CÙNH TẮC BIẾN!
Dự đoán:
-Khoảng cuối thế kỷ này, thể chế chính trị như hiện nay ở Trung Quốc sẽ không còn, đánh dấu kết thúc kiểu thể chế: "Đảng (cộng sản) lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"!
-Sự biến ấy được phát động từ một người thuộc nội bộ ĐCS Trung Quốc, bắt nguồn từ sự chín muồi về nhận thức triết học.
-Việt Nam ăn theo!
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hai sự kiện đáng kể về Trung Quốc
Blog VOA
Bùi Tín
26-6-2016
Nguyên Tổng bí thư đảng CSTQ Giang Trạch Dân. Ảnh: EPA
Mấy ngày nay có hai sự kiện gây tiếng
vang lớn từ Trung Quốc. Một là tin từ Hồng Kông và từ báo mạng Đại Kỷ
Nguyên báo tin, đêm 10/6 ông Giang Trạch Dân, nguyên Tổng bí thư đảng
CSTQ đã bị bắt tại nhà riêng, hiện bị giam giữ tại một nhà giam đặc biệt
ở Thượng Hải. Trước đó, hai con trai của ông Giang là Giang Miên Hằng
và Giang Miên Khang, lãnh đạo các ngành thông tin, giao thông ở Thượng
Hải, cũng đã bị giam. Thượng Hải vốn là địa bàn ảnh hưởng lớn nhất của
phe phái Giang trong mấy chục năm nay.
Giang Trạch Dân là con hổ lớn nhất –
Vương Hổ – bị sa lưới trong chiến dịch ‘’Đả hổ diệt ruồi’’ do Tập Cận
Bình chủ trương từ hai năm nay. Hơn 60 vạn cán bộ, trong đó có hơn 20
vạn cán bộ cao cấp trong đảng CS và bộ máy Nhà nước Trung Cộng đã bị
truy tố và xét xử.
Lần đầu tiên một số Ủy viên Thường vụ Bộ
chính trị xưa nay được coi là bất khả xâm phạm bị truy tố và vào tù.
Chu Vĩnh Khang, trùm dầu mỏ và trùm an ninh đã bị vào tù. Bạc Hy Lai bị
tù chung thân. Tướng Từ Tài Hậu bị chết trong tù. Tướng Quách Bá Hùng
từng là phó bí thư Quân ủy TƯ bị tống giam.
Giang Trạch Dân là nhân vật cao cấp nhất
cùng cả phe nhóm Thượng Hải với hệ thống gia đình trị của ông ta sa
lưới là đòn quyết định của Tập Cận Bình theo phương châm nhổ cỏ tận gốc,
giữa lúc có tin Giang đang chuẩn bị một cú ‘đảo chính cung đình’’. Có
hai nhân vật quan trọng đang có nguy cơ bị quét tiếp là nguyên Chủ tịch
nước Tăng Khánh Hồng và Ủy viên thường vụ Bộ chính trị hiện tại chức Lưu
Vân Sơn phụ trách ngành Tuyên huấn và được coi là người của Giang.
Hiện nay dư luận TQ tập trung chờ đợi
việc gì sẽ xảy ra sau khi nhóm Giang bị sa lưới toàn bộ? Sẽ có phiên tòa
tối cao xét xử công khai vụ án cực lớn ‘’Âm mưu đảo chính trước Đại hội
18, nhằm ngăn chặn Tập Cận Bình lên thay Hồ Cẩm Đào để đưa Bạc Hy Lai
lên ‘’, trong đó Giang là kẻ chủ mưu, cùng Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai,
Tăng Khánh Hồng, Từ Tài Hậu , Quách Bá Hùng … là tòng phạm chính.
Vấn đề quan trọng nhất là từ vụ án này,
số phận của đảng CSTQ sẽ ra sao? Chính Tập Cận Bình đã than vãn là Quân
Giải phóng TQ đã bị hư hỏng từ trên cao nhất, đảng CSTQ đã bị suy yếu
cùng cực, mất hết uy tín trong xã hội, cần có một sự cải tổ tận gốc.
Trong đảng CSTQ đã có đòi hỏi ‘’xóa bài, làm lại từ đầu‘’, giải thể đảng
CS, lập nên một đảng mới . Cũng có ý kiến nên trở về với nền dân chủ,
theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn – Dân chủ, Dân quyền, Dân sinh.
Theo Đại Kỷ Nguyên, trong 15 năm qua
trong phong trào ‘’Thoát đảng CS‘’ đã có hơn 200 triệu người từ bỏ đảng
CS và các tổ chức ngoại vi của đảng, như Đoàn Thanh Niên, Đoàn Phụ nữ,
Tổng công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thiếu nhi, Hội trí thức, Hội Nhà báo,
Hội Luật gia, Hội nhà kinh doanh …
Có hai sự kiện gây nên sự sa sút nghiêm
trọng uy tín vốn đã nghèo nàn của đảng CSTQ. Một là cuộc tàn sát mấy
nghìn thanh niên sinh viên ở Thiên An Môn tháng sáu 1989, và cuộc đàn áp
đầy ải hàng chục triệu thành viên Pháp Luân Công trong cả nước từ năm
1999 đến nay, trong đó nổi lên tội ác diệt chủng là cướp phủ tạng của tù
nhân còn sống như tim, gan, mật, thận, mắt để bán với giá rất cao cho
kẻ giàu sang và quan chức lâm bệnh.
Trong khi dư luận TQ và quốc tế bàn tán
đến tương lai, số phận của đảng CSTQ thì một cuốn sách được phát hành ở
Hồng Kông, Đài Loan và lan tràn cực nhanh vào lục địa. Đó là cuốn sách
Từ biệt Bộ Tổng Tham Mưu Quân Giải phóng Trung Quốc’’ (tên tiếng Anh là
Farewell to the Chinese Liberation Army General Staff – The Memoirs of
Luo Yu). Cuốn sách ra đầu năm nay, đã tái bản 3 lần, bán chạy như tôm
tươi.
Luo Yu (La Vũ) con trai duy nhất của Đại
tướng La Thụy Khanh Tổng Tham mưu trưởng QGP Trung quốc, từng tham gia
Vạn lý Trường Chinh, Chiến tranh Triều Tiên, từng sang VN nghiên cứu
tình hình năm 1962 cùng Nguyên soái Diệp Kiếm Anh. La Thụy Khanh cùng
Đặng Tiểu Bình bị Mao và Lâm Bưu trừng trị trong cuộc Cách mạng Văn hóa
Vô sản. La khốn quẫn nhảy lầu từ lầu ba không chết nhưng gãy chân vào
năm 1968, được phục hồi danh dự năm 1975. La Vũ sinh năm 1944, gia nhập
quân đội sớm, cùng bố bị tù khi 24 tuổi, năm 1977 được trở lại quân đội,
năm 1987 là Trưởng phòng thiết bị hàng không của Bộ Tổng Tham mưu, với
cấp đại tá khi 43 tuổi. Nếu cứ theo đảng CS, La Vũ có thể sớm lên cấp
tướng và không kém gì tướng Lưu Á Châu,con rể Lý Tiên Niệm, và tướng Lưu
Nguyên, con Lưu Thiếu Kỳ.
Tháng 6/1989 khi cuộc thảm sát Thiên An
Môn xảy ra, La Vũ cực kỳ bất mãn, xin từ chức . Năm 1990 La Vũ lấy vợ ,
cô Leung Kwok Hing (Lương Quốc Hưng), một doanh nhân và cũng là một ca
sỹ nổi tiếng. Ngay sau đó anh bị khai trừ vì bỏ sinh hoạt đảng.
La Vũ có tư duy độc lập, cho rằng con
đường của Đặng Tiểu Bình là sai, phản dân chủ và là ‘’xây dựng chủ nghĩa
tư bản quan liêu thối nát rất nguy hiểm’’. Năm 1992 La Vũ cùng vợ lặng
lẽ sang Hoa Kỳ, sống tại Harrisburg, Pennsylvania, tập trung viết sách
báo và viết hồi Ký. Một nét rất đặc biệt là La Vũ và Tập Cận Bình vốn là
hai bạn chí thiết vì hai ông bố La Thụy Khanh và Tập Trọng Huân là hai
đồng chí công thần lập quốc đều bị Mao và Lâm Bưu trừng phạt. La Vũ cùng
Tập Cận Bình mới lớn lên đều qua cuộc sống bi đát về nông thôn sinh
sống tự lập, rất thông cảm với nhau.
La Vũ thường gửi thư cho Tập Cận Bình để
góp ý và khuyên răn. Một số lá thư được đưa ra công khai.Gần đây nhất
La khuyên Tập nên giả từ quá khứ một cách kiên quyết, quả đoán, giải thể
đảng CS lập nên thể chế Dân chủ đa đảng, từ đó có thể hòa bình thống
nhất Trung Quốc với Đài Loan, hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
Trong thư ngỏ cuối cùng nhà Dân chủ La
Vũ khẩn thiết khuyên Tập Cận Bình nên nghiên cứu chuyện Tưởng Kinh Quốc
con Tưởng Giới Thạch khi lên làm Thủ tướng Đài Loan đã chấm dứt chế độ
độc đảng của Quốc Dân đảng, dựng nên chế độ dân chủ đa đảng, mở ra thời
kỳ phát triển kinh tế thần kỳ, làm gương cho lục địa.
Trung Quốc đang ở ngã ba đường. Tập Cận
Bình có đủ sáng suốt và nghị lực để khi cờ đã đến tay dám làm nên chuyện
lớn, vì dân vì nước, chuyển hẳn mô hình cai trị và thể chế chính trị vì
tương lai hạnh phúc của hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc hay không? Chọn
con đường nào sẽ còn có ảnh hưởng cực lớn đến đất nước ta, đến toàn khu
vực và toàn thế giới.
Tân Cương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Bài này viết về Khu tự trị Tân Cương (Trung Quốc). Đối với bài về địa danh hành chính cấp xã tại Việt Nam, xem
Tân Cương, Thái Nguyên.
Tân Cương (
Uyghur: شىنجاڭ, Shinjang;
tiếng Trung:
新疆;
bính âm:
Xīnjiāng;
Wade–Giles: Hsin
1-chiang
1; bính âm bưu chính:
Sinkiang) tên chính thức là
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương hay
Khu tự trị Uyghur Tân Cương là một
khu vực tự trị
tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là đơn vị hành chính cấp tỉnh lớn
nhất của Trung Quốc với diện tích lên tới 1,6 triệu km². Tân Cương có
biên giới với
Nga,
Mông Cổ,
Kazakhstan,
Kyrgyzstan,
Tajikistan,
Afghanistan,
Pakistan và
Ấn Độ.
Tân Cương có trữ lượng dầu mỏ và là khu vực sản xuất khí thiên nhiên
lớn nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng quản lý về hành chính đối với khu
vực
Aksai Chin, là nơi Ấn Độ cũng tuyên bố chủ quyền.
Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời
nhà Thanh Khu tự trị là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, các dân tộc chính có thể kể tới là
Uyghur (Duy Ngô Nhĩ),
Hán,
Kazakh,
Hồi,
Kyrgyz và
Mông Cổ. Tân Cương cũng là nơi diễn ra nhiều vụ bạo lực sắc tộc đổ máu, như
Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009. Tân Cương được chia thành
Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và
Bồn địa Tarim ở phía nam. Chỉ có khoảng 4,3% diện tích đất đai của Tân Cương thích hợp cho con người cư trú.
Tên gọi
Khu vực Tân Cương ngày nay từng được gọi với nhiều tên khác nhau trong thời kỳ đầu, bao gồm: 西域 (Xiyu,
Tây Vực),
Tartary thuộc Trung Hoa, Thượng Tartary, Đông Chagatay, Mugholistan,
Kashgaria, Altishahr ('sáu thành phố' của Tarim), Tiểu Bokhara và
Serindia.
Tên gọi Tân Cương xuất hiện trong thời
Nhà Thanh.
Trong giai đoạn đầu, triều đình nhà Thanh coi Tân Cương bao gồm tất cả
các khu vực từng thuộc đế quốc Trung Hoa từng bị mất nhưng nay được nhà
Thanh thu hồi lại. Sau năm 1821, nhà Thanh đặt lại tên cho các khu vực
thu hồi và Tân Cương trở thành tên của khu tự trị cho đến nay.
Địa lý
Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. dãy núi
Thiên Sơn (
Uyghur: غات ىرڭەت, Tengri Tagh) chia tách khu tự trị thành hai bồn địa lớn:
Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và
Bồn địa Tarim ở phía nam. Hầu hết bồn địa Tarim là
sa mạc Taklamakan- điểm thấp nhất của Tân Cương, cũng như toàn Trung Quốc là
Vệt lõm Turpan với cao độ 155 mét dưới mực nước biển, điểm cao nhất là K2, trên 8611 mét so với mực nước biển trên biên giới với
Pakistan. Các dãy núi khác là
Pamir ở phía đông nam, Karakoram ở phía nam và
Dãy núi Altai ở phía bắc.
Hầu hết Tân Cương có kiến tạo địa chất trẻ, được tạo thành từ sự va đập của mảng Ấn Độ vào mảng Âu Á, định hình
Thiên Sơn,
Côn Lôn Sơn và
dãy núi Pamir.
Do vậy, Tân Cương là một khu vực động đất chính. Các hình thành địa
chất cũ hơn xuất hiện chủ yếu ở khu vực cực bắc nơi Khối Junggar là một
phần về mặt địa chất của Kazakhstan, và ở phía đông là một phần của
Bình nguyên Hoa Bắc.
Tân Cương với vị trí biệt lập và rất xa biển. Điểm khó tiếp cận nhất
trên đại lục Âu Á có tọa độ (46°16.8′B 86°40.2′Đ) nằm ở Sa mạc
Dzoosotoyn Elisen, cách vùng biển gần nhất là 2648 km (1.645 mi) theo
đường thẳng.
Dãy núi Thiên Sơn nằm trên biên giới Tân Cương-Kyrgyzstan có đèo Torugrat cao 3752 mét. Quốc lộ Karakorum (KKH) kết nối
Islamabad,
Pakistan với
Kashgar trên Hành lang Khunjerab.
Vì là điểm cực tây của Trung Quốc, người dân địa phương sử dụng thời
gian không chính thức là UTC+6, mặc dù múi giờ chính thức là UTC+8.
Kinh tế
Tân Cương được biết đến với các loại hoa quả và sản phẩm khác như
nho, dưa, lê, bông, lúa mì, tơ lụa, quả óc chó và cừu. Tân Cương cũng có
trữ lượng lớn về khoáng sản và dầu mỏ.
Nhân khẩu
Phân bổ sắc tộc tại Tân Cương năm 2000
Những người di cư Đông Á đã tới điểm phía đông của bồn địa Tarim
khoảng 3000 năm trước, trong khi người Duy Ngô Nhĩ đã tới đây sau sự sụp
đổ của Hãn quốc
Hồi Hột tại Mông Cổ ngày nay vào khoảng năm 842.
Tân Cương là nơi cư trú của nhiều nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau, tuy nhiên phần lớn cư dân tại đây theo
Hồi giáo. Trong số các dân tộc có đức tin Hồi giáo, đáng chú ý nhất là
các dân tộc Turk như
Uyghur,
Uzbek,
Kyrgyz,
Tatar và
Kazakh, cũng có một số người Hồi giáo thuộc nhóm dân tộc Iran và người Hồi. Các dân tộc khác là
Hán,
Mông Cổ,
Nga,
Tích Bá và
Mãn. Năm 1945, có khoảng 70.000 người gốc Nga sinh sống tại Tân Cương.
Dân số Tân Cương ước tính vào khoảng 1.180.000 người năm 1880 và tăng lên rõ rệt sau đó do những người di cư và bị lưu đày từ
Trung Nguyên.
Tỷ lệ người Hán tại Tân Cương đã tăng từ dưới 7% vào năm 1949
lên tới 40% theo con số chính thức hiện nay.
