CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 324
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phạm Ngọc Thảo huyền thoại tình báo Việt Nam
Tình báo Anh kêu gọi đánh giá lại quan hệ với Trung Quốc sau dịch Covid-19
Các cơ quan tình báo của Anh cảnh báo Trung Quốc sẽ hành động quyết liệt để bảo vệ mô hình chính trị, kinh tế sau khi đại dịch Covid-19 qua đi.
Cơ quan tình báo nội địa Anh MI5 và cơ quan tình báo nước ngoài MI6
kêu gọi chính phủ đánh giá lại mối quan hệ với Trung Quốc sau khi đại dịch Covid-19 kết thúc, đồng thời cân nhắc các biện pháp hạn chế sự tiếp cận của Trung Quốc đối với các ngành công nghệ cao và giáo dục của Anh, theo tờ The Guardian ngày 12.4.
The Guardian dẫn nguồn thạo tin từ quốc hội tiết lộ MI5 và
MI6 khuyến cáo chính phủ cân nhắc hạn chế việc Trung Quốc thâu tóm các
công ty công nghệ cao của Anh, giảm đầu vào cho sinh viên Trung Quốc tại
các trường đại học Anh...
Hai cơ quan tình báo cảnh báo Trung Quốc sẽ hành động quyết liệt
hơn nhằm bảo vệ mô hình chính trị sau khi đại dịch Covid-19 qua đi.
Các cơ quan cho rằng Anh cần đảm bảo đa dạng hóa nguồn cung ứng hệ
thống mạng 6G và 7G trong tương lai. Tuy nhiên, các cơ quan tin rằng
quyết định cho phép tập đoàn Huawei của Trung Quốc tham gia xây dựng mạng 5G tại Anh là chuẩn xác.
Theo The Guardian,
các cơ quan tình báo Anh đã kêu gọi tập trung nhiều hơn vào hành động
của Trung Quốc trong vài tháng qua. Tân tổng giám đốc MI5 Ken McCallum
sau khi được bổ nhiệm vào cuối tháng 3 cũng đưa ra cam kết tương tự.
Bộ trưởng phụ trách nội các Michael Gove cuối tháng 3 cáo buộc
Trung Quốc cố tình giảm nhẹ mức độ nguy hiểm của dịch Covid-19 vào thời
điểm đầu khi dịch mới bùng phát và báo cáo không rõ ràng về quy mô, bản
chất và độ lây nhiễm của dịch.
Chuyên gia Charles Parton thuộc Viện nghiên cứu an ninh quốc phòng
hoàng gia (RUSI), nhà ngoại giao từng có 22 năm kinh nghiệm về vấn đề
Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan, nói rằng việc cân nhắc lại mối quan
hệ với Trung Quốc là điều cần làm từ rất lâu vì Trung Quốc coi họ là đối
thủ lâu dài của phương Tây.
Cuối tuần qua, 15 nghị sĩ đảng Bảo thủ cầm quyền gửi thư cho Thủ tướng Boris Johnson,
yêu cầu đánh giá lại mối quan hệ toàn diện với Trung Quốc sau khi đại
dịch Covid-19 kết thúc. “Chúng ta đã thất bại trong việc đưa ra quan
điểm chiến lược về nhu cầu an ninh, kinh tế và kỹ thuật về lâu dài của
Anh”, các nghị sĩ viết.
Tuy nhiên, những lo ngại về Trung Quốc trong chính quyền Anh đã bị làm giảm đi vì lợi ích thương mại. Bộ trưởng Gove hồi đầu tháng 4
buộc phải mềm hóa chỉ trích Trung Quốc sau khi Anh nhận được lô máy thở
để điều trị bệnh nhân Covid-19 giữa thời điểm thiết bị này trở nên khan
hiếm.
Những dự án chiến cơ được giải mật của CIA
Văn Chương |
Năm 1955, Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), không lực Mỹ và nhà thầu quốc phòng Lockheed Martin đã chọn một nơi siêu hẻo lánh trong lòng hoang mạc Mojave (phía Nam tiểu bang Nevada, cách thành phố Las Vegas độ 80 dặm về hướng Tây Bắc) để nuôi tham vọng thử nghiệm và phát triển ra các loại chiến cơ tiến bộ nhất, mới mẻ nhất thế giới tại thời điểm đó.
Suốt hàng thập niên, Khu vực thử nghiệm và đào tạo không quân
Nevada (NTTR) còn được biết đến dưới tên gọi nổi tiếng: Khu vực 51,
chưa từng xuất hiện trên bất kỳ tấm bản đồ công cộng nào, cũng như chính
phủ Mỹ thậm chí còn không thừa nhận về sự tồn tại của nó.
Ngày hôm nay, nhờ một lượng lớn các tài liệu của CIA được giải mật đã hé lộ một số loại máy bay có hình thù khác thường được phát triển và thử nghiệm ở Khu vực 51: từ máy bay gián điệp U-2 của thời Chiến tranh Lạnh, cho đến những loại máy bay lấy cảm hứng phim viễn tưởng Star Trek - từ thập niên 1990.
U-2 Dragon Lady
Hồi đầu thập niên 1950, tức ngay lúc cao trào của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, CIA đã bắt đầu một nỗ lực tuyệt mật nhằm phát triển ra một loại máy bay trinh sát mà có thể bay tới độ cao 21.336m, đủ để tránh bị phát hiện bởi hệ thống radar của Liên Xô.
Kết quả đã ra đời máy bay U-2 Dragon Lady dưới mã danh Dự án Aquatone, nó là loại máy bay 1 động cơ với đôi cánh giống như tàu lượn, được thiết kế bởi Clarence “Kelly” Johnson, là nhà sáng lập ra phòng Các dự án phát triển tiên tiến của Hãng Lockheed Martin (còn có tên khác là Skunk Works).
Hãng Lockheed đã chế tạo ra máy bay tại tổng hành dinh Skunk Works ở Burbank (California) chỉ trong vòng 8 tháng, rồi đem nó tới thử nghiệm ở Khu vực 51 mà ông Johnson đặt biệt danh là “Nông trang thiên đường”.
Trước khi U-2 sẵn sàng bay, các kỹ sư của hãng Lockheed đã phát hiện ra rằng nhiên liệu sẽ không thể bay hơi tại độ cao mà máy bay được thiết kế đó. Để xử lý lỗi kỹ thuật này, hãng dầu khí Shell đã tung ra loại nhiên liệu đặc biệt có độ bay hơi thấp bằng cách sử dụng các phụ phẩm dầu mỏ (vốn được dùng thường xuyên trong máy bay và thuốc xịt côn trùng).
Thêm nữa còn phải kể đến bộ đồ điều áp nhằm giúp cho các phi công lái U-2 sống sót ở cao độ nói trên, và sau đó nó đã tích hợp vào các chương trình không gian có người lái.
Theo một báo cáo mới được phân loại của CIA thì chiếc U-2 đã thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên trên hồ Groom vào ngày 1 tháng 8 năm 1955 và không đầy 1 năm sau đó nó đã bay vào lãnh thổ Liên Xô, chính thức trở thành “nguồn cung cấp tình báo quan trọng của Mỹ trên không phận Liên Xô”.
Tuy vậy có một cái giá phải trả: năm 1956, 3 phi công CIA đã tử nạn trong một số chuyến bay thử nghiệm U-2 bao gồm 2 vụ tại Khu vực 51 và 1 vụ ở căn cứ Không quân Mỹ ở Đức. Tháng 5 năm 1960, Liên Xô bắn hạ máy bay U-2 trên không phận thành phố Sverdlovsk (thuộc Nga) và bắt giữ viên phi công Francis Gary Powers, buộc Mỹ phải thừa nhận hoạt động gián điệp.
Trong khi Tổng thống Mỹ Eisenhower ngừng mọi chuyến bay U-2 trên không phận Liên Xô, nhưng chúng đã được tinh chỉnh để nhỏ hơn, bay nhanh hơn và khả năng tàng hình cao hơn.
A-12 Oxcart và SR-71 Blackbird
Ra mắt vào năm 1957, Dự án Oxcart là khởi nguồn sản sinh ra 2 loại máy bay bay cực cao, cực nhanh trong lịch sử Mỹ: 1- Loại 1 ghế Archangel A-12; 2 - Loại 2 ghế SR-71 Blackbird. Loại A-12 có 2 động cơ phản lực, thân máy bay dài và vẻ ngoài có hình dáng giống rắn hổ mang.
Chiếc A-12 đầu tiên đã được đưa tới Khu vực 51 vào tháng 2 năm 1962. Được tuyên bố hoạt động đầy đủ vào năm 1965, sau khi đạt vận tốc Mach 3.2 (hơn 2.200 dặm/giờ) tại độ cao 27.432m, chiếc A-12 bắt đầu thực hiện các sứ mạng bay trên không phận Việt Nam và CHDCND Triều Tiên ngay từ năm 1967.
Năm
1968, máy bay A-12 “nghỉ hưu” để nhường chỗ cho “người kế nhiệm” SR-71
Blackbird. Dài và nặng hơn máy bay A-12, chiếc SR-71 bay đạt tốc độ siêu
thanh và giữ hồ sơ radar thấp nhờ thiết kế thon gọn và loại sơn màu đen
hấp thụ radar.
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1976, các phi công đã bay trên một chiếc SR-71 đạt tốc độ Mach 3.3 (tức 2193 dặm/giờ). Với tốc độ đạt 121,9m/giây, nó còn nhanh hơn 1 viên đạn súng trường bắn ra. Giải nghệ từ năm 1990 sau hơn 3 thập niên phục vụ, máy bay SR-71 Blackbird vẫn là loại máy bay nhanh nhất thế giới tại thời điểm này.
MiG-21 của liên xô
Khu vực 51 cũng còn được sử dụng cho việc nghiên cứu các loại chiến đấu cơ của nước ngoài hoặc đối thủ mà chính phủ Mỹ đã thu được một cách tình cờ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Hồi cuối thập niên 1960, theo các tài liệu CIA mới được phân loại gần đây thì Không lực Mỹ đã thu được một chiếc “Fishbed-E” (chiến đấu cơ phản lực MiG-21 mà Liên Xô đã cho Mỹ “mượn” sau khi một viên phi công Iraq đã dùng nó để đào tẩu sang Israel).
Theo chương trình có tên mã là “Have Doughnut” thì Khu vực 51 đã tự thẩm tra và sao chép chế tạo ra một chiến đấu cơ Mach-2 nhằm tìm hiểu về hiệu suất của MiG-21 và so sánh nó để chọn lọc ra các loại chiến đấu cơ của Mỹ sau này.
Trong suốt 40 ngày của năm 1968, các phi công Mỹ đã bay 102 đợt thử nghiệm ngay trên chiếc MiG với tổng thời gian bay là 77 tiếng.
Họ khám phá ra rằng trong khi máy bay Liên Xô bay chậm hơn các loại chiến đấu cơ Mỹ như F-5 và F-105, thì MiG-21 có bán kính quay vòng chặt chẽ hơn bất kỳ chiến đấu cơ nào khác của Mỹ. Phát hiện này đã khiến các nhà phân tích lên tiếng cảnh báo phi công Mỹ luôn phải tránh các vụ đụng độ không chiến với Mig-21.
Chương trình MiG tuyệt mật tại Khu vực 51 đã từng được cho là diễn ra ngay trên bầu trời Việt Nam, nơi các phi công Mỹ chấm dứt cuộc chiến với tỷ lệ thua 2/1. Việc nghiên cứu MiG-21 đã dẫn đến năm 1969, Không lực Mỹ cho thành lập trường phi công chiến đấu Top Gun.
Lockheed F-117 Nighthawk
Hồi thập niên 1970, Khu vực 51 đã đón chào chiếc oanh tạc cơ tàng hình đầu tiên của Hoa Kỳ: Lockheed F-117 Nighthawk. Nó được thiết kế bởi Skunk Works (Lockheed Martin) và phát triển dưới mã danh Have Blue. Với bề mặt như viên kim cương được cắt gọt nhằm phản xạ và phá hủy các chùm radar, oanh tạc cơ F-117 dễ gây nhầm lẫn với vật thể UFO hình chiếc Boomerang (vũ khí đi săn của thổ dân da đỏ) vốn nằm trong tiềm thức dân chúng Mỹ vào thập niên 1940.
F-117 đã bay lần đầu tiên trên không phận Khu vực 51 vào tháng 6 năm 1981, và chỉ mới lộ ra công luận vào cuối năm 1988. Sau khi ném bom xuống các mục tiêu giá trị cao trên khắp thủ đô Baghdad dọn đường cho Chiến tranh vùng Vịnh vào đầu năm 1991, F-117 đã phục vụ cho các lực lượng Mỹ ở Afghanistan và ở Iraq trước khi “hưu trí” vào năm 2008.
Boeing YF-118G Bird of Prey
Thời thập niên 1990, hãng Boeing đã phát triển ra loại máy bay tuyệt mật của riêng mình: Chim Mồi (Bird of Prey) trong một dự án được quản lý bởi Không lực Mỹ tại Khu vực 51. Mục tiêu ra đời máy bay YF-118G là thử nghiệm các công nghệ máy bay khác nhau, cùng những cách khiến cho máy bay ít bị nhìn thấy hơn bằng mắt thường, hoặc tránh bị radar nhận diện.
Chim Mồi bay lần đầu tiên tại Khu vực 51 vào năm 1996 và thực hiện 38 chuyến bay trước khi chương trình hoàn tất vào năm 1999. Vài năm sau đó nó được giải mật và Hãng Boeing đã tặng Chim Mồi cho Bảo tàng Quốc gia của Không lực Mỹ, mặc dù vậy nhiều bí mật về nó vẫn chưa được biết đến.
Ngày hôm nay, nhờ một lượng lớn các tài liệu của CIA được giải mật đã hé lộ một số loại máy bay có hình thù khác thường được phát triển và thử nghiệm ở Khu vực 51: từ máy bay gián điệp U-2 của thời Chiến tranh Lạnh, cho đến những loại máy bay lấy cảm hứng phim viễn tưởng Star Trek - từ thập niên 1990.
U-2 Dragon Lady
Hồi đầu thập niên 1950, tức ngay lúc cao trào của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, CIA đã bắt đầu một nỗ lực tuyệt mật nhằm phát triển ra một loại máy bay trinh sát mà có thể bay tới độ cao 21.336m, đủ để tránh bị phát hiện bởi hệ thống radar của Liên Xô.
Kết quả đã ra đời máy bay U-2 Dragon Lady dưới mã danh Dự án Aquatone, nó là loại máy bay 1 động cơ với đôi cánh giống như tàu lượn, được thiết kế bởi Clarence “Kelly” Johnson, là nhà sáng lập ra phòng Các dự án phát triển tiên tiến của Hãng Lockheed Martin (còn có tên khác là Skunk Works).
Hãng Lockheed đã chế tạo ra máy bay tại tổng hành dinh Skunk Works ở Burbank (California) chỉ trong vòng 8 tháng, rồi đem nó tới thử nghiệm ở Khu vực 51 mà ông Johnson đặt biệt danh là “Nông trang thiên đường”.
Trước khi U-2 sẵn sàng bay, các kỹ sư của hãng Lockheed đã phát hiện ra rằng nhiên liệu sẽ không thể bay hơi tại độ cao mà máy bay được thiết kế đó. Để xử lý lỗi kỹ thuật này, hãng dầu khí Shell đã tung ra loại nhiên liệu đặc biệt có độ bay hơi thấp bằng cách sử dụng các phụ phẩm dầu mỏ (vốn được dùng thường xuyên trong máy bay và thuốc xịt côn trùng).
Thêm nữa còn phải kể đến bộ đồ điều áp nhằm giúp cho các phi công lái U-2 sống sót ở cao độ nói trên, và sau đó nó đã tích hợp vào các chương trình không gian có người lái.
Theo một báo cáo mới được phân loại của CIA thì chiếc U-2 đã thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên trên hồ Groom vào ngày 1 tháng 8 năm 1955 và không đầy 1 năm sau đó nó đã bay vào lãnh thổ Liên Xô, chính thức trở thành “nguồn cung cấp tình báo quan trọng của Mỹ trên không phận Liên Xô”.
Tuy vậy có một cái giá phải trả: năm 1956, 3 phi công CIA đã tử nạn trong một số chuyến bay thử nghiệm U-2 bao gồm 2 vụ tại Khu vực 51 và 1 vụ ở căn cứ Không quân Mỹ ở Đức. Tháng 5 năm 1960, Liên Xô bắn hạ máy bay U-2 trên không phận thành phố Sverdlovsk (thuộc Nga) và bắt giữ viên phi công Francis Gary Powers, buộc Mỹ phải thừa nhận hoạt động gián điệp.
Trong khi Tổng thống Mỹ Eisenhower ngừng mọi chuyến bay U-2 trên không phận Liên Xô, nhưng chúng đã được tinh chỉnh để nhỏ hơn, bay nhanh hơn và khả năng tàng hình cao hơn.
A-12 Oxcart và SR-71 Blackbird
Ra mắt vào năm 1957, Dự án Oxcart là khởi nguồn sản sinh ra 2 loại máy bay bay cực cao, cực nhanh trong lịch sử Mỹ: 1- Loại 1 ghế Archangel A-12; 2 - Loại 2 ghế SR-71 Blackbird. Loại A-12 có 2 động cơ phản lực, thân máy bay dài và vẻ ngoài có hình dáng giống rắn hổ mang.
Chiếc A-12 đầu tiên đã được đưa tới Khu vực 51 vào tháng 2 năm 1962. Được tuyên bố hoạt động đầy đủ vào năm 1965, sau khi đạt vận tốc Mach 3.2 (hơn 2.200 dặm/giờ) tại độ cao 27.432m, chiếc A-12 bắt đầu thực hiện các sứ mạng bay trên không phận Việt Nam và CHDCND Triều Tiên ngay từ năm 1967.
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1976, các phi công đã bay trên một chiếc SR-71 đạt tốc độ Mach 3.3 (tức 2193 dặm/giờ). Với tốc độ đạt 121,9m/giây, nó còn nhanh hơn 1 viên đạn súng trường bắn ra. Giải nghệ từ năm 1990 sau hơn 3 thập niên phục vụ, máy bay SR-71 Blackbird vẫn là loại máy bay nhanh nhất thế giới tại thời điểm này.
MiG-21 của liên xô
Khu vực 51 cũng còn được sử dụng cho việc nghiên cứu các loại chiến đấu cơ của nước ngoài hoặc đối thủ mà chính phủ Mỹ đã thu được một cách tình cờ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Hồi cuối thập niên 1960, theo các tài liệu CIA mới được phân loại gần đây thì Không lực Mỹ đã thu được một chiếc “Fishbed-E” (chiến đấu cơ phản lực MiG-21 mà Liên Xô đã cho Mỹ “mượn” sau khi một viên phi công Iraq đã dùng nó để đào tẩu sang Israel).
Theo chương trình có tên mã là “Have Doughnut” thì Khu vực 51 đã tự thẩm tra và sao chép chế tạo ra một chiến đấu cơ Mach-2 nhằm tìm hiểu về hiệu suất của MiG-21 và so sánh nó để chọn lọc ra các loại chiến đấu cơ của Mỹ sau này.
Trong suốt 40 ngày của năm 1968, các phi công Mỹ đã bay 102 đợt thử nghiệm ngay trên chiếc MiG với tổng thời gian bay là 77 tiếng.
Họ khám phá ra rằng trong khi máy bay Liên Xô bay chậm hơn các loại chiến đấu cơ Mỹ như F-5 và F-105, thì MiG-21 có bán kính quay vòng chặt chẽ hơn bất kỳ chiến đấu cơ nào khác của Mỹ. Phát hiện này đã khiến các nhà phân tích lên tiếng cảnh báo phi công Mỹ luôn phải tránh các vụ đụng độ không chiến với Mig-21.
Chương trình MiG tuyệt mật tại Khu vực 51 đã từng được cho là diễn ra ngay trên bầu trời Việt Nam, nơi các phi công Mỹ chấm dứt cuộc chiến với tỷ lệ thua 2/1. Việc nghiên cứu MiG-21 đã dẫn đến năm 1969, Không lực Mỹ cho thành lập trường phi công chiến đấu Top Gun.
Hồi thập niên 1970, Khu vực 51 đã đón chào chiếc oanh tạc cơ tàng hình đầu tiên của Hoa Kỳ: Lockheed F-117 Nighthawk. Nó được thiết kế bởi Skunk Works (Lockheed Martin) và phát triển dưới mã danh Have Blue. Với bề mặt như viên kim cương được cắt gọt nhằm phản xạ và phá hủy các chùm radar, oanh tạc cơ F-117 dễ gây nhầm lẫn với vật thể UFO hình chiếc Boomerang (vũ khí đi săn của thổ dân da đỏ) vốn nằm trong tiềm thức dân chúng Mỹ vào thập niên 1940.
F-117 đã bay lần đầu tiên trên không phận Khu vực 51 vào tháng 6 năm 1981, và chỉ mới lộ ra công luận vào cuối năm 1988. Sau khi ném bom xuống các mục tiêu giá trị cao trên khắp thủ đô Baghdad dọn đường cho Chiến tranh vùng Vịnh vào đầu năm 1991, F-117 đã phục vụ cho các lực lượng Mỹ ở Afghanistan và ở Iraq trước khi “hưu trí” vào năm 2008.
Boeing YF-118G Bird of Prey
Thời thập niên 1990, hãng Boeing đã phát triển ra loại máy bay tuyệt mật của riêng mình: Chim Mồi (Bird of Prey) trong một dự án được quản lý bởi Không lực Mỹ tại Khu vực 51. Mục tiêu ra đời máy bay YF-118G là thử nghiệm các công nghệ máy bay khác nhau, cùng những cách khiến cho máy bay ít bị nhìn thấy hơn bằng mắt thường, hoặc tránh bị radar nhận diện.
Chim Mồi bay lần đầu tiên tại Khu vực 51 vào năm 1996 và thực hiện 38 chuyến bay trước khi chương trình hoàn tất vào năm 1999. Vài năm sau đó nó được giải mật và Hãng Boeing đã tặng Chim Mồi cho Bảo tàng Quốc gia của Không lực Mỹ, mặc dù vậy nhiều bí mật về nó vẫn chưa được biết đến.
Copy link
CCTV, đài truyền hình trung ương Trung Quốc đưa tin rằng ba
trong số các vụ gián điệp được Bộ Công an Trung Quốc công bố có liên
quan đến các nhà nghiên cứu và kỹ sư làm việc cho các nhà thầu hoặc học
viện quân sự Trung Quốc và có quyền truy cập vào thông tin nhạy cảm về
các dự án hải quân và hàng không.
Trong một cảnh quay không rõ ngày tháng, Trương Gia Chi, một nhà nghiên cứu cao cấp của một viện công nghệ quốc phòng, đã bị bắt tại một sân bay ở Trịnh Châu, tỉnh miền trung Hà Nam, khi sắp rời khỏi Trung Quốc.
Bộ Công an Trung Quốc cho biết họ đã tìm thấy các tài liệu nghiên cứu bí mật trong hành lý của Trương, cáo buộc ông bán thông tin cho một cơ quan tình báo nước ngoài không xác định. Trương sau đó bị kết án 15 năm tù.
Báo cáo không nêu rõ chuyên môn của Trương, chỉ nói rằng nghiên cứu của ông liên quan đến các bí mật quan trọng của Quân đội Trung Quốc, các vũ khí quan trọng, nhưng bản tin của đài truyền hình có các cảnh quay về pháo hạm và máy bay chiến đấu J-15 trên tàu sân bay Trung Quốc.
“Nhiều thông tin về vũ khí quân sự của chúng tôi chưa được đưa vào hoạt động hoặc trang bị đã bị rò rỉ từ Trương.
Ông nói với các điệp viên nước ngoài một cách vô tư về tiến trình và hướng nghiên cứu của chúng tôi về vũ khí tối tân”, bản tin dẫn lời một điều tra viên của Bộ Công an Trung Quốc.
Bộ này cho biết Trương đã được một cơ quan gián điệp phương Tây không xác định nhắm đến khi ông ta được gửi đến nước này như một học giả thỉnh giảng vào năm 2011. Sau đó, ông ta được tiếp cận bởi một đặc vụ nước ngoài tên là Jack, người tự xưng có liên quan đến các dự án quốc phòng của nước chủ nhà.
Họ nói rằng Jack đã mua chuộc Trương bằng những món quà xa hoa và hứa sẽ giúp con gái Trương đi du học, thuyết phục ông ta bán thông tin tình báo với giá 5.000 USD cho mỗi lần “tham khảo ý kiến”.
Trong một trường hợp khác, một phó kỹ sư thiết kế hàng không và vợ, cả hai đều tham gia các dự án bí mật quan trọng, đã bị bắt vào tháng 11/2017 khi họ trở về Trung Quốc với hộ chiếu từ một quốc gia phương Tây sau khi đào tẩu gần 16 năm trước.
Bộ Công an Trung Quốc cho biết, người chồng, Wang Pihong, tiếp tục làm việc trong ngành hàng không sau khi ông và gia đình bí mật di cư.
Cặp vợ chồng có kiến thức rất lớn về Trung Quốc nghiên cứu bí mật và tiếp tục làm việc trong lĩnh vực liên quan ở nước ngoài. Vụ đào tẩu của họ đã đặt ra những mối đe dọa lớn đối với an ninh công nghệ và quân sự của Trung Quốc. Bản tin của đài truyền hình có cảnh quay của một bệ phóng tên lửa di động và máy bay trực thăng tấn công Z-10.
Vào tháng 11, một tòa án ở Lạc Dương ở Hà Nam đã kết án Wang và vợ của ông ta, Zhao Ruqin, về tội đào tẩu, kết án Wang ba năm tù và Zhao hai năm.
Tình báo Trung Quốc công bố vụ gián điệp liên quan đến vũ khí
Anh Minh |
Tình báo Trung Quốc vừa công bố chi tiết về một “âm mưu lật đổ” và các vụ án gián điệp khác, bao gồm một số vụ liên quan đến các dự án quân sự nhạy cảm, theo tin của SCMP.
Trong một cảnh quay không rõ ngày tháng, Trương Gia Chi, một nhà nghiên cứu cao cấp của một viện công nghệ quốc phòng, đã bị bắt tại một sân bay ở Trịnh Châu, tỉnh miền trung Hà Nam, khi sắp rời khỏi Trung Quốc.
Bộ Công an Trung Quốc cho biết họ đã tìm thấy các tài liệu nghiên cứu bí mật trong hành lý của Trương, cáo buộc ông bán thông tin cho một cơ quan tình báo nước ngoài không xác định. Trương sau đó bị kết án 15 năm tù.
Báo cáo không nêu rõ chuyên môn của Trương, chỉ nói rằng nghiên cứu của ông liên quan đến các bí mật quan trọng của Quân đội Trung Quốc, các vũ khí quan trọng, nhưng bản tin của đài truyền hình có các cảnh quay về pháo hạm và máy bay chiến đấu J-15 trên tàu sân bay Trung Quốc.
Ông nói với các điệp viên nước ngoài một cách vô tư về tiến trình và hướng nghiên cứu của chúng tôi về vũ khí tối tân”, bản tin dẫn lời một điều tra viên của Bộ Công an Trung Quốc.
Bộ này cho biết Trương đã được một cơ quan gián điệp phương Tây không xác định nhắm đến khi ông ta được gửi đến nước này như một học giả thỉnh giảng vào năm 2011. Sau đó, ông ta được tiếp cận bởi một đặc vụ nước ngoài tên là Jack, người tự xưng có liên quan đến các dự án quốc phòng của nước chủ nhà.
Họ nói rằng Jack đã mua chuộc Trương bằng những món quà xa hoa và hứa sẽ giúp con gái Trương đi du học, thuyết phục ông ta bán thông tin tình báo với giá 5.000 USD cho mỗi lần “tham khảo ý kiến”.
Trong một trường hợp khác, một phó kỹ sư thiết kế hàng không và vợ, cả hai đều tham gia các dự án bí mật quan trọng, đã bị bắt vào tháng 11/2017 khi họ trở về Trung Quốc với hộ chiếu từ một quốc gia phương Tây sau khi đào tẩu gần 16 năm trước.
Bộ Công an Trung Quốc cho biết, người chồng, Wang Pihong, tiếp tục làm việc trong ngành hàng không sau khi ông và gia đình bí mật di cư.
Cặp vợ chồng có kiến thức rất lớn về Trung Quốc nghiên cứu bí mật và tiếp tục làm việc trong lĩnh vực liên quan ở nước ngoài. Vụ đào tẩu của họ đã đặt ra những mối đe dọa lớn đối với an ninh công nghệ và quân sự của Trung Quốc. Bản tin của đài truyền hình có cảnh quay của một bệ phóng tên lửa di động và máy bay trực thăng tấn công Z-10.
Vào tháng 11, một tòa án ở Lạc Dương ở Hà Nam đã kết án Wang và vợ của ông ta, Zhao Ruqin, về tội đào tẩu, kết án Wang ba năm tù và Zhao hai năm.
Hé lộ lối sống đế vương của một số điệp viên CIA
Rất khó để có thể tiếp cận với những bản báo cáo chi tiết về các vụ bắt cóc do điệp viên CIA tổ chức. Kể từ ngày 11/9/2001 đến nay, CIA đã tổ chức trên 100 vụ bắt cóc những phần tử bị tình nghi khủng bố ở hàng chục nước trên thế giới. Những người tình nghi bị CIA bắt cóc sẽ được đưa bằng máy bay sang một số nước khác để thẩm vấn như Ai Cập, Syria hay Maroc.
Vì sao CIA khai tử chương trình huấn luyện các... siêu nhân?
5 chiến dịch đặc biệt của CIA trong chiến tranh Triều Tiên
CIA mua công ty mã hóa để do thám nước ngoài trong nhiều thập niên?
Thực hư CIA 'giúp' Saddam Hussein phá vỡ âm mưu đảo chính
Chiến dịch táo bạo của CIA đánh cắp trực thăng tấn công Liên Xô
Những điệp vụ này luôn được coi là tối mật. Cho đến nay thì cả
Chính phủ Mỹ và CIA đều không chính thức bày tỏ thái độ với bất cứ một
vụ bắt cóc nào. Chính vì thế việc một Công tố ủy viên Italia tỉ mỉ điều
tra truy tìm manh mối một vụ bắt cóc diễn ra ngày 17/2/2003 tại Milan đã
làm cho nhà đương cục Mỹ không khỏi điên đầu.
Trong vụ này 13 điệp viên CIA đã bắt cóc một người đứng đầu nhà thờ Hồi giáo người Ai Cập ở Italia tên là Mustafa Omar Nasser và đưa ông này lên một chuyến máy bay tư nhân về Ai Cập. Từ đó đến nay ông này bặt vô âm tín, giới thạo tin cho rằng có thể vị tu sĩ này đang bị Cơ quan tình báo Ai Cập, cộng tác chặt chẽ với CIA, giam giữ.
Theo báo Washington Post tiết lộ thì 13 điệp viên CIA trong điệp vụ trên đã tỏ ra là những kẻ sành điệu và thích lối sống đế vương. Nhóm này luôn tá túc trong khách sạn 5 sao “Principe di Savoia”, một trong những khách sạn sang trọng nhất ở châu Âu với giá tiền phòng một đêm là 490 euro. Chi phí ăn ở cho nhóm điệp viên này tại đây lên tới trên 42.000 USD.
Ngay từ khi chuẩn bị thực hiện điệp vụ này CIA đã tiến hành ở “trình độ cao“, chí ít về khía cạnh chi phí. Riêng các cuộc gặp gỡ trù bị đã diễn ra ở hai khách sạn sang trọng ở La Spezia dọc theo bãi biển. Mặc dù các điệp viên chỉ ở đây vài giờ đồng hồ nhưng hóa đơn chi tiêu đã lên đến hàng nghìn euro. Những điệp viên không ở trong khách sạn “Principe di Savoia” cũng không chịu kém cạnh các đồng nghiệp của mình. Họ thuê các khách sạn sang trọng nhất ở Milan như “Hilton” hay “Star Rose Hotel” với giá một đêm nghỉ không dưới 300 euro.
Ngoài ra, bọn họ còn thuê một số ngôi biệt thự sang trọng dọc bờ biển làm địa điểm để làm việc, tiếp xúc với cộng sự địa phương. Tiền thuê những ngôi biệt thự này phải tới vài nghìn euro một tuần. Liệu những ngôi biệt thự đó có được dùng vào công việc được giao hay không thì đây là một “bí mật“ của CIA.
Mặc dù nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng một loạt điệp viên vẫn ở lại Italia sau ngày 17/2 và du hý khắp đất nước Italia. Một số đến “làm nhiệm vụ“ ở Venus, tại đây họ cùng ở trong những khách sạn sang trọng nhất thành phố.
Việc nhà đương cục Italia công bố những tài liệu chi tiết liên quan đến vụ bắt cóc đã làm cho Chính phủ Mỹ không khỏi bẽ mặt. Nhà đương cục Mỹ không thể chối cãi về vụ bắt cóc trước những chứng cứ rõ ràng mà cơ quan tư pháp Italia nắm trong tay.
Không chỉ giới báo chí mà cả cơ quan lãnh đạo CIA cũng như Ủy ban Hạ viện về công tác tình báo đều rất quan tâm đến việc chi tiêu của nhân viên CIA và sự kết hợp công vụ với hoạt động du lịch, vui chơi giải trí của nhân viên CIA. Ngay cả những phần tử ủng hộ nhiệt liệt chính sách chống khủng bố của Chính phủ Mỹ cũng không thể chấp nhận lối sống vương giả kiểu “James Bond” của những điệp viên CIA khi thi hành nhiệm vụ.
V.P An Ninh Thế GiớiTrong vụ này 13 điệp viên CIA đã bắt cóc một người đứng đầu nhà thờ Hồi giáo người Ai Cập ở Italia tên là Mustafa Omar Nasser và đưa ông này lên một chuyến máy bay tư nhân về Ai Cập. Từ đó đến nay ông này bặt vô âm tín, giới thạo tin cho rằng có thể vị tu sĩ này đang bị Cơ quan tình báo Ai Cập, cộng tác chặt chẽ với CIA, giam giữ.
Ảnh minh họa.
Ngành Tư pháp Italia đã ra lệnh truy nã 13 điệp viên tham gia vụ bắt
cóc này. Nhưng nhóm này có nhiều khả năng đã vào Italia bằng giấy tờ giả
và cũng đã cao chạy xa bay từ lâu nên lệnh truy nã và truy tố trước cơ
quan pháp luật hầu như không có khả năng trở thành hiện thực. Tuy nhiên,
những tài liệu thu được mà báo chí Mỹ đã trích dẫn cho thấy nhiều chi
tiết thú vị: Điệp viên CIA không những đã tự tung tự tác vi phạm pháp
luật mà còn lợi dụng những vụ hoạt động bí mật này để ăn tiêu xả láng
dựa trên tiền đóng thuế của người dân Mỹ.Theo báo Washington Post tiết lộ thì 13 điệp viên CIA trong điệp vụ trên đã tỏ ra là những kẻ sành điệu và thích lối sống đế vương. Nhóm này luôn tá túc trong khách sạn 5 sao “Principe di Savoia”, một trong những khách sạn sang trọng nhất ở châu Âu với giá tiền phòng một đêm là 490 euro. Chi phí ăn ở cho nhóm điệp viên này tại đây lên tới trên 42.000 USD.
Ngay từ khi chuẩn bị thực hiện điệp vụ này CIA đã tiến hành ở “trình độ cao“, chí ít về khía cạnh chi phí. Riêng các cuộc gặp gỡ trù bị đã diễn ra ở hai khách sạn sang trọng ở La Spezia dọc theo bãi biển. Mặc dù các điệp viên chỉ ở đây vài giờ đồng hồ nhưng hóa đơn chi tiêu đã lên đến hàng nghìn euro. Những điệp viên không ở trong khách sạn “Principe di Savoia” cũng không chịu kém cạnh các đồng nghiệp của mình. Họ thuê các khách sạn sang trọng nhất ở Milan như “Hilton” hay “Star Rose Hotel” với giá một đêm nghỉ không dưới 300 euro.
Ngoài ra, bọn họ còn thuê một số ngôi biệt thự sang trọng dọc bờ biển làm địa điểm để làm việc, tiếp xúc với cộng sự địa phương. Tiền thuê những ngôi biệt thự này phải tới vài nghìn euro một tuần. Liệu những ngôi biệt thự đó có được dùng vào công việc được giao hay không thì đây là một “bí mật“ của CIA.
Mặc dù nhiệm vụ đã hoàn thành nhưng một loạt điệp viên vẫn ở lại Italia sau ngày 17/2 và du hý khắp đất nước Italia. Một số đến “làm nhiệm vụ“ ở Venus, tại đây họ cùng ở trong những khách sạn sang trọng nhất thành phố.
Việc nhà đương cục Italia công bố những tài liệu chi tiết liên quan đến vụ bắt cóc đã làm cho Chính phủ Mỹ không khỏi bẽ mặt. Nhà đương cục Mỹ không thể chối cãi về vụ bắt cóc trước những chứng cứ rõ ràng mà cơ quan tư pháp Italia nắm trong tay.
Không chỉ giới báo chí mà cả cơ quan lãnh đạo CIA cũng như Ủy ban Hạ viện về công tác tình báo đều rất quan tâm đến việc chi tiêu của nhân viên CIA và sự kết hợp công