CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 3
(ĐC sưu tầm trên NET)
7-Isaac Newton
1643-1727
Vương Quốc
Vật Lý, Thiên Văn Học
Isaac Newton
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Isaac Newton Jr. là một
nhà vật lý,
nhà thiên văn học,
nhà triết học, nhà
toán học, nhà
thần học và nhà
giả kim thuật người Anh , được nhiều người cho rằng là
nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất
. Theo
lịch Julius, ông sinh ngày
25 tháng 12 năm
1642 và mất ngày
20 tháng 3 năm
1727; theo
lịch Gregory, ông sinh ngày
4 tháng 1 năm
1643 và mất ngày
31 tháng 3 năm
1727.
Luận thuyết của ông về
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về
vạn vật hấp dẫn và 3
định luật Newton, được coi là nền tảng của
cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về
vật lý,
khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của
các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi
các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa
Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lí thuyết của ông về
trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn
Thuyết nhật tâm và theo đuổi
cách mạng khoa học.
Trong
cơ học, Newton đưa ra
nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong
quang học, ông khám phá ra sự
tán sắc ánh sáng, giải thích việc
ánh sáng trắng qua
lăng kính trở thành nhiều màu.
Trong toán học, Newton cùng với
Gottfried Leibniz phát triển phép tính
vi phân và
tích phân. Ông cũng đưa ra
nhị thức Newton tổng quát.
Năm
2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của
Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong
lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn
Albert Einstein.
Sự nghiệp
Isaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. Khi ông ở quãng tuổi từ khoảng 12 đến 17, ông học tại
King's School, Grantham, nơi mà ông chỉ học
tiếng Latinh và không có Toán. Sau đó, ông rời khỏi trường và đến tháng Mười năm 1659, ông có mặt tại
Woolsthorpe-by-Colsterworth,
nơi mà mẹ ông, lần thứ hai góa bụa, đang cố gắng khiến ông trở thành
một nông dân. Nhưng Newton lại ghét việc đồng áng. Henry Stocks, thày
của ông tại King's School, đã thuyết phục mẹ ông cho ông quay trở lại
trường học để ông có thể tiếp tục việc học của mình.
Vào tháng Sáu năm 1661, Newton được gửi tới
Đại học Cambridge để trở thành
luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ trường phái
Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của
Roger Bacon và
René Descartes. Một đợt
dịch bệnh
đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đã
có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố
ngay.
Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là
Robert Hooke và
Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề
quỹ đạo của một
hạt khi bay từ
vũ trụ vào
Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng
định luật vạn vật hấp dẫn và
cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo
Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ
tháng 8 năm
1684 đến
mùa xuân năm
1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho
vật lý của mọi thời đại, cuốn
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica.
Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các
định nghĩa và ba
định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là
Định luật Newton. Quyển II trình bày các
phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý
Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết
động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về
thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của
Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi
nhà thiên văn John Flamsteed kiểm tra xem
Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần
Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các
phương trình
của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của
Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi
trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của
sao chổi Halley.
Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi
nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra
và giải được bài toán
giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.
Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình
bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các
quy tắc này được phát biểu trong quyển
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:
- Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
- Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.
- Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.
- Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc
cách mạng về
tư duy
thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã
hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được
gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa
hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng
chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích
mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính
chính xác khoa học của
Aristoteles và
Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của
Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển
Opticks
(Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại
của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay
cho "triết lý về tự nhiên":
- Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên
cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng
hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng
quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức
tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng
quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến
nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát
nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các
nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ
quả.
Newton đã xây dựng lý thuyết
cơ học và
quang học cổ điển và sáng tạo ra
giải tích nhiều năm trước
Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước
Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa
châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra
định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho
John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho
vận tốc âm thanh,
nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai
lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến
thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn
γ½ lần thực tế, với
γ là tỷ lệ các nhiệt dung của
không khí.
Theo quyển
Opticks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy
ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều
màu sắc, khi đi qua
lăng kính (
thuỷ tinh của lăng kính có
chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về
ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với
lăng kính
ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không
tròn như lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu
tiên quan sát thấy các vòng
giao thoa mà ngày nay gọi là
vòng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong
thuỷ tinh, một kết luận trái với
lý thuyết sóng ánh sáng của
Christiaan Huygens.
Newton cũng xây dựng một hệ thống
hoá học trong mục 31 cuối quyển
Opticks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "
nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả
bi-a. Ông giải thích
phản ứng hoá học dựa vào
ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau
1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm
hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.
Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông,
thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi người
hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica
phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập
dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định
ngày tháng cho các sự kiện trong
Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn
thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.
Newton đã một mình đóng góp cho
khoa học
nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đã
vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên
một miêu tả cho
vũ trụ
không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác hơn mọi lý thuyết có
trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lý của phương pháp khoa học có
thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học. Đây là điều tương
phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực của
Aristoteles và Aquinas trước đó.
Ngoài việc nghiên cứu khoa học, Newton dùng phần lớn thời gian để nghiên cứu
Kinh Thánh, ông tin nhận một
Chúa Trời
duy nhất là Đấng tạo hóa siêu việt mà người ta không thể phủ nhận sự
hiện hữu của ngài khi nhìn ngắm vẻ hùng vĩ của mọi tạo vật.
Mặc dù được trưởng dưỡng trong một gia đình
Anh giáo nhưng vào độ tuổi ba mươi của mình, niềm tin
Kitô giáo của Newton nếu công khai ra sẽ không được coi là chính thống.
Cũng có các nhà triết học trước như
Galileo và
John Philoponus
sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định
nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của
ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa
toán học và
cơ học.
Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các
bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên
Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị
cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông
đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể
tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công
nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.
Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là
danh nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của khoa học
hiện đại. Như
nhà thơ Alexander Pope đã viết:
- Nature and nature's laws lay hid in night;
- God said "Let Newton be" and all was light.
|
- Tự nhiên và luật tự nhiên lẩn khuất trong màn đêm phủ;
- Chúa phán: Newton hãy xuất hiện! Và mọi thứ chói lòa.
|
Tiểu sử
Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica của Newton
Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở
Woolsthorpe, gần Grantham ở
Lincolnshire,
Anh, vào ngày
25 tháng 12 năm
1642
(4 tháng 1, 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do
cha ông, một nông dân cũng tên là Isaac Newton Sr., mất trước khi ông
sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với cha dượng từ nhỏ, Newton bắt
đầu những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các
biến cố gia đình. May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính
trong vai anh cả sau khi cha dượng mất, ông tiếp tục được cho học đại
học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào năm
1661, sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học phí.
Mục tiêu ban đầu của Newton tại
Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương trình nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi
toán học của Descartes,
thiên văn học của Galileo và cả
quang học
của Kepler. Ông đã viết trong thời gian này: "Plato là bạn của tôi,
Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất
của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy
giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách, đặc biệt là từ sau năm
1663, gồm các cuốn
Elements của Euclid,
Clavis Mathematica của
William Oughtred,
La Géométrie của Descartes,
Geometria a Renato Des Cartes của
Frans van Schooten,
Algebra của Wallis và các công trình của
François Viète.
Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm
1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh
dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính
vi phân và
tích phân
hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác
nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan
trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong
và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu
trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận
làm giảng viên của trường năm
1670, sau khi hoàn thành
thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về
quang học.
Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều
màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu
kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.
Newton được bầu vào
Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm
1672
và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt
ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác
giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton
vào năm
1678. Năm
1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm
1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.
Năm
1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự trị vì của
James II,
và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lý như buộc phải
cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối
những can thiệp này và sau khi James bị
William III đánh bại, Newton được bầu vào
Nghị viện Anh nhờ những đấu tranh chính trị của ông.
Năm
1693,
sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp
nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong
chính quyền tại
Luân Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm
1703 Newton được bầu làm chủ tịch
Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong
bá tước năm
1705.
việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao
giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh cãi quyết liệt khiến
hai nhà khoa học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày
31 tháng 3 năm
1727 tại Luân Đôn.
Nghiên cứu khoa học
Quang học
Từ năm
1670 đến
1672, Newton diễn thuyết về
quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra sự
tán sắc ánh sáng, giải thích việc
ánh sáng trắng qua
lăng kính trở thành nhiều màu, và một
thấu kính hay một
lăng kính sẽ
hội tụ các dãy màu thành ánh sáng trắng.
Newton còn cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng
việc phân tích các tia màu và chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ý
rằng dù là gì đi nữa,
phản xạ,
tán xạ hay
truyền qua,
màu sắc
vẫn giữ nguyên. Vì thế màu mà ta quan sát là kết quả vật tương tác với
các ánh sáng đã có sẵn màu sắc, không phải là kết quả của vật tạo ra
màu.
Nhờ vào những khám phá trên, Newton nhận ra nguyên nhân gây ra sự
sai lệch màu của hình ảnh trên
kính viễn vọng khúc xạ thời đó. Ông đã áp dụng nguyên lý của
James Gregory để tạo ra
kính viễn vọng phản xạ
đầu tiên, khắc phục được nhiều nhược điểm về ảnh của kính viễn vọng
khúc xạ đồng thời giảm đi đáng kể chiều dài của kính viễn vọng.
Quả táo Newton
Sau khi Newton công bố định luật vạn vật hấp dẫn, giới khoa học lưu
truyền câu chuyện quả táo rơi trúng đầu Newton liệu có mối liên hệ giữa
khối lượng và khoảng cách của vật thể trong nhà vật lý vĩ đại này. Thế
nhưng, nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là câu chuyện thêu dệt, chỉ là một
huyền thoại và rằng ông đã không xây dựng lý thuyết về lực hấp dẫn ở bất
cứ thời điểm duy nhất nào.
Tuy nhiên, với bản thảo viết tay Memoirs of Life Sir Isaac Newton có
từ năm 1752, nhà khoa học William Stukeley (một người quen của Newton)
kể lại chi tiết về khoảng khắc khi Newton tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn.
Bài viết của Stukeley kể về những suy nghĩ của Newton về thuyết lực
hấp dẫn khi hai người ngồi dưới bóng râm cây táo trong vườn của nhà khoa
học, tại Kensington vào ngày 15 tháng 4 năm 1726:
Chúng tôi đã đi vào một khu vườn, và uống trà dưới bóng mát của
vườn táo; chỉ có ông, và tôi. Ông nói với tôi, chính ở vị trí này, vào
thuở trước khái niệm về lực hấp dẫn đã đến trong tâm trí.Thời điểm đó
ông đang ngồi chiêm nghiệm và một quả táo rơi xuống. Ông đã nghĩ tại sao
quả táo lại rơi thẳng xuống đất?
Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tài vì gió thổi
chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi
xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi
vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống
đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất
không?
Tại sao nó không đi ngang, hoặc đi lên ? Nhưng lại liên tục đến
trung tâm trái đất ? Chắc chắn, không lý nào khác rằng trái đất đã hút
nó. Phải có một sức mạnh hút kéo vật chất & tổng sức mạnh hút kéo
trong vấn đề trái đất phải được ở trung tâm đất, không phải trong bất kỳ
bên của trái đất do đó đó quả táo này có rơi vuông góc, hay hướng về
trung tâm nếu có vấn đề do đó hút lấy vật chất.. nó phải được cân đối
với lượng của nó do đó táo rút ra trái đất., cũng như trái đất thu hút
sự táo.
John Conduitt, trợ lý của Newton tại Royal Mint và chồng của cô cháu
gái của Newton, cũng mô tả các sự kiện khi ông đã viết về cuộc sống của
Newton:
Vào năm 1666, ông nghỉ hưu từ Cambridge với mẹ ông ở Lincolnshire.
Trong khi đang lang thang trầm tư trong vườn, thì đến hiện ý tưởng rằng
sức mạnh của lực hấp dẫn (đã mang quả táo từ trên cây rơi xuống đất)
không bị giới hạn trong một khoảng cách nhất định từ trái đất, nhưng sức
mạnh này phải trải rộng ra xa hơn là thường nghĩ. Tại sao không cao như
mặt trăng nói ông đến mình, và nếu như vậy, mà phải ảnh hưởng đến
chuyển động của mặt trăng và có lẽ giữ lại trong quỹ đạo của nó, từ đó
ông lao vào tính toán những gì sẽ là kết quả của giả đó.
Trong một việc tương tự, Voltaire đã viết trong cuốn tiểu luận về
Epic Thơ (1727), "Sir Isaac Newton đi bộ trong khu vườn của mình, có
những suy nghĩ đầu tiên của hệ thống hấp dẫn của ông, khi thấy một quả
táo rơi xuống từ một cây."
Nó được biết đến từ máy tính xách tay của mình mà Newton đã phải vật
lộn trong 1660s muộn với ý tưởng rằng lực hấp dẫn kéo dài trên mặt đất,
trong một tỷ lệ nghịch vuông, đến mặt trăng; Tuy nhiên ông đã phải mất
hai thập kỷ để phát triển các lý thuyết đầy đủ. Câu hỏi đặt ra không
phải là liệu trọng lực tồn tại, nhưng liệu nó mở rộng để cách xa Trái
đất mà nó còn có thể là lực lượng giữ mặt trăng tới quỹ đạo của nó.
Newton đã chỉ ra rằng nếu lực giảm tỉ lệ nghịch với khoảng cách, người
ta có thể tính toán chu kỳ quỹ đạo của Mặt trăng, và có được thỏa thuận
tốt. Ông đoán cùng một lực lượng chịu trách nhiệm chuyển động quỹ đạo
khác, và do đó đặt tên nó là "vạn vật hấp dẫn".
Sau này Newton nêu ra:
Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của
trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất
cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt
trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn
vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, vì có loại lực hấp dẫn
này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt
trời
Xem thêm
Issac Newton - Người vượt lên trên tất cả những thiên tài
14:00:01 02/12/2012
Issac Newton là một nhà bác học đại tài, người đã phát minh ra định luật
vạn vật hấp dẫn, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển đã thống trị
các quan điểm về vật lý, khoa học suốt 3 thế kỷ tiếp theo.
Issac Newton - Chú bé luôn nghĩ ra những trò chơi kì lạ
Đêm
đã khuya trời tối mịt mà bà con ở các trại vẫn chưa đi ngủ. Họ thì thào
báo cho nhau một tin ghê sợ và lấm lét nhìn lên bầu trời "Quỷ tha ma
bắt, cái gì thế kia? Ma trơi, thần lửa hay sao chổi?". Cái vật trắng
nhờ, hình thù quái dị, hắt ra thứ ánh sáng đỏ như máu ấy cứ chao đảo,
lồng lộn, vút lên, hạ xuống, trông thật khiếp đảm như báo trước một tai
ương hay một điều gì đó chẳng lành trong trang trại.
Duy chỉ có
một chú bé không bị cuốn vào cảnh sợ hãi ấy. Chú bé ấy chính là Issac
Newton. Chú đứng trong sân nhà mình, dưới gốc cây táo, chốc chốc lại
giật sợi dây cầm trong tay làm cho con cái vật quái đản kia càng hung
hăng nhảy nhót, hăm dọa. Cuối cùng, chắc đã chán cái trò giải trí ấy chú
liền từ từ cuộn dây lại.
Dân làng sững sờ, dán mắt nhìn lên bầu
trời. Họ thấy cái vật quái đản có con ngươi đỏ như tiết kia ve vẩy đuôi,
chao đi chao lại rồi lao thẳng xuống trang trại của họ, sa vào khu vườn
nhà Newton. Mọi người đổ xô tới thì chứng kiến cảnh Newton đang thu
diều về và tắt chiếc đèn lồng bằng giấy bóng kính đỏ buộc lủng lẳng ở
đuôi. Các ông già bà cả chép miệng, lắc đầu, lầm rầm nguyền rủa mấy câu
gì đó rồi tản ra về. Họ đoán tương lai thằng bé rồi cũng sẽ chẳng ra gì!
Lại
một lần khác, người ta thấy xuất hiện cạnh nhà Newton một cối xay gió
nhỏ xíu. Giữa lúc ấy,trời đang lặng gió,vậy mà cánh quạt của cối xay
huyền bí đó vẫn cứ quay tít. Mấy người hàng xóm đi qua chỉ đưa mắt nhìn
lấm lét với một cảm giác ghê rợn, rồi rảo cẳng bước mau như bị ma đuổi.
Họ ngờ thằng bé tinh nghịch ấy có phép ma. Khi nhìn xung quanh không
thấy ai, Newton mới lén mở cánh cửa cối xay và lôi ra một chú chuột để
cho ăn. Thì ra, khi chạy trong cối xay, chuột đã đánh quay một bánh xe,
làm các cánh quạt chuyển động. Cậu gọi chú chuột này là anh thợ xay bột
và thường kêu ca về tính hay ăn cắp vặt của anh ta, đã chén sạch cả lúa
mì đổ vào trong cối.
Có đồng xu nào, Newton bỏ hết ra mua búa, kìm
cưa, đục và các thiết bị khác cần dùng cho việc chế tạo mô hình. Có lần
đến nhà dược sĩ Clác, cậu xin được một chiếc hộp xinh xắn. Về nhà, cậu
cứ cặm cụi đến quên ăn quên ngủ để chế tạo ra được một chiếc đồng hồ
nước, chiều cao khoảng trên một mét, có kim chỉ giờ chuyển động được
trên một mặt có nhiều hình vẽ. Sáng nào Newton cũng đổ thêm nước vào
đồng hồ và tất cả các máy móc được đặt ở phòng ngủ của Newton,ở gác
thượng, sát mái nhà. Newton còn sáng chế ra chiếc xe phản lực chạy bằng
hơi nước, đồng hồ mặt trời v..v..
Vốn
tính trầm lặng và âm thầm, lúc nào cũng đăm chiêu suy nghĩ, Newton ít
thích chơi bời đông bạn lắm bè. Giây phút hạnh phúc nhất của cậu là được
ẩn mình ở một góc vườn đọc sách và thả hồn mơ mộng theo một ý nghĩ xa
xôi. Có thì giờ rỗi cậu lại đến phòng thí no cuả ông Clác hoặc mê mải
sáng chế những đồ chơi khác lạ. Chính nhờ vậy, Newton đã rèn luyện được
cho mình thói quen thực rất bổ ích cho công tác nghiên cứu sau này. Thật
chẳng ai ngờ, những trò chơi thời thơ ấu ấy lại là bước chuẩn bị cho
một cậu bé đẻ non, ốm yếu, mồ côi cha ngay từ trước lúc lọt lòng trở
thành "nhà bác học vĩ đại trong các nhà bác học vĩ đại" - người mà sau
khi mất, trên bức tượng tưởng niệm ông người ta đã khắc câu thơ của
Luycrexơ:
"Người đã vượt lên trên tất cả những thiên tài"
Nhà bác học vĩ đại trong các nhà bác học vĩ đại
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà
toán học, nhà thần học và nhà giả kim người Anh. Theo lịch Julius, ông
sinh ngày 25 tháng 12 năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727, theo
lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3
năm 1727. Đúng vào năm nhà vật lý Galileo Galilei qua đời, Isaac
Newton chào đời sớm hơn dự kiến đúng vào ngày Giáng Sinh. Được đặt theo
tên cha, người đã mất cách đó hơn 3 tháng, Isaac ốm yếu và bé nhỏ đến
mức có thể đặt vừa vào trong cái bình 1,5 lít - theo lời thân mẫu ông kể
lại.
Năm 18 tuổi, 1661, ông vào đại học tổng hợp Cambridge. Tại
đây thiên tài của ông cũng chưa biểu hiện rõ rệt. Ví dụ, năm 1663, trong
một cuộc thi tuyển, ông chỉ được xếp hạng 24 trên 140 sinh viên. Lúc
bấy giờ trường đại học phải đóng cửa vì bệnh dịch và Newton trở về quê,
sống ở đây suốt ba năm liền (1664-1667).
Chính tại nơi đây, trong
cái yên lặng của thiên nhiên ở xung quanh làng quê, ông đã có những
phác thảo đầu tiên về những khám phá cơ bản tương lai trong ba lĩnh vực
gắn liền với tên tuổi của ông: tính vi tích, thuyết vạn vật hấp dẫn và
bản chất ánh sáng trắng.
Phép tính vi tích nghiên cứu những đại
lượng vô cùng nhỏ. Chính Newton là người đã đặt những cơ sở cho ngành
toán học này. Trong khi suy nghĩ về những điều mà những người đi trước
ông, Kêplê và Galille đã phỏng đoán về sức hút của vạn vật, Newton nêu
giả định rằng các thiên thể nhất định có tác động lẫn nhau bằng sức hút.
Sau nhiều tính toán và suy nghĩ, đến năm 1667, ông trình bày phác họa
đầu tiên về định luật vạn vật hấp dẫn.
Người ta kể lại rằng một
hôm Newton ngồi ở góc cây táo, nhìn mặt trời lặn. trăng đã tỏa sáng và
các vì sao đã thắp sáng trên bầu trời. Bỗng nhiên một quả táo rơi. Nhà
bác học trẻ, 24 tuổi mà đầu óc lúc nào cũng bận rộn suy nghĩ về vấn đề
sức hút của vạn vật, bất ngờ nêu lên câu hỏi: tại sao quả táo rơi và mặt
trăng không rơi, trong khi cả hai đều chịu sức hút? Bỗng ông lóe lên
một tia sáng: “A! Mặt trăng rơi. nếu nó không rơi, nó sẽ xa dần trái
đất.”
Nhưng ông cần đến hơn 16 năm suy nghĩ và chứng minh để
công bố định luật vạn vật hấp dẫn vào năm 1685, một trong những khám phá
lớn nhất đã bắt nguồn từ một bộ óc của con người: Hai vật hút nhau theo
một lực tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình
phương khoảng cách giữa các trọng tâm của chúng.
Định luật này
giúp ông tính được khối lượng mặt trời, khối lượng của trái đất và của
các hành tinh, giải thích tại sao trái đất lại dẹt ở hai cực, nguyên
nhân của hiện tượng thủy triều là kết quả sức hút tổng hợp của mặt trời
và mặt trăng, tính không điều hòa của chuyển động mặt trăng v.v… Năm
1687 ông công bố những khám phá của mình trong tác phẩm chính những
nguyên lí toán học của triết học tự nhiên, công thức hóa ba nguyên lí
làm cơ sở của cơ học hiện đại.
Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia
Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết lý về Tự nhiên) xuất bản
năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là
nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa
học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. Ông cho rằng sự chuyển động của các
vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các
định luật tự nhiên giống nhau.
Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên
lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám
phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính
trở thành nhiều màu. Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz
phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức
Newton tổng quát.
Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự
trị vì của James II, và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật
phi lý như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử.
Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và sau khi James bị
William III đánh bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu
tranh chính trị của ông.
Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm
hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa
học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Năm
1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức
vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong
bá tước năm 1705. Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn.
Isaac Newton
Chủ đề này có 16 trả lời
Đỉnh Quỷ Đỏ
-
-
Thành viên
-
-
1167 Bài viết
Đã gửi
04-09-2005 - 13:52
Isaac Newton (1642-1727) Nhà bác học danh tiếng nước Anh
[...]
Newton ra đời gần đúng một thế kỷ sau khi Copernicus tạ thế, và đúng
vào những năm Galileo từ trần. Hai bậc vĩ nhân đó trong khoa thiên văn
học đã cùng với Johannes Kepler đặt nền móng để sau này Newton tiếp tục
xây dựng sự nghiệp.
Newton là nhà toán học thiên tài, sinh trong
thời đại có nhiều nhà toán học nổi tiếng. Marvin nhận định rằng: ìThế kỷ
17 là thế kỷ toán học trổ hoa, cũng như thế kỷ 18 là thế kỷ của hoá
học, thế kỷ 19, sinh vật học. Khoa học trong nửa sau thế kỷ 17 đã tiến
được những bước dài hơn mọi thời kỳ khác”.
Newton bao quát được
các ngành chính của khoa vật lý như: Toán học, Hóa học, Vật lý học và
Thiên văn học, vì trong thế kỷ 17, nghĩa là trước khi khoa học chia ra
nhiều ngành chuyên môn, một nhà khoa học có thể cùng một lúc bao quát
nhiều ngành khoa học.
Newton sinh đúng ngày lễ Giáng sinh năm
1642. Thiếu thời ông được chứng kiến sự thăng trầm của Chính phủ liên
hiệp Oliver Cromwell, trận hỏa hoạn tàn phá hầu hết thành phố London và
nạn dịch hạch sát hại một phần ba dân số thành phố này. Sau 18 năm sống
trong một xóm nhỏ ở Woolsthorpe, Newton được gửi theo học trường đại học
Cambridge. Ở đây Newton may mắn được theo học một giáo sư toán học có
tài tên là Isaac Barrow, người được gọi là ìcha tinh thần” của Newton,
Barrow biết là khuyến khích thiên tài Newton. Và ngay khi còn ở trường,
Newton đã khám phá ra định lý Nhị thức (Binôme de Newton).
Trường
đại học Cambridge phải đóng cửa năm 1665 vì nạn dịch hạch, Newton lại
trở về quê. Trong hai năm liền sống cách biệt hẳn với thế giới bên
ngoài, Newton dành hết thì giờ để suy tư và nghiên cứu khoa học. Kết quả
thật là siêu phàm: chưa đầy 25 tuổi, Newton đã thực hiện được ba phát
minh khiến ông nghiễm nhiên trở nên ngang hàng với các thiên tài khoa
học của mọi thời đại. Trước hết Newton phát minh ra khoa Toán học Vi
phân (Calcul différentiel) dùng để tính những số lượng chuyển biến như
sự vận động của các vật thể, của làn sóng và để giải những bài toán vật
lý có liên quan tới mọi sự chuyển động ìToán học vi phân có thể nói đã
mở được cửa kho tàng báu vật toán học, đã đặt thế giới toán học dưới
chân Newton và các học trò của ông”.
Khám phá quan trọng thứ hai
của Newton là định luật về thành phần ánh sáng và từ đó ông phân tích
được bản chất của màu sắc và bản chất của ánh sáng trắng. Newton chứng
minh rằng: ánh sáng trắng của mặt trời gồm có những tia sáng màu mà ta
thường thấy ở cầu vồng. Như vậy màu sắc là bản chất của ánh sáng, và ánh
sáng trắng - những thí nghiệm bằng lăng kính của Newton đã chứng minh -
là do sự trộn lẫn tất cả các màu sắc của quang phổ. Từ khám phá này,
Newton tiến đến việc chế tạo kiểu viễn kính phản chiếu đầu tiên, có thể
đem ra sử dụng một cách có hiệu quả.
Khám phá thứ ba có lẽ là
khám phá vĩ đại nhất của Newton, là định luật vạn vật hấp dẫn. Khám phá
này đã kích động trí tưởng tượng của các nhà khoa học, mãnh liệt hơn mọi
khám phá về lý thuyết khác trong thời kỳ cận đại. Theo một giai thoại
ai cũng biết thì Newton giác ngộ rồi tìm ra định luật hấp dẫn khi ông
quan sát quả táo rơi. Sự thật thì chuyện trái đất hút những vật ở gần
không có gì mới lạ. Nhưng điều mới lạ là Newton đã mở rộng nhận xét đó
để áp dụng đối với vạn vật, từ trái đất các hành tinh và chứng minh được
thuyết của ông bằng toán học.
Điều đáng ngạc nhiên là Newton
không hề công bố gì về ba phát minh cực kỳ quan trọng của ông về toán
học vi phân, màu sắc và định luật hấp dẫn. Bản tính rất dè dặt kín đáo,
ông không thích tiếng tăm, không thích tranh luận, và có ý muốn xếp xó
những phát minh của ông. Những gì ông công bố sau này đều do bạn bè thúc
ép, những công bố song ông lại hối hận vì trót mềm yếu nghe lời họ. Ông
nghĩ rằng công bố sẽ khiến cho người ta phê bình, rồi từ phê bình đi
tới tranh luận, điều mà Newton với bẩm tính nhạy cảm rất lấy làm khổ
tâm.
Sau những năm sống ẩn dật và nhàn hạ bất đắc dĩ vì bệnh dịch
hạch tàn sát London, Newton lại trở lại Cambridge. Tốt nghiệp đại học
xong, ông được cử làm giáo sư trường Trinity. Ít lâu sau, cựu giáo sư
của Newton là Barrow từ chức, Newton khi đó mới 27 tuổi được bổ nhiệm
làm giáo sư toán học, một chức vụ ông giữ trong hai mươi bảy năm liền.
Mười hay mười hai năm tiếp theo, người ta biết rất ít về những hoạt động
của Newton. Chỉ biết ông tiếp tục nghiên cứu về ánh sáng và công bố
khám phá của ông về thành phần của ánh sáng trắng. Lập tức ông bị lôi
cuốn vào một cuộc tranh luận vì lẽ những kết luận của ông về ánh sáng
trái ngược hẳn với quan niệm đương thời, và vì trong tập tài liệu công
bố, ông đã trình bày quan niệm triết lý của ông về khoa học. Ông chủ
trương rằng: nhiệm vụ chính yếu của khoa học là tiến hành những cuộc thí
nghiệm, ghi nhận những kết quả của thì nghiệm, và sau hết là rút ra
những định luật toán học căn cứ vào kết quả những thí nghiệm đó. Ông
viết: ìPhương pháp thích đáng nhất để nghiên cứu đặc tính của sự vật là
suy luận xuất phát từ những cuộc thí nghiệm”. Những nguyên tắc này hoàn
toàn phù hợp với phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại, nhưng trong
thời Newton lại không được chấp nhận. Thời đó, chịu ảnh hưởng triết học
cổ, các học giả thường hay tin ở trí tưởng tượng, ở lý trí, ở bề ngoài
của sự vật nhiều hơn là tin ở sự thí nghiệm. [...]
Trích " Lược sử Thời gian" của Stephen Hawking
Những
năm 1692 đến 1694, ông bị đau óc, phải nghỉ đến 10 năm sau mới xuất bản
quyển khảo luận Quang học (Traité d'Optique), cuốn Khảo luận về cách
tính Vi phân.
Theo
http://olympia.net.vn/forum/
Nhà bác học Issac Newton cũng thua lỗ… vì đầu tư chứng khoán
“Tôi có thể tính toán được sự chuyển động của các vì sao, nhưng chẳng thể nào đo được sự điên rồ của con người”.
Sir Issac Newton là nhà toán học, vật lý học lỗi lạc, người đặt nền móng
cho vật lý cổ điển, là một trong những tượng đài vĩ đại của khoa học
thế giới.
Sau khi gặt hái những thành công khoa học rực rỡ, Issac Newton đầu tư
tài sản của mình vào South Sea (Anh), một công ty cổ phần được độc quyền
hoạt động giao thương với khu vực Nam Mỹ (vì vậy được đặt tên là South
Sea) được thành lập năm 1711.
Thời điểm đầu năm 1720, South Sea là cổ phiếu “nóng” hàng đầu ở Anh và
có giá 128 bảng. Cổ phiếu South Sea liên tục được mua vào do hoạt động
đầu cơ trước triển vọng giao thương với Thế giới mới (New World), và giá
được đẩy lên 175 bảng vào tháng 2, sau đó là 330 bảng vào tháng 3 và
lên đến 550 vào cuối tháng 5.
Lúc này, mọi người đều đổ xô đi săn lùng cổ phiếu này. Giá cổ phiếu
South Sea đạt mức khoảng 1.000 bảng vào tháng 8, nhưng sau đó đạt đỉnh
và bong bóng bắt đầu vỡ. Đến tháng 12/1720, giá cổ phiếu này trượt dài
về mức 128 bảng.
Isaac Newton khôn ngoan bán cổ phiếu South Sea vào tháng 4, lời gần như
gấp đôi và kiếm được 7.000 bảng. Nhưng sau đó vài tháng, ông đã không
thể cưỡng lại khi nhìn thấy bạn bè và đám đông giàu lên một cách khủng
khiếp. Newton dồn tất cả vốn liếng kể cả tiền lời, tiền vay mượn thêm để
mua lại cổ phiếu South Sea tại mức giá đỉnh.
Khi bong bóng cổ phiếu South Sea tan vỡ, Isaac Newton đã thua lỗ tổng
cộng khoảng 20.000 bảng (tương đương với khoảng 3 triệu USD giá trị ngày
nay). Sau khi mất gần hết gia sản, Isaac Newton cấm tất cả mọi người
không được nhắc tới từ “South Sea” trước mặt ông.
Người ta còn ghi lại câu nói nổi tiếng của Isaac Newton về sự việc này:
“Tôi có thể tính toán được sự chuyển động của các vì sao, nhưng chẳng
thể nào đo được sự điên rồ của con người”. (I can calculate the movement
of stars, but not the madness of men).
Trong báo cáo GMO Quarterly Letter tháng 01/2011, Jeremy Grantham, Chủ
tịch của công ty quản lý tài sản Grantham Mayo Van Otterloo (GMO), đã
trích dẫn lại hình vẽ minh họa của Marc Faber về thương vụ đầu tư vào cổ
phiếu South Sea của Isaac Newton. Jeremy Grantham được xem là chuyên
gia huyền thoại chuyên nghiên cứu về bong bóng tài sản và đang quản lý
số vốn hơn 100 tỷ USD.
8- Leonardo da Vinci
1452-151
Ý
Phát Minh
Leonardo da Vinci
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Leonardo di ser Piero da Vinci (
phát âm tiếng Ý: [leoˈnardo da ˈvintʃi] phát âm (trợ giúp·chi tiết); phiên âm
tiếng Việt phổ biến là
Lê-ô-na đờ Vanh-xi theo cách đọc của
tiếng Pháp) (sinh ngày
15 tháng 4 năm
1452 - 23 tháng 4 theo lịch Gregory hiện nay - tại Anchiano,
Ý, mất ngày
2 tháng 5 - 11 tháng 5 theo lịch Gregory hiện nay - năm
1519 tại
Amboise,
Pháp) là một
họa sĩ, nhà điêu khắc,
kiến trúc sư,
nhạc sĩ,
bác sĩ,
kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và triết học tự nhiên.
Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên gọi của thành phố Vinci là nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của
tỉnh Firenze, cách thành phố
Firenze 30 km về phía Tây gần Empoli, cũng là họ của ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì "
da Vinci" có nghĩa là "
đến từ Vinci", không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là
Leonardo di ser Piero da Vinci có nghĩa là "
Leonardo, con của Ser Piero, đến từ Vinci". Ông là tác giả của những bức hoạ nổi tiếng như bức
Mona Lisa, bức
Bữa ăn tối cuối cùng.
Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về
máy bay trực thăng,
xe tăng, dù nhảy, sự sử dụng hội tụ
năng lượng mặt trời,
máy tính,
sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, cùng nhiều sáng chế
khác. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong lúc
ông còn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong
kỹ thuật ở thời đại
Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong
giải phẫu học,
thiên văn học,
xây dựng dân dụng,
quang học và nghiên cứu về
thủy lực.
Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng
với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau
các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa
học và bút kí.
Cuộc đời
Ấu thơ
Căn nhà của Leonardo thuở nhỏ tại
Anchiano
Bức họa sớm nhất của Leonardo, Thung lũng Arno (1473),
Uffizi
Leonardo sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 (lịch cũ), "lúc 3 giờ khi màn đêm buông xuống"
ở thị trấn
Vinci vùng
Tuscan, thuộc thung lũng hạ lưu
sông Arno vùng lãnh thổ thuộc quyền cai trị của
Medici-
cộng hòa Florence.
Leonardo là người con ngoài giá thú của công chứng viên
Ser Piero (lúc bấy giờ 25 tuổi) và người con gái nông dân 22 tuổi Catarina.
Leonardo không có họ trong ngữ cảnh hiện đại, "da Vinci" chỉ đơn giản
là "từ Vinci": tên khai sinh đầy đủ của ông là "Lionardo di ser Piero da
Vinci", nghĩa là "Leonardo, (con trai) của (Mes)Ser Piero đến từ
Vinci".
Quan hệ của Catarina với Ser Piero dường như chấm dứt ngay sau khi bà
sinh người con trai. Sau đó ít lâu bà kết hôn với người chủ một lò gốm,
Accattabriga di Píaero del Vacca từ Vinci, và có thêm 5 người con. Sau
khi chia tay với Catarina, Ser Piero nhận nuôi dưỡng Leonardo. Ông kết
hôn 4 lần, có thêm 9 người con trai và 2 người con gái với hai người vợ
cuối của ông. Ser Piero là công chứng viên của nhiều gia đình danh tiếng
trong thành phố và là người thành công trong nghề nghiệp. Thân chủ của
ông bao gồm không những gia đình
Medici mà còn gồm cả chính phủ thành phố (
signoria) hay hội đồng quốc gia.
Làm trong xưởng vẽ Verrocchio
Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố
Firenze.
Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ
và tạo hình. Cha của Leonardo đưa một vài tranh vẽ của ông cho một người
quen xem,
Andrea del Verrocchio, người ngay lập tức nhận ra được tài năng về nghệ thuật của Leonardo và được Ser Piero chọn làm thầy cho Leonardo.
Mặc dầu không phải là một tài năng phát minh hay sáng tạo lớn trong
nghệ thuật đương thời ở Firenze nhưng Verocchio cũng là một nghệ nhân
hàng đầu trong nghề kim hoàn, điêu khắc và trong hội họa. Đặc biệt ông
là một người thầy tài năng. Leonardo làm việc nhiều năm (khoảng
1470-
1477) trong xưởng vẽ của ông cùng với
Lorenzo di Credi và
Pietro Perugino.
Năm
1476
ông bị buộc tội cùng với 3 người đàn ông khác đã có quan hệ tình dục
với một người đàn ông làm mẫu 17 tuổi, Jacopo Saltarelli, là một người
đàn ông
mại dâm được nhiều người biết. Sau 2 tháng trong tù ông được tuyên bố vô tội vì không có người làm chứng.
Chẳng bao lâu ông đã học hết tất cả những gì Verrocchio có thể dạy
hay là còn nhiều hơn thế nữa, nếu như có thể tin vào những câu chuyện
thường được kể lại về các hình ảnh hay tượng được cho là do những người
học trò của Verrocchio sáng tác.
Giorgio Vasari,
kiến trúc sư,
họa sĩ và cũng là một nhà tiên phong trong số những người biên niên sử
nghệ thuật cùng thời với Leonardo cũng đã tường thuật tương tự.
Một trong những bức tranh đầu tiên của Leonardo: Thánh mẫu Benois (1478)
Bức tranh
Rửa tội Christi do Verrocchio phác thảo cho các nhà
tu của Vallombrosa hiện có thể được xem tại Viện hàn lâm Firenze. Theo
Vasari thì thiên thần quỳ bên trái là do Leonardo thêm vào. Khi
Verrocchio nhìn thấy, ông đã nhận ra được tính nghệ thuật hơn hẳn so với
phần còn lại của chính tác phẩm của ông và người ta kể rằng từ đấy ông
tuyên bố vĩnh viễn từ bỏ hội họa. Bức tranh được vẽ nguyên thủy bằng màu
keo (
tempera) này đã bị vẽ dầu chồng lên nhiều lần nên việc kết
luận có sơ sở hiện nay là rất khó khăn. Một số ý kiến đáng tin cậy thiên
về việc công nhận không những có bàn tay của Leonardo trên khuôn mặt
của thiên thần mà còn trong nhiều phần về y phục và phong cảnh phía sau
mang tính đặc trưng và có thể nhận thấy được trong các tác phẩm khác của
ông. Tác phẩm này được hoàn thành vào khoảng năm
1470, khi Leonardo 18 tuổi.
Vào khoảng năm
1472
tên của ông có trong danh sách của phường hội họa sĩ thành phố Firenze.
Ông sống và làm việc tại đây thêm 10 hay 11 năm và cho đến năm
1477 vẫn còn được gọi là học trò của Verrocchio. Thế nhưng trong năm này dường như ông đã được
Lorenzo de Medici nâng đỡ và làm việc như là một nghệ sĩ độc lập dưới sự bảo trợ của Lorenzo de Medici từ
1482 cho đến
1483.
Thông qua lời giới thiệu của Lorenzo de Medici cho công tước
Ludovico Sforza, người muốn đặt một tượng đài kỵ sĩ tôn vinh
Francesco I Sforza, người khởi đầu cho triều đại Sforza tại
Milano, Leonardo rời Firenze đến Milano vào khoảng năm
1483.
Milano
Bằng chứng đầu tiên được ghi lại cho thời gian làm việc của Leonardo tại
Milano được xác định là năm
1487. Một vài nhà viết tiểu sử phỏng đoán là thời gian từ
1483
đến 1487 hay ít nhất là một phần của thời gian này được dùng cho những
chuyến đi du lịch phương Đông, thế nhưng từ tất cả những người cùng thời
với Leonardo đều không để lại một dấu vết nào về chuyến đi của Leonardo
về phương Đông.
Trong những năm đầu tiên sau khi tiếm quyền, Ludovico bị tấn công dữ
dội, đặc biệt là từ những người theo phái của chị dâu của ông, Bona của
Savoie, mẹ của công tước trẻ tuổi
Gian Galeazzo Sforza,
người cầm quyền chính thống. Để chống lại những tấn công này, Ludovico
đã dùng hằng loạt thi sĩ và nghệ sĩ thông qua các diễn văn công cộng,
kịch nghệ, hình ảnh và khẩu hiệu để ca ngợi sự sáng suốt và tính tốt đẹp
của sự giám hộ đồng thời truyền bá tính xấu xa của những người chống
lại ông. Các ghi chép và dự án trong những bản viết tay của Leonardo là
bằng chứng cho thấy ông cũng thuộc về số người nghệ sĩ này. Nhiều bức vẽ
phác thảo như vậy hiện nay đang nằm trong Christ Church tại
Oxford,
một bức phác thảo vẽ một nữ phù thủy có sừng hay nữ quỷ đang xua chó
tấn công Milano. Bức phác thảo này gần như chắc chắn ám chỉ việc người
của nữ công tước Bona ám sát Ludovico không thành vào năm
1484.
Dịch hạch tại Milano trong thời gian 1484-
1485
là dịp cho Leonardo trình nhiều dự án của ông lên Ludovico nhằm chia
lại thành phố và tái xây dựng theo các nguyên tắc vệ sinh tốt hơn. Thời
gian 1485-
1486
dường như cũng là thời gian khởi đầu cho kế hoạch làm đẹp và củng cố
pháo đài của ông, mặc dầu không được toại nguyện. Sau đó là các kế hoạch
và mô hình của ông trong dịp thi đua được công bố giữa các kiến trúc sư
người Ý và người Đức để hoàn thành nhà thờ lớn của Milano. Văn kiện trả
tiền cho ông vẫn còn tồn tại nằm trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm
1487 đến tháng 5 năm
1490. Cuối cùng thì không một dự án nào được tiến hành.
Bức tượng kỵ sĩ cao 7
mét, nhiệm vụ chính của Leonardo khi đến Milano được hoàn thành vào cuối năm
1493, vào lúc người do hoàng đế
Maximilian I cử đến hộ tống cô dâu
Bianca Maria Sforza
về làm lễ cưới. Theo tường thuật thời bấy giờ thì đây là một công trình
vĩ đại, nhưng các tường thuật này lại thiếu chính xác đến mức không thể
kết luận được là tượng đài này phù hợp với phác thảo nào trong số nhiều
bản vẽ phác thảo còn tồn tại cho đến ngày nay.
Trong khoảng thời gian từ
1495 đến
1497 Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông, bức bích họa
Bữa ăn tối cuối cùng trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie, theo yêu cầu của Ludovico Sforza. Năm
1980 nhà thờ cùng với bức tranh đã được
UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới. Vua
Louis XII của Pháp,
sau khi chiếm được Milano, đã đích thân đến tận nhà thờ để chiêm ngưỡng
bức tranh và đã hỏi là có thể tháo gỡ ra khỏi tường nhằm mang về
Pháp. Hai tháng sau khi vua Louis XII chiếm Milano, trong tháng 12 năm
1499, Leonardo cùng người bạn là
Luca Pacioli rời thành phố Milano.
Florence
Leonardo và Luca Pacioli dừng chân tại
Mantua,
nơi Leonardo được nữ công tước Isabella Gonzage tiếp đón nồng hậu. Khi
nghe tin Ludovico kết cuộc đã bị lật đổ, hai người bạn từ bỏ kế hoạch
trở về Milano và tiếp tục đi đến Firenze, thành phố đang bị sức ép từ
nhiều vấn đề nội bộ và từ cuộc chiến tranh chống lại
Pisa không có kết quả. Tại đây Leonardo nhận vẽ một bức tranh thờ cho nhà thờ Annunziata.
Filippino Lippi, người thật ra đã nhận lời yêu cầu vẽ, đã nhường lại cho Leonardo. Mãi đến tháng 4 năm
1501
Leonardo mới hoàn thành bản phác thảo trên giấy. Mặc dù nhận được nhiều
lời khen ngợi cho bản vẽ trên giấy, Leonardo đã không hoàn thành bức
tranh này và các tu sĩ Annunziata cuối cùng lại phải chuyển lời yêu cầu
đến Filippino Lippi.
Trong
mùa xuân năm
1502 ông bất ngờ về làm việc cho công tước
Cesare Borgias. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1502 cho đến tháng 3 năm
1503
Leonardo, với tư cách là kĩ sư quân sự có quyền cao nhất, đã đi du hành
qua một phần lớn miền trung nước Ý. Hai tháng sau khi Vito Luzza, một
người dưới quyền của Cesare và là bạn của Leonardo, bị Cesare giết chết,
Leonardo trở về Firenze. Ông đã để lại rất nhiều ghi chú và bản vẽ có
ghi ngày tháng cũng như 6 tấm bản đồ lớn do ông tự vẽ bao gồm các vùng
đất
Maremma,
Toscana và
Umbria.
Trở về Firenze, ông được ủy nhiệm vẽ một bức bích họa trang trí cho
một trong những bức tường của đại sảnh nhà hội đồng thành phố.
Michelangelo được trao nhiệm vụ vẽ một bức bích họa khác cũng trong cùng căn phòng. Ông hoàn thành phác thảo trên giấy trong vòng 2 năm (
1504-
1505) nhưng do có nhiều khó khăn về kĩ thuật trong lúc vẽ trên tường nên bức bích họa không được hoàn thành.
Trong thời gian này (1503-1506), theo một số nguồn khác là
1510-
1515, Leonardo hoàn thành bức họa
Mona Lisa (hay còn gọi là
La Gioconda)
mà theo Vasari thì đây là bức chân dung của Lisa del Giocondo, vợ của
một người buôn bán tơ lụa tại Firenze. Lúc đương thời Leonardo đã không
thể rời bức tranh, ông mang bức họa này đi theo trên khắp các chặn đường
đời sau đó. Sau khi Leonardo qua đời, vua
François I của Pháp đã mua bức tranh này với giá là 4.000 đồng
Florin vàng. Người ta nói là cho đến ngày nay chưa có ai có thể sao chép lại được nụ cười trong bức tranh này.
Milano
Trong mùa xuân
1506, Leonardo chấp nhận lời mời khẩn thiết của Charles d'Amboise, thống đốc vùng
Lombardia
của vua Pháp, trở về lại Milano. Vua Pháp Louis XII gửi tin yêu cầu
Leonardo hãy đợi ông đến Milano vì ông đã xem được một bức tranh Đức Mẹ
nhỏ của Leonardo ở Pháp và hy vọng sẽ nhận được từ Leonardo các tác phẩm
như vậy và ngoài ra có thể là một bức chân dung.
Hình vẽ của Leonardo: Một bào thai trong tử cung, khoảng 1510-1512
Tháng 9 cùng năm ông phải trở về Firenze vì việc riêng tư không vui.
Cha Leonardo qua đời vào năm 1504 dường như không để lại di chúc. Sau đó
Leonardo đã có tranh tụng với 7 người em trai cùng cha khác mẹ về việc
thừa kế gia tài của cha ông và sau đó là của một người chú bác. Việc
kiện tụng kéo dài nhiều năm và bắt buộc Leonardo phải nhiều lần tạm
ngưng công việc ở Milano để về Firenze, mặc dù đã có nhiều thư của
Charles d'Ambois, vua Louis XII, của những người thân quen và đỡ đầu có
thế lực khác để thúc đẩy sớm kết thúc việc kiện tụng này. Trong một bức
thư gửi Charles d'Amboise vào năm
1511,
Leonardo đã nhắc đến việc kiện tụng sẽ sắp chấm dứt và viết về hai bức
tranh Đức Mẹ mà ông sẽ mang về Milano. Người ta tin rằng một trong 2 bức
tranh đó là bức
Madonna Litta mà hiện nay một bản sao được trưng bày trong
Viện bảo tàng Hermitage (
Cung điện mùa Đông).
Vào tháng 5 năm
1507
vua Louis XII đến Milano và Leonardo chính thức chuyển sang phục vụ cho
Louis XII với chức danh là họa sĩ triều đình và kĩ sư. Theo những ghi
chép còn tồn tại, trong thời gian 7 năm Leonardo ở tại Milano (1506-
1513)
ông làm việc rất ít trong lãnh vực hội họa và kiến trúc. Ông đã cùng
nghiên cứu về giải phẫu học với giáo sư Marcantonio della Torre. Bức
chân dung tự họa bằng phấn đỏ hiện đang ở trong
Biblioteca Reale tại
Torino có thể được vẽ vào khoảng thời gian này khi ông gần 60 tuổi.
Florence
Tháng 6 năm
1512
triều đại Sforza trở lại nắm quyền lực ở Milano. Chỉ trong vòng vài
tháng sau đó Leonardo và các học trò của ông rời Milano đi đến
Florence
phục vụ cho gia đình Medici. Nhờ ảnh hưởng của Giuliano de Medici, một
người bạn của Leonardo và là người em trai trẻ tuổi nhất của
giáo hoàng, Leonardo được cư ngụ trong
Tòa thánh Vatican
và có một xưởng vẽ riêng. Theo các nguồn tài liệu đáng tin cậy còn tồn
tại trong thời gian này Leonardo chỉ vẽ hai bức tranh panel nhỏ cho một
viên chức trong tòa thánh. Qua nhiều công trình nghiên cứu về giải phẫu
học Leonardo đã khám phá ra chứng xơ cứng động mạch ở người già. Thế
nhưng các ghi chép của ông về đề tài này chưa từng được công bố và đã
mất tích hằng trăm năm trước khi tái xuất hiện. Sau khi ở tại Roma gần 2
năm Leonardo chấp nhận lời mời của vua
François I của Pháp đi đến nước
Pháp.
Pháp
Trong thời gian hơn 2 năm còn lại của cuộc đời Leonardo sống trong lâu đài Clos Lucé gần
Amboise. Ông đã vẽ nhiều bức tranh như
Leda và thiên nga (hiện chỉ còn lại bản sao), phiên bản thứ hai của bức tranh
Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Leonardo mất ngày
2 tháng 5 năm
1519.
Trong suốt cuộc đời của Leonardo, tài năng sáng tạo đặc biệt của ông
và cũng như tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống của ông, luôn thu
hút sự tò mò của người khác Một trong những khía cạnh của ông là tôn trọng cuộc sống, thể hiện bằng việc
ăn chay trường trên cơ sở đạo đức
Kitô giáo và thói quen của ông, theo Vasari, mua lồng chim và thả chúng tự do
Leonardo đã có nhiều bạn bè là người nổi tiếng trong các lĩnh vực của họ hoặc có ý nghĩa lịch sử, bao gồm các nhà toán học
Luca Pacioli, mà ông đã cộng tác trong một cuốn sách trong thời 1490, cũng như
Franchinus Gaffurius và
Isabella d'Este. Leonardo không có quan hệ gần gũi với phụ nữ, ngoại trừ tình bạn của ông với hai chị em nhà Este, Beatrice và Isabella
. Ông đã vẽ một bức chân dung của cô trên cuộc hành trình xuyên qua Mantua, bây giờ bức tranh này bị thất lạc.
Ngoài tình bạn, Leonardo giữ bí mật cuộc sống riêng tư của mình. Cuộc
sống tình dục của ông đã là chủ đề bị phân tích, châm biếm, và đầu cơ.
Xu hướng này bắt đầu vào giữa thế kỷ 16 và đã được hồi sinh trong thế kỷ
19 và 20, đáng chú ý nhất qua
Sigmund Freud .
Mối quan hệ thân mật nhất của ông có lẽ với các học trò của mình Salai
và Melzi. Melzi, khi viết thư để thông báo cho anh em của Leonardo về
cái chết của ông, đã mô tả cảm xúc của Leonardo cho học sinh của mình là
cả hai yêu thương và đam mê. Nó đã được khẳng định từ thế kỷ 16 rằng
các mối quan hệ này có thể có tính chất tình dục hoặc khiêu dâm. Hồ sơ
của tòa án năm 1476, khi ông được 24 tuổi, cho thấy Leonardo và ba người
đàn ông trẻ khác bị buộc tội trong một sự cố liên quan đến một mại dâm
nam nổi tiếng, nhưng nghi vấn buộc tội đã bị bác bỏ vì thiếu bằng chứng
.
Kể từ đó ngày càng có nhiều giả thuyết viết về khuynh hướng đồng tính
luyến ái giả định và vai trò của nó trong nghệ thuật của ông, đặc biệt
là trong một số bản vẽ khiêu dâm.
Một số tác phẩm
9- Werner Karl Heisenberg
1901-1976
Đức
Vật Lý
Werner Heisenberg
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Werner Karl Heisenberg (
5 tháng 12,
1901 –
1 tháng 2,
1976) là một
nhà vật lý nổi danh của
thế kỷ 20. Ông là một trong những người sáng lập ra thuyết
cơ học lượng tử và đoạt
giải Nobel vật lý năm
1932.
Tiểu sử
Ông sinh ra ở
Würzburg,
Đức và qua đời tại
München. Heisenberg là người đứng đầu của
Dự án năng lượng nguyên tử của Đức,
mặc dù bản chất của dự án này, và các công việc của ông trong vị trí
này vẫn còn đang được tranh cãi. Ông nổi tiếng nhất với việc khám phá ra
một trong những nguyên lý quan trọng nhất của vật lý hiện đại,
nguyên lý bất định của Heisenberg.
Ông là bạn thân với một nhà vật lý nổi tiếng khác
Niels Bohr.
Sự nghiệp
- The more precisely the position is determined, the less precisely the momentum is known in this instant, and vice versa.
- Vị trí càng được xác định chính xác bao nhiêu thì động lượng càng ít được biết chính xác bấy nhiêu tại thời điểm đó, và ngược lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét