Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

CHUYỆN ÍT BIẾT 15

(ĐC sưu tầm trên NET)

Bất ngờ với biệt tài bí ẩn của vua chúa VN


 

(Kiến Thức) - Một số vua chúa Việt Nam có những khả năng đặc biệt khiến hậu thế kinh ngạc và không thể nào lý giải nổi. 

    Tài xem tướng, xét việc của Lý Thái Tông

    Lý Thái Tông (1000 – 1054, tên thật Lý Phật Mã, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Lý. Nổi tiếng là vị vua giỏi, ông không chỉ có tài dụng binh, trị dân… mà còn có khả năng xem tướng xét việc chính xác.

    Tác phẩm Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã đề cập đến khả năng này của Lý Thái Tông như sau: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông”.

    Một minh chứng là việc Lý Thái Tông biết trước được mưu phản của tướng Nguyễn Khánh chỉ nhờ vào những biểu hiện bên ngoài của viên tướng này.

     Tượng vua Lý Thái Tông.

    Theo đó, trong một lần ban yến cho các quan hầu và tướng súy, vua đã nhắc đến Định thắng đại tướng Nguyễn Khánh và nhận định rằng: “Khánh thế nào cũng làm phản”. Nghe thấy lời này, các quan tướng đều kinh ngạc hỏi: “Bệ hạ làm sao mà biết, xin nói rõ cho”.

    Lý Thái Tông trả lời: “Lòng Khánh có điều không thường nên nhìn trẫm có vẻ hổ thẹn, đi đứng thất thố, nói năng trái lẽ. Lấy đó mà xét thì đủ biết là nó có ý khác, hình trạng đã rõ lắm rồi”.

    Một thời gian sau, vua đem quân đi dẹp loạn ở Ái Châu. Vừa lúc giành thắng lợi thì nhận được tin báo là phe Nguyễn Khánh đang mưu phản. Sự việc đúng như lời nhà vua nói trước kia, khiến các phi tần kinh ngạc, vái lạy và thưa rằng: “Bọn thiếp nghe nói Thánh nhân có thể thấy được chỗ chưa hiện hình, biết trước được việc chưa xảy ra, nhưng nay mới được chính mắt mình trông thấy”.

    Do đã bị vua nhìn thấu tâm can từ trước nên âm mưu của kẻ phản phúc nhanh chóng bị đập tan.

    Tài thấu cảm, tiên tri của Lý Huệ Tông

    Lý Huệ Tông (1194 – 1226) tên thật Lý Sảm, là vị vua thứ tám của nhà Lý. Ông cầm quyền trong giai đoạn nhà Lý suy vong, họ Trần lũng đoạn triều đình, do lực bất tòng tâm mà cuối đời đã phát điên.

    Dù mang tiếng vua điên, nhưng lại có những lời nói, khả năng dự đoán hậu vận, cảm được ẩn ý trong câu nói của người khác một cách rất chính xác, khiến người đời tin rằng cái sự điên của ông không phải là điên của người phàm.

    Có một số câu chuyện đã được ghi lại trong sử sách về khả năng này của Lý Huệ Tông.

    Vào năm 1224, Lý Huệ Tông trao quyền bính cho con gái nhỏ Lý Chiêu Thánh. Thái sư Trần Thủ Độ của họ Trần sợ lòng người còn hướng về nhà Lý, liền cho quản thúc Lý Huệ Tông trong chùa Chân Giáo. Một hôm Trần Thủ Độ đi ngang qua chùa, thấy Lý Huệ Tông đang nhổ cỏ ở sân chùa, liền nhắc nhở: Nhổ cỏ thì nhổ cả gốc!

    Huệ Tông nghe xong, hiểu Trần Thủ Độ có ý muốn giết mình. Ông đáp: "Câu ngươi nói ta hiểu rồi".

    Sau lần đó, Trần Thủ Độ cho người đến xin Lý Huệ Tông một việc. Huệ Tông chưa nghe dứt câu đã đáp: "Ta tụng kinh xong sẽ tự tử".

    Đây chính là mong muốn của Trần Thủ Độ trong kế hoạch tiêu diệt tận gốc nhà Lý. Lý Huệ Tông hiểu rõ, nhưng bất lực và đành chấp nhận số phận.

    Ông vào trong buồng ngủ rồi khấn rằng: “Thiên hạ của nhà ta đã về tay nhà mày rồi, mày lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến ngày khác con cháu nhà mày cũng lại thế”. Sau đó ông thắt cổ tự tử ở vườn phía sau chùa.

    Lời khấn của Lý Huệ Tông sau này đã ứng nghiệm. Sự nghiệp của nhà Trần đã kết thúc trong bi kịch với cuộc giành ngôi của Hồ Quý Ly.

    Tài “câu khách” của “Chúa Chổm” Lê Trang Tông

    Lê Trang Tông (1533-1548) tên thật Lê Duy Ninh, là vua đầu tiên của nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Dù sự nghiệp làm vua khá mờ nhạt nhưng ông lại “nổi như cồn” với biệt danh “Chúa Chổm” vì một giai thoại lạ lùng.

    Theo những lời truyền miệng trong dân gian, Lê Duy Ninh ngày bé tên là Chổm. Mẹ ông từng qua lại với vua Lê Chiêu Tông khi vua đang bị Mạc Đăng Dung giam lỏng, rồi có mang với vua. Sau khi sinh ra Chổm, mẹ đem ông và cả bảo ấn “Ngọc tỷ truyền quốc” của vua lánh đi nơi khác sinh sống.

    Do nhà nghèo, Chổm phải đi làm thuê và kiếm củi nuôi mẹ. Những lần vào thành bán củi, Chổm thường la cà vào ăn ở các quán cơm cửa ô. Lạ lùng một điều là Chổm ăn hàng nào thì hàng đó hôm ấy bán đắt như tôm tươi.

    “Biệt tài” của Chổm khiến các hàng quán thi nhau mời Chổm đến ăn uống và sẵn sàng cho chịu. Ðược thể, Chổm chè chén bạt mạng, nợ đầm đìa khắp nơi, ai đòi cũng thì bảo: "Chờ lúc tôi làm nên sẽ trả".

    Sau này Nguyễn Kim khởi binh chống nhà Mạc, tìm được Chổm là dòng dõi nhà Lê nên lập làm vua Lê Trang Tông. Sau khi thắng quân Mạc, vua trở lại kinh thành Thăng Long, khi đi qua làng cũ, Chổm đã trả hết tiền cho chủ nợ cũ và còn miễn thuế một năm cho dân cả làng…

    Trùng hợp lạ lùng giữa vua chúa VN và thế giới

     

    (Kiến Thức) - Cách xa nhau về thời gian và địa lý nhưng sự nghiệp của các vị hoàng đế nổi tiếng của VN và thế giới có nhiều điểm trùng hợp kỳ lạ.

      Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng

      Đinh Tiên Hoàng (924 - 979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh, là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 968 – 979.

      Tần Thủy Hoàng (259 TCN – 210 TCN), tên thật là Doanh Chính, là vua của nước Tần ở Trung Quốc từ năm 246 TCN đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc và trở thành vị Hoàng đế sáng lập ra nhà Tần, cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 TCN.

       Tượng vua Đinh Tiên Hoàng (trái) và tranh vẽ Tần Thủy Hoàng (Phải).

      Không chỉ tương đồng về tên gọi (Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là hoàng đế đầu tiên) sự nghiệp của hai vị hoàng đế còn có nhiều điểm khá trùng hợp nhau. 

      Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng đều trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền.

      Đinh Tiên Hoàng là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1.000 năm Bắc thuộc, trong khi Tần Thủy Hoàng khi tiêu diệt các nước chư hầu khác trong giai đoạn Chiến quốc. trở thành vị hoàng đế đầu tiên của một nước Trung Quốc thống nhất.

      Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều đã từng xưng vương, Tần Doanh Chính là Tần Vương, Đinh Bộ Lĩnh là Vạn Thắng Vương.

      Cả hai vị hoàng đế đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở, đó là Hàm Dương của nhà Tần và Hoa Lư của nhà Đinh.

      Để phòng thủ đất nước, Tần Thuỷ Hoàng đã cho xây dựng Vạn Lý Trường Thành bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu, còn Đinh Tiên Hoàng nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên ở Hoa Lư bằng tường thành nhân tạo.

      Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc. Họ đều ở ngôi trong 12 năm, khi băng hà đều còn đương quyền, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. 

      Cả hai triều đại Tần và Đinh đều tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng mang ý nghĩa trọng đại trong lịch sử. Triều Đinh chính là khởi đầu của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên và Đinh Tiên Hoàng là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Với ý nghĩa tương tự, Tần Thủy Hoàng đã mở ra gần hai thiên niên kỷ cai trị của phong kiến Trung Quốc.

      Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ

      Lê Thái Tổ (1385 - 1433), tên thật là Lê Lợi, là người khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh và trở thành vị vua đầu tiên của Hậu Lê, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1428 - 1433.

      Hán Cao Tổ (256 TCN - 195 TCN), tên thật là Lưu Bang, là vị Hoàng đế sáng lập nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng Đế từ năm 202 TCN đến 195 TCN.

      Dù cách nhau tới 15 thế kỷ, giữa hai vị hoàng đế của Việt Nam và Trung Quốc có rất nhiều điểm tương đồng.

       Tượng vua Lê Thái Tổ (trái) và tranh vẽ Hán Cao Tổ (phải).

      Cả Lê Lợi và Lưu Bang đều xuất thân từ gia đình nông dân và là con thứ ba trong nhà. Trên Lê Lợi có Lê Học, Lê Trừ còn trên Lưu Bang có Lưu Bá, Lưu Trọng.

      Cuộc khởi nghĩa của cả hai ông đều gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian đầu tiên, phải thường xuyên lẩn trốn sự truy kích của kẻ thù, thậm chí có những lúc rơi vào tính thế hiểm nghèo.

      Cả hai đều giữ được mạng sống nhờ những thuộc hạ tâm phúc sẵn sàng hi sinh thân mình cứu thủ lĩnh. Khi gặp hiểm nguy, Lưu Bang đã phải nhờ Kỷ Tín ra hàng, lừa đối phương và bị Hạng Vũ giết. Lê Lợi cũng phải nhờ Lê Lai theo gương Kỷ Tín để thoát nạn. Lê Lai cũng bị quân Minh giết.

      Sau khi lên ngôi, hai vị hoàng đế đều giết các công thần khai quốc. Lê Lợi vì nghe những lời gièm pha mà giết Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, trong khi Lưu Bang lần lượt trừ khử hoặc phế truất các công thần làm vua chư hầu để hạn chế quyền lực của họ.

      Về sau này, cơ nghiệp của hai vị hoàng đế đều bị họ khác cướp ngôi. Nhà Hán và nhà Lê đều bị gián đoạn một thời gian, nhưng rồi lại phục hồi. Nhà Tây Hán bị nhà Tân của Vương Mãng cướp ngôi, nhưng sau đó được nhà Đông Hán kế tục.  Nhà Lê (Lê sơ) bị nhà Mạc của Mạc Đăng Dung cướp ngôi, rồi sau đó được nối tiếp bởi nhà Lê trung hưng.

      Sau khi qua đời, cả Lê Thái Tổ và Hán Cao Tổ đều được đặt chữ "Cao". Lưu Bang là (Cao Tổ) Cao hoàng đế, Lê Lợi là (Thái Tổ) Cao hoàng đế.

      Quang Trung - Nguyễn Huệ và Napoleon Bonaparte

      Hoàng đế Quang Trung (1753 – 1792), tên thật Nguyễn Huệ, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, ở ngôi từ 1788 tới 1792. Cùng thời với ông là Napoleon Bonaparte (1769 –1821), người giữ ngôi Hoàng đế của nước Pháp từ năm 1804 - 1815 với đế hiệu là Napoleon I.

       Tạo hình nghệ thuật rất giống nhau của Quang Trung (trái) và Napoleon (phải), hai vị hoàng đế nổi tiếng về tài quân sự.

      Điểm tương đồng lớn nhất của Quang Trung và Napoleon là cả hai đều là những nhà quân sự kiệt xuất với những chiến công lẫy lừng trong sự nghiệp của mình, trước cũng như sau khi lên ngôi.

      Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn ở phía Nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê và đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, Đại Thanh từ phía Bắc. Lịch sử ghi nhận ông chưa từng nếm trải một thất bại quân sự nào trong sự nghiệp.

      Bonaparte nổi tiếng từ khi là một viên chỉ huy trong các chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất và thứ hai chống Pháp và cuộc chinh phạt bán đảo Italy. Sau khi lên ngôi, ông đã tham gia vào một loạt xung đột, lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia và giành thắng lợi trong đa số các trận đánh của mình.

      Trong sự nghiệp của mình, cả hai vị hoàng đế đều đưa đất nước đạt đến vị thế đỉnh cao của một cường quốc quân sự, khiến các quốc gia trong khu vực kiêng nể.

      Dưới thời của Hoàng đế Quang Trung, nước Việt không những không có địch thủ ở khu vực Đông Nam Á mà còn tự tin đưa ra các yêu sách lãnh thổ đối với người láng giềng khổng lồ Trung Hoa ở phương Bắc. Trong khi đó, nước Pháp của Napoleon đã đạt được vị trí thống trị ở lục địa châu Âu sau hàng loạt thắng lợi quân sự.

      Không chỉ là thiên tài quân sự, cả Quang Trung và Napoleon đều là những vị hoàng đế  có tầm nhìn chính trị sáng suốt. Cả hai ông đều đã thực hiện nhiều cải cách tiến bộ nhằm xây dựng dất nước trong thời gian nắm quyền của mình.

      Cái chết của hoàng đế Quang Trung và Napoleon đều gây ra nhiều nghi vấn. Có giả thuyết cho rằng, Quang Trung bị chết do chiếc áo có yểm bùa mà vua Càn Long của nhà Thanh ban tặng, trong khi một số học giả cho rằng, Napoleon là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng thạch tín.

      Vì sao Thanh Hóa là “cái nôi” sản sinh vua chúa Việt?

       

      (Kiến Thức) - Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy? 

      Nếu tính từ khi nước Nam ta có Nhà nước đầu tiên cho đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, thì điểm lại hầu hết các dòng họ vua, chúa đa phần đều phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra. Đây được xem là vùng đất có nhiều dòng vua, chúa nhất nước. 

      Hình thế và con người

      Đất Thanh Hóa, trải qua các đời có nhiều tên gọi khác nhau. Xưa thuộc bộ Cửu Chân, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Triệu là quận Cửu Chân… Tên gọi Ái Châu quen thuộc được biết đến vào thời Lương Vũ Đế nhà Lương. Đến thời nhà Lý được đổi làm phủ Thanh Hóa, tên gọi Thanh Hóa từ đó mà được biết đến. 

      Về hình thể, sách Đại Nam nhất thống chí, quyển VI, phần Thanh Hóa tỉnh chí cho biết: “Mặt đông trông ra biển lớn, mặt tây khống chế rừng dài. Bảo Sơn Châu (hoặc Sơn Thù) chăm hiểm ở phía Nam, (tục gọi là Eo Ống), giáp huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, núi Tam Điệp giăng ngang phía Bắc. Ở trong thì sông Mã, sông Lương, sông Ngọc Giáp hợp nhau; ở ngoài thì núi Chiếc Đũa, núi Biện Sơn che chở. Thực là một trọng trấn có hình thế tốt”. Lại xét, Ái Châu là vùng đất mà như ngày nay nói là “khu IV đẩy ra, khu III đẩy vào”, tức là nơi giao nhau giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có thể xem như là yết hầu của nước Nam nơi cõi Bắc vậy. Nhờ có địa thế tự nhiên với biển, núi, sông che chở, nên vùng đất này có được cái thế hiểm yếu hiếm có trong quân sự. Chẳng thế mà sau này quân Tây Sơn lại chọn lui về Tam Điệp (còn gọi là đèo Ba Dội giao nhau giữa Ninh Bình, Thanh Hóa) và Biện Sơn để ngăn bước tiến quân Thanh. 

                Năm 1428 Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Ông là người Thanh Hóa.

      Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây được An Nam chí lược của Lê Tắc trong phần Phong tục khen là: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình rằng: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo đá là sở trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước. 

      Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc chính là núi Chiếu Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ chính là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.

      Liên tiếp các triều đại vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, nên trong dân gian đời xưa có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê của tác giả, kể từ khi nước ta có vua thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn vào năm 1945 với vua Bảo Đại, thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào. 

      Đất của vua

      Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của chiến tuyến bên kia làm vua rồi. 

      Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905). 

      Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009). 

                                  Nguyễn Hoàng và họ hàng vào Thuận Hóa. 

      520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407). 

      Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).

      Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945). 

      “Nhà” của chúa

      Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh. 

      Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI  - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn. 

      Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau. 

      Không chỉ là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần đóng vai trò trung tâm của đất nước khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407).

      Khi vua Lê Trang Tông phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc. Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long.

      Ngày nay, Thanh Hóa là một trong 63 tỉnh, thành phố của đất nước, được xếp theo vị trí địa lý là tỉnh mở đầu vùng Bắc Trung Bộ.

      Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (1)

       

      (Kiến Thức) - Nhiều vị vua chúa đã được lịch sử Việt Nam ghi danh vì những chiến công quân sự xuất sắc, trước hoặc sau khi lên nắm quyền.

        An Dương Vương

        An Dương Vương, tên thật là Thục Phán, là vị vua đầu tiên và duy nhất của nhà nước Âu Lạc - nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Theo sử cũ, ông làm vua trong khoảng thời gian từ 257 TCN đến 208 TCN.

        Vào thời kỳ đó, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa và tiếp tục tham vọng xâm chiếm vùng đất phía Nam của các bộ tộc người Việt. Quân Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa.

        Trước tình hình này An Dương Vương đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tần của quân dân Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng suy yếu do thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức thì quân Âu Lạc xuất trận. Đồ Thư mất mạng, quân Tần thua to, phải bỏ chạy về phương Bắc.

         Sơ đồ thành Cổ Loa.

        Sau chiến thắng, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tòa thành này có cấu trúc độc đáo, theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, được củng cố bởi mạng lưới hào nước liên kết với nhau chạy dưới chân thành. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.

        Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. Nhờ sự chuẩn bị quân sự tốt và ưu thế của thành Cổ Loa, An Dương Vương đã chống cự hiệu quả cuộc xâm lược này.

        Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

        Lý Nam Đế

        Lý Nam Đế (503–548) tên thật là Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, sinh ra trong hoàn cảnh nước Việt bị nhà Lương đô hộ. Có tư chất thông minh, thể chất mạnh khỏe từ nhỏ, khi lớn lên Lý Bí trở thành một người văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.

        Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhưng do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác nên bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

        Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh và thu phục được nhiều nhân vật xuất chúng như tù trưởng Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, Tinh Thiều, lão tướng Phạm Tu…

        Lý Bí đã liên kết với các châu lân cận và cuối năm 541 chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Tiêu Tư liệu không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng Châu để quân của Lý Bí chiếm thành Long Biên.

        Tháng 4/542, vua Lương Vũ Đế sai quân từ phường Bắc kết hợp với quân của các châu còn kiểm soát ở phía Nam tạo thành gọng kìm đánh Lý Bí. Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía Nam đánh lui cuộc phản công của nhà Lương, làm chủ toàn bộ Giao Châu.

        Cuối năm 542, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay).

        Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía Nam, vua nước Lâm Ấp “đục nước béo cò”, đem quân đánh Giao Châu vào tháng 5/543. Lý Bí sai Phạm Tu cầm quân đánh Lâm Ấp và thắng lớn.

        Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).

        Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.

        Triệu Việt Vương

        Triệu Quang Phục (?-571) là con Triệu Túc, tù trưởng huyện Chu Diên. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.

        Năm 546, sau khi Lý Nam Đế thua trận phải lui về động Khuất Lạo, Triệu Quang Phục được ủy thác việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương.

        Tháng 1/547, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.

        Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, và dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí làm kế cầm cự lâu dài.

        Năm 550, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về. Triệu Quang phục tận dụng thời cơ tung quân ra đánh. Quân Lương tan vỡ chạy về nước. Triệu Quang Phục vào thành Long Biên và xưng làm Triệu Việt Vương.

        Đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.

        Ngô Quyền

        Ngô Quyền (898 - 944) sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Ông lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.

        Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.

        Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy.

        Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp.

         Mô hình trận Bạch Đằng.

        Khi cuộc chiến diễn ra, Ngô Quyền đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lược.

        Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước.

        (Còn nữa…)

        Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (2)

         

        (Kiến Thức) - Nhiều vị vua Việt Nam đã chứng minh mình không chỉ là một nhà cai trị anh minh mà còn là một nhà quân sự tài năng.

          Đinh Tiên Hoàng

          Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924 ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình) vào thời kỳ đất nước bị nhà Ngô đô hộ. Ông là con của Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ. Từ bé ông đã mê đánh trận giả và tỏ ra là người có khả năng chỉ huy.

           Ảnh minh họa. 

          Sau các biến động chính trị dồn dập, tình hình đất nước trở nên rối loạn và từ năm 966 hình thành 12 sứ quân cát cứ nhiều vùng, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư, cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình).

          Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, ông lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.

          Sau khi xóa bỏ tình trạng cát cứ, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, niên hiệu Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ông là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

          Đinh Tiên Hoàng ở ngôi đến năm 979 thì mất. Theo chính sử, một viên quan là Đỗ Thích mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.

          Lê Đại Hành

          Lê Hoàn sinh năm 941, quê quán chưa được xác định rõ ràng. Mồ côi từ nhỏ, ông được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi, lớn lên đi theo đội quân của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn, lập được nhiều chiến công.

          Sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 968, Lê Hoàn được giao chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.

          Năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính cho Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Tranh chấp quyền lực đã xảy ra giữa phe của Lê Hoàn và một số đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn đã giết chết các đối thủ và củng cố sự kiểm soát triều đình.

          Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt, nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng.

          Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng các tướng lĩnh và triều thần đã tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi (sử thường gọi là Lê Đại Hành), lấy niên hiệu là Thiên Phúc.

          Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành đã lãnh đạo quân dân đánh bại quân Tống ở các trận Bạch Đằng, Tây Kết, giết và bắt sống nhiều tướng giặc chủ chốt, khiến quân Tống phải tháo chạy về nước.

          Trong vòng 26 năm trị vì, Lê Đại Hành là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía Nam. Ông đã tiến hành nhiều hoạt động quân sự lớn, đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt. Lê Đại Hành mất năm 1005, thọ 65 tuổi.  
          Lý Thánh Tông

          Lý Thánh Tông (1023 – 1072) là vị vua thứ ba của nhà Lý. Ông tên thật là Lý Nhật Tôn, là con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là Kim Thiên thái hậu Mai Thị. Không chỉ nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam, ông còn là một nhà quân sự lỗi lạc.

          Trong thời kỳ trị vì của vua cha Lý Thái Tông, Lý Nhật Tôn đã nhiều lần cầm quân đi dẹp loạn, bảo vệ biên cương và lập nhiều chiến công, được sử sách ghi nhận như dẹp bạo loạn ở Lâm Tây năm 1037, khi mới 15 tuổi, đánh châu Văn năm 1042, châu Ái năm 1043.

          Sau khi Lý Thái Tông băng hà năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, tiếp tục ổn định tình hình trong nước và chú trọng mở rộng cương thổ. Quân đội dưới thời gian ông trị vì được tổ chức rất chặt chẽ và quy củ, có tiếng thiện chiến, nhiều lần đánh đuổi quân Tống ở biên cương phía Bắc vào các năm 1059-1060, khiến nhà Tống phải nể sợ.

          Do nước Chiêm Thành phía Nam hay sang quấy nhiễu, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, ông đem quân trở về. Đi nửa đường vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi Ỷ Lan (vợ thứ của vua) ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, liền nghĩ bụng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?". Vua lại đem quân trở lại đánh và bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ.

          Chế Củ đã phải dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (ngày nay thuộc các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị) cho Đại Việt để chuộc tội.

          Trần Nhân Tông

          Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, được vua cha nhường ngôi vào năm 1278.

          Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và có vai trò lãnh đạo quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 và 3.

           Hình minh họa.

          Trong cả 2 lần kháng chiến vào các năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã đóng vai trò của một  ngọn cờ đoàn kết dân tộc, lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt nhiều thời khắc khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng. Trong các cuộc chiến này, nhà vua đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh trận như một vị tướng dũng cảm, vừa đưa ra được những quyết sách đúng đắn trong vai trò của một nhà chiến lược tài giỏi.

          Ngoài cuộc đối đầu với người Mông Cổ, vào năm 1290, nhà vua cũng thân chinh đi đánh dẹp quân Ai Lao, những kẻ thường hay quấy nhiễu biên giới, bảo vệ vững chắc bờ cõi phía Tây.

          Vua Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.

          (Còn nữa…)

          Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (3)

          Bên cạnh những cuộc kháng chiến oai hùng chống lại kẻ xâm lược, các vua chúa Việt cũng có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi đất nước.

          Lê Thái Tổ

          Lê Lợi sinh năm 1385 ở vùng đất Lam Sơn, Thanh Hóa, vào cuối đời nhà Trần - giai đoạn lịch sử rối ren của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly phế Truất nhà Trần, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ. Năm 1407 nhà Hồ sụp đổ trước sự xâm lược của quân Minh, nước Việt một lần nữa nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc. 

          Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng chính thức phất ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Minh cứu nước.

           Tượng đài vua Lê Thái Tổ ở Hà Nội.
          Trong những năm đầu tiên, cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, Lê Lợi và nghĩa quân thường phải lẩn trốn trong rừng núi. Năm 1424, khi quân lực được củng cố, Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Sau nhiều trận thắng, đến cuối năm 1425, ông làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, các thành của đối phương đều bị bao vây.

          Từ tháng 8/1426, Lê Lợi cho quân tiến ra Bắc. Đội quân của ông thắng lớn ở Tốt Động, Chúc Động và vây hãm thành Đông Quan. 

          Cuối năm 1427, vua Minh điều một lực lượng viện binh lớn sang nước Việt. Lê Lợi chủ động đánh chặn các đạo quân này và giành thắng lợi lớn trong trận Chi Lăng – Xương Giang. Các cánh viện binh còn lại nghe tin, hoảng hốt rút về phương Bắc.   

          Sau thất bại này, quân Minh xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi muốn giữ hòa khí nên đồng ý để quân xâm lược về nước và sai Nguyễn Trãi thảo bàiBình Ngô đại cáo để báo cáo cho thiên hạ biết về việc đánh quân Minh.

          Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái Tổ, chính thức dựng lên vương triều nhà Lê. Ông khôi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh vào năm 1430. Lê Thái Tổ băng hà năm 1433, hưởng thọ 49 tuổi. 

          Lê Thánh Tông


          Lê Thánh Tông (1442 - 1497) tên thật là Lê Tư Thành, là vị hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lê. Tư Thành là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông và bà tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao. Ông lên ngôi năm 1460, sau cuộc đảo chính do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu, giết chết vua Lê Nghi Dân.

          Trong thời gian trị vì, Lê Thánh Tông nổi tiếng là vị minh quân, người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông đã để lại nhiều dấu ấn trên phương diện quân sự trong lịch sử Việt Nam.

          Sau khi lên ngôi, vua ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội để tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Ông thường thân chinh đi tuần phòng ở các vùng biên ải xa xôi, trở thành tấm gương tốt cho các quan phụ trách võ bị. 

          Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kĩ năng chế tạo vũ khí cực kì tinh xảo của Đại Việt thời nhà Hồ, kết hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh.  

          Đó là cơ sở để vua Lê Thánh Tông giành những thắng lợi quan trọng trong các hoạt động quân sự của mình. Đó là công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành năm 1471, sáp nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân toàn thắng về phía Tây đất nước vào năm 1479.

          Năm 1497 vua Lê Thánh Tông băng hà vì lâm bệnh nặng. 

          Chúa Nguyễn Hoàng

          Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) là con trai thứ hai của An Thành Hầu Nguyễn Kim, sinh ra ở Thanh Hóa. Ông là vị chúa đầu tiên trong số 9 chúa Nguyễn trước khi nhà Nguyễn hình thành.   

          Dưới triều Lê trung hưng, Nguyễn Hoàng là một tướng tài lập nhiều công lớn. Năm 1545, cha ông là Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất đầu độc, quyền lực trong triều rơi vào tay anh rể ông là Trịnh Kiểm. Sau này, anh ruột của ông là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết. 

          Do lo sợ bị sát hại, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ ở Thuận Hoá (khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Năm 1558, ông cùng gia quyến và một số người dân Thanh - Nghệ đi vào Nam. Ông xưng chúa, lập thủ phủ ban đầu là xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị.

          Từ đó cho đến đầu những năm 1600, Nguyễn Hoàng lo phát triển và củng cố lực lượng, từng bước trở thành một thế lực độc lập với họ Trịnh.

          Để mở rộng bờ cõi, năm 1611 ông đã thực hiện cuộc Nam tiến, chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa) của vương quốc Chăm Pa đang suy yếu, lập thành phủ Phú Yên. Trong thời gian Nguyễn Hoàng tiến hành Nam tiến, giang sơn họ Nguyễn trải dài từ đèo Ngang, Hoành Sơn (nam Hà Tĩnh) tới núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn), bây giờ là vùng cực Nam Phú Yên.

          Các sử gia đời sau coi Nguyễn Hoàng là người tiên phong trong việc mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía Nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương Nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập vương triều nhà Nguyễn. 

          Năm 1613, ông lâm bệnh nặng và qua đời. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế.

          Hoàng đế Quang Trung

          Quang Trung - Nguyễn Huệ (1753 – 1792) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn. Ông cùng hai người anh Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ là con của Nguyễn Phi Phúc một người chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt.

          Năm 1971, lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ cất binh khởi nghĩa, xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Nguyễn Huệ đã chứng tỏ được tài quân sự xuất chúng của mình trong cuộc chiến này, giúp quân Tây Sơn đánh bại Chúa Nguyễn đầu những năm 1780.

          Dưới danh nghĩa “Phù lê diệt Trịnh”, quân của Nguyễn Huệ cũng tiến ra Bắc lật đổ tập đoàn họ Trịnh, chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía Nam.

          Sau các thất bại lớn, Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm dẫn đến Trận Rạch Gầm - Xoài Mút đầu năm 1785. Đây là một trận đánh lớn trên sông giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân Tây Sơn tại khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút (Tiền Giang) với kết quả toàn thắng thuộc về quân Tây Sơn.

           Tượng đài Quang Trung - Nguyễn Huệ.
          Sau khi Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”, đưa quân Thanh về cướp nước, ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và ngay hôm sau thực hiện một cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc để đánh quân Thanh. Quân Tây Sơn tiến như vũ bão và đánh bại kẻ thù trong trận quyết chiến ở Ngọc Hồi - Đống Đa vào đầu xuân Ký Dậu 1789.

          Sau khi đẩy lùi quân xâm lược phương Bắc, hoàng đế Quang Trung dốc sức cho cuộc chiến cuối cùng với Nguyễn Ánh để thống nhất đất nước. Kế hoạch này đã không bao giờ được hoàn thành do ông đột ngột qua đời năm 1792 ở tuổi 40. Sau cái chết của hoàng đế Quang Trung, nhà Tây Sơn suy yếu và nhanh chóng sụp đổ

          Chưa từng biết đến thất bại trên chiến trận, hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ được ghi nhận như một trong những nhà quân sự lỗi lạc nhất của lịch sử Việt Nam.
           

          Không có nhận xét nào:

          Đăng nhận xét