CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 323

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Sự phản bội của Viên tướng tình báo

Dấu hỏi về sự phản bội của viên Đại tá quân đội Ba Lan

Hồng Sơn (Tổng hợp) |


Dấu hỏi về sự phản bội của viên Đại tá quân đội Ba Lan
Ryszard Kuklinski (đứng) bên cạnh Bộ trưởng quốc phòng Ba Lan Wojciech Jaruzelski.

Nhiều cựu nhân viên tình báo Mỹ vẫn cho rằng, Đại tá người Ba Lan Ryszard Kuklinski là một trong những điệp viên xuất sắc nhất của Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) trong các quốc gia thuộc Hiệp ước Warsaw.

Chỉ trong giai đoạn từ 1972-1981, nhân vật này đã trao cho CIA hàng chục ngàn trang tài liệu mật, trong đó có cả những kế hoạch quân sự của Liên Xô tại Tây Âu.
Phương Tây vẫn có một từ viết tắt nói về những động cơ chính trở thành gián điệp trong thời kỳ chiến tranh lạnh là MICE (Money, Ideology, Career, Ego - tiền bạc, lý tưởng, sự nghiệp và cái tôi). Nhưng trường hợp của Kuklinski thì được coi là một ngoại lệ, khi vẫn còn nhiều tranh cãi về động cơ phản bội của tay sĩ quan cao cấp của Ba Lan…
Ryszard Kuklinski cho tới giờ vẫn không được công luận biết đến nhiều, cho dù trường hợp của ông ta vẫn là đề tài tranh luận với nhiều mâu thuẫn ngay tại Ba Lan.
Kuklinski sinh tại Warsaw vào năm 1930 trong một gia đình công nhân theo đạo Thiên chúa, từng tận mắt chứng kiến thời điểm nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai và việc quân Đức tràn vào thủ đô Ba Lan. Phản ứng ban đầu của anh ta là tìm cách gia nhập vào đội quân kháng chiến Krajowa, khi đó đang có ban lãnh đạo lưu vong tại Anh, nhưng lại bị từ chối vì còn quá nhỏ.
Căn hộ nơi gia đình Kuklinski đang ở khi đó cũng là nơi cơ quan an ninh phát xít (Gestapo) tra tấn chính cha của anh ta, người về sau đã thiệt mạng tại trại tập trung Sachsenhausen-Oranienburg gần Berlin. Kuklinski cùng một vài người bạn thiếu niên khác về sau cũng tìm mọi cách để liên hệ với phong trào kháng chiến Ba Lan nhưng cũng không thành. Kết quả sau đó chỉ là 18 tháng lao động cưỡng chế tại các xí nghiệp quốc phòng của quân Đức.
Sau chiến tranh, Kuklinski đã có một thời gian vô vọng đi tìm cha tại các vùng ngoại ô Berlin, sau đó quay trở về nhà, tạm hài lòng với công việc của một bảo vệ tại nhà máy sản xuất xà phòng, nhờ đó có thời gian đi học thêm vào ban ngày.
Tháng 9/1947, anh ta bước đầu thực hiện được mơ ước thời nhỏ khi gia nhập được vào trường đào tạo sĩ quan. Cho dù là một học viên xuất sắc, nhưng Kuklinski đã bị đuổi khỏi trường và khai trừ khỏi đảng chỉ trước thời điểm hoàn tất khóa học có vài tháng do một phát biểu có quan điểm chống lại Liên Xô.
Nhưng Kuklinski dù sao vẫn gặp may. Sau một khóa học hoàn thiện sĩ quan, anh ta dù sao cũng được phong hàm đại úy, cùng cương vị tham mưu trưởng một tiểu đoàn bảo vệ bờ biển. Ngay sau đó thành tích tốt nghiệp xuất sắc Học viện Bộ tổng tham mưu đã giúp cho anh ta được thăng quân hàm thiếu tá cùng một vị trí tại Bộ Tổng tham mưu quân đội ở Warsaw.
Sau đó, anh ta có 2 năm làm lính tại một trung đoàn đóng gần Poznan, sau đó viết đơn kháng cáo xin được trở lại trường học. Tuy nhiên, Kuklinski sau khi ra trường không được phong hàm sĩ quan, phải bằng lòng với cấp bậc hạ sĩ quan.
Chẳng bao lâu người này trở thành một nhân vật có uy tín trong một loạt các vấn đề về học thuyết trong lực lượng vũ trang Ba Lan và các nước trong Khối hiệp ước Warsaw. Cũng cần phải nhắc tới vai trò quan trọng của Ba Lan trong hiệp ước trên - quốc gia này có quân số nhiều thứ ba tại châu Âu (sau Liên Xô và Tây Đức), các xí nghiệp quốc phòng của họ sản xuất khá nhiều các sản phẩm quân sự, lực lượng quân đội Xôviết đóng tại đây đang nắm giữ một kho đầu đạn hạt nhân bí mật.
Với cương vị và uy tín của mình, Kuklinski có khả năng tiếp cận với rất nhiều thông tin mật, trong đó có cả chiến lược tác chiến tại châu Âu của khối Warsaw, trong đó có cả chiến dịch “Dunai” đưa quân vào dập tắt bạo loạn tại Tiệp Khắc và Ba Lan. Nhưng Kuklinski lo ngại hơn cả trước phương án phản ứng của NATO, có khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật có khả năng biến Ba Lan thành một chiến trường đẫm máu.
Trò chơi nguy hiểm
Với nhận định trên, Kuklinski đã quyết định một hành động liều lĩnh, đó là liên hệ với phương Tây với hy vọng tránh được khả năng xung đột trong tương lai giữa hai bên. Trước đó từ năm 1967, Kuklinski từng có 6 tháng công tác tại Việt Nam trong thành phần Ủy ban giám sát quốc tế về việc tuân thủ Hiệp ước 1954. Nhiều khả năng trong thời gian này, anh ta đã có những động thái đầu tiên tiếp cận với người Mỹ.
Sau đó, nhân tiện một chuyến công tác nghiên cứu trên thuyền dọc theo các con sông Tây Âu, Kuklinski đã tìm cách gửi một lá thư cho tay tùy viên quân sự Mỹ tại Bonn, trong đó có yêu cầu được gặp một đại diện ngang cấp với mình. Yêu cầu này ngay lập tức được chuyển cho điệp viên Karl Gerhard của CIA tại Ba Lan.
Cuộc gặp đầu tiên giữa Kuklinski với tay điệp viên người Mỹ diễn ra vào chiều tối một ngày giữa tháng 12/1972 tại một nghĩa trang ở Warsaw.
Ông ta nhận được từ người Mỹ 18 cuộn phim nhỏ, hai máy ảnh nghiệp vụ và loại giấy đặc biệt lưu thông tin có thể tan ngay trong nước. Từ thời điểm đó, vai trò liên lạc viên với Kuklinski được giao cho Jack Forden (mật danh Daniel), một điệp viên khác của CIA từng hoạt động tại Ba Lan trước đây. Cả hai gặp nhau lần đầu tại Hamburg, cũng trong một chuyến công tác tại đây của viên sĩ quan người Ba Lan.
Kuklinski có không ít lần gặp phải nguy cơ bị vạch trần. Nguy hiểm nhất là vụ đèn pha chiếc xe của cơ quan mật vụ Ba Lan hồi đầu tháng 9/1974 từng rọi đúng người ông ta khi đang ngồi ghế sau chiếc xe của đại sứ quán Mỹ để trao đổi tài liệu.
Dù quá trình điều tra cụ thể sau đó đã không thể làm rõ, nhưng CIA vẫn khuyên ông ta nên tạm ngừng mọi hoạt động và hủy bỏ mọi công cụ tình báo được cung cấp. Nhưng Kuklinski vẫn không màng tới cảnh báo này vì tin rằng mình vẫn đang được tin tưởng, sau khi vừa được cấp trên cử đi học khóa đào tạo nâng cao 2 tháng tại Moscow.
Mùa xuân năm 1974, tay đại tá Ba Lan đã trao cho người Mỹ bản kế hoạch tuyệt mật Albatros, xem xét xây dựng 3 khu hầm trú ẩn đặc biệt (tại Liên Xô, Ba Lan và Bulgaria) dành cho giới lãnh đạo quân đội các quốc gia khối Warsaw trong trường hợp xảy ra chiến tranh hạt nhân.
Ngoài ra còn phải kể đến nhiều tài liệu quan trọng khác như địa điểm bố trí các căn cứ phòng không tại Ba Lan và CHDC Đức, số liệu kỹ thuật của những loại vũ khí mới nhất của Liên Xô vào thời điểm đó như xe tăng T-72, hệ thống tên lửa phòng không “Strela-1”, các hệ thống chống khả năng theo dõi từ vệ tinh, các kế hoạch tác chiến chống lại NATO…
Chỉ tính trong 9 năm cộng tác với người Mỹ (từ 1972-1981), Kuklinski đã chuyển giao cho họ 35 ngàn trang tài liệu mật và tuyệt mật, khiến liên lạc viên Forden cùng các đồng nghiệp đều nhất trí đề nghị tặng thưởng ông ta huy chương “Vì công lao phục vụ cho tình báo”, phần thưởng cao nhất của CIA dành cho các nhân viên người Mỹ. Theo họ, không có một điệp viên nào của CIA trong khối Warsaw có thể so sánh với Kuklinski cả về số lượng cũng như chất lượng tài liệu đã cung cấp.
Về sau, ông ta đã được tặng thưởng huy chương khi đặt chân tới Mỹ. Cũng trong thời gian đó tại Ba Lan, Kuklinski cũng được quân đội tặng thưởng hai huân chương khác nhau: Huân chương “Thập tự hiệp sĩ” và huân chương “Vì sự hồi sinh của Ba Lan”.
Tháng 4/1977, Kuklinski còn được bổ nhiệm làm chỉ huy Cục I chuyên về kế hoạch chiến lược quốc phòng. Điều này giúp cho ông ta có khả năng tiếp cận với nhiều tài liệu quí giá đặc biệt hơn nữa, cũng như trở thành thành viên của 3 ủy ban quan trọng nhất trong Tổ chức hiệp ước Warsaw.
Chạy trốn
Sự lớn mạnh của “Công đoàn đoàn kết” và những chuyển biến sau đó trên chính trường Ba Lan đã gây không ít khó khăn cho hoạt động của Kuklinski, nhưng vẫn không khiến ông ta bị mất đi vị trí là nguồn tin quan trọng nhất đối với các nhà hoạch định chính sách trong chính phủ Mỹ.
Dấu hỏi về sự phản bội của viên Đại tá quân đội Ba Lan - Ảnh 2.
Ryszard Kuklinski.
Mùa thu năm 1981, Cơ quan an ninh Ba Lan (SB) từ một nguồn tin tại Roma đã biết được rằng, CIA đang có trong tay những bản kế hoạch mới nhất về tình hình quân sự tại Ba Lan. Kuklinski may mắn được một trong những quan chức cấp trên của mình tiết lộ về chuyện này.
Do chỉ có một số lượng hạn chế các quan chức cao cấp được tiếp xúc với những tài liệu trên, ông ta hiểu rõ việc rà soát sau đó của cơ quan mật vụ chắc chắn sẽ lần ra mình, nên quyết định phải chạy trốn.
Người Mỹ sau đó đã kịp thời đưa Kuklinski và gia đình vào đại sứ quán của mình tại Warsaw, từ đây giấu trong một chiếc thùng lớn, vận chuyển bằng xe hòm có biển ngoại giao qua biên giới Ba Lan tới Đông Đức và sau đó tới Tây Berlin. Tháng 12/1981, cả gia đình Kuklinski đã đặt chân được tới Mỹ.
Vai trò gián điệp của Kuklinski chỉ được công khai vạch trần vào tháng 6/1981, khi đại diện giới lãnh đạo Ba Lan khi đó trả lời phỏng vấn của tờ “Washington Post”. Theo lời trách móc của quan chức đại diện này, do Kuklinski tham gia vào việc soạn thảo gần như mọi kế hoạch quân sự, nên CIA biết trước mọi hoạt động đối phó của chính quyền khi đó đối với lực lượng chính trị đối lập.
Nhưng chính quyền Reagan đã phản bội đồng minh, không chia sẻ những thông tin trên với “Công đoàn đoàn kết”. Ông này còn buộc tội Reagan âm mưu khơi mào một “trận tắm máu” trên khắp châu Âu.
Với việc chính quyền XHCN bị sụp đổ và chiến thắng của Lech Walesa trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1990, vụ việc của Kuklinski lại bước sang một trang mới. Với chính sách ân xá chính trị nói chung của chính quyền mới, bản án tử hình dành cho Kuklinski trước đó được thay thế bằng mức án 25 năm tù cùng với việc bị tước quyền công dân. Lời thỉnh cầu trực tiếp tới Lech Walesa từ Zbigniew Brzezinski, cưu cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ, đồng thời cũng là người bảo vệ nhiệt thành cho Kuklinski, cũng không có được kết quả nào.
Walesa cho rằng vụ việc trên “cần có thời gian và sự chuẩn bị kỹ lưỡng”. Bản thân Kuklinski cũng bác bỏ cái mà ông ta gọi là “ân xá nửa mùa”, đồng thời yêu cầu phải được phục hồi danh dự hoàn toàn. Ý kiến công luận tại Ba Lan cũng chia rẽ sâu sắc xung quanh sự kiện này: kết quả thăm dò tháng 11/1996 cho thấy, có 27% người Ba Lan cho ông ta là một kẻ phản bội, còn 21% cho ông ta là một người yêu nước.
Tháng 11/1997, Kuklinski được tuyên bố phục hồi danh dự. Theo một số nguồn tin, một trong những điều kiện mà Tổng thống Bill Clinton nêu ra để chấp nhận cho Ba Lan gia nhập NATO khi đó là phải phục hồi danh dự cho Kuklinski. Một năm sau, ông ta trở về Ba Lan trong chuyến thăm 10 ngày tới 6 thành phố khác nhau tại đây, trong đó có cả Krakov, nơi Kuklinski được phong làm công dân danh dự.
Những tranh cãi về con người Kuklinski tiếp tục rộ lên khắp Ba Lan vào thời gian này. Adam Michnik, một cựu tù nhân chính trị dưới thời chính quyền XHCN cũ, đồng thời là tổng biên tập tờ báo nổi tiếng Gazeta Wyborcza của Ba Lan, đã thẳng thừng tuyên bố, ông chẳng nhìn thấy sự anh hùng nào trong hành động của Kuklinski, ngoài những hành động bợ đỡ người Mỹ.
Còn tổng thống Walesa chọn thái độ im lặng, cho biết chỉ sẵn sàng gặp Kuklinski nếu được đề nghị. Ngay tại nước Mỹ, Kuklinski cũng không được công luận biết đến nhiều, dù ông ta là người nước ngoài đầu tiên được CIA tặng thưởng huy chương “Vì công lao phục vụ cho tình báo”.
Sau khi qua đời vào năm 2004, di cốt của Kuklinski được chuyển từ Mỹ về Warsaw, chôn cất tại nghĩa trang quân đội Powazki. Kèm theo đó còn có phần hài cốt của cậu con trai cả. Cần nói thêm, cả hai con trai của Kuklinski đều thiệt mạng trước đó trong những trường hợp đáng ngờ - một người do tai nạn giao thông, còn một người mất tích trên biển. Tang lễ của Kuklinski cũng có cả ngàn người Ba Lan tham dự, nhưng lại không có một đại diện chính thức nào của chính quyền đương nhiệm.


Đằng sau cuộc “thay máu” cộng đồng tình báo Mỹ

Hồng Sơn |


Đằng sau cuộc “thay máu” cộng đồng tình báo Mỹ

Cuộc đối đầu giữa Tổng thống Trump và cộng đồng tình báo Mỹ lại bước sang trang mới với việc ông chủ Nhà trắng vừa quyết định sa thải Tổng thanh tra cộng đồng Tình báo Mỹ Michael Atkinson với lý do “không còn niềm tin tuyệt đối với ông này”.

Lần lại toàn bộ lịch sử trong thời gian gần đây có thể nhận thấy, quan hệ giữa tổng thống và cộng đồng tình báo chưa bao giờ có thể coi là “cơm lành canh ngọt”. Vì sao lại xảy ra tình cảnh kéo dài như vậy trong mối quan hệ trên, và điều này có thể gây ra những hệ lụy gì đối với chính sách đối ngoại của nước Mỹ?
Đối đầu căng thẳng
Atkinson là quan chức Mỹ đầu tiên thông báo cho quốc hội về đơn nặc danh, trong đó cáo buộc Tổng thống Donald Trump gây áp lực đòi Ukraine điều tra đối thủ chính trị Joe Biden qua cuộc điện đàm hồi tháng 7 năm ngoái.
Tổng thanh tra cộng đồng tình báo gửi thư tới quốc hội Mỹ hồi tháng 8 năm ngoái, khẳng định rằng nội dung trong đơn tố cáo nặc danh ông Trump là "khẩn cấp và đáng tin cậy". Quyết định sa thải Atkinson của Tổng thống Trump lập tức vấp phải chỉ trích của các thành viên đảng Dân chủ. Chủ tịch tình báo Hạ viện Mỹ Adam Schiff phản đối kịch liệt.
Đằng sau cuộc “thay máu” cộng đồng tình báo Mỹ - Ảnh 1.
Tổng thanh tra cộng đồng Tình báo Mỹ Michael Atkinson, người mới bị sa thải.
Thượng nghị sĩ Mark Warner, Phó chủ tịch Ủy ban tình báo Thượng viện Mỹ thì cho rằng đây là hành động "phá hoại sự toàn vẹn của cộng đồng tình báo".
Trước đó, việc Mỹ sử dụng máy bay không người lái ám sát tướng Qasem Soleimani của Iran đã cho thấy, sự bất đồng giữa các cơ quan mật vụ Mỹ với Tổng thống Donald Trunp về các vấn đề đánh giá những mối đe dọa từ bên ngoài vẫn là yếu tố chủ chốt trong quan hệ giữa Tổng thống với toàn bộ cộng đồng tình báo Mỹ.
Ngay sau những tuyên bố đầy vẻ phấn khích của ông Trump về cái gọi là “tiêu diệt nhân vật khủng bố số 1 của Iran” là hàng loạt những ý kiến đánh giá mang sắc thái thận trọng và hoài nghi từ hàng loạt các quan chức, chuyên gia hàng đầu trong giới chức tình báo Mỹ.
Ngay sau vụ ám sát, người lên tiếng phản ứng đầu tiên là nhân vật đầy uy tín trong cộng đồng tình báo Michael Morell, cựu giám đốc Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), đồng thời là một nhà phân tích tình báo chuyên nghiệp.
Theo ông Morell, hành động trên sẽ dẫn tới sự đáp trả khó có thể lường trước từ phía Iran, không loại trừ khả năng sẽ nhằm vào cả quan chức cấp cao của Mỹ.
Theo số liệu từ báo chí Mỹ được tờ The New York Times, những người ủng hộ và thúc giục ông Trump phê chuẩn chiến dịch trên không phải là giới quân sự hay tình báo, mà là những cố vấn chính trị của ông – như Phó tổng thống Mike Pence, cố vấn an ninh quốc gia Robert O'Brien, Ngoại trưởng Mike Pompeo.
Theo ý kiến của giới tình báo, những người có nguy cơ phải hứng chịu đòn trả đũa của Tehran không phải là các cố vấn của Trump, mà là những quân nhân, quan chức ngoại giao hay dân thường Mỹ ở nước ngoài.
Nếu nhìn lại quá khứ, đương kim tổng thống Mỹ đã nhiều lần công khai lên tiếng chỉ trích cộng đồng tình báo Mỹ. Chẳng hạn như ông Trump khẳng định, bộ máy của Giám đốc tình báo quốc gia DNI (được thành lập sau vụ khủng bố 11/9/2001) và những cải cách sau đó đối với các cơ quan mật vụ Mỹ thực chất chỉ là “một bộ phận trung gian quan liêu không cần thiết”.
Cần biết là vào thời điểm hiện tại, nhân vật chủ chốt trong cộng đồng tình báo Mỹ chính là chiếc ghế Giám đốc tình báo quốc gia, người có đặc quyền phối hợp hoạt động của 17 cơ quan tình báo khác nhau của Mỹ, trong đó có cả những gã khổng lồ như CIA và Cơ quan An ninh quốc gia (NSA).
Trong thời gian vừa qua, DNI đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích từ phía ông Trump sau khi ông giành thắng lợi trong cuộc điều tra Nga can thiệp bầu cử Mỹ và tiếp đến được Thượng viện tuyên bố “trắng án” trong cuộc điều tra luận tội.
Hiện tại, chiếc ghế giám đốc DNI đang thuộc về Richard Grenell, được Tổng thống Trump đưa lên từ ngày 20-2-2020 thay cho Joseph Maguire. Quyết định bổ nhiệm ông Grenell của Tổng thống đã gây “mất lòng” cộng đồng tình báo Mỹ, bởi họ cho rằng ông này ngoài việc là một nhân vật thân cận với tổng thống nhưng lại không có kinh nghiệm liên quan đến tình báo.
Cần nhớ là Joseph Maguire cũng mới chỉ đảm nhiệm chiếc ghế DNI từ ngày 16-8-2019, sau khi người tiền nhiệm Dan Coats tuyên bố từ chức. Trong lá đơn xin từ chức của mình, ông Coats đã nhận định, các cơ quan mật vụ dưới sự lãnh đạo của ông đã hoạt động hiệu quả hơn bao giờ hết.
Điều này khiến công luận đặt câu hỏi, vì sao người đứng đầu cộng đồng tình báo lại từ chức, trong khi hiệu quả hoạt động của các cơ quan mật vụ lại được cải thiện? Nguyên nhân của nghịch lý trên thực ra rất đơn giản: những bất đồng nghiêm trọng của Coats với Tổng thống về một loạt các vấn đề trong chính sách đối ngoại.
Như vào năm 2018, Coats từng công khai rằng, Tổng thống Trump không chia sẻ thông tin với ông về việc tổ chức cuộc gặp với Tổng thống Vladimir Putin tại Helsinki. Về mặt nguyên tắc, Coats cũng không đồng ý với chính sách của ông Trump đối với CHDCND Triều Tiên.
Tháng Giêng năm 2018, khi ra điều trần trước quốc hội, Coats đã có những ý kiến trái ngược với tuyên bố của Tổng thống trước đó cho rằng CHDCND Triều Tiên không còn là mối đe dọa đối với nước Mỹ. Cũng vì hàng loạt những bất đồng mang tính nguyên tắc trên, ông Coats không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đệ đơn từ chức.
Ngay sau khi Coats từ chức, ông Trump còn “tiện tay” đẩy mạnh việc thay đổi một loạt nhân sự khác, đồng thời thay thế những nhân vật thân cận mới nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình trong cộng đồng tình báo Mỹ.
Họ bao gồm Thứ trưởng Bộ Tài chính phụ trách mảng chống khủng bố và tình báo tài chính Sigal Mandelker và người đứng đầu Văn phòng kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài (OFAC – cơ quan chuyên đưa ra các biện pháp cấm vận chống lại các cá nhân và công ty nước ngoài) John Smith, thay vào đó bằng bà Andrea Gacki.
Dưới thời của Smith trước đó, vai trò của OFAC đã có những hoạt động nổi bật, khi cơ quan này là nơi đưa ra các biện pháp cấm vận chống lại Nga, Syria, Iran và CHDCND Triều Tiên.
Tính ra chỉ trong 3 năm đầu tiên cầm quyền, ông Trump với nhiều nguyên nhân tương tự đã sa thải và thay thế hơn 10 nhà lãnh đạo hàng đầu trong các cơ quan tình báo quốc gia; trong đó đáng chú ý có giám đốc DNI, hai giám đốc CIA, hai giám đốc Cục Điều tra liên bang (FBI), 3 cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống… Đây được coi là chuyện chưa từng có tiền lệ trong lịch sử mối quan hệ giữa cơ quan mật vụ với các tổng thống Mỹ.
Cũng dễ nhận ra rằng, phần lớn những vụ bê bối chính trị trong nội bộ mà ông Trump dính dáng vào đều có vai trò tích cực của các quan chức CIA hay những cơ quan mật vụ khác.
Như cựu sĩ quan tình báo quân đội Jason Kander từng công khai ủng hộ việc phế truất Tổng thống Trump vì lý do Tổng thống “tích cực vận động cho những lợi ích đối ngoại của Moscow”? Kander – người từng nắm chiếc ghế ngoại trưởng và hạ nghị sĩ của bang Missouri – quả quyết ông Trump đã đi ngược lại với quyền lợi của Washington để ủng hộ cho Nga trong các vấn đề liên quan đến Syria và Ukraina.
Còn bản thân ông Trump về phần mình đã tuyên bố trên Twitter rằng, những kẻ ngu ngốc và căm thù nước Nga không thể hiểu được rằng, việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chính là con đường tốt đối với nước Mỹ.
Đỉnh điểm của cuộc đối đầu gay gắt trên chắc chắn là thủ tục nhằm phế truất tổng thống của AdamSchiff, người đứng đầu Ủy ban đặc biệt về tình báo của Hạ viện, hành động được người đứng đầu Nhà Trắng chỉ trích gay gắt là “những trò lừa đảo và gian dối”.
Đâu là nguyên nhân?
Vào năm 2018, Giám đốc CIA Gina Haspel, giám đốc FBI Christopher Wray và giám đốc DNI Dan Coats trình bày trước Thượng viện một bản báo cáo về những mối đe dọa an ninh đối với nước Mỹ - nội dung chủ yếu là những vấn đề liên quan đến Iran, CHDCND Triều Tiên và Nhà nước hồi giáo tự xưng (IS).
Sau khi nghe báo cáo từ những nhà lãnh đạo hàng đầu của tình báo Mỹ, người ta mới “ngã ngửa” ra rằng, chúng có nội dung gần như hoàn toàn mâu thuẫn với những tuyên bố trước đó của Tổng thống Trump.
Nếu như người đứng đầu Nhà Trắng tuyên bố về chiến thắng hoàn toàn trước IS tại Syria và Iraq thì báo cáo của tình báo lại khẳng định lực lượng khủng bố tại đây vẫn còn không ít.
Đằng sau cuộc “thay máu” cộng đồng tình báo Mỹ - Ảnh 2.
Chỉ trong 3 năm cầm quyền, Tổng thống Donald Trump đã sa thải hơn chục nhà lãnh đạo của các cơ quan mật vụ Mỹ.
Còn Iran – quốc gia bị ông Trump buộc tội đã vi phạm các điều kiện về thỏa thuận hạt nhân – lại được khẳng định trong báo cáo đang hoàn toàn tuân theo các thỏa thuận quốc tế đã ký trước đó. Nhận định trên còn được minh chứng bằng những số liệu từ Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và đánh giá từ nguyên thủ một số quốc gia trong EU.
Theo đánh giá của DNI, Iran hoàn toàn không có khả năng khôi phục tiến trình sản xuất vũ khí hạt nhân trong thời gian ngắn. Nếu ông Trump cho biết Triều Tiên đang tích cực giải trừ quân bị, thì báo cáo lại khẳng định xu hướng ngược lại, đồng thời nhận định Bình Nhưỡng sẽ không phá bỏ các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất vũ khí hạt nhân.
Tất nhiên nội dung của báo cáo đã khiến ông Trump phải nổi xung, nhất là những dữ liệu liên quan đến Iran. Ông gọi kết luận của 3 cơ quan mật vụ là không chính xác, đồng thời khuyên họ nên về trường học lại. Những phát biểu của ông Trump tất nhiên đã gây ra nhiều phản ứng tiêu cực, không chỉ trong cộng đồng tình báo mà cả trong dư luận nước Mỹ.
“Tổng thống đang có thói quen nguy hiểm là làm mất uy tín cộng đồng tình báo…” - Phó chủ tịch ủy ban tình báo thượng viện Mark Warner phát biểu – “Trong lúc nhiều người đang mạo hiểm cuộc sống của mình để hoạt động tình báo, ông ấy lại coi thường chuyện này”.
Theo các chuyên gia, sự bất đồng của giới lãnh đạo tình báo với Tổng thống bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Yếu tố hàng đầu được tính đến là mức độ tiếp cận thông tin.
Nếu như tình báo Mỹ có rất nhiều thông tin, thì bản thân Tổng thống không thể nhận được tất cả những dữ liệu này. Những dữ liệu của cơ quan tình báo trình lên tổng thống nhiều khi không hoàn toàn chuẩn xác. CIA hoàn toàn có thể che giấu những sự kiện trên thực tế để phục vụ cho lợi ích của mình. Còn nhớ mâu thuẫn giữa ông Trump và tình báo Mỹ bắt nguồn ngay từ thời điểm tranh cử tổng thống.
Tuyên bố sẽ bình thường hóa quan hệ với Nga được giới mật vụ nhìn nhận như một nguy cơ. Đơn giản là việc gạch Nga khỏi danh sách những mối đe dọa tiềm tàng sẽ khiến tình báo mất đi những khoản ngân sách lớn hàng năm.
Cuộc đối đầu sẽ đi đến đâu?
Ngay sau khi lên nắm quyền tại Nhà Trắng, ông Trump trên thực tế đã bước vào một cuộc chiến với giới chính trị gia kỳ cựu, tất nhiên trong đó có cả cộng đồng tình báo. Nhiều chuyên gia vẫn nhận định rằng, ưu thế lâu dài dù trong bất cứ trường hợp nào vẫn thuộc về phe tình báo. Đây là bộ máy khổng lồ sở hữu những nguồn tài nguyên lớn, trong đó cả về tài chính, tổ chức và thông tin.
Đối sách duy nhất và phổ biến nhất của ông Trump cho đến lúc này vẫn là đặt những người thân tín của mình vào các vị trí chủ chốt của cơ quan tình báo.
Nhưng đây là một tiến trình dài hơi kèm theo nhiều rủi ro. Mỗi một nhà lãnh đạo bị sa thải sẽ là một đối thủ tiềm tàng đối với ông Trump trong tương lai. Chưa kể nếu bị “ép quá”, phía tình báo sẽ có những phản ứng tiêu cực hơn mà chưa ai dám dự đoán kết quả.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH