BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI (Văn Cao) 176

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phỏng vấn: Đôi điều tâm sự của Văn Cao năm 70 tuổi (1993)

Văn Cao – bậc tài danh sống mãi trong hồn dân tộc
Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài, thử sức trên mọi lĩnh vực: âm nhạc, truyện, thơ, hội họa… Nhưng người ta vẫn biết về ông nhiều hơn cả với tư cách là một nhạc sĩ rất mực tài hoa, tác giả của “Tiến quân ca” – ca khúc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sau này là của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài “Tiến quân ca” - Quốc ca mang hồn thiêng sông núi Việt Nam 
Nhạc sĩ Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923 tại Hải Phòng. Ông là người thuộc thế hệ thanh niên ưu tú, giàu lòng yêu nước, được tiếp thu những tinh hoa của văn hoá Đông Tây. Những tác phẩm của ông đã mang lại cho người nghe, người xem một lối cảm thụ nghệ thuật mới.
Người nghệ sĩ tài hoa và những ca khúc trữ tình nổi tiếng
Văn Cao là một tài hoa thiên bẩm, nhạc sĩ của nhiều bài hát làm rung động lòng người, những bài hát đã trở thành một phần trong tài sản tinh thần của biết bao thế hệ người Việt. “Trong cuộc đời của một nghệ sĩ lớn như Văn Cao, về âm nhạc, ông sáng tác không  nhiều. Nhưng phải công bằng mà nói rằng, những bản nhạc của Văn Cao là những viên ngọc quý hiếm, có lúc còn ẩn trong đá. Nhưng khi được khám phá, những bản nhạc của Văn Cao hiện diện như những hạt kim cương, lấp lánh sắc màu, có giá trị vượt không gian và thời gian trong vườn nhạc dân tộc”(1).
Văn Cao bước vào con đường nghệ thuật khá sớm, khi mới ở tuổi thiếu niên. Đầu tiên ông xuất hiện ở làng văn nghệ bằng những vở kịch và truyện ngắn, sau đó ông chuyển sang thơ và nhạc.
Đúng như giới văn nghệ sĩ đánh giá, Văn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trên cả ba lĩnh vực: thơ, họa, nhạc. Ngay từ trước cách mạng, Văn Cao đã là một nhạc sĩ tài danh với những ca khúc trữ tình nổi tiếng. Bài hát đầu tay của ông viết năm 1939 tại Hải Phòng là “Buồn tàn thu”, tiếp sau đó là những giai điệu ngọt ngào, sâu lắng với những ca từ đạt đến độ hoàn mỹ của “Thiên thai”, “Suối Mơ”, “Trương Chi”, “Bến xuân”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”...
Tuy đa phần những ca khúc đó đều chứa đựng một tâm sự buồn của bản thân ông, nhưng đó thực sự là những khúc tình ca bất hủ không chỉ của riêng ông mà còn của cả nền âm nhạc Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua. Bên cạnh những sáng tác nhạc trữ tình, Văn Cao còn có những hành khúc hùng tráng lấy đề tài từ lịch sử dân tộc như: “Gò Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc ca” viết cho tráng sinh Hướng đạo thuộc nhóm “Đồng Vọng” của nhạc sĩ Hoàng Quý - một nhóm nhạc nổi tiếng ở Hải Phòng trước cách mạng.
Tham gia Việt Minh, Văn Cao viết những ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam (1945),  Không quân Việt Nam (1945), Hải quân Việt Nam (1945), Công nhân Việt Nam,… Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô – được đánh giá là một tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Đây cũng là bản nhạc đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc, là đỉnh cao của nhạc kháng chiến.
 Nhạc sĩ Văn Cao
Sau năm 1954, những ca sĩ hàng đầu của Sài Gòn như: Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh, Ánh Tuyết…đã trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Đặc biệt, bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” (1976)  của Văn Cao viết về sự kiện trọng đại của dân tộc: Mùa xuân mới đầu tiên thực sự của Nam - Bắc cùng đoàn tụ, vui chung một nhà, hòa vào tình cảm yêu thương ruột thịt, cùng nhau đón Tết! Ca khúc thể hiện đúng với lòng mong ước sáng trong của Hồ Chủ tịch: “Bắc-Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”.
Trong lĩnh vực thơ ca, độc giả biết đến Văn Cao với những vần tự sự về chính cuộc đời ông, về quê hương, về cuộc sống tự do với bạn bè; biết đến những vần thơ đau thương nhất của ông về cuộc sống cùng cực của người dân nghèo nơi xóm ả đào, nẻo nhà ga, lề đường, góc chợ.
Đối với Văn Cao, “người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng”. Với bài thơ đầu tiên “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” và tiếp theo là: “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, “Bến Ngự trên thương cảng”, “Ngoại ô mùa Đông năm 1946”, “Những người trên cửa biển”, “Với Nguyễn Huy Tưởng”, “Với Nguyên Hồng”…, ông đã để lại trong lòng độc giả nhiều thế hệ những tình cảm đặc biệt.
Nói đến Văn Cao, người ta không thể không nhắc đến lĩnh vực hội họa. Ở lĩnh vực này, ông là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng sắc sảo, mặn nồng không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp. Ông đã có những bức tranh minh họa, những bìa sách và nhiều bức sơn dầu nổi tiếng. Đặc biệt, với lối vẽ tranh sơn dầu bằng hình thức và nội dung mới, bức họa đầu tay “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” được Văn Cao trưng bày tại Phòng triển lãm Duy nhất (Hà Nội-1944) đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc.
“Tiến quân ca” - Quốc ca mang hồn thiêng sông núi
Tiến quân ca ra đời năm 1944, trong bối cảnh lịch sử đặc biệt khi đất nước sắp bước sang một thời kỳ mới. Còn với nhạc sĩ Văn Cao, bài hát đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc đời khi ông tìm được lý tưởng sống. Sau khi được đồng chí Vũ Quý giác ngộ cách mạng, ông đã tham gia hoạt động bí mật. Vũ Quý đã động viên ông viết những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… Vũ Quý đề nghị Văn Cao thoát ly hoạt động cách mạng, và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành khúc cho đội quân Việt Minh. Văn Cao viết bài hát đó trong nhiều ngày tại căn gác số 45 Nguyễn Thượng Hiền. Ông có viết lại trong một ghi chép của mình như sau: “…Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được…”.
Bài hát viết xong, Văn Cao gặp và hát cho Vũ Quý nghe. Vũ Quý rất hài lòng, giao cho Văn Cao tự tay viết bài hát lên đá in. Và lần đầu tiên Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11/1944 bằng bản in đá do chính Văn Cao viết. Nguyễn Đình Thi khi nghe Văn Cao hát bài hát này, đã xúc động thật sự, và đề nghị mỗi người viết một bài hát nữa về mặt trận Việt Minh. Sau đó Nguyễn Đình Thi viết được bài Diệt phát xít, Văn Cao viết thêm bài Chiến sĩ Việt Nam, cả hai bài hát này đều phổ biến rộng rãi trong công chúng.
Có lẽ lúc đó, Văn Cao không ngờ rằng chỉ một thời gian ngắn sau, lần đầu tiên vào ngày 17/8/1945, khi diễn ra cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội, bài hát Tiến quân ca được hàng ngàn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước Quảng trường Nhà hát Lớn. Văn Cao đã kể lại những kỷ niệm của buổi hôm đó: “Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất vang lên theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh…”.
“Tiến quân ca” thực sự trở thành hồn dân tộc, hồn nước, làm xốc dậy tinh thần của những quân du kích, những binh đoàn, những quân đoàn và cả những người dân Việt Nam bình thường nhất.
Ngày 13/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 17/8/1945, trong cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội trước Nhà hát Lớn, bài Tiến quân ca đã được cất lên. Cũng tại quảng trường Nhà hát Lớn, ngày 19/8/1945, trong cuộc mít tinh lớn, dàn đồng ca của Đội Thiếu niên Tiền phong đã hát bài Tiến quân ca chào lá cờ đỏ sao vàng. Ngày 2/9/1945, Tiến quân ca chính thức được cử hành trong ngày Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình bởi Ban nhạc Giải phóng quân do Đinh Ngọc Liên chỉ huy.
Năm 1946, Quốc hội khóa I đã quyết định chọn Tiến quân ca làm quốc ca. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam, tại điều 3 ghi rõ: "Quốc ca là bài Tiến quân ca". Qua bao thăng trầm của lịch sử, Tiến quân ca ngày nay vẫn được chọn là quốc ca của Việt Nam. Năm 1993, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam một lần nữa khẳng định vị trí bất di bất dịch của Tiến quân ca là Quốc ca nước Việt Nam.
Bài hát Tiến quân ca của Văn Cao đã ra đời như thế, trong thời đại lịch sử đánh dấu một “buổi bình minh mới” của dân tộc, đất nước.
Với “ chữ tâm – chữ tài” nguyện hiến dâng hết thảy cho quê hương, đất nước,  Nhạc sĩ Văn Cao xứng đáng là một tác gia lớn của nền âm nhạc nước nhà. Tên tuổi ông mãi là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, nó trường tồn, bất tử như những khúc khải hoàn ca ngân mãi, vang mãi. “... Văn Cao đã ở mãi trong lòng mọi người với niềm tin yêu phấn khởi, trong bất cứ không gian nào, mỗi khi có dịp lắng lòng và nghiêm trang được nghe lại giai điệu hùng tráng thiêng liêng của bản “Tiến quân ca” lịch sử”.(2)
Với những cống hiến to lớn cho cách mạng, cho đất nước, nhạc sĩ Văn Cao đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất tại Sắc lệnh số 32-SL ngày 25/4/1949, với nội dung “Ông Văn Cao, nhạc sĩ có tài, người đã có công sáng tác bài Quốc ca”.
Ngoài ra, ông còn được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập Hạng Nhất (1993) và truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học, Nghệ thuật đợt 1 (năm 1996).
Thực hiện tâm nguyện của  nhạc sĩ  Văn Cao, vợ và 5 người con của ông đã cùng ký tên hiến tặng bản "Tiến quân ca" cho Nhà nước. Chiều 15/7/2016, Văn phòng Quốc hội tổ chức lễ tiếp nhận bài Tiến quân ca và truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho cố nhạc sĩ Văn Cao.
 Thanh Thảo (tổng hợp)
(1), (2): Trích bài viết “Văn Cao- Một lòng vì Tổ quốc"  của tác giả Nguyễn Thanh (Tạp chí Văn nghệ ngày 12/09/2016)


VĂN CAO - MỘT ĐỜI TÀI HOA NHƯNG ĐAU ĐỚN
Chào các bạn, hôm nay là ngày 10/7, là ngày mất nhạc sĩ Văn Cao. Chắc ai cũng biết ông là tác giả bài quốc ca gần như được hát mỗi ngày trên khắp lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên cuộc đời ông này còn nhiều điều đặc sắc hơn thế. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là sống “chất”. Nhân ngày giỗ của cụ, hôm nay tôi kể cho các bạn nghe một chút về cuộc đời truyền kỳ của cụ.
1. GIANG HỒ MÊ CHƠI QUÊN QUÊ HƯƠNG (thơ Tản Đà)
Ông sinh ngày 15/11/1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng (gần chảo lửa Lạch Tray - nơi mà mọi tín đồ bóng đá đất cảng đều biết), là con của giám đốc thủy cục Hải Phòng, từ nhỏ Nguyễn Văn Cao (tên thật) được học trường tây, học tiếng Pháp và làm quen với âm nhạc, hội họa phương tây. Năm 15 tuổi, gia đình sa sút, Văn Cao bỏ dở việc học và vào làm việc ở bưu điện Hải Phòng nhưng công việc bàn giấy gò bó làm ông cảm thấy không phù hợp, sau 1 tháng ông bỏ việc.
Thời điểm này, tân nhạc Việt Nam manh nha phát triển. Tân nhạc tức là nhạc chơi theo piano, dương cầm, trống và saxophone theo kiểu “tây”, trước đó dân Nam ta chỉ có chơi nhạc bằng “nhạc cụ dân tộc”, thường là phường bát âm. Văn Cao có học về nhạc lý ở trường tây, Hải Phòng lại là nơi tập trung nhiều nhạc sĩ tân thời lúc bấy giờ nên Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi. Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với một tên tuổi lớn của âm nhạc VN sau này: Phạm Duy.
Rời gia đình theo ban nhạc, Văn Cao bắt đầu những ngày tháng phiêu bạt. Năm 1940, theo lời xúi của Phạm Duy, ông làm một chuyến hành trình vào miền Nam. Năm 1942, ông chuyển từ Hải Phòng lên Hà Nội, rồi theo học dự thính truờng Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vừa theo học, Văn Cao vừa tự kiếm sống bằng viết báo, làm thơ và vẽ tranh, Văn Cao thật sự là một tài năng lớn, tranh của ông được đánh giá cao, và sự nghiệp hội họa của ông có nét tương đồng với Van Gogh. Tức là tranh ông được đánh giá cao nhưng khi sống méo có ai mua, nhạc sĩ của chúng ta nhiều phen đói méo mỏ, ngay tới cả bộ veston mặc khi tổ chức triển lãm tranh cũng là hàng đi mượn và trong bộ vest ấy là cái túi rỗng, không có lấy xu nào…âu cũng là tình cảnh chung của nhiều văn nghệ sĩ khi đó.
2. TAY SÚNG TRỪ GIAN
Năm 1944, qua một cán bộ nằm vùng là Vũ Quý, Văn Cao gia nhập Việt Minh. Công việc của ông trong tổ chức khá "ngầu": Đội trưởng đội Danh Dự Việt Minh - chuyên bảo vệ các cán bộ chủ chốt khi di chuyển hoạt động và ám sát các tay Việt Gian cộng tác với Pháp. Vế sau được đội của Văn Cao thực hiện thường xuyên hơn. Vốn học võ từ năm 9 tuổi, lại sớm "lăn lộn giang hồ" từ năm 16 tuổi, từng nhiều phen thượng đài đánh võ ở Hải Phòng, chàng nghệ sĩ xếp bút vẽ, đàn sáo qua một bên và chọn lấy cây súng. Trong căn gác thuê số 43 phố Nguyễn Thượng Hiền, Văn Cao thường xuyên tổ chức các khoá học ngắn ngày về bắn súng, võ thuật và hoá trang cho các đồng chí của mình (nghe giống... Hứa Văn Cường trong Máu nhuộm bến Thượng Hải nhỉ?)...
Rất nhanh, Văn Cao và các đồng chí có đất dụng võ, trong năm 1945 có hai vụ khá lớn tạo tiếng vang ở Hà Nội và Hải Phòng thời bấy giờ:
* Vụ mưu sát Võ Văn Cầm - Hà Nội
Cầm là người đứng đầu tổ chức Thanh niên Đại Việt - một tổ chức thân Nhật. Cầm thường xuyên dẫn hiến binh Nhật đi bố ráp các cán bộ Viêt Minh và phải nói là hắn làm việc khá rất, nghĩa là khối anh em Việt Minh bị Cầm tiễn vào trại. Tháng 4 năm 45 sau nhiều lần nói chuyện phải quấy bất thành, xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định "thịt" Võ Văn Cầm, nhiệm vụ được giao cho nhóm của Văn Cao.
Anh em điều tra ra quy luật đi lại hàng ngày của Cầm: Mỗi trưa đều tạt về nhà vợ nhỏ bằng xe kéo rồi ở đó ăn cơm và ngủ trưa, đi theo hắn là 1 tên vệ sĩ luôn giắt súng trong người. Kế hoach đặt ra là một người đồng chí của Văn Cao sẽ đạp xe theo xe kéo, đến phố Bà Triệu thì thêm một người nữa đi theo. Hai người này cùng đi đến chợ Hôm thì Văn Cao sẽ chờ sẵn, trong lúc anh Cao bắn Cầm thì hai người kia "xử đẹp" tên vệ sĩ. Tuy nhiên lúc sắp thực hiện kế hoạch thì người đồng chí thứ hai bỗng lên cơn ... húng chó, anh này bỗng nhiên muốn headshot Cầm để nhanh lấy số nên bất thần chạy xe vượt lên. Cả Văn Cao và người còn lại đều bất ngở, tay này chạy vượt lên và... bắn trượt (hehe), Cầm vội vàng nhảy mẹ xuống gầm xe trốn luôn. Tên vệ sĩ đi cạnh Cầm vội rút súng định bắn thì người đồng chí thứ hai kịp ra tay bắn chết hắn, anh Cao trốn gấp, hết chuyện.
* Vụ mưu sát Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng
Hai tháng sau cú trớt quớt kể trên ở Hà Nội, tháng 6/1945 nhóm Văn Cao & Những người bạn lại được giao nhiệm vụ "giũ sổ" một đối tượng khác - Đỗ Đức Phin. Tên này vốn là một thầy giáo tiếng Nhật, sau khi người Nhật vào Đông Dương, chiếm cảng Hải Phòng, Phin trở thành thông ngôn cho Nhật. Nhưng chắc lương thông ngôn bèo quá, Phin chuyển ngành sang làm mật thám, chỉ điểm, do thám các cơ sở Việt Minh cho Nhật. Các bạn của Văn Cao ở Hải Phòng chịu hết thấu, biên thơ lên Hà Nội cho ông. Được cấp trên đồng ý, Văn Cao trở về Hải Phòng tính kế hoạch mần thịt Đỗ Đức Phin.
Rút kinh nghiệm bị đồng bọn phá hôi lần trước, lần này Văn Cao hành động một mình: Ông hoá trang thành một ông lão, để cho một đàn em đèo trên xe đạp đến gần tiệm thuốc phiện đã được xác định là Phin đang nằm trong đó, tới nơi Văn Cao bảo người đồng chí đi bộ về, để xe lại cho ông. Ông lách qua cửa chính tiệm hút, đi lên gác, vào đúng phòng Phin đang nằm phê, rút khẩu colt ra bóp... kẹt đạn, ko sao, có dự phòng, Văn Cao móc ra khẩu browning và nã 2 phát, lần này súng nổ, mission complete !!!
* Quán rượu biên thuỳ - Kết giao huynh đệ
Tháng 12 - 1946, quân Pháp đã quay lại, Hà Nội lúc này gần như vô chính phủ, kẹt giữa Việt Minh - Pháp và Tàu Tưởng (Trung Hoa dân quốc). Ở Hà Nội đã vậy, trên vùng núi biên giới phía Bắc cũng rất căng thẳng, Lê Giản - Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại quán cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: "Tình hình Lào Cai hiện nay rất phức tạp, bọn Quốc dân đảng cấu kết với thổ phỉ chống phá chúng ta công khai, trong khi lực lượng ta lại yếu. Mình muốn cậu sang giúp ngành Công an. Cậu sẽ phụ trách Đội điều tra Công an Liên khu 10. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này".
Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của Đội điều tra. Văn Cao mở quán cà phê ca nhạc lấy tên là quán Biên Thuỳ, tin tức về quán cà phê tân nhạc với ông chủ tài hoa và chất chơi nhanh chóng lan ra khắp các làng bản vùng biên thuỳ. Tại đây, Văn Cao có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc và kết nghĩa với Vua Mèo Hoàng A Tưởng. Trung tuần tháng 7 năm 1947, lễ kết nghĩa được tổ chức long trọng tại dinh thự của Hoàng A Tưởng. Bên phía Văn Cao có Trần Huy Liệu - đại diện Chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ của quán Biên Thùy tham dự. Hoàng A Tưởng và toàn thể gia đình họ hàng cùng rất đông bạn bè, quan khách.
Bằng uy tín của mình, Văn Cao đã giác ngộ các thổ ty hiểu thêm về chính sách đoàn kết các dân tộc của Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Theo lời khuyên của Văn Cao, Hoàng A Tưởng, Nông Vĩnh Xương, Vương Chí Sình, Đèo Văn Long có nhiều hành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ Chính phủ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến. Cần phải biết: Trước năm 1945, những người vừa kể trên là những "ông vua không ngai" của Tây Bắc, ngay đến người Pháp cũng không dám "cương" với họ mà phải cho họ quyền tự trị và đặc puyền buôn thuốc phiện nơi biên viễn. Việc những ông vua này quay sang ủng hộ Việt Minh có thể xem như một kỳ công trong công tác dân vận như cách nói ngày nay.
Tháng 8 năm 1947, Văn Cao hoàn thành nhiệm vụ, Đội điều tra giải tán và bàn giao lại công việc cho ông Lê Giản. Lê Giản muốn giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an. Văn Cao từ chối và nói: "Công việc này không thích hợp với tôi". Lại là cái kiểu ... quân tử tàu, việc xong giũ áo ra đi/ rừng xanh nương náu xá gì công danh, Văn Cao trở lại với cây bút, cây đàn.
3. NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ "Anh có nghe không" - được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì". Tiên sư anh bóng già... nhận xét thế thì khác nào đưa dao sẵn cho người khác chụp lấy chém? Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo Nhân Văn - Giai Phẩm đều bị đình bản, nhưng đấy mới chỉ là bước đầu.
Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca, mà thậm chí người ta còn không thèm đề tên tác giả. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác, cuộc sống của ông cùng gia đình cũng cực kỳ khó khăn. Cho đến năm 1975 thì miền nam giải phóng, không khí lúc ấy đã làm cho Văn Cao có cảm hứng viết nên ca khúc Mùa xuân đầu tiên - ca khúc đầu tiên của ông sau gần 20 năm im tiếng.
* Mùa xuân đầu tiên:
Cuối năm 1975, Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng không biết bằng cách nào bài hát này lại được "tuồn" sang Liên Xô và các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên. Văn Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp rằng: "Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy Mùa xuân đầu tiên được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: "Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu." (Hehe).
4. CUỐI ĐỜI
Sau khi Việt Nam tiến hành đổi mới, các tác phẩm của Văn Cao dần được gỡ bỏ cấm đoán. Sau gần 50 năm người miền bắc mới được nghe lại những Buồn tàn thu, Suối mơ, Bến xuân... còn đối với người miền nam thì không lâu như thế, chừng 15 năm thôi. Vì nhạc Văn Cao bị cấm ở miền bắc từ sau 1958 nhưng trong nam vẫn ca hát vang trời, Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh .... vẫn hát nhạc Văn Cao hàng đêm trong các phòng trà, thậm chí, quân lực VNCH còn lấy luôn ca khúc Không Quân Việt Nam của ông làm ca khúc "ngành". Năm 1994, Văn Cao có chuyến đi dài vào Tp.HCM, tại đây ông nức tiếng về tài ... uống rượu không địch thủ, từng hạ nốc ao nhiều cao thủ lưu linh trong giới nghệ sĩ TP, ngay cả Trịnh Công Sơn cũng phải ấn tượng. Cũng chuyến đi này, Văn Cao mang theo một loại rượu đặc biệt của ông. Rượu này do một người hâm mộ tự nấu, mỗi năm chỉ nấu một ít đem biếu riêng nhạc sĩ, tính Văn Cao rất thẳng thắn, ông ko bao giờ nhận không của ai, nhưng rượu của người này thì ông nhận. Năm 1994, Văn Cao mang 20 lít rượu đặc biệt này vào Sài Gòn, sau 1 tháng thì hết, phải điện cho con trai Văn Thao mang thêm vào, đến nơi, ông con ngật ngưỡng bước xuống tàu, ông bố lắc đầu thở dài khi nhìn can rượu ... chỉ còn 5 lít.
Cũng như phần lớn những tay sành rượu trên đời, Văn Cao nấu ăn rất ngon, dường như khi đã đặt tay vào làm cái gì, ông đều trổ hết tài hoa vào việc ấy. Con trai cả Văn Thao từng kể về "khiếu ẩm thực" của Văn Cao: “Cha tôi hay có khách nên thường chỉ bảo tôi nấu một số món ngon cho bạn của ông uống rượu. Tôi cũng lấy làm lạ, vì không ngờ một người như ông lại có tài nấu ăn như thế... Nhìn ông chế biến các món ăn một cách thành thục như một đầu bếp thực thụ, tôi vô cùng ngạc nhiên và khâm phục. Những lúc như thế, hình bóng của một người nhạc sĩ không còn hiện diện, tôi chỉ còn thấy hình ảnh của một người cha thân yêu đang hết lòng chăm chút nấu những món ăn ngon cho một đàn con đang tuổi ăn tuổi lớn, trong hoàn cảnh bao cấp thiếu thốn "ăn còn chưa đủ no, lấy đâu ra mà dám đòi ăn ngon". Có lần tôi hỏi ông: "Làm thế nào mà bố lại biết nấu nhiều món ăn ngon thế?". Trầm ngâm một lát, ông mới thủng thẳng nói: "Ai chẳng thích ăn ngon! Nhưng để nấu cho ngon thì không phải ai cũng nấu được. Một miếng thịt cho vào chảo rán lên rồi thái ra chấm nước mắm ăn sẽ không thể bằng miếng thịt được tẩm ướp với một chút muối, mì chính, tỏi và húng lìu rồi mới đem rán. Khi ăn ta chấm với nước mắm chanh ớt, tỏi và một chút hạt tiêu kèm theo vài cọng rau mùi mới thấy hết được giá trị của gia vị đã làm cho miếng thịt rán thơm ngon lên gấp bội. Vì thích ăn ngon nên những khi có điều kiện để mời bạn đến uống rượu là bố phải "lăn vào bếp". Nhìn mọi người ăn ngon miệng là bố thấy vui... Nấu ăn cũng là một nghề đầy tính nghệ thuật".
Sức khỏe của Văn Cao suy yếu nhanh trong những năm cuối đời. Ông không còn ăn được cơm mà chuyển sang ăn loại bột ngũ cốc thường dành cho trẻ em do các cơ quan nội tạng bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ bỏ được thú vui uống rượu có từ thời trẻ. Thật giống Cổ Long và Lý Tầm Hoan, hehe...
Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
=.=.= Bách Hiểu Sinh =.=.=
#NhanVat

Anh Em Khá Cầm Tay (Em Anh Khá Cầm Tay)

Tác giả: Văn Cao
Anh em khá cầm tay. Mau đến cùng nhau hát nhé. Nơi đây chúng mình ca. Trong gió hòa êm êm. Bao nhiêu gió về đây. Chim chóc về đây hót nhé. A vui sướng làm sao. Ta ngó trời xanh êm. Mà ca hát cười nô. Không biết chi.

Bắc Sơn

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Chưa Biết
Ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió. Ðau lòng bao năm sống lầm than đây đó. Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng. Còn vang khe núi tiếng quân oai hùng. Lớp lớp chiến đấu Lạng Sơn tung bay cờ. Rồi vùng đồi núi nhờ.

Bài Ca Chiến Sĩ Hải Quân

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Tốp Ca
Toán chiến sĩ thủy quân ra khơi hôm nay. Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say. Ra đi không vương thê nhi. Miền Bắc núi tuyết rét mướt. Quen vui trong muôn phân ly. Sống trên ngàn trùng sóng. Thân phơi trên Nam Băng Dương.

Bến Xuân

Tác giả: Văn Cao & Phạm Duy
Ca sỹ thể hiện: Lệ Thu; Thái Hiền; Phạm Cao Tùng
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước. Em đến tôi một lần. Bao lũ chim rừng họp đàn. Trên khắp bến xuân. Từng đôi rung cánh trắng. Khe khẽ ca. U ú ù u ú. Cành đào rung nắng chan hòa. Chim ca thương mến. Chim ngân xa. U ú ù u.

Bến Xuân

Tác giả: Văn Cao & Phạm Duy
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước. Em đến tôi một lần. Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân. Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú. Cành đào hoen nắng chan hoà! Chim ca thương mến, chim ngân xa u ú ù u ú.

Buồn Tàn Thu (Chinh Phụ Khúc)

Tác giả: Văn Cao
Ai lướt đi ngoài sương gió. Không dừng chân đến em bẽ bàng. Ôi vừa thoáng nghe em. Mơ ngày bước chân chàng. Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết. Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áo. Lòng buồn vương vấn. Em.

Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Quý Dương; Hồng Vy; Quang Thọ; Văn Cao
Người về đem tới ngày vui. Mùa thu nắng toả Ba Đình. Với tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời từ đất nước cằn, từ bùn lầy cả cuộc đời vùng lên. Bao công nhân tiền phong đưa nhân dân.

Chiến Sĩ Hải Quân

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Chưa Biết
Toán chiến sĩ Hài quân ra khơi hôm nay. Bờ nước Nam gió khơi nồng máu say. Ra đi không vương thê nhi. Miền Bắc núi tuyết rét mướt. Quen vui trong muôn phân ly. Sống trên ngàn trùng sóng. Thân phơi trên Nam Băng Dương.

Chiến Sĩ Việt Nam

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Chưa Biết
Bao chiến sĩ anh hùng. Lạnh lùng vung gươm ra sa trường. Quân xung phong, nước Nam đang chờ mong tay người. Hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời. Ngực phi nơi xa kìa nghe súng vang. Bên trời điệu kèn rộn ràng. Là trang.

Cung Đàn Xưa

Tác giả: Văn Cao
Hồn cầm phong sương hình dáng xuân tàn. Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn. Từ người ra đi chờ vắng tin người. Từ người ra đi là hết mơ rồi. Cung thương là tiếng đàn. Cung nam là tiếng người. Ai oán khúc ca.

Đàn Chim Việt

Tác giả: Văn Cao
Về đây khi gió mùa thơm ngát. Ôi lũ chim giang hồ. Bao cánh đang cùng dật dờ trên khắp cố đô. Từng đôi trên đất Bắc ríu rít ca ... Mờ mờ trong nắng ven trời. Chim reo thương nhớ chim ngân xa ... Hồn còn vương vấn về.

Gió Núi

Tác giả: Văn Cao
Gió núi qua mái lều vi vu. Vừng trăng xế lu. Phía cách xa núi mờ ánh sáng. Lời ca hát rằng:. Cùng ngồi lại đây. Ta chờ hơi gió. Là tiếng hát phất phơ từ đâu ? Từ đồi cao tới nơi rừng sâu. Rừng cây với núi vấn vương.

Giữ Trọn Tình Quê

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Chưa Biết
Xin gửi về Nam tấm lòng vàng đã thủy chung này. Là thủy chung này nguyện giữa trọn tình quê. Nhớ khi tết tóc chung tề có ta thì có bạn, là ta đi với bạn tình quê cho vẹn tròn. Nắm đất còn ghi tấm lòng vàng đã dấu tay.

Gò Đống Đa

Tác giả: Văn Cao
Từng đoàn dân chúng trên đế đô tưng bừng đi. Tìm về thăm chốn non nước thiêng trang hùng ghi. Cố bước bước bước bước trên đường thơm gió mát. Ta đi đi đi đi thăm gò xưa chất thây. Ðống Ða còn chốn đây . Nhắc xương đầy.

Hò Kéo Gỗ Bạch Đằng Giang

Tác giả: Văn Cao
Dô tà, Dô ta hò dô ta. Dô ta ơ ..hò dô ta ơ ...hò dô ta. Cùng ư nhau ý a ý a chung hết lòng. Xa ý a.. ý a... hò ơi trên sóng Bạch Ðằng trên sóng Bạch Ðằng. Kìa xa xa là xa bao ức vạn vạn quân thù. Hò dô ta ! Anh em ta.

Không Quân VIỆT NAM

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Hợp Ca; Ban Hùng Ca QLVNCH
Giờ đoàn người từng vượt qua biên giới quyết chiến đấu. Ðã chiếm chiến công ngang trời. Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới quyết chiến đấu. Ði không lo gì xác rơi. Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi. Hối.

Làng Tôi

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Tam Ca Áo Trắng; Ánh Tuyết; Thái Hiền
Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung. Đời đang vui đồng quê yêu dấu. Bóng cau với con thuyền, một giòng sông. Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà, ngày giặc Pháp tới làng triệt.

Mùa Xuân Đầu Tiên

Tác giả: Văn Cao
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường mùa vui nay đã về. Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông. Một trưa nắng cho bao tâm hồn. Rồi dặt dìu mùa xuân theo én.

Ngày Mùa

Tác giả: Văn Cao
Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng. Lúa không lo giặc về. Khi mùa vàng thôn quê. Ngày mùa vui thôn xóm, đầy đồng giáo với gươm, súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang. Lúa lúa vàng, đồng lúa.

Sông Lô

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Ánh Tuyết
Sông Lô sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu. Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu.

Suối Mơ (Bài Thơ Bên Suối)

Tác giả: Văn Cao
Suối mơ! Bên rừng thu vắng, giòng nước trôi lững lờ ngoài nắng. Ngày chưa đi sao gió vương? Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương. Suối ơi! Ôi nguồn yêu mến, còn ghi khi bóng ai tìm đến. Đàn ai nắn buông lưu.

Thăng Long Hành Khúc Ca

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Quang Hưng
Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng. Trông khói sương chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia, Nhị Hà còn đó! Lũ quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông. Tháp đây! Gươm Thần đâu dưới nước biếc. Có chăng!

Thiên Thai

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Ánh Tuyết; Tu Rau; Thanh Thuý
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên. Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên. Theo gió tiếng đàn xao xuyến. Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền. Mấy cung trìu mến như.

Thu Cô Liêu

Tác giả: Văn Cao
Thu cô liêu, tịch liêu. Cô thôn chiều ta yêu thu, yêu thu, yêu mùa thu. Vàng hoen đáy nước soi rõ đường đi. Một mùa thu, một mùa thu. Lá rơi, rơi rụng buồn chi lá vàng. Sương ấp lạnh non hương cứng lá. Đã từng.

Tiến Về Hà Nội

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Tốp Ca
Trùng trùng quân đi như sóng. Lớp lớp đoàn quân tiến về. Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng. Cờ ngày nào tung bay trên phố. Trùng trùng say trong câu hát, lấp lánh lưỡi lê sáng ngời. Chúng ta đem vinh quang sức.

Tình Ca Trung Du

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Thùy Dương
Thu trên trung du, đồi xanh lên cỏ non, chè xanh trên đồng xanh. Miền quê núi Thắm. Ở cuối sông một cánh tay sông Hồng, một cánh tay sông Lô. Hai cánh tay như ôm trung du. Em đi lên ca. Trời mây nắng màu hoa và gió.

Trường Ca Sông Lô

Tác giả: Văn Cao
Ca sỹ thể hiện: Thu Minh; Ánh Tuyết
Sông lô sóng ngàn. Việt bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu. Sông lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã. Tàn thôn trang. Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu.

Trường Ca Sông Lô

Tác giả: Văn Cao
Sông Lô sông ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Ru ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu. Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu.

Trương Chi

Tác giả: Văn Cao
I. Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ. Trầm trầm không gian mới rung thành tơ. Vương vất heo may hoa yến mong chờ. Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ. Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang, chập chùng đêm khuya.
 
Những Ca khúc Bất Hủ Của Nhạc Sĩ Văn Cao

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH