một bộ sách khác là Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng viết như sau: “Lê Thụ lo liệu việc sắm sính lễ. Những kẻ bon chen xu phụ đua nhau đem lễ đến dâng. Lê Thụ lại nhờ các trấn, các lộ lo kiếm trâu dê để dùng vào việc cưới.

        Các trấn, các lộ nhân đó bắt dân đóng góp cung ứng để mua lòng Lê Thụ. Ngự sử Đồng Hanh Phát có đàn hặc về việc này. Lê Thụ bỏ mũ, tạ tội với nhà vua; nhưng những đồ người ta đưa biếu, Thụ vẫn đều nhận cả, không từ chối.

        Hanh Phát không đề cập đến việc đó nữa, rồi lại đem đồ lễ đến nhà Lê Thụ và nói xin lỗi. Những người thức giả đều chê cười Hanh Phát”.

        Về chuyện vì một lễ cưới mà khiến dân chúng cả nước rối động, sách Việt sử giai thoại có lời bàn rằng: “Con gái thứ dân mà mắc bệnh câm thì ôm phận cô đơn suốt đời là điều không sao tránh khỏi nhưng là công chúa, số phận của Vệ Quốc khác hẳn:

        Chẳng những làm dâu quan Thái úy mà còn làm dâu ngay khi mới lên 10! Thái úy Lê Thụ chắc chẳng mong con mình lấy vợ câm, con trai của Lê Thụ là Lê Quát chắc càng không mong hơn nữa. Nhưng, cơ may vơ vét của cải khắp thiên hạ bỗng dưng mà đến, kẻ tham lam như Lê Thụ chẳng thể bỏ qua.

        Kẻ xu nịnh cũng đang không mà có cơ may để hối lộ Lê Thụ, Đài quan là Đồng Hanh Phát hặc tội Lê Thụ, rồi sau đó cũng chính ông tự mình đem lẽ vật đến mà lạy tạ Lê Thụ, ông được yên thân nhất thời, song, việc làm ấy mới mỉa mai làm sao.

        Khi sống, gió chiều nào người ta có thể che chiều ấy, nhưng khi chết, bão táp của miệng thế muôn đời, con cháu họ biết lấy gì để che?”.

        Do bị mang tiếng trong việc tổ chức lễ cưới đó nên uy tín của Lê Thụ giảm sút, không lâu sau ông bị bắt giam vào ngục với tội “không biết dạy con”, để cho một người con gái làm việc phù chú bùa yểm, đến tháng 6 năm Bính Tý (1456) mới được tha tội, cho phục chức Thái úy.

        Dù có những sai phạm, lỗi lầm nhưng Lê Thụ vẫn là một người trung thành với triều đình, tháng 10 năm Kỷ Mão (1459), vua Lê Nhân Tông bị anh trai là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết chết để cướp ngôi.

        Bất bình trước việc làm đó, Lê Thụ cùng một số đại thần mưu lật đổ nghịch thần nhưng không thành, đều bị giết. Sách Đại Việt thông sử viết: “Lúc Nghi Dân cướp ngôi vua, các tể phụ đại thần là bọn Đỗ Bí, Lê Ê, Lê Ngang và Lê Thụ bàn mưu giết Nghi Dân, vì việc tiết lộ, nên tất cả đều bị hại”.

        Trong biến cố của gia đình nhà chồng, không rõ cuộc sống cũng như số phận của Vệ Quốc Trưởng Công chúa Lê Thị Ngọc Đường và Phò mã Lê Quát ra sao, chỉ có lễ cưới của họ là còn được sử sách lưu truyền mãi như một trong những sự kiện hi hữu chốn hoàng cung.

        Không có nhận xét nào:

        Đăng nhận xét