Số liệu này không bao gồm các quân nhân hay gia đình của họ và những
người lao động di cư không đăng ký. Những biến đổi này được cho là do
Binh đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương,
một tổ chức bán quân sự của những người khai hoang đã xây dựng các nông
trường, thị trấn và thành phố rải rác khắp Tân Cương. Sự biến đổi về
mặt dân tộc được những người Uyghur ly khai coi là mối đe dọa đối với
văn hóa bản địa của các dân tộc tại Tân Cương. Năm 1953, khoảng ba phần
tư dân cư sinh sống ở phía nam các dãy núi, thuộc bồn địa Tarim và dòng
người Hán di cư thẳng tới Dzungaria (phía bắc các dãy núi của bồn địa
Tarim) bởi nơi này có các tài nguyên thiên nhiên.
Các dân tộc thiểu số tại Tân Cương không phải thi hành chính sách một con.
Lịch sử
Thời sơ khai
Các cư dân đầu tiên tại Tân Cương là những người
Mongoloid Trung Á, người
Europoid
đã nhập cư đến Tân Cương trong vài nghìn năm trước. Theo J.P. Mallory
và Victor H. Mair, các nguồn Trung Hoa mô tả sự hiện diện của những
"người da trắng với tóc màu phớt" hoặc người
Bạch trong
Sơn Hải Kinh, họ sinh sống bên ngoài biên giới tây bắc của Trung Hoa.
trái: người tóc nâu và mắt xanh; phải: hòa thượng người Mongoloid, phía đông
lòng chảo Tarim, thế kỷ 9–10.
Các
xác ướp Tân Cương có niên đại từ thế kỷ 3 TCN có tóc màu hung đỏ hoặc vàng hoe, nay được trưng bày tại Bảo tàng Ürümqi; các
xác ướp này được phát hiện trong cùng khu vực lòng chảo Tarim.
Các bộ lạc du mục như
Nguyệt Chi thuộc nhóm người nhập cư nói
tiếng Ấn-Âu, nhóm người này định cư ở phía đông Trung Á (có thể xa đến tỉnh
Cam Túc).
Văn hóa Ordos ở miền bắc Trung Quốc, nằm ở phía đông lãnh địa của người Nguyệt Chi, là một ví dụ khác.
Các nền văn hóa du mục như Nguyệt Chi được ghi chép tại khu vực Tân
Cương sớm nhất là vào năm 645 TCN, đó là trong các quyển 73: 78: 80: 81
của
Quản Tử do
Quản Trọng viết. Ông mô tả Ngu Thị 禺氏, hay Ngưu Thị 牛氏 là một dân tộc đến từ tây-bắc, họ cung cấp
ngọc thạch đến Trung Hoa từ dãy núi Ngu Thị ở không xa thuộc Cam Túc.
Việc cung cấp ngọc thạch
từ lòng chảo Tarim từ thời cổ cũng được chứng minh thông qua khảo cổ học: "Người ta biết rằng các
quân chủ Trung Hoa cổ đại gắn bó mật thiết với ngọc thạch. Toàn bộ các đồ ngọc thạch được khai quật từ
Phụ Hảo mộ từ thời
nhà Thương, bao gồm trên 750 miếng, đến từ
Hòa Điền
thuộc Tân Cương ngày nay. Ngay từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN,
người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc giao thương ngọc thạch, trong đó
những người tiêu thụ chính là các vị quân chủ tại Trung Hoa nông
nghiệp."
Các bộ lạc du mục Nguyệt Chi được ghi chép chi tiết trong thư tịch lịch sử Trung Hoa, đặc biệt là trong "
Sử ký" của
Tư Mã Thiên,
trong đó nói rằng họ "thịnh vượng" song thường xuyên có xung đột với bộ
lạc Hung Nô láng giềng ở phía đông bắc. Theo các ghi chép này:
Người Nguyệt Chi ban đầu sống tại khu vực giữa Kỳ Liên và Đôn Hoàng, sau khi bị Hung Nô đánh bại thì họ di chuyển ra xa [về phía tây], đi qua Uyên, tây kích người Đại Hạ, toại đô ở phía bắc Quy Thủy (媯水, tức Amu Darya).
Lập vương đình. Một bộ phận nhỏ người dân không thể tiến hành cuộc hành
trình về phía tây đã tìm cách tị nạn ở chỗ người Khương tại Nam Sơn,
hiệu "Tiểu Nguyệt Chi".
Thời kỳ tranh chấp Hung Nô và nhà Hán
Từ
thế kỷ thứ 2 TCN, sau khi
Hán Vũ Đế phái
Trương Khiên đi sứ
Tây Vực,
nhà Hán và
Hung Nô đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh kéo dài hơn bảy mươi năm tại Tây Vực.
Theo
Hán thư ghi chép thì đồn điền bắt đầu vào năm 101 TCN, năm đó Nhị Sư tướng quân
Lý Quảng Lợi lần thứ hai viễn chinh nước
Đại Uyển
thắng lợi. Tiếp thu lời răn dạy về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng
lương thực trong các cuộc viễn chinh, nhà Hán bắt đầu lập đồn điền ở Tây
Vực, đặt quan chuyên môn quản lý công việc đồn điền.
Đánh chiếm nước Đại Uyển xa xôi là một cuộc chiến có ý nghĩa quyết
định nhằm củng cố địa vị của nhà Hán tại Tây Vực. Nước Đại Uyển nằm
ngoài Cao nguyên Pamir, trường kỳ bị
người Hung Nô
khống chế, đối với việc ngoại giao thời nhà Hán như vậy là mạo phạm.
Năm 104 TCN, Hán Vũ Đế phái đặc sứ đi Đại Uyển để mua đổi ngựa quý,
nhưng bị cự tuyệt và sứ giả bị làm nhục. Tin tức truyền đến
Trường An,
Hán Vũ Đế giận dữ bèn lệnh cho Đại tướng Lý Quảng Lợi xuất chinh. Nước
Đại Uyển có thành tên là Nhị Sư, sản sinh ngựa quý. Hán Vũ Đế lấy tên là
Nhị Sư tướng quân ban cho Lý Quảng Lợi biểu thị quyết tâm chinh phục
Đại Uyển.
Nhị Sư tướng quân suất lĩnh 6 ngàn kỵ binh và hàng vạn quân sĩ ra
Ngọc Môn quan hướng tây chinh phạt. Khi đến vùng đất phèn ở
La Bố thì mọi người đều mệt mỏi, yếu sức. Sau đó trên đường tiến về
cao nguyên Pamir
lại gặp quân Hung Nô sách động các nước nhỏ đánh lén, cắt đứt xe lương,
đại quân trên đường tiến đến Đại Oản đã mất hết lợi thế. Năm 102 TCN,
Nhị Sư tướng quân bị thất bại phải rút lui về
Đôn Hoàng, đám tàn quân chỉ còn lại một, hai phần mười.
Ông sai sứ trình thư về triều đình yêu cầu bãi binh, trong thư viết:
"Đường sá xa xôi, vận lương, khó khăn, binh lính không sợ chiến đấu mà
chỉ lo đói khát, người ít không đủ đánh thắng Đại Uyển". Hán Vũ Đế nghe
Lý Quảng Lợi thua trận rút lui rất lấy làm giận dữ, hạ lệnh: "Kẻ bại
trận bước vào Ngọc Môn quan, chém". Đồng thời tại triều, quan văn nào
chủ trương đinh chiến, hòa hoãn cũng bị trị tội. Nhà vua hạ quyết tâm
dốc toàn lực tăng cường tinh binh viễn chinh một lần nữa.
Năm 101 TCN, Nhị Sư tướng quân chinh phạt miền tây lần thứ hai. Ông suất lĩnh 6 vạn binh sĩ, ba ngàn chiến mã và hơn một vạn
trâu/
bò,
lừa,
ngựa,
lạc đà
chuyển vận lương thảo và khí giới. Một đội quân hùng mạnh hơn bao giờ
hết ào ào tiến về phía tây, các tiểu quốc dọc đường đều chấn kinh, tranh
nhau dâng cấp rượu thịt. Đại quân thủ thắng sau hơn 40 ngày vây chặt
thành Đại Uyển. Nước Đại Uyển bại trận phải dâng tặng ngựa quý hàng chục
con, ngựa tốt hàng ngàn con. Hán Vũ Đế không tiếc sức người, sức của cả
nước đi viễn chinh Đại Uyển, nếu nói là để lấy về ngựa quý thì tại sao
không nói là để đẩy lùi thế lực của người Hung Nô ở Tây Vực, tăng cường
uy thế của nhà Hán tại đây. Từ trước đến nay, ở Tây Vực bất kể là Đại
Uyển hoặc các tiểu quốc khác đều bị sự khống chế và ảnh hưởng của Hung
Nô dưới nhiều mức độ khác nhau.
Sau lần viễn chinh này, vị trí của nhà Hán ở Tây Vực được củng cố hơn
lên, quan viên quân sự, hành chính bắt đầu đặt trụ sở lâu dài ở Tây
Vực, đồng thời cũng cho lập đồn điền bảo đảm việc cấp dưỡng lương thực
cho quan viên, quân sĩ tại đây. Hán thư có ghi: "Từ sau khi Nhị Sư tướng
quân chinh phạt Đại Uyển thành công, toàn xứ Tây Vực khiếp sợ, nhiều
nước sai sứ triều cống, người Tây Vực nào có công sẽ được ban chức...
Luân Đài,
Cừ Lê đều có hàng trăm lính canh điền, đặt hiệu úy trông coi..."
Luân Đài và Cừ Lê đời Hán nay là vùng trung được lưu vực
sông Tarim thuộc Nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của
Con đường tơ lụa,
đất cát phì nhiêu, nước nôi sung túc, khí hậu ôn hòa, theo báo cáo của
các quan đại thần nhà Hán và Tang Hoằng Dương thì các đồn điền Luân Đài
và Cừ Lê sau 10 năm khai khẩn, đất canh tác có đến năm ngàn khoánh,
trồng ngũ cốc bội thu và chín cùng với lúa ở
Trung Nguyên.
Vói tầm nhìn rộng lớn của
Tang Hoằng Dương, ông đưa ra kế hoạch từng bước mở rộng đồn điền tại Tây Vực lên vua
Hán Vũ Đế.
Ông đề nghị khảo sát, xem xét địa hình, khai thác nguồn thủy lợi, sửa
mương đào rãnh, phổ biến kinh nghiệm canh tác ở nội địa. Ông còn đề xuất
binh sĩ sau khi khai khẩn tạo được thành tích có thể cho di dân từ nội
địa đến để thay thế và làm tiếp.
Các đề nghị của Tang Hoằng Dương không được triều đình bấy giờ chấp nhận, phải đợi đến 10 năm sau mới được
Hán Chiêu Đế tiếp thụ. Hán Chiêu Đế bổ nhiệm Thái tử nước
Vu Di
làm Hiệu úy tướng quân chủ quản công việc đồn điền ở khu vực Luân Đài.
Về sau, việc lập đồn điền mở ra khắp các nơi ở Tây Vực, nổi tiếng nhất
là các đồn điền ở
Thổ Lỗ Phồn,
Cáp Mật,
Cát Mộc Tát Nhĩ,
Khố Nhĩ Lặc,
A Khắc Tô... thậm chí còn lan qua vùng phụ cận hồ
Issyk Kul thuộc địa phận
Kyrgyzstan ngày nay.
Tùy vào sự phát triển đồn điền, các nông cụ bằng sắt và nghề rèn được
truyền vào Tây Vực, ngoài ra, công tác thủy lợi tưới tiêu và kỹ thuật
đào giếng cũng được phổ biến. Công cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến ở
nội địa lần lượt được du nhập vào Tây Vực, cuộc sống kinh tế của nhân
dân ở đây và những ảnh hưởng canh tác nông nghiệp mang lại đã có những
bước tiến rõ rệt và sâu sắc.
Đến đời
Hán Tuyên Đế, vào năm Thần Tước năm thứ hai (năm 60 TCN),
vua Hung Nô là
Nhật Trục Vương dẫn đại binh đầu hàng
nhà Hán,
bấy giờ nhà Hán mới chính thức thiết đặt việc đô hộ Tây Vực, cử trưởng
quan tối cao thống lĩnh địa hạt Tân Cương. Năm 60 TCN, triều đình phong
kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở
Tây Vực, chọn
Ô Lũy (nay là huyện
Luân Đài, Tân Cương) làm trung tâm thiết lập
Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông Cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của
Con đường tơ lụa
được bảo đảm an toàn. Lúc đó Bắc lộ Thiên Sơn vẫn còn một phần đất
thuộc Hung Nô. Đến năm 58 TCN, toàn bộ vùng đất này mới trực thuộc chính
quyền trung ương nhà Hán. Những năm đầu đời
Đông Hán,
khu Tân Cương xảy ra tình hình cát cứ, bắc Tân Cương bị người Hung Nô
chiếm lại. Chính quyền Đông Hán một lần nữa phải tiến đánh mới thu phục
lại toàn bộ Tân Cương. Cảnh Cung là viên quan chấp chưởng quân sự của
triều đình Đông Hán được phái đến đóng quân ở Bắc
Thiên Sơn. Quân Hung Nô quấy nhiễu vùng Xa Sư Hậu quốc, ông cố thủ thành Kim Mãn (nay là Jimsar) và đẩy lui quân địch.
Sau thời Hán
Triều Tây Tấn bị các sắc dân du mục phương Bắc
tiêu diệt vào đầu thế kỷ thứ 4. Một số vương quốc thời
Ngũ Hồ thập lục quốc đã nối tiếp nhau cai trị phần Tây Bắc:
Tiền Lương,
Tiền Tần,
Hậu Lương và
Tây Lương. Sau khi nước
Bắc Lương bị diệt,
Thư Cừ Vô Húy và
Thư Cừ An Chu
đã tiến về phía tây để mong phục quốc, chiếm giữ một phần Tân Cương
trong một thời gian ngắn. Các nước này đều cố gắng duy trì chế độ bảo hộ
với khu vực Tân Cương với các mức độ thành công khác nhau. Sau khi
Bắc Ngụy
thống nhất miền Bắc Trung Hoa, triều đại này kiểm soát khu vực đông nam
Tân Cương ngày nay. Các quốc gia bản địa có thể kể đến như
Sơ Lặc,
Vu Điền, Quỷ Tử, Thả Mạt,
Cao Xương,
Yên Kỳ,
Quy Từ,
Thiện Thiện.
Vào
thế kỷ thứ 5,
Thổ Dục Hồn và
Nhu Nhiên bắt đầu mở rộng kiểm soát vào phía nam và bắc Tân Cương. Đến
thế kỷ thứ 6 thì người
Đột Quyết xâm chiếm vùng
Altay, đánh bại người Nhu Nhiên và thành lập Đế chế
Đột Quyết, kiểm soát hầu hết vùng
Trung Á từ
biển Aral phía Tây tới
hồ Baikal phía đông. Với
Tùy -
Đường ở Trung Nguyên,
Tây Đột Quyết thường hay uy hiếp Tây Vực giống như người Hung Nô đối với thời Lưỡng Hán.
Đột Quyết là một dân tộc du mục cổ lão ở trên các
sa mạc
phía bắc Trung Quốc, từng liên minh Với bộ lạc Hung Nô, sau khi Hung Nô
suy sụp thì bộ lạc này mới bắt đầu dùng tên gọi "Đột Quyết" và xuất
hiện trên vũ đài lịch sử. Vào khoảng năm 552, nước Đột Quyết thành lập,
nhưng không lâu sau đó lại bị phân liệt thành
Đông Đột Quyết và
Tây Đột Quyết.
Tây Đột Quyết khống chế một khu vực rộng lớn từ Bắc Thiên Sơn, Tây
A Nhĩ Thái Sơn đến đông
Hắc Hải. Vào thời cực thịnh của Tây Đột Quyết thì một số nước nhỏ ở Nam Thiên Sơn đều bị họ khống chế hoặc uy hiếp.
Tây Đột Quyết và chính quyền trung ương nhà Đường có mối quan hệ thân
thuộc. Nhiều đời vua Tây Đột Quyết chịu nhận sắc phong của hoàng đế
Đường và hàng năm về triều tiến cống. Sứ giả ngoại quốc gọi người Tây
Đột Quyết là người Trung Quốc và cho rằng lãnh thổ phía tây của Tây Đột
Quyết là cương vực Tây bộ của Trung Quốc. Thế nhưng Tây Đột Quyết lại
dùng quân cát cứ, đôi khi chống lại, thậm chí còn đem quân đánh lại
nhà Đường.
Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực
cực kỳ khắc nghiệt. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ,
đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh,
nô lệ.
Thương khách lai vãng trên Con đường tơ lụa đôi khi cũng bị uy hiếp,
cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của
Trung Quốc với phương Tây đến nỗi phá vỡ mối quan hệ hòa mục của
người Ba Tư.
Hàng loạt những hành động bạo ngược của Tây Đột Quyết đã làm trở ngại
sự tiến bộ của Tây Vực và sự phồn vinh của nền giao thương của
phương Tây.
Sau khi
nhà Đường thống nhất
Trung Nguyên, các tiểu quốc ở
Tây Vực và các quốc gia
Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục
con đường tơ lụa. Thoạt đầu, nhà Đường đem quân tiễu trừ lực lượng tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658, nhà Đường đặt
An Tây Đô hộ phủ tại
Quy Từ, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây.
Sự kiện này khiến Tây Đột Quyết cát cứ ở bắc Thiên Sơn phải chấn động. Sa Bát La khả hãn
A Sử Na Hạ Lỗ không đánh mà hàng, đích thân đến
Trường An triều kiến
Đường Thái Tông
và xin thần phục. Đường Thái Tông bèn lập Dao Trì Đô đốc phủ tại bắc lộ
Thiên Sơn, giao A Sử Na Hạ Lỗ làm đô đóc, đóng trú sở tại
Đình Châu (nay là Jimusar).
A Sử Na Hạ Lỗ là người đa mưu, ông sử dụng ngọn cờ của nhà Đường tự
gây dựng thế lực, đến khi đủ hùng mạnh thì nổi dậy xưng vương, dời đô
đến lưu vực
sông Y Lê, đồng thời lần nữa đem binh tiến đánh nhà Đường.
Sau khi ảo tưởng về một nền hòa bình thống nhất Tây Vực của nhà Đường
bị phá vỡ, bắt đầu từ năm 652, nhà Đường nhiều lần đem binh đánh giáp
công A Sử Na Hạ Lỗ từ hai cánh nam bắc, rồi tổng công kích tại lưu vực
sông Y Lê; A Sử Na Hạ Lỗ đại bại đào thoát về phía tây, chạy thẳng đến
Thạch Quốc và bị người Thạch Quốc bắt đem giao cho quân đội nhà Đường.
Từ đó, Tây Đột Quyết xưng hùng xưng bá ở Tây Vực bị diệt vong, nhà Đường
hoàn thành công cuộc thống nhất Tây Vực vào năm 657.
Nhà Đường thiết lập hai Đô hộ phủ ở
Côn Lăng và
Mông Trì tại bắc lộ
Thiên Sơn, phân chia việc cai trị lãnh thổ vùng tây
sông Toái Diệp. Năm 702, để tăng cường sự thống trị tại Bắc Lộ Thiên Sơn, nữ hoàng đế
Võ Tắc Thiên lập
Bắc Đình đô hộ phủ ở
Đình Châu, quản hạt luôn hai Đô hộ phủ Côn Lăng và Mông Trì với số binh sĩ hơn hai vạn.
Nhờ sự thiết lập Bắc Đình đô hộ phủ mà con đường thông vãng đông-tây ở bắc
Thiên Sơn lại được khai thông. Sau khi thương khách trên con đường tơ lụa ra khỏi
Đôn Hoàng, không những có thể theo tuyến nam và tuyết bắc từ
sa mạc Taklamakan đi về phía tây mà còn có thể qua Ba Lý Khôn, Bắc Đình đi thẳng đến lưu vực sông Y Lê tiến lên phía tây để đến Ba Tư.
Thời Thịnh Đường, biên giới phía tây xa đến tận
Hàm Hải. Để cai quản khu tây bắc rộng lớn ấy, triều đình nhà Đường đã thiết lập ở đây hai trung tâm chính trị quân sự: một là
An Tây đô hộ phủ, đặt tại nước
Quy Từ (nay là huyện
Khố Xa,
Tân Cương), cai quản từ vùng Thiên Sơn đến địa phận phía nam sông Toái
Diệp; và một là Bắc Đình đô hộ phủ, đặt tại Đình Châu (nay là huyện
Jimsar, Tân Cương), cai quản từ bắc Thiên Sơn đến khu đông bộ Hàm Hải.
Năm
Trường An thứ 2 (702 CN), nữ hoàng Võ Tắc Thiên mới thiết đặt Bắc Đình đô hộ phủ tại Đình Châu để cai quản vùng lãnh thổ bắc Thiên Sơn.
Việc thiết lập An Tây Đô hộ phủ và Bắc Đình Đô hộ phủ đánh dấu sự
nghiệp to lớn của nhà Đường. đối với sự thống nhất Tây Vực. Có một thời
việc giao thương đông - tây trên con đường tơ lụa bị gián đoạn nay mới
được khôi phục và còn đạt đến trình độ phồn thịnh mà trước đó chưa từng
có.
Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Duy Ngô Nhĩ gọi là bộ lạc
Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực
sông Ngạc Nhĩ Hồn và
sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa
Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhĩ (tức
hồ Bunnur).
Tùy thư và
Đường thư
đều nói người Hồi Hột "không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy
thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di". Gọi là không có tù trưởng tức
là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ lạc khác.
Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột
Thổ Mật Độ tự xưng là
Khả hãn
và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: "Hoài Nhân Đại tướng
quân kiêm Hãn Hải Đô đốc". Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi
Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được
kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh
Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm "Hoài Nhân khả hãn" trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).
Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ
thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị.
Người Hồi Hột còn học
chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành "
Hồi Cốt" có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như
chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học.
Khi có
loạn An Sử,
nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào
Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn
An Lộc Sơn và
Sử Tư Minh.
Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi
Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá
cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên
thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông
giữa
Trung Quốc và
phương Tây.
Khi nước
Thổ Phồn chiếm
Hành lang Hà Tây
và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà
Đường và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại.
Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh,
Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây
Vực.
Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi
lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một
số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các
thị trường vùng
Tây Vực.
Đến cuối
thế kỷ thứ 8, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái,
thế kỷ thứ 9 xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị
người Điểm Giáp tiêu diệt.
Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử.
Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (
Cam Túc), gọi là "
Cam Châu Hồi Cốt",
một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực Nam
Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Thổ Lỗ Phồn làm trung tâm kiến lập ra
nước Cao Xương của người Hồi Cốt, có cương vực đông giáp
Tửu Tuyền, tây giáp
Khố Xa, nam gặp đại
sa mạc Taklamakan.
Còn một chi nữa thiên di về Dãy núi Pamir và lập ra
nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc
Trung Á.
Người Hồi Cốt tại vùng lòng chảo Thổ Lỗ Phồn,
lòng chảo Tarim và trên
dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc
người Duy Ngô Nhĩ hiện nay.
Vương triều Kalahan là chính quyền được thành lập bởi người Đột Quyết và người Hồi Hột vào khoảng
thế kỷ 10, cương vực bao gồm vùng đông và nam
hồ Balkhash và vùng tây bộ Tân Cương ngày nay.
Các thủ lĩnh của Vương triều Kalahan thường chứng tỏ mình là người
Trung Quốc. Đầu họ đội mũ có dòng chữ đề: "Đào hoa Thạch Hãn" tức có
nghĩa là "vua Trung Quốc". Vương triều này có hai trung tâm chính trị,
một là Bát La Sa Cổn mà sử sách Trung Quốc gọi là Bùi La Tướng quân, và
một là Ca Thập Hát Nhĩ.
Vương triều Kalahan là vương triều đầu tiên theo tín ngưỡng đạo Hồi. Bắt đầu từ
thế kỷ 10, các thủ lĩnh của vương triều nhiều lần dùng bạo lực cưỡng ép truyền bá đạo
Hồi và đôi khi còn tiến hành những cuộc "thánh chiến". Ca Thập Hát
Nhĩ vừa là trung tâm chính trị của Vương triều Kalahan, vừa là một trong
những trung tâm Hồi giáo lớn nhất ở Tây Vực.
Khi
nhà Liêu của người
Khiết Đan bị
nhà Kim của người
Nữ Chân tiêu diệt, một thành viên của hoàng tộc Liêu là
Da Luật Đại Thạch
đã dẫn một bộ phận người Khiết Đan tiến về phía tây, thủ lĩnh người Duy
Ngô Nhĩ của Cao Xương Hồi Cốt cũng cam kết lòng trung thành của mình
với ông. Da Luật Đại Thạch tăng cường lực lượng của mình, dần dần mở
rộng quyền thế đến khu vực Qayaliq và Almaliq. Nỗ lực ban đầu nhằm chiếm
Kashgar của lực lượng Da Luật Đại Thạch đã thất bại khi người cai trị của Khách Lạt hãn quốc (
Kara-Khanid) tại đó đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, người cai trị tại
Balasaghun, gặp khó khăn với các đội quân du mục của
người Cát La Lộc (Karluk) và
Khương Lý (Qanqli), đã nhờ Đại Thạch giúp đỡ và mời đội quân của ông đến. Đại Thạch thay vào đó đã chiếm thành phố, theo sử gia Ba Tư
Ata-Malik Juvayni, "lên ngai vàng mà không mất gì.".
Đại Thạch sau đó đã thiết lập quyền lực của mình tại Kashgar,
Khotan,
Kirghiz, và trung tâm của người Duy Ngô Nhĩ tại
Beshbalik.
Tuy nhiên, một nỗ lực nhằm tái lập triều Liêu tại Trung Quốc đã thất
bại. Da Luật Đại Thạch mất năm 1143 khi đang là chủ nhân của phần lớn
vùng Trung Á. Khi ông mất, đế quốc Tây Liêu bao trùm các khu vực
Transoxiana,
Ferghana,
Semirechye, Lòng chảo Tarim và
Dzungaria. Năm 1211, phò mã người
Nãi Man Khuất Xuất Luật đã buộc
Da Luật Trực Lỗ Cổ phải nhường ngôi. Khuất Xuất Luật lên nắm quyền, ông được ghi chép là đã thực hiện một chính sách chống
Hồi giáo. Theo sử gia Ba Tư Ata-Malik Juvayni, ông yêu cầu dân cư theo Hồi giáo của một thị trấn lựa chọn cải sang
Cảnh giáo hoặc
Phật giáo, hoặc mặc trang phục Khiết Đan, dân cư đã lựa chọn mặc trang phục Khiết Đan. Khuất Xuất Luật đã tấn công thành
Almaliq (A Lực Ma Lý), và người Cát La Lộc (Karluk) tại đây đã yêu cầu Thành Cát Tư Hãn giúp đỡ. Năm 1216, Thành Cát Tư Hãn cử tướng
Triết Biệt
(Jebe) đến truy kích Khuất Xuất Luật. Người Mông Cổ đầu tiên tới
Almaliq, sau đó tiến vào kinh đô Balasaghun gần nơi họ đã đánh bại
30.000 quân Tây Liêu. Khuất Xuất Luật chạy về phía nam đến
Kashgar,
tuy nhiên hành vi cướp bóc và đốt phá trước đây khi ông chiếm được
thành, chính sách chống Hồi giáo của ông, cũng như việc quân đội của ông
trú chân tại các hộ dân bản địa, đã khiến người dân Kashgar trở nên đối
kháng với ông
Khi quân Mông Cổ tiếp cận Kashgar, Khuất Xuất Luật đã không thể tìm
được sự trợ giúp tại đây và lại phải chạy trốn một lần nữa. Theo
Ata-Malik Juvayni, người dân Kashgar sau đó đã giết chết binh sĩ của
ông. Ông tiếp tục đi về phía nam để đến
dãy núi Pamir, cuối cùng đến ranh giới giữa
Badakhshan và
Wakhan vào năm 1218
Thời kỳ người Mông Cổ cai trị
Sau khi
Thành Cát Tư Hãn
thống nhất Mông Cổ và khuếch trương lãnh thổ, nhà nước Duy Ngô Nhĩ ở
vùng Turfan-Urumqi đã quy phục Mông Cổ vào năm 1209, đóng góp thuế và
quân lính cho quân Mông Cổ, đổi lại các vị quân chủ Duy Ngô Nhĩ duy trì
quyền lực cai quản vương quốc của họ. Dưới thời Đế quốc Mông Cổ, Tân
Cương bị phân chia giữa
triều Nguyên và
Sát Hợp Đài hãn quốc,
sau đó Sát Hợp Đài hãn quốc kiểm soát hầu hết khu vực. Đến giữa thế kỷ
14, Sát Hợp Đài hãn quốc bị chia cắt thành các hãn quốc nhỏ hơn, Tân
Cương do nhiều hãn Mông Cổ bị Ba Tư hóa đồng thời cai quản, bao gồm
Mogholistan (với sự trợ giúp của các Emir Dughlat bản địa), Uigurstan
(sau là Turpan), và Kashgaria. Các thủ lĩnh này giao chiến với nhau và
với
triều Timur tại
Transoxania ở phía tây và người
Ngõa Lạt
(Mông Cổ Tây) ở phía đông. Mặc dù khu vực đã phát triển nền văn hóa Ba
Tư ở mức độ cao trong giai đoạn này, song các cuộc tranh giành quyền kế
vị và phân liệt nội bộ (Kashgaria bị tách làm hai trong hàng thế kỷ)
đồng nghĩa với việc có ít tác phẩm viết về khu vực vào thế kỷ 16 và 17.
Vào thế kỷ 17, một nhánh của người Mông Cổ là
người Chuẩn Cát Nhĩ
đã lập ra một đế quốc bao trùm phần lớn Tân Cương. Người Chuẩn Cát Nhĩ
nguyên là một vài bộ lạc Ngõa Lạt, họ đã thành lập và duy trì một trong
các đế quốc du mục cuối cùng trong lịch sử.
Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ chiếm cứ
khu vực cùng tên và trải dài từ cực tây của
Vạn Lý Trường Thành đến phía đông Kazakhstan ngày nay, và từ phía bắc
Kyrgyzstan ngày nay đến phía nam
Siberia.
Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tồn tại từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18, khi nó bị triều Thanh chinh phục.
Thời Thanh
Nhà Thanh đã giành quyền kiểm soát đông bộ Tân Cương sau các cuộc
chiến kéo dài với người Chuẩn Cát Nhĩ, bắt đầu thế từ thế kỷ 17. Năm
1755, với sự giúp đỡ của
thai cát Ngõa Lạt
A Mục Nhĩ Tát Nạp, quân Thanh đã tiến công
Y Ninh,
bắt được khả hãn của Chuẩn Cát Nhĩ. Sau khi thỉnh cầu được sách phong
là khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ song chưa được chuẩn thuận, A Mục Nhĩ Tát Nạp
đã nổi dậy chống nhà Thanh. Hai năm sau đó, quân Thanh đã tiêu diệt dư
bộ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và nhiều
người Hồi đã chuyển đến khu vực.
Người Chuẩn Cát Nhĩ chịu tổn hại nặng nề từ chiến tranh và dịch bệnh
đậu mùa. Một nhà văn là
Ngụy Nguyên đã mô tả cảnh tượng tan hoang tại khu vực nay là bắc bộ Tân Cương: "một vùng bằng phẳng trống không hàng nghìn lý, không có
yurt của dân Ngõa Lạt ngoại trừ những nơi đã đầu hàng."
Người ta ước tính rằng có đến 80% trong tổng số 600.000 (hoặc hơn) người Chuẩn Cát Nhĩ đã bị chết vì dịch bệnh và chiến tranh,
và phải mất hàng thế hệ để phục hồi.
Sau khi đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ, triều Thanh đã lập các thành viên của
một gia tộc sufi shaykhs được gọi là các "hòa trác" (Khoja) làm những
người cai trị ở phía tây lòng chảo Tarim, phía nam Thiên Sơn. Tuy nhiên,
vào các năm 1758–59, các cuộc nổi loạn chống lại sự sắp đặt này đã nổ
ra ở cả phía bắc và phía nam Thiên Sơn. Triều đình Thanh sau đó đã bắt
buộc phải thiết lập một hình thức cai trị quân sự trực tiếp đối với cả
Dzungaria (Bắc Cương) và lòng chảo Tarim (Nam Cương). Người Mãn đặt toàn
bộ khu vực dưới quyền quản lý của Y Lê tướng quân, người này thiết lập
trị sở tại
Huệ Viễn, 30 km về phía tây của
Y Ninh (Yining).
Sau năm 1759, khi hình thành nên các đồn điền, "đặc biệt là ở lân cận
Urumqi, nơi đất đai màu mỡ và có nguồn nước tưới phong phú trong khi
chỉ có ít cư dân." Từ năm 1760 đến 1830, ngày càng có nhiều đồn điền
được mở ra và người Hán tại Tân Cương tăng nhanh chóng, lên đến khoảng
155.000 người
Quang cảnh chiến dịch của quân Thanh chống những người nổi dậy tại Đông Turkestan, 1828
Bành trướng Tân Cương
Trong khoảng thời gian
1850 trở đi,
Đế quốc Nga không ngừng quan tâm đến Tân Cương. Vùng
Turkestan và
Đông Siberi thì bị nước Nga đe dọa xâm chiếm. Năm
1868,
Tả Tông Đường được triều đình phái đến
Cam Túc ổn định tình hình ở đây, đến năm
1873 Tả Tông Đường đã nhờ
Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải (
Anh Quốc) trợ giúp số tiền 5 triệu lạng bạc làm quân phí, dẫn quân băng qua
sa mạc tiến vào vùng Tarim đàn áp cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh
A Cổ Bách (Yaqub Beg,
1820 –
1877) lãnh đạo ở Tân Cương, và chiếm miền
Y Lê từ tay người Nga.
Trong thời gian này
nhà Thanh chi tiêu quân phí rất tốn kém. Từ năm
1875 đến
1878, mặt trận phía Tây (
Turkestan,
thuộc Tân Cương) tốn mất 51 triệu lạng bạc trong đó 14 triệu lạng bạc
được các ngân hàng của Anh cho vay, triều đình cung cấp 26,7 triệu lạng
bạc trong vòng 3 năm.
Năm
1865 Hão Hãn Cổ quốc
A Cổ Bá xâm nhập vùng Tân Cương chiếm giữ các vùng biên giới phía nam Tân Cương, thành lập nên
Triết Đức Sa Nhi hãn quốc. Năm
1870, A Cổ Bá đem quân tiến lên phía bắc đánh chiếm
Ô Lỗ Mộc Tề.
Tháng 5 năm
1872
A Cổ Bách ký kết với Đế quốc Nga điều ước cắt nhượng đất đai cho Nga.
Hai nước Anh và Nga ganh đua trong việc ủng hộ A Cổ Bách, trong đó Anh
đưa đến hàng vạn khẩu súng từ
Ấn Độ đến. Chỉ trong một chuyến hàng đưa sang từ Ấn Độ, số lượng vũ khí đã lên tới 22.000 khẩu
súng, 8
đại bác, 2.000
đạn pháo.
Đế quốc Ottoman cũng công nhận A Cổ Bách là lãnh tụ chính trị Hồi giáo và gửi đến 12.000
súng trường, 8 khẩu đại bác. Quân số của A Cổ Bách lên tới 45.360 người được người Thổ Nhĩ Kỳ huấn luyện.
Năm
1875
Tả Tông Đường được thăng Khâm sai đại thần Đốc biện Tân Cương quân vụ,
Văn Hoa điện Đại học sĩ, trước đó Tả Tôn Đường đã chủ động chuẩn bị binh
lương.
Năm 1866, Tả Tông Đường bắt đầu thiết lập một hệ thống tiếp vận. Trước hết, ông xây 5 trung tâm hậu trạm tại
Trung Hoa chia đều từ đông nam đến tây bắc (gồm ở Thượng Hải tại tỉnh
Giang Tô, Thiên Tân thuộc tỉnh
Hà Bắc,
Phần Châu ở
Sơn Tây,
Bao Ninh và
Thuận Tân ở
Tứ Xuyên)
và từ đó lương thực, vũ khí và các loại khí cụ khác được mua để chở tới
mặt trận. Các trạm cung ứng dịch vụ quân đội ở gần hay tại mặt trận như
ở Tây An vùng Thiểm Tây, Thiên Thủy vùng Cam Túc được thành lập để nhận
vật liệu chở từ hậu trạm tới và cung cấp cho lực lượng ở trận tiền bằng
cáng, xe hay lạc đà xuyên qua hàng ngàn cây số sa mạc. Giữa các trạm
dịch vụ chính và hậu trạm có một hay nhiều trạm trung gian để nhận và
giao vật dụng. Hán Khẩu chẳng hạn dùng làm hậu trạm phân phối thóc gạo
cho mặt trận Thiểm Cam, từ đó tiếp liệu được chở tới Tây An theo nhiều
đường khác nhau. Với hệ thống cung cấp như thế, Tả Tông Đường có thể giữ
cho tiếp vận không bị gián đoạn. Ông cho người đến
Lương Châu,
Túc Châu,
Ninh Hạ,
Bao Đầu và cả nước Nga thu mua lương thực, chia đường chở đến
Cáp Mật
và nhiều vùng khác xa đến hàng ngàn dặm. Hàng đoàn người và xe vận
chuyển lương thảo có quan binh bảo vệ vượt qua sa mạc tập trung về Cáp
Mật. Sau 2 năm, số lương thực tại Cáp Mật đã lên tới hơn 1.000 tấn, các
nơi khác cũng có đến hàng trăm tấn, tích trữ đủ quân lương.
Cho quân đồn trú khai phá đất hoang: Ngoài việc thiết lập đường tiếp
liệu từ các khu vực duyên hải, Tả Tông Đường còn theo đuổi một chiến
lược cổ điển để giải quyết các vấn đề lương thực. Ông ra lệnh cho quân
sĩ khai phá các đất hoang trong khu vực doanh trại để sản xuất thóc gạo
cho riêng họ. Chiến lược này vốn dĩ dùng từ thời nhà Hán trong thế kỷ
thứ nhất và thứ hai cho đến cuối thế kỷ 18 khi nhà Thanh đóng quân ở Tân
Cương.
Khai phá đất hoang tại các vùng biên giới chủ yếu là một chiến lược
giải quyết các vấn đề tiếp liệu nhưng cũng có những ảnh hưởng xã hội -
kinh tế đáng kể. Thay vì đóng quân để khai hoang, có khi triều đình cho
hạt giống, nông cụ, gia súc và chia đất cho nông dân rồi để họ cày cấy.
Sau mùa gặt, nhà nước mua hoa màu thặng dư để nuôi quân. Chính sách đó
gọi là Dân Đồn nghĩa là để cho dân làm ruộng. Việc đó giúp cho chính
quyền sở tại bình định được nông dân và tái lập trật tự.
Ngoài ra, Tả Tông Đường cũng ra lệnh cho quân sĩ của ông tu sửa các
hệ thống thủy lợi, đắp đường và trồng cây. Trong suốt chiến dịch này,
quân của ông đã khai phá được hơn 19.000 mẫu, trồng 568.000 cây, làm
được 96 cái cầu, đắp 800 dặm đường và sửa 13 hệ thống dẫn nước và sông
rạch. Những công trình đó không những khiến cho cuộc chinh phạt thành
công mà còn giúp cho phục hồi được trật tự chính trị và xã hội - kinh tế
thời hậu chiến. Chiến lược đó đã có ảnh hưởng đáng kể trên hệ thống
quân sự hiện đại.
Để có quân phí, Tả Tôn Đường vay tiền Ngân hàng Hối Phong Hồng Kông Thượng Hải, giao cho
Hồ Tuyết Nham
lo liệu vật tư và quân trang cần thiết cho đội quân Tây chinh, cấp cho
ông khoản tiền tiếp vận; cơ hội thứ tư là lệnh cho ông nhập vũ khí hiện
đại cần thiết từ bên ngoài để thu phục Tân Cương.
Tả Tôn Đường chỉnh đốn quân vụ, những ai không muốn tham gia quân Tây
chinh đều được trở về quê, còn những ai ở lại phải chấp hành nghiêm
minh kỷ luật không được tự ý dời doanh trại. Tả Tôn Đường lệnh cho
Lưu Cẩm Đường chiêu mộ thêm tinh binh từ
Hồ Nam nâng tổng số người gốc Hồ Nam trong quân Tây chinh lên tới 17.000 người, cộng thêm 16 đạo quân của
Trương Diệu
tạo thành lực lượng chủ lực của quân Tây chinh, tiếp theo quân Thục,
quân Hoài cũng gia nhập đội quân Tây chinh, nâng tổng số quân lên tới 8
vạn người.
Năm
1873 Tả Tôn Đường thành lập Lan Châu cơ khí cục, cải tạo quân khí theo kiểu của
Đức, mua hàng ngàn súng trường và đại bác của hãng Krupp.
Tả Tông Đường Tây chinh
Tả Tông Đường thành lập quân Tây chinh gồm nhiều sắc tộc
Hán,
Mãn,
Hồi. Quân Hán và Hồi do
Đổng Phúc Tường chỉ huy, quân Mãn do
Ngạc Nhĩ và
Khánh Nhạc
chỉ huy. Tả Tông Đường giáo dục tinh thần chiến đấu cho binh sĩ ông nói
"Tân Cương từ thời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn người A Cổ Bá chỉ là
dị tộc. Cuộc chiến tranh này là để thu hồi biên cương cho Tổ quốc vì
thế các tướng sĩ phải có ý thức quân dân một nhà".
Tiến chậm nhưng hành động nhanh: Để cho phù hợp với sự khó khăn của
tiếp liệu, Tả Tông Đường phải chọn một chiến lược đặc biệt. Chiến lược
đó gọi là Hoãn Tiến Tốc Chiến nghĩa là "di chuyển chậm nhưng quyết định
nhanh trong chiến đấu". Nói một cách khác, chiến lược của ông là dùng
nhiều thời gian để chuẩn bị cho các hành động quân sự. Ông chỉ dùng lực
lượng sau khi tiếp liệu đã đầy đủ. Khi mọi sự sẵn sàng, ông tấn công
nhanh vào những vị trí đã chọn và tiêu diệt địch càng nhanh càng tốt.
Cho nên, về phương diện chiến lược là một cuộc chiến kéo dài nhưng trên
phương diện chiến thuật là một chuỗi các cuộc tấn công nhanh và chắc
chắn vào kẻ thù.
Trước khi đại bác được dùng rộng rãi trong chiến tranh, chiến thuật
cốt yếu của Trung Hoa muốn chiếm một vị trí hiểm yếu là bao vây rồi cắt
đường lương thực nhiều tháng hay năm cho địch chết đói và làm cho họ
phải ra ngoài đánh. Chiến lược bao vây kéo dài này được dùng nhiều trong
các chiến dịch đánh giặc Thái Bình của Tăng Quốc Phiên. Chẳng hạn như
khi đánh Nam Kinh, thủ phủ của giặc Thái Bình, Tăng Quốc Thuyên đã dùng
khoảng 50,000 quân bao vây thành trì kiên cố này hơn 2 năm trước khi hạ
được thành năm 1864 khi quân Thái Bình phải phá vòng vây.
Nếu Tả Tông Đường dùng chiến thuật tương tự như thế trong chiến dịch
chinh phạt ông sẽ gặp khó khăn rất nhiều về việc tiếp vận. Vì thế ông
phải chọn chiến thuật đánh nhanh. Chiến thuật phối hợp hành động của
nhiều đơn vị trong chiến đấu là một phương pháp xuất sắc để thực hiện
việc đánh nhanh trong cả chiến dịch. Tả Tông Đường thường tập trung đại
pháo và kỵ binh vào những mặt trận chính phối hợp với bộ binh. Đánh ban
đêm và đánh bất ngờ là những chiến thuật tiêu biểu dùng trong những trận
quyết định.
Pháo binh cũng đã được nhóm Vạn Thắng quân dùng nhiều trong chiến tranh ở Trung Hoa thời đó để chống
Thái Bình Thiên Quốc.
Tương quân cũng theo cách đó. Tuy nhiên không một lực lượng nào của
Trung Hoa đã dùng nhiều trong chiến đấu để sau này thành một chiến thuật
mới đáng kể như về sau này. Chiến thuật tiêu biểu của quân đội Tả Tông
Đường để chiếm các vị trí kiên cố là đem đại pháo ra trước lúc trời tối
cho thật gần rồi bắn phá trước khi trời sáng.
Sau khi oanh kích sẽ tấn công bất thình lình bằng bộ binh. Thường thì họ chiếm được chiếc đồn đổ nát ấy mà không mấy thiệt hại.
Việc phối hợp hành động trong hành quân và việc dùng nhiều đại pháo
để tấn công đã giảm được nhiều thời gian chiến đấu và cả chiến dịch
chinh phạt.
Theo Lư Phụng Các, Tả Tông Đường dùng khoảng 6 năm để chuẩn bị cho
việc tây chinh nhưng ông chỉ mất một năm rưỡi là hoàn thành việc thu hồi
cả Tân Cương ngoại trừ Y Lê vẫn do Nga chiếm đóng và chỉ trả lại cho
Trung Hoa sau khi thương thuyết một thời gian dài.
Sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng,
tháng 3 năm
1876 Tả Tôn Đường đặt bộ tư lệnh quân Tây chinh ở
Túc Châu.
Tháng 8 năm
1876, quân
Thanh
bắt đầu xuất phát với phương châm tiến chậm đánh thắng. Binh sĩ hành
quân hơn 2 tháng vượt 2.000 dặm gặp địch là đánh, khẩu phần ăn chỉ có 8
ngày nên trong hành trang ai cũng phải mang theo
khoai lang. Mỗi binh sĩ đeo mười mấy cân khoai chạy trên
sa mạc nóng bỏng, tinh thần chiến đấu hy sinh quên mình. Quân Thanh do
Lưu Cẩm Đường Đạo đài Tây Ninh chỉ huy tiếp cận thành
Ô Lỗ Mộc Tề đến
tháng 11 thì công hãm thành
Mã Nạp Tư Nam (
Manasi), tiêu diệt quân A Cổ Bá ở dải biên giới phía bắc, sau đó quân Thanh từ Ô Lỗ Mộc Tề tiến xuống phía nam công hãm thành
Đạt Bản, nơi A Cổ Bá tập trung nhiều quân tinh nhuệ, tiêu diệt quân chủ lực của A Cổ Bá tại đây. Sau đó quân Thanh do
Trương Diệu chỉ huy tiến đến
Khắc Thác Khắc Tôn,
Thổ Lỗ Phan. A Cổ Bá tại
Khố Nhĩ Lạc (
Korla) thế cùng phải tự sát.
Tháng 1 năm
1878, Đổng Phúc Tường chiếm lại
Vu Điền. Quân Thanh liên tiếp thu hồi các thành
Khố Xa,
A Khắc Tô (
Aksu),
Hòa Văn… đến năm
1878 biên giới phía nam hoàn toàn thuộc về
Trung Quốc.
Chiếm được Y Lê
Y Lê (
Ili) là tên gọi một vùng đất xung quanh lưu vực sông
Y Lê (Ili river). Sông này bắt nguồn trong dãy núi
Thiên Sơn, chảy về phía đông một đoạn ngắn rồi đột ngột quay về phía tây, sau đó vượt hơn một nghìn cây số trước khi đổ vào hồ
Balkhash. Miền Y Lê nằm về phía bắc dãy Thiên Sơn, cư dân chủ yếu là
người Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) và
người Kazazh (Cáp Tát Khắc). Dưới thời
nhà Thanh, miền Y Lê hoàn toàn thuộc về
Trung Quốc; người
Nga chiếm Y Lê năm
1871, sau đó vài năm
Tả Tông Đường chiếm lại một nửa phía đông Y Lê. Biên giới hai nước được định lại như ngày nay vào năm
1881, và ngày nay miền Y Lê xưa kia nằm trên lãnh thổ nước
Kazakhstan
và miền tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc. Do nằm về phía bắc dãy Thiên
Sơn, nên miền Y Lê đời Thanh còn thường được gọi là Thiên Sơn Bắc Lộ.
Thực ra vùng đất Y Lê đã nằm dưới ảnh hưởng Trung Quốc từ thời
nhà Hán,
nhà Đường, khi ấy thường gọi là
Luân Đài (là tên cũ của
Urumqi). Trong các bài thơ Đường tả cảnh biên tái thường nhắc đến miền này với những cảnh hoang vu gió tuyết.
Sầm Tham có câu: "Luân Đài đông môn tống quân khứ, khứ thì tuyết mãn Thiên Sơn lộ", hùng tráng tuyệt vời! Vào thời
Tống,
Nguyên,
Minh,
Trung Quốc không kiểm soát được miền này. Vào thời nhà Thanh, Y Lê là
miền đất xa nhất về phía tây thuộc về Trung Quốc, thủ phủ là
Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi). Thời nhà Thanh hay nghe cụm từ "đày đi Y Lê", đó là một hình phạt nặng, vì đi từ
Bắc Kinh đến Y Lê phải mất vài tháng mới tới nơi.
Năm
1871 Nga
viện cớ thu hồi những vùng đất trước đây đã bị nhà Thanh chiếm, tiến
quân vào Y Lê (I-Li), tuyên bố "tạm chiếm Y Lê, đợi khi nào Thanh đình
có đủ khả năng thống trị miền đó thì sẽ trả lại". Nhưng 7 năm sau khi
Tả Tôn Đường đã bình định được Tân Cương rồi, nhà Thanh xin Nga trả lại Y Lê, Nga thản nhiên nuốt lời, bắt Công sứ
Sùng Hậu của nhà Thanh phải kí
Điều ước Livadia năm
1879
gồm 18 khoản mà các khoản chính là Thanh phải bồi thường quân phí 280
vạn lạng bạc cho Nga, và cắt nhường Nga miền phú nguyên duy nhất của Y
Lê chiếm tới 70% diện tích của Y Lê, cho Nga mở 3 tuyến đường
thương mại làm cho dư luận triều đình và dân chúng bất bình.
Trương Chi Động dâng sớ phản đối kịch liệt.
Từ Hi Thái Hậu
lúc đó cầm quyền, không chịu, bãi nhiệm chức vụ của Sùng Hậu, chuẩn bị
chiến tranh với Nga, cung cấp thêm 25,6 triệu lạng bạc chiến phí cho Tả
Tôn Đường.
Mùa hè năm
1880 Tả Tôn Đường lúc đó đã 68 tuổi điều quân từ
Túc Châu tấn công
Cáp Mật, sĩ khí quân Thanh rất cao. Thế tấn công của quân Thanh đã hỗ trợ rất nhiều cho ngoại giao nhà Thanh đàm phán với Nga.
Nhờ vào tài năng của nhà ngoại giao
Tăng Kỷ Trạch (Công sứ Trung Hoa tại
Anh và
Pháp) vào ngày
24 tháng 2 năm
1881, hai nước ký kết bản Hiệp ước tại
St. Petersburg,
theo đó Nga bị bắt buộc hoàn trả cho Trung Hoa một số phần đất chiến
lược nằm trong vùng Ili, sau khi đã bị nhượng bởi chữ ký không được cố
vấn tốt của Công sứ Sùng Hậu trong Điều ước Livadia năm
1879.
Sự thành công vào dịp này của Tăng Kỷ Trạch một phần nhờ ở sự chiến
thắng quân sự của Tả Tôn Đường tại Tân Cương và ở sự hậu thuẫn mãnh liệt
của Tả Tôn Đường và các nhân vật khác trong các cuộc thương thảo tại
Nga.
Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa Tả Tôn Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy
kinh tế văn hóa
vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên
giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng Tây Bắc như:
Lan Châu cơ khí chức ni cục (là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của
Đức, thành lập năm
1878),
Tổng cục tơ tằm A Khắc Tô,
Lan Châu chế tạo cục thành lập năm
1871,
Tây An cơ khí cục thành lập năm
1869. Nhờ công lao này, Tả Tôn Đường được thăng tước hầu, bổ nhiệm Quân cơ đại thần.
Thời kỳ Dân Quốc
Năm 1912, triều Thanh bị
Trung Hoa Dân Quốc thay thế, tuần phủ
Viên Đại Hóa (袁大化) chạy trốn. Một thuộc hạ của Viên Đại Hóa là
Dương Tăng Tân
(杨增新), đã nắm quyền kiểm soát Tân Cương và nhậm chức trưởng quan nhân
danh Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 cùng năm. Thông qua các thủ đoạn
chính trị và khôn ngoan cân bằng giữa các cử tri đa sắc tộc, Dương Tăng
Tân duy trì quyền kiểm soát Tân Cương cho đến khi ông bị ám sát vào năm
1928.
Khởi nghĩa Cáp Mật và các cuộc khởi nghĩa khác chống lại người kế nhiệm là
Kim Thụ Nhân
(金树仁) đã diễn ra vào đầu thập niên 1930 trên khắp Tân Cương, với sự
tham gia của người Duy Ngô Nhĩ cùng các sắc dân Đột Quyết khác, cũng như
người Hồi. Kim Thụ Nhân đã dùng
Bạch vệ để dập tắt cuộc khởi nghĩa. Tại vùng
Kashgar vào ngày 12 tháng 11 năm 1933,
Cộng hòa Đông Turkestan đã tuyên bố thành lập, sau khi có những tranh luận về việc quốc hiệu nên là "Đông Turkestan" hay "Uyghuristan." Khu vực Cộng hòa Đông Turkistan về mặt lý thuyết bao gồm
Kashgar,
Khotan và
Aksu ở tây nam Tân Cương.
Sư đoàn 36 của quân đội Quốc Dân đảng gồm hầu hết là người Hồi đã tiêu diệt quân đội của Đệ nhất Cộng hòa Đông Turkestan trong
trận Kashgar (1934), nước Cộng hòa chấm dứt tồn tại sau khi quân Hồi hành quyết hai Emir của Cộng hòa là
Abdullah Bughra và
Nur Ahmad Jan Bughra. Liên Xô đã xâm lược Tân Cương vào năm
1934. Trong
Chiến tranh Tân Cương (1937), toàn bộ tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát của quân phiệt Tây Bắc
Thịnh Thế Tài, ông cai quản Tân Cương trong thập niên sau đó với sự ủng hộ mật thiết từ
Liên Xô.
Liên Xô duy trì một căn cứ quân sự tại Tân Cương và triển khai một số
cố vấn quân sự và kinh tế tại khu vực. Thịnh Thế Tài đã mời một nhóm
người Cộng sản Trung Quốc đến Tân Cương, bao gồm em của
Mao Trạch Đông là
Mao Trạch Dân,
song vào năm 1943 do lo sợ sẽ xảy ra một âm mưu, Thịnh Thế Tài đã cho
hành quyết những người cộng sản này, bao gồm cả Mao Trạch Dân.
1949–nay
Thời Liên Xô (1949-1991)
Đệ nhị Cộng hòa Turkestan tồn tại từ năm 1944 đến 1949 với sự giúp đỡ của Liên Xô tại khu vực nay là châu
Ili ở bắc bộ Tân Cương.
Nước cộng hòa này chấm dứt tồn tại khi
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tân Cương năm 1949.
Năm nhà lãnh đạo của nước cộng hòa đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trong không phận nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan vào năm 1949, trước khi họ có thể đàm phán tình trạng cuối cùng của Đông Turkestan với chính quyền Bắc Kinh. Tướng người Hồi
Bạch Sùng Hy của Quốc Dân đảng đã ngăn ngừa việc Liên Xô tràn ngập Tân Cương bằng cách giải tán binh lính.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1955, thay thế tỉnh Tân Cương
Vụ thử
thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của Trung Quốc được tiến hành tại
Lop Nur,
Tân Cương, vào ngày 16 tháng 10 năm 1964. Một nhà nghiên cứu Nhật Bản
suy đoán rằng có thể đã có từ 100.000 đến 200.000 người thiệt mạng do
bức xạ từ vụ thử nghiệm hạt nhân,
mặc dù khu vực Lop Nur đã không có người định cư lâu dài từ thập niên 1920 Phương tiện truyền thông Trung Quốc phản bác kết luận này song không cung cấp con số thay thế
Trong
chia rẽ Trung-Xô,
tình trạng căng thẳng giữa hai bên đã dẫn đến các vụ xung đột biên giới
có đổ máu và ủng hộ kẻ thù của đối phương. Khi những người cộng sản
Afghanistan thân Liên Xô đoạt lấy quyền lực vào năm 1978, mối quan hệ
giữa Trung Quốc và những người cộng sản Afghanistan nhanh chóng chuyển
sang thù địch. Những người cộng sản thân Liên Xô Afghanistan ủng hộ Việt
Nam trong cuộc
xung đột với Trung Quốc và cáo buộc Trung Quốc hỗ trợ các chiến sĩ chống cộng Afghanistan. Trung Quốc phản ứng với
việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan
bằng việc ủng hộ các chiến binh Mujahideen Afghanistan và thiết lập sự
hiện diện quân sự gần Afghanistan tại Tân Cương. Trung Quốc mua thiết bị
quân sự từ Hoa Kỳ để phòng vệ trước Liên Xô.
Từ năm 1992-nay
Vào những năm sau khi
Nga ra đời,
Tổng thống Nga Boris Yeltsin
khi đó đã thực hiện cuộc cải tổ quan hệ Nga-Trung mà Gorbachyov từng
làm. Tuy vậy, dưới thời Boris Yeltsin, quan hệ Nga-Trung vẫn nảy sinh
bất đồng về người Duy Ngô Nhĩ, khi chính phủ thân
phương Tây
của Yeltsin cáo buộc Trung Quốc "đàn áp sắc dân thiểu số". Trung Quốc
không đồng ý và nhiều lần gây tranh cãi với chính phủ Yeltsin, bất chấp
Nga vẫn có được sự ủng hộ của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề
Chechnya, một xứ quốc ly khai ở phía nam nước Nga vùng
Kavkaz. Song, khi
Vladimir Putin
lên cầm quyền từ năm 2000, chính phủ Nga ủng hộ Trung Quốc về vấn đề
Tân Cương, và phản đối người Duy Ngô Nhĩ "gây bạo loạn" vào năm 2009.
Tuy vậy, Nga vẫn cho phép người Duy Ngô Nhĩ lưu vong lẩn trốn ở Nga.
Chính trị
Hệ thống chính trị Tân Cương được tổ chức theo mô hình thời Xô viết
với một chút thay đổi mang chất Trung Quốc. Chủ tịch khu tự trị thường
là người bản địa trong khi đứng đầu là Bí thư Tỉnh ủy vùng thường là
người dân tộc khác (chủ yếu là
người Hán).
Tôn giáo
Hiện nay, Tân Cương vẫn là một khu vực gồm nhiều
tôn giáo, nhưng
Đạo Hồi vẫn có ảnh hưởng lớn trong đời sống
xã hội
của Tân Cương. Hiện nay, toàn khu vực Tân Cương tổng cộng có hơn 23
nghìn Thánh đường Hồi giáo và nơi tổ chức hoạt động tôn giáo khác như:
chùa Lạt-ma,
nhà thờ Thiên chúa giáo v.v, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cư dân các dân
tộc theo đạo. Tổ chức tôn giáo của Tân Cương chủ yếu có Hiệp hội Hồi
giáo, Học viện kinh Islam, Hiệp hội Phật giáo v.v.
Hiện nay tại Tân Cương, khoảng 10 dân tộc trở lên trong đó có
người Uyghur (chủ yếu),
người Kazakh,
người Hồi,
người Iran,
người Tạng Hồi giáo,
người Mông Cổ,
người Tatar,
người Kyrgyz,
người Pakistan,
người Tajik,
người Uzbek v.v đều theo đạo Hồi, quần chúng theo đạo hơn 10 triệu người, chiếm 56,3% dân số Tân Cương.
Người Mông Cổ ở Tân Cương đa số theo
Phật giáo Tây Tạng và một số theo
Hồi giáo (do chịu ảnh hưởng từ dân
Trung Á), tổng cộng có khoảng 80 nghìn người, Tân Cương có 40 chùa Phật giáo Tây Tạng, gần 30 nghìn người theo
Cơ Đốc giáo với 24
nhà thờ. Hiện nay Tân Cương có hơn 4000 người theo
Thiên Chúa giáo, 25
nhà thờ và nơi hoạt động Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, Tân Cường còn có hơn 100
người Nga theo
Chính Thống giáo, có hai nhà thờ.
Giao thông vận tải
Nói chung giao thông vận tải ở Tân Cương gặp nhiều trở ngại do thời
tiết khắc nghiệt, điều kiện hoang mạc ở vùng này. Hiện nay, các tuyến
đường cao tốc xuyên Tân Cương đang được xây dựng để trở thành những
tuyến đường huyết mạch phục vụ dầu mỏ và an toàn giao thông trong vùng.
Song tình hình khắc nghiệt vẫn cản trở hoạt động phát triển giao thông ở
đây.
Tây Tạng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tây Tạng (
chữ Tây Tạng: བོད་;
Wylie:
Bod,
phát âm tiếng Tạng: [pʰø̀ʔ];
tiếng Trung:
藏區 /
Tạng khu) là một
khu vực cao nguyên tại
châu Á, ở phía bắc-đông của dãy
Himalaya, thuộc
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là quê hương của
người Tạng cũng như một số dân tộc khác như
Môn Ba,
Khương, và
Lạc Ba, và hiện nay cũng có một lượng đáng kể
người Hán và
người Hồi sinh sống. Tây Tạng là khu vực có
cao độ lớn nhất trên
Trái Đất, với độ cao trung bình là 4.900 mét (16.000 ft).
|
<div" cellpadding="0"> |
|
Khu tự trị Tây Tạng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
|
"Đại Tạng"; phạm vi Tây Tạng theo định nghĩa của các nhóm người Tạng lưu vong |
|
Các khu vực người Tạng theo xác định của chính quyền Trung Quốc |
|
Khu vực do Trung Quốc quản lý, Ấn Độ tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Aksai Chin |
|
Khu vực Ấn Độ quản lý, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Khu tự trị Tây Tạng |
|
Các khu vực khác về mặt lịch sử nằm trong phạm vi của văn hóa Tạng |
Đến thế kỷ thứ 7, Tây Tạng trở thành một
đế quốc thống nhất, song nhanh chóng phân liệt thành nhiều lãnh thổ. Phần lớn tây bộ và trung bộ Tây Tạng (
Ü-Tsang) thường thống nhất (ít nhất là trên danh nghĩa) dưới quyền các chính quyền nối tiếp nhau ở
Lhasa,
Shigatse, hay những nơi lân cận; các chính quyền này từng có lúc nằm dưới quyền bá chủ của Mông Cổ và Trung Quốc. Các khu vực
Kham và
Amdo
ở đông bộ thường duy trì cơ cấu chính trị bản địa mang tính phân tán
hơn, được chia thành một số tiểu quốc và nhóm bộ lạc, các khu vực này
thường phải chịu sự kiểm soát trực tiếp hơn từ Trung Hoa; và hầu hết
chúng cuối cùng được hợp nhất vào các tỉnh
Tứ Xuyên và
Thanh Hải. Ranh giới hiện nay của Tây Tạng nhìn chung được thiết lập nên vào thế kỷ 18 Sau khi
triều Thanh sụp đổ
vào năm 1912, các binh lính Thanh bị giải giáp và được hộ tống ra khỏi
Tây Tạng địa phương (Ü-Tsang). Tây Tạng địa phương tuyên bố độc lập vào
năm 1913. Sau đó, chính phủ Lhasa đoạt lấy quyền kiểm soát phần phía tây
của tỉnh
Tây Khang. Khu vực duy trì tình trạng tự quản cho đến năm 1951, khi
Quân đội Cộng sản Trung Quốc tiến vào Tây Tạng, Tây Tạng hợp nhất vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và chính phủ Tây Tạng bị bãi bỏ sau một cuộc nổi dậy thất bại vào năm 1959.
Ngày nay, chính phủ Trung Quốc định ra Khu tự trị Tây Tạng ở tây bộ và
trung bộ của Tây Tạng, còn các khu vực phía đông hầu hết thuộc về các
tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Có những căng thẳng liên quan đến tình trạng
chính trị của Tây Tạng
trong khi có các nhóm người Tạng lưu vong đang hoạt động.
Kinh tế Tây Tạng chủ yếu là
nông nghiệp tự cấp, song
du lịch cũng trở thành một ngành kinh tế nổi lên trong các thập niên gần đây. Tôn giáo chủ yếu ở Tây Tạng là
Phật giáo Tây Tạng, cùng với đó là tôn giáo bản địa
Bön (Bön ngày nay tương đồng với Phật giáo Tây Tạng
) cùng với các thiểu số
Hồi giáo và
Cơ Đốc giáo.
Phật giáo Tây Tạng có ảnh hưởng mang tính chủ yếu đối với nghệ thuật,
âm nhạc, lễ hội của khu vực. Kiến trúc Tạng phản ánh ảnh hưởng từ kiến
trúc Hán và kiến trúc Ấn. Các loại lương thực chủ yếu tại Tây Tạng là
đại mạch, thịt
bò Tạng, và
trà bơ.
Từ nguyên
Người Tạng gọi vùng đất của họ là
Bod བོད་
</noinclude>, mặc dù ban đầu nó chỉ có nghĩa là chỉ vùng trung bộ quanh
Lhasa- nay được gọi là
Ü trong tiếng Tạng. Cách phát âm trong tiếng Tạng tiêu chuẩn của từ
Bod,
[pʰøʔ˨˧˨], được chuyển tự thành
Bhö theo phương pháp Tournadre,
Bö theo phương pháp THL, và
Poi theo
bính âm tiếng Tạng. Một số học giả cho rằng các văn bản đầu tiên đề cập đến
Bod "Tây Tạng" là những miêu tả về người
Bautai trong các tác phẩm
Chuyến đi vượt Hồng Hải (thế kỷ 1 CN) và
Geographia (
Ptolemy, thế kỷ 2 CN),
bản thân nó lại có nguồn gốc từ
Bhauṭṭa trong
tiếng Phạn.
Từ "Tây Tạng" trong tiếng Hán bắt nguồn từ việc
hoán dụ tên gọi khu vực
Tsang quanh
Shigatse,
cộng thêm tiền tố "Tây". Con người, ngôn ngữ, và văn hóa Tây Tạng đến
từ bất cứ nơi đâu cũng đều được gọi là "Tạng", song khái niệm địa lý của
Tây Tạng tại Trung Quốc nay thường chỉ giới hạn trong Khu tự trị Tây
Tạng. Thuật ngữ
Tây Tạng được đặt ra dưới thời
Gia Khánh Đế (1796–1820).
Tên Thổ Phồn lần đầu tiên được viết bằng Hán tự bằng "土番" vào thế kỷ 7 (
Lý Thái) và bằng 吐蕃 vào thế kỷ 10 (
Đường thư mô tả sứ thần năm 608–609 do Tán phổ
Nang Nhật Luân Tán phái đến chỗ
Tùy Dạng Đế). Trong
tiếng Hán Trung cổ, do
William H. Baxter tái dựng, 土番 được đọc là
thux-phjon và 吐蕃 được đọc là
thux-pjon (với
x thể hiện
thanh điệu). Các tên tiếng Hán khác dùng để chỉ Tây Tạng bao gồm Ô Tư Quốc (烏斯國), Ô Tư Tạng (烏斯藏), Đồ Bá Đặc (圖伯特), và Đường Cổ Thắc (唐古忒).
Ngôn ngữ
Các nhà ngôn ngữ học thường xếp tiếng Tạng là một ngôn ngữ thuộc
Ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dù ranh giới giữa "tiếng Tạng" với các ngôn ngữ
Himalaya khác có thể không rõ ràng. Theo
Matthew Kapstein:
Theo quan điểm của ngôn ngữ học lịch sử, tiếng Tạng tương đồng nhất với tiếng Miến Điện trong số các ngôn ngữ lớn tại châu Á. Nhóm hai ngôn ngữ này cùng với các ngôn ngữ khác dường như có liên hệ ở vùng đất Himalaya,
cũng như ở vùng cao của Đông Nam Á và các khu vực ranh giới giữa
Hán-Tạng, các nhà ngôn ngữ học nói chùng kết luận rằng có sự tồn tại của
một họ ngôn ngữ Tạng-Miến. Gây nhiều tranh cãi hơn là việc nhóm ngôn
ngữ Tạng-Miến được cho là một phần của một họ ngôn ngữ lớn hơn là ngữ hệ
Hán-Tạng, qua đó tiếng Tạng và tiếng Miến là họ hàng xa của tiếng Hán.
Trẻ em người Tạng ở
Kham, trong một lễ hội ngựa
Tiếng Tạng có nhiều phương ngữ địa phương thường không hiểu lẫn nhau. Nó được sử dụng trên khắp cao nguyên Tây Tạng và
Bhutan, cũng được nói tại một số nơi ở
Nepal và bắc Ấn Độ, như ở
Sikkim. Nhìn chung, các phương ngữ ở trung bộ Tây Tạng (bao gồm Lhasa),
Kham,
Amdo và một số khu vực nhỏ hơn được xem là các phương ngữ tiếng Tạng. Các dạng khác, đặc biệt là
Dzongkha,
Sikkim,
Sherpa, và
Ladakh, được những người sử dụng chúng xem là các ngôn ngữ riêng biệt, phần lớn là vì lý do chính trị.
Mặc dù khẩu ngữ tiếng Tạng thay đổi tùy theo khu vực, song văn viết
tiếng Tạng dựa trên ngôn ngữ Tạng cổ điển thì đồng nhất rộng khắp. Điều
này có thể là do ảnh hưởng lâu dài của Thổ Phồn. Tiếng Tạng có chữ viết
riêng, chung với tiếng Ladakh và tiếng Dzongkha, có nguồn gốc từ
chữ Brāhmī từ Ấn Độ cổ đại.
Lịch sử
Loài người định cư trên cao nguyên Tây Tạng ít nhất là từ 21.000 năm trước Các cư dân này phần lớn bị thay thế vào khoảng năm 3000 TCN bởi những người nhập cư
thời đại đồ đá mới
đến từ miền Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, có một sự "di truyền cục bộ liên
tục giữa các cư dân thời đại đồ đá cũ và những cư dân Tạng hiện đại"
Bản văn tiếng Tạng lâu đời nhất xác định
văn hóa Tượng Hùng (Zhangzhung) là của một nhóm người nhập cư từ khu vực
Amdo đến nơi mà nay là
Guge ở tây bộ Tây Tạng.
Tượng Hùng được đánh giá là khởi nguồn ban đầu của tôn giáo
Bön.
Vào thế kỷ 1 TCN, một vương quốc láng giềng nổi lên ở thung lũng Yarlung, và quốc vương Yarlung là
Drigum Tsenpo (Chỉ Cống Tán Phổ) cố gắng loại bỏ ảnh hưởng của Tượng Hùng bằng việc trục xuất các giáo sĩ
Bön khỏi Yarlung
Ông bị ám sát và Tượng Hùng vẫn tiếp tục tống trị khu vực cho đến khi
bị Songtsen Gampo (Tùng Tán Cán Bố) sáp nhập vào thế kỷ thứ 7.
Trước thời Tùng Tán Cán Bố, các quân chủ Tây Tạng mang tính thần
thoại hơn là thực tế, và không có đủ bằng chứng về việc họ có thực sự
tồn tại hay không
Thổ Phồn những năm 780-790
Thổ Phồn
Lịch sử của một Tây Tạng thống nhất bắt đầu dưới triều đại của
Tùng Tán Cán Bố, ông thống nhất các lãnh thổ ở thung lũng
sông Yarlung và lập nên
Đế quốc Thổ Phồn.
Ông cũng tiến hành nhiều cải cách và Thổ Phồn nhanh chóng khuếch trương
thế lực rồi trở thành một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền, phối ngẫu
đầu tiên của ông là Công chúa
Bhrikuti
của Nepal, và bà đóng một vai trò rất lớn trong việc hình thành đức tin
Phật giáo tại Tây Tạng. Năm 640, Tùng Tán Cán Bố kết hôn với
Văn Thành công chúa, cháu gái của
Đường Thái Tông
Dưới thời một số vị quân chủ tiếp theo, Phật giáo trở thành quốc giáo
và thế lực của Thổ Phồn thậm chí còn bao trùm lên nhiều khu vực rộng
lớn ở
Trung Á, từng thực hiện các cuộc xâm nhập lớn vào lãnh thổ Đại Đường, thậm chí từng tiến đến kinh sư
Trường An vào cuối năm 763.
Tuy nhiên, Thổ Phồn chỉ cò thể chiếm được Trường An trong 15 ngày, sau đó họ bị liên minh Đường cùng
Hồi Cốt đánh bại.
Vương quốc Nam Chiếu
nằm dưới quyền kiểm soát của Thổ Phồn từ năm 750 đến 794, người Nam
Chiếu sau thoát khỏi quyền bá chủ của Thổ Phồn và giúp Đường đánh bại
Thổ Phồn.
Năm 747, uy thế của Thổ Phồn bị lung lay do chiến dịch của tướng Đường
Cao Tiên Chi, người này muốn tái lập tuyến đường thông thương trực tiếp giữa Trung Á và
Kashmir. Năm 750, Thổ Phồn mất hầu hết thuộc địa ở Trung Á vào tay Đường. Tuy nhiên, sau khi Cao Tiên Chi thất bại trước
vương triều Abbas của người Ả Rập trong
trận Talas (751) và Đường xảy ra
nội loạn, ảnh hưởng của Đường suy giảm nhanh chóng và ảnh hưởng của Thổ Phồn được phục hồi.
Vào năm 821/822, Thổ Phồn và Đường ký kết hòa ước, trong đó xác định
chi tiết biên giới giữa hai bên, chùng được khắc song ngữ trên một cột
đá nằm bên ngoài
chùa Đại Chiêu (Jokhang) ở Lhasa.
Thổ Phồn tiếp tục duy trì vị thế là một đế quốc Trung Á cho đến giữa
thế kỷ thứ 9, khi một cuộc nội chiến tranh giành quyền kế vị dẫn đến sự
sụp đổ của Thổ Phồn. Thời kỳ sau đó, Thổ Phồn bị phân liệt giữa các quân
phiệt và bộ lạc, không có quyền lực tập trung.
Thời Nguyên
Triều Nguyên quản lý Tây Tạng thông qua
Tuyên Chính Viện-
cơ quan hành chính cao nhất tại Tây Tạng. Một trong số các mục đích của
cơ quan này là chọn ra một "dpon-chen" (bản thiền), thường do Lạt-ma bổ
nhiệm và được hoàng đế Nguyên ở
Bắc Kinh xác nhận.
Lạt ma của
Tát-ca phái
duy trì quyền tự chủ ở một mức độ nhất định, nắm thẩm quyền về mặt
chính trị của khu vực, còn Bản thiền thì nắm giữ quyền hành pháp và quân
sự. Sự cai trị của người Mông Cổ đối với Tây Tạng là riêng biệt so với
các tỉnh khác tại
Trung Quốc bản thổ. Nếu Lạt-ma của Tát-ca phái xảy ra xung đột với Bản thiền, Bản thiền có quyền đem quân đến khu vực
Người Tây Tạng duy trì thẩm quyền hư danh đối với các vấn đề tôn giáo
và chính trị khu vực, trong khi người Mông Cổ quản lý cấu trúc và hành
chính
tại khu vực, được củng cố bằng các can thiệp quân sự song việc này hiếm
khi xảy ra. Đây là tình trạng "cấu trúc hai chính quyền" dưới trướng
hoàng đế Nguyên, trong đó quyền lực chính thuộc về người Mông Cổ.
Vương tử
Khoát Đoan (Khuden) giành được quyền lực thế tục tại Tây Tạng vào thập niên 1240 và ủng hộ
Tát Ca Ban Chí Đạt (Sakya Pandita), nơi người này tu hành trở thành thủ phủ của Tây Tạng.
Quyền kiểm soát của triều Nguyên đối với Tây Tạng kết thúc khi họ bị
triều Minh lật đổ ở Trung Nguyên, và
Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán (Tai Situ Changchub Gyaltsen) nổi dậy chống lại người Mông Cổ Sau cuộc nổi dậy, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán thành lập nên triều đại
Phách Mộc Trúc Ba (Phagmodrupa), và tìm cách giảm bớt ảnh hưởng của Nguyên đối với văn hóa và chính trị Tạng
Phác Mộc Trúc Ba và Đạt Lai Lạt Ma
Từ năm 1346 đến 1354, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán lật đổ Tát-ca phái và lập ra triều Phách Mộc Trúc Ba. Trong 80 năm sau đó,
Tông-khách-ba thành lập nên
Cách-lỗ phái, các tu viện Phật giáo quan trọng như
Ganden (Cam Đan),
Drepung (Triết Bạng), và
Sera (Sắc Lạp) được hình thành gần Lhasa.
Năm 1578,
Yêm Đáp Hãn (Altan Khan) của
Thổ Mặc Đặc bộ Mông Cổ trao cho
Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso)- một Lạt-ma có địa vị cao của Cách-lỗ phái, danh hiệu
Đạt-lai Lạt-ma (Dalai Lama);
Dalai là từ dịch sang tiếng Mông Cổ của "Gyatso", nghĩa là "đại dương".
Những người Âu đầu tiên đến Tây Tạng là những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha
António de Andrade và Manuel Marques vào năm 1624. Họ được Quốc vương và vương hậu nước
Cổ Cách
(Guge) nghênh đón, và được phép xây dựng một nhà thờ và giới thiệu đức
tin Cơ Đốc giáo. Quốc vương Cổ Cách hăng hái chấp nhận Cơ Đốc giáo để
đối phó với ảnh hưởng tôn giáo của Cách-lỗ phái đang phát triển mạnh và
để làm đối trọng với các đối thủ tiềm năng của mình cũng như củng cố địa
vị. Toàn bộ các nhà truyền giáo bị trục xuất vào năm 1745.
Thời Thanh
Triều Thanh đưa
Amdo vào quyền kiểm soát của họ vào năm 1724, hợp nhất đông bộ của
Kham vào các tỉnh lân cận vào năm 1728 Triều đình Thanh phái một đặc ủy viên cư dân, gọi là một
Amban (ngang bang), đến Lhasa. Năm 1750, Ngang bang và phần lớn người Hán cùng người Mãn sống tại Lhasa bị sát hại trong
một cuộc nổi loạn,
và quân Thanh nhanh chóng tiến đến và đàn áp quân nổi dậy vào năm sau.
Giống như triều Nguyên, triều Thanh kiểm soát hành chính và quân sự của
khu vực, và trao cho Tây Tạng sự tự trị nhất định về mặt chính trị.
Tướng quân Thanh hành hình thị chúng một số người ủng hộ quân nổi dậy,
và vào năm 1723 và 1728, tiến hành các thay đổi trong cấu trúc chính trị
và dự tính về tổ chức chính thức. Triều Thanh nay cho Đạt-lai Lạt-ma
lãnh đạo chính quyền được gọi là
Cát hạ (Kashag) song nâng cao vai trò của
Ngang bang
bao gồm cả việc tham gia vào các vấn đề nội bộ của Tây Tạng. Đồng thời
triều Thanh cũng cho các giáo sĩ nắm những vị trí chủ chốt trong chính
quyền địa phương để làm đối trọng với quyền lực của tầng lớp quý tộc
Trong nhiều thập niên, Tây Tạng có được tình trạng hòa bình, song vào
năm 1792, hoàng đế Thanh khiển một đội quân lớn đến Tây Tạng nhằm đánh
đuổi quân Nepal xâm lược. Triều Thanh lại tái tổ chức chính quyền Tây
Tạng, lần này là thông qua một bản kế hoạch gọi là "Tân đính Tây Tạng
chương trình nhị thập cửu điều". Các đơn vị quân Thanh đồn trú cũng được
thiết lập gần biên giới với Nepal.
Tây Tạng do người Mãn thống trị trong các giai đoạn khác nhau vào thế
kỷ 18, và những năm ngay sau những chỉnh lý 1792 là thời kỳ đỉnh cao của
quyền lực của đại diện triều đình Thanh; song không có nỗ lực nào nhằm
biến Tây Tạng thành một tỉnh của Đại Thanh
Năm 1834,
Đế quốc Sikh xâm lược và thôn tính
Ladakh, một khu vực thuộc văn hóa Tây Tạng mà khi đó là một vương quốc độc lập. Bảy năm sau đó, một đội quân Sikh do tướng
Zorawar Singh chỉ huy tiến vào xâm chiếm tây bộ Tây Tạng từ Ladakh, khởi đầu
Chiến tranh Thanh-Sikh.
Một đội quân Thanh-Tạng đẩy lui quân xâm lược song sau đó bị đánh bại
khi truy kích quân Sikh đến Ladakh. Chiến tranh kết thúc với việc ký kết
hòa ước giữa Thanh và Sikh.
Do triều Thanh suy yếu, thẩm quyền của họ đối với Tây Tạng cũng dần
suy yếu theo; đến giữa thế kỷ 19, ảnh hưởng của triều Thanh chỉ còn rất
ít. Thẩm quyền của triều Thanh chỉ còn mang tính biểu tượng thay vì thực
chất vào cuối thế kỷ 19
mặc dù trong thập niên 1860 người Tạng vì những lý do riêng vẫn tiếp
tục lựa chọn việc nhấn mạnh thẩm quyền mang tính biểu tượng của triều
Thanh và thể hiện rằng điều này có vẻ đáng kể
Thời kỳ này, Tây Tạng cũng xuất hiện một số liên hệ với
Dòng Tên và
Dòng Phanxicô từ châu Âu, và vào năm 1774 một nhà quý tộc
người Scotland là
George Bogle đến
Shigatse để dò xét tiềm năng thương mại cho
Công ty Đông Ấn Anh.
[40] Thế kỷ 19,
Đế quốc Anh xâm lấn từ miền Bắc Ấn Độ vào khu vực dãy
Himalaya,
Vương quốc Afghanistan và
Đế quốc Nga khuếch trương ra Trung Á và họ nghi ngờ ý định của nhau đối với Tây Tạng.
Năm 1904,
Anh xâm lược Tây Tạng do lo sợ rằng người Nga sẽ khuếch trương thế lực đến khu vực này, Anh hy vọng rằng việc đàm phán với
Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 sẽ có hiện quả hơn là với các đại diện của triều đình Bắc Kinh Khi quân Anh tiến đến Tây Tạng, một cuộc đối đầu vũ trang giữa hai bên dẫn đến vụ thảm sát Chumik Shenko,
sau đó
Francis Younghusband áp đặt một hiệp định mà sau đó bị bãi bỏ, và được thay thế bởi Hiệp ước giữa Anh Quốc và Đại Thanh vào năm 1906.
Năm 1910, triều đình Thanh khiển
Triệu Nhĩ Phong
đem quân đến Tây Tạng để thiết lập quyền cai quản trực tiếp của triều
đình và hạ chiếu phế bỏ Đạt-lại Lạt-ma 13- người chạy trốn sang Ấn Độ
thuộc Anh. Triệu Nhĩ Phong đánh bại quân Tây Tạng và trục xuất lực lượng
của Đạt-lại Lạt-ma khỏi Tây Tạng.
Thời Hậu Thanh
Sau
Cách mạng Tân Hợi (1911–1912) lật đổ triều Thanh và các binh sĩ Thanh cuối cùng bị áp giải ra khỏi Tây Tạng,
Trung Hoa Dân Quốc xin lỗi về các hành động của triều Thanh và quyết định khôi phục tước hiệu cho Đạt-lai Lạt-ma Đạt-lai Lạt-ma từ chối bất kỳ tước hiệu nào của Trung Quốc, và ông tuyên bố cai trị một Tây Tạng độc lập Năm 1913, Tây Tạng và Mông Cổ ký hiệp định công nhận lẫn nhau
Trong 36 năm sau đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 và các nhiếp chính kế tiếp
ông cai quản Tây Tạng. Trong thời gian này, Tây Tạng giao chiến với các
quân phiệt Trung Quốc để tranh quyền kiểm soát đối với các khu vực người
Tạng tại
Tây Khang và
Thanh Hải (một phần của
Kham và
Amdo) dọc theo thượng du
Trường Giang Năm 1914, chính phủ Tây Tạng ký kết
điều ước Simla với Anh Quốc, nhượng
Nam Tây Tạng cho
Ấn Độ thuộc Anh. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố điều ước là bất hợp pháp.
Khi các nhiếp chính mắc các sơ suất trong việc cai quản vào thập niên
1930 và 1940, chính phủ Quốc dân của Trung Quốc nhân cơ hội này để
khuếch trương phạm vi thế lực vào lãnh thổ Tây Tạng.
Từ năm 1950 đến nay
Sau
Nội chiến Trung Quốc,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành "
giải phóng hòa bình Tây Tạng" vào năm 1950 và dàn xếp "
Thập thất điều hiệp nghị" với chính phủ của
Đạt-lai Lạt-ma thứ 14
mới đăng cơ, khẳng định chủ quyền của Trung Quốc song trao cho Tây Tạng
quyền tự trị khu vực. Sau đó, trên hành trình đi lưu vong, Đạt-lai
Lạt-ma thứ 14 hoàn toàn bác bỏ hiệp nghị.
Sau khi chính phủ của Đạt-lai Lạt-ma chạy đến
Dharamsala, Ấn Độ, trong
Nổi dậy Tây Tạng 1959, họ thành lập một
chính phủ lưu vong đối nghịch. Sau đó, chính phủ Bắc Kinh từ bỏ hiệp nghị và bắt đầu thực hiện các cải cách xã hội và chính trị từng bị tạm dừng.
Trong
Nạn đói lớn, có khoảng 200.000 đến 1.000.000 người Tây Tạng thiệt mạng, và xấp xỉ 6.000 tu viện bị phá hủy trong
Cách mạng Văn hóa.
Năm 1962, Trung Quốc và Ấn Độ giao chiến trong
cuộc chiến ngắn ngủi do tranh chấp lãnh thổ. Mặc dù giành chiến thắng song các binh sĩ Trung Quốc vẫn rút về phía bắc của
đường McMahon, Nam Tây Tạng vẫn thuộc quyền quản lý của Ấn Độ.
Năm 1980, Tổng bí thư
Hồ Diệu Bang thăm Tây Tạng, và mở ra một giai đoạn tự do hóa xã hội, chính trị và kinh tế Đến cuối thập niên, các tăng ni tại tu viện
Drepung và
Sera
bắt đầu kháng nghị và yêu cầu độc lập, do vậy chính phủ Trung ương dừng
việc cải cách lại và bắt đầu một chiến dịch chống ly khai.
Địa lý
Tây Tạng nằm trên
cao nguyên Tây Tạng, cao trung bình trên 4200 m. Phần lớn dãy
Himalaya nằm trong địa phận Tây Tạng. Đỉnh cao nhất của dãy núi này, đỉnh
Everest, nằm trên biên giới với
Nepal.
Khí hậu ở đây rất khô suốt 9 tháng trong năm. Có những dãy núi tuyết
vĩnh cửu cao 5.000-7.000 m. Các hẻm núi phía tây nhận được một lượng nhỏ
tuyết mỗi năm nhưng vẫn có thể dùng được quanh năm. Nhiệt độ thấp là
chủ đạo trong khu vực này, trong đó sự hoang vắng lạnh lẽo đến tẻ nhạt
bởi không có một loài cây nào ngoài một vài bụi cây rậm và thấp, và gió
thổi ngang qua đồng bằng khô cằn mênh mông không hề bị cản trở.
Gió mùa từ
Ấn Độ Dương gây ra một số ảnh hưởng ở phía đông Tây Tạng. Phía bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh khủng khiếp về mùa đông.
Tây Tạng trong lịch sử bao gồm các khu vực sau:
- Amdo (a'mdo) ở phía đông bắc, được sát nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
- Kham (khams) ở phía đông, một phần của Tứ Xuyên, bắc Vân Nam và một phần của Thanh Hải.
- Tây Kham, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- U (dbus), ở trung tâm, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- Tsang (gtsang) ở phía tây, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
Văn hóa của người Tây Tạng ảnh hưởng rộng lớn tới các quốc gia láng giềng như
Bhutan,
Nepal, các khu vực kề sát của Ấn Độ như
Sikkim và
Ladakh, và các tỉnh kề bên của Trung Quốc mà ở đó
Phật giáo Tây Tạng là tôn giáo chủ yếu.
Bản đồ Lhasa đầu thế kỷ 19.
Một số con sông chính có đầu nguồn ở Tây Tạng bao gồm:
Kinh tế
Kinh tế của Tây Tạng chủ yếu là
nông nghiệp tự cung tự cấp. Vì hạn chế trong
đất trồng trọt,
chăn nuôi đã phát triển như ngành nghề chính. Trong những năm gần đây,
du lịch đã trở thành một ngành quan trọng, và nó được xúc tiến một cách tích cực từ phía chính quyền. Tuyến
đường sắt Thanh-Tạng (青藏铁路) được xây dựng để kết nối khu vực này với phần còn lại của
Trung Quốc dài 1956 km nối tỉnh Thanh Hải với Tây Tạng được Chính phủ Trung Quốc tuyên bố hoàn thành vào ngày
15 tháng 10 năm
2005.
Tuyến đường sắt Thanh-Tạng
Từ ngày 1/7/2006, Trung Quốc chính thức đưa vào vận hành tuyến đường
sắt cao nhất thế giới, nối thành phố Thanh Hải với vùng Tây Tạng hùng
vĩ.
Tuyến đường sắt lên Tây Tạng là công trình xây dựng mang công nghệ
phức tạp, với đường ray đặc biệt có khả năng ổn định trong điều kiện
thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Ga đầu của tuyến đường sắt nổi tiếng này
là thành phố Golmud thuộc tỉnh Thanh Hải và ga cuối là thủ phủ Lhasa của
Tây Tạng.
Các toa tàu được thiết kế như khoang máy bay để bảo vệ hành khách
trước độ cao quá lớn, với điểm cao nhất của công trình lên tới 5.072 mét
so với mặt nước biển. Không khí bên trong được điều hòa tự động để cân
bằng tại những nơi thiếu dưỡng khí mà tàu chạy qua.
Trung Quốc tuyên bố tuyến đường sắt Thanh-Tạng có tổng chi phí xây
dựng 4,2 tỷ USD và dài 1.140 km này là một kỳ tích vĩ đại về công nghệ,
đem lại cơ hội phát triển to lớn cho một khu vực mênh mông hùng vĩ.
Chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng tuyến đường sắt cao
nhất thế giới vừa được khánh thành, nhằm đưa công trình được coi là kỳ
tích xây dựng này vươn tới thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng sau Lhasa là
Xigaze.
Thành phố Xigaze cao hơn mực nước biển 3.800 mét và nằm gần biên giới
với Ấn Độ. Đây là nơi ngự trị truyền thống của Ban Thiền Lạt Ma, một
trong những lãnh đạo tinh thần quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Xigaze còn có cách viết khác là Shigatse có dân số 80.000 người. Vùng
đất này tọa lạc tại nơi hợp lưu của hai dòng sông nổi tiếng về tâm linh
là Yarlong Tsangpo và Nuangchu, ở phía tây của Khu tự trị Tây Tạng.
Theo
Tân Hoa xã,
tuyến đường sắt sẽ được kéo dài thêm 270 km từ Lhasa tới Xigaze và hoàn
thành trong vòng 3 năm. Một quan chức địa phương là Yu Yungui nhấn
mạnh: "Đường sắt sẽ tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội
của Xigaze".
Tình trạng cách ly đặc biệt của Tây Tạng về địa lý khiến kinh tế vùng
đất này nghèo nàn. Hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung bình của người
dân tại đây thấp hơn nhiều so với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng
chính sự cách ly đó giúp bảo tồn nền văn hoá đặc trưng và lối sống không
giống đâu trên thế giới này của Tây Tạng.
Sự xuất hiện của hệ thống đường sắt sẽ đem đến thay đổi dữ dội mà Bắc
Kinh đánh giá là sẽ khai phá Tây Tạng, mang đến sự phồn vinh cho người
dân địa phương. Nhưng những người chỉ trích công trình này thì cho rằng,
nó sẽ là hồi chuông báo tử cho nền văn hoá đặc hữu của Tây Tạng.
Trước khi có đường sắt, chỉ có hai cách đến được với thủ phủ Lhasa.
Đó là đáp một chuyến bay rất hao tiền để rồi dựng tóc gáy mỗi khi nó hạ
cánh xuống Tây Tạng. Cách thứ hai là đi trên những chuyến xe buýt nêm
chặt người và mất 3 ngày 3 đêm ròng rã trên những con đường núi nguy
hiểm và tổn sức.
Nhưng rất nhiều chiếc xe như vậy cùng hành khách của nó đã kết thúc
cuộc hành trình dưới một khe núi sâu nào đó có vô số trên đường.
Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của tuyến đường sắt đối với Tây
Tạng. Nhiều người địa phương cho rằng: "Đó là một ý tưởng tốt. Nó sẽ
giúp chúng tôi mang len ra thị trường dễ dàng hơn. Hiện chúng tôi phải
thuê xe tải để chuyên chở, nhưng với tàu hoả nó sẽ rẻ và dễ hơn nhiều".
Tuy nhiên, các nhà môi trường học lại lo ngại về những ảnh hưởng của
tuyến đường sắt đến con đường di trú của loài linh dương Tây Tạng quý
hiếm. Họ cũng lo lắng cho một hệ sinh thái rất mong manh, mà một khi bị
phá hỏng sẽ phải mất cả một thế hệ để sửa sai.
Dân số
Theo dòng lịch sử, dân cư Tây Tạng chủ yếu là tộc
người Tạng. Các tộc người khác ở Tây Tạng bao gồm
người Menba (Monpa),
người Lhoba,
người Mông Cổ và
người Hồi.
Việc đưa ra tỷ lệ
người Trung Quốc gốc
Hán ở Tây Tạng là một vấn đề chính trị nhạy cảm. Trong những năm từ
thập niên 1960 đến
thập niên 1980, nhiều tù nhân (trên 1 triệu, theo
Harry Wu) đã được đưa vào các trại
cải tạo ở
Amdo (
Thanh Hải)
và họ đã ở lại sau khi được trả tự do. Từ những năm 1980, sự tự do hóa
kinh tế ngày càng tăng và những thay đổi bên trong khu vực đã tạo ra một
luồng di cư của nhiều
người Hán tới Tây Tạng để tìm kiếm việc làm hay định cư, mặc dù con số thực của việc
di cư dân số này vẫn là điều gây tranh cãi.
Chính quyền Tây Tạng lưu vong
ước tính con số này là 7,5 triệu (đối lại chỉ có 6 triệu người Tạng),
coi điều này như là kết quả của chính sách tích cực trong việc làm mất
bản sắc dân tộc của người Tạng và thu nhỏ bất kỳ cơ hội nào của về độc
lập chính trị của Tây Tạng, và như thế đã vi phạm
Công ước Geneva năm
1946
là ngăn cấm việc định cư của các lực lượng chiếm đóng. Chính quyền Tây
Tạng lưu vong đặt dấu hỏi trên mọi con số thống kê được đưa ra bởi
CHNDTH, bởi vì họ đã không tính đến các thành viên của
Giải phóng quân nhân dân đồn trú ở Tây Tạng (hoặc gia đình họ), hoặc một lượng lớn dân di cư không đăng ký. Tuyến
đường sắt Thanh-Tạng (
Tây Ninh tới
Lhasa) cũng là sự quan ngại lớn, vì họ cho rằng nó sẽ làm thuận tiện hơn cho việc di dân.
Các hình thái tự trị của người Tạng-theo CHNDTH. Quyền tự trị thực sự của họ là đang tranh cãi.
Tuy nhiên, chính phủ CHNDTH không nhận mình là lực lượng chiếm đóng
và đã kịch liệt phản đối các luận điểm về mất bản sắc dân tộc. CHNDTH
cũng không thừa nhận các biên giới của Tây Tạng như Chính quyền Tây Tạng
lưu vong đã phát ngôn, cho rằng đó là âm mưu có tính toán nhằm tính cả
những khu vực phi-Tạng mà những người không là người Tạng đã sống nhiều
thế hệ (chẳng hạn như khu vực Tây Ninh và
thung lũng Chaidam)
để gia tăng nhận thức của người Tạng rằng lãnh thổ của người Tạng là
lớn hơn Khu tự trị Tây Tạng hiện nay. Thống kê chính thức của CHNDTH
thông báo rằng 92% dân số ở
Khu tự trị Tây Tạng là tộc người Tạng, mặc dù tỷ lệ này thấp hơn một cách đáng kể so với những dữ liệu đối với
Amdo và đông
Kham,
bởi vì người Trung Quốc gốc Hán không phân bổ đều trên toàn bộ Tây Tạng
lịch sử. Trong khu tự trị Tây Tạng, phần lớn người Hán sống ở
Lhasa.
Các chính sách kiểm soát dân số như "mỗi gia đình chỉ có một con" chỉ
áp dụng đối với người Hán, mà không áp dụng với các dân tộc thiểu số như
người Tạng. CHNDTH nói rằng chính quyền đang cố gắng bảo vệ các văn hóa
truyền thống Tây Tạng; họ cũng xây dựng tuyến đường sắt Thanh-Tạng,
phục hồi
cung điện Potala và nhiều dự án khác như là một phần của chiến lược
Phát triển miền tây Trung Quốc,
là một cố gắng to lớn và đắt tiền của phần miền đông giàu có hơn của
Trung Quốc đối với Tây Tạng nhằm phát triển các khu vực miền tây nghèo
hơn.
Văn hóa-tôn giáo
Tượng những con sư tử tuyết lớn bảo vệ lối vào cung điện Potala
Đại tu viện Samye, tu viện Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng
Bài chính: Văn hóa Tây Tạng
Tây Tạng là trung tâm truyền thống của
Phật giáo Tây Tạng, một dạng đặc biệt của
Mật Tông (
Vajrayana).
Phật giáo đứng đầu trong các
tôn giáo và mang đậm dấu ấn trong
văn hóa ở Tây Tạng. Đây là nơi sinh ra
Mật Tông. Một tông phái của Phật giáo với văn hóa và phong cách đa dạng như Quán Đảnh, Trì Chú cùng với các vị
Đạt-Lai-Lạt-Ma
(Phật sống) được nhiều người tôn thờ. Hiện nay, khu tự trị Tây Tạng
tổng cộng có hơn 1700 chùa chiền tổ chức hoạt động Phật giáo Tây Tạng,
có khoảng 46 nghìn tăng ni.
Phật giáo Tây Tạng không những chỉ được phổ biến ở Tây Tạng; nó còn là tôn giáo thịnh hành ở
Mông Cổ và phổ biến mạnh trong tộc
người Buryat ở miền nam
Siberia. Tây Tạng cũng là quê hương của một tôn giáo nguyên thủy gọi là
Bön (
Bon). Hàng loạt các tiếng địa phương của
tiếng Tạng được nói trên cả khu vực.
Người Tạng viết bằng
chữ Tạng.
Trong các thành phố Tây Tạng có các cộng đồng nhỏ người
Hồi giáo, được biết đến như là Kachee (
Kache), mà tổ tiên họ là những người di cư từ ba khu vực chính:
Kashmir (đối với người Tây Tạng cổ là Kachee Yul),
Ladakh và các nước của
người Turk ở
Trung Á. Ảnh hưởng của
Hồi giáo ở Tây Tạng cũng đến từ
Ba Tư. Ở đây cũng có các cộng đồng Hồi giáo Trung Quốc (
gya kachee) mà tổ tiên của họ là dân tộc
Hồi Trung Quốc. Người ta cho rằng những người Hồi giáo di cư từ
Kashmir và
Ladakh đã đến Tây Tạng vào khoảng
thế kỷ 12. Dần dần các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ xã hội đã dẫn đến sự tăng dân số thành cộng đồng đáng kể xung quanh
Lhasa. Hiện Hồi giáo ở đây có 4 Thánh đường với số tín đồ theo đạo khoảng 3000 người.
Thiên Chúa giáo có 1
nhà thờ Thiên Chúa giáo với người theo đạo hơn 700 người.
Mạn đà la - Một nghệ thuật đặc thù của Phật giáo Tây Tạng
Tây Tạng có nhiều danh lam thắng cảnh và một số phong tục tập quán
lạ. Điển hình trong các phong tục là làm Mạn Đà La, tức là các
vòng tròn bằng
cát nhuộm màu để làm ra đủ loại hình thù hay và đẹp.
Cung điện Potala, trước đây là nơi ở của các Đạt Lai Lạt Ma, là
di sản thế giới.
Người Duy Ngô Nhĩ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Uyghur
维吾尔
ئۇيغۇر |
|
Tổng số dân |
11,37 triệu (25 triệu theo các số liệu không chính thức) |
Khu vực có số dân đáng kể |
(Tân Cương)
|
Ngôn ngữ |
Uyghur |
Tôn giáo |
Hồi giáo Sunni |
Sắc tộc có liên quan |
Người Turk |
Người Duy Ngô Nhĩ (
chữ Hán:
維吾爾), còn gọi là
Uyghur ("Uy-gư-rư",
tiếng Duy Ngô Nhĩ:
ئۇيغۇر), là một
dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở khu tự trị
Tân Cương,
Trung Quốc. Các cộng đồng tha hương người Duy Ngô Nhĩ có mặt tại
Siberi (
Nga),
Đức,
Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia Trung Á như
Pakistan,
Kazakhstan,
Kyrgyzstan,
Mông Cổ,
Uzbekistan. Họ cũng sống tại huyện
Đào Nguyên trong địa cấp thị
Thường Đức tỉnh
Hồ Nam và các khu phố của người Duy Ngô Nhĩ cũng có mặt tại các một số thành phố lớn ở Trung Quốc như
Bắc Kinh và
Thượng Hải
Tiếng Việt còn gọi dân tộc này là
Hồi Ngột.
Đặc trưng
Trong lịch sử, tên gọi "Uyghur" được dùng để chỉ các bộ lạc nói tiếng Turk sống tại khu vực
dãy núi Altay. Cùng với người
Göktürk (Kokturk), người Uyghur là một trong các nhóm gốc Turk lớn nhất và tồn tại lâu nhất tại vùng
Trung Á.
Người Uyghur mang trong mình dòng máu pha trộn giữa
đại chủng Á và
đại chủng Âu. Tổ tiên của họ là
người Hồi Hột từng là một thế lực đáng kể ở phía bắc Trung Quốc từ thời
Đường tới thời
Tống. Tôn giáo chính hiện nay của họ là
Hồi giáo. Người Uyghur giỏi sản xuất nông nghiệp, làm đồ thủ công và buôn bán.
Văn hóa
Tàn tích văn hóa Uyghur được tập trung trong những bộ sưu tập lớn tại các bảo tàng ở
Berlin,
London,
Paris,
Tokyo,
Sankt Peterburg và
New Delhi.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các chuyến thám hiểm khoa học và khảo cổ
được tiến hành tại khu vực Uyghurstan (Tân Cương) trên
Con đường tơ lụa
khám phá ra rất nhiều đền thờ trong hang động, di tích tu viện, tranh
tường, cũng như tượng nhỏ quý báu, sách vở, tài liệu. Những nhà thám
hiểm từ châu Âu, châu Mỹ và Nhật Bản tỏ ra kinh ngạc trước những tác
phẩm nghệ thuật có giá trị tìm thấy ở đây. Các bản thảo và tài liệu tìm
thấy ở
Tân Cương (hay
Uyghurstan/
Đông Turkestan)
cho thấy một nền văn minh phát triển cao của người Uyghur. Quyền lực,
cũng như uy danh, văn hóa của người Uyghur, vốn thống trị vùng Trung Á
trong hơn một ngàn năm, tuột dốc nhanh chóng sau khi
nhà Thanh
xâm lăng vùng đất của họ. Trong suốt quá trình lịch sử vùng Trung Á, họ
để lại dấu ấn sâu sắc về cả văn hóa và truyền thống trong các dân tộc
sinh sống tại đây. Nhằm ngăn ngừa sự trỗi dậy của một nền văn hóa có sức
sống mãnh liệt Uyghur, chính quyền nước Trung Hoa hiện đại gồm Vương
Triều Nhà Thanh, nhà Hán luôn muốn triêt để tiêu bỏ những dấu ấn của
Uyghur. Sự xung đột sắc tộc, tôn giáo để đòi trở thành một nhà nước độc
lập Uyghur luôn bị Nhà nước Trung Hoa nhiều lần tiêu diệt đẫm máu.
Lịch sử
Thời nhà Thanh
Người Mãn, vốn là các bộ tộc bán du mục ở miền đông bắc Trung Quốc
ngày nay, bành trướng mãnh liệt đế quốc Thanh mà họ lập ra vào năm 1644,
sáp nhập Mông Cổ, Đông Turkistan (Tân Cương), và Tây Tạng. Quân Mãn
Châu xâm chiếm
Dzungaria
năm 1759 và cai trị vùng này cho tới năm 1864. Trong thời kỳ này, người
Uyghur vùng dậy 42 lần chống lại ách thống trị của nhà Thanh. Trong
cuộc nổi dậy năm 1864, người Uyghur thành công trong việc đánh đuổi bộ
máy quan lại của nhà Thanh khỏi
Đông Turkistan, và thành lập vương quốc
Kashgaria độc lập, gọi là
Yettishar (nghĩa là "vương quốc của bảy thành phố"). Dưới sự lãnh đạo của
A Cổ Bách, quốc gia này bao gồm
Kashgar (Khách Thập),
Yarkand (Toa Xa),
Hotan (Hòa Điền),
Aksu (A Khắc Tô),
Kucha (Khố Xa),
Korla (Khố Nhĩ Lặc) và
Turfan (Thổ Lỗ Phan)). Vương quốc này được
Đế quốc Ottoman công nhận năm 1873,
Đế quốc Nga năm 1872, và
Vương quốc Anh năm 1874, thủ đô đặt tại Kashgar.
Nhà Thanh điều động một lực lượng quân lớn dưới quyền chỉ huy của tướng
Tả Tông Đường tấn công
Đông Turkestan
năm 1876. Lo ngại khả năng Nga hoàng bành trướng sang Đông Turkestan,
Anh ủng hộ quân Mãn Châu bằng cách cung cấp các khoản vay thông qua nhà
băng Anh (phần lớn qua Boston Bank, HSBC đặt tại
Hồng Kông).
Sau cuộc xâm lược này, Đông Turkestan bị đổi tên thành "Tân Cương",
nghĩa là "cương vực mới", và bị sáp nhập vào đế quốc Mãn Châu ngày 18
tháng 11 năm 1884, trở thành một tỉnh của Trung Quốc.
Thời Cộng hòa
Tới năm 1920,
chủ nghĩa dân tộc
của người Uyghur đã trở nên một thách thức đáng kể cho nhà Thanh, và
sau đó là các lãnh chúa quân phiệt Trung Quốc thời kỳ Cộng hòa kiểm soát
Tân Cương. Nhà thơ
Abdulhaliq xứ
Turpan, sau khi sống thời tuổi trẻ tại các trung tâm tri thức Semey (
Semipalatinsk) và
Jadid tại Uzbekistan, trở về Tân Cương với bút danh Uyghur. Ông viết bài thơ yêu nước
Oyghan, mở đầu bằng dòng "Ey pekir Uyghur, oyghan!" (hỡi những người Uyghur khốn cùng, hãy tỉnh dậy!). Ông bị lãnh chúa người Hán là
Thịnh Thế Tài xử tử tại
Turpan tháng 3 năm 1933 vì tội làm dấy lên tư tưởng dân tộc của người Uyghur qua các tác phẩm của mình.
Những người đấu tranh cho nền độc lập của người Uyghur tiến hành vài
cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị hậu Thanh của lãnh chúa quân phiệt
Thịnh Thế Tài và
Quốc dân đảng.
Hai lần liền, trong các năm 1933 và 1944, người Uyghur nổi dậy nhưng
đều bị thất bại trong nỗ lực thiết lập các quốc gia độc lập: Cộng hòa
Đông Turkestan, và Cộng hòa Uyghurstan, hoặc là Cộng hòa Hồi giáo Đông
Turkestan.
Cộng hòa Đông Turkestan có tính thế tục, xã hội chủ nghĩa và đa sắc
tộc, với những người sáng lập bao gồm người Kazakh, Uzbek, Hán, Kyrgyz,
Nga, cũng như Uyghur, và được
Joseph Stalin ủng hộ.
Năm 1949, sau khi phe Quốc gia tại Trung Quốc thất trận, các nhà lãnh đạo Đông Turkestan chấp thuận hình thức hợp bang với
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của
Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, một vụ tai nạn máy bay khiến cho phần lớn ban lãnh đạo Cộng
hòa Đông Turkestan tử nạn trên đường tới Bắc Kinh đàm phán điều kiện
thành lập hợp bang. Vụ rơi máy bay này có lúc được cho là âm mưu của Mao
Trạch Đông, vì ngay sau khi vụ tai nạn xảy ra, tướng
Vương Chấn nhanh chóng hành quân vượt sa mạc vào Tân Cương, đàn áp lực lượng thân Quốc dân đảng và các cuộc nổi dậy của người thiểu số.
Bộ phận lãnh đạo còn lại của Cộng hòa Đông Turkestan dưới quyền tướng
Saifuddin Azizi nhanh chóng qui thuận các điều kiện
Mao Trạch Đông đặt ra, biến Tân Cương thành
Khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, quân đội thì sáp nhập vào Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc,
Saifuddin Azizi
thì nắm chức vụ bí thư đảng cộng sản tại đây. Rất nhiều người trung
thành với Cộng hòa Đông Turkestan, bất mãn với sự phản bội của
Saifuddin, đi tị nạn tại
Thổ Nhĩ Kỳ
và các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên nhiều người khác ở lại, tổ chức
các hoạt động chống đối nhằm tái lập một quốc gia độc lập tại Tân Cương.
Không bao lâu sau đó, tên gọi Đông Turkestan bị xóa bỏ bởi sự kiểm
duyệt của chính quyền Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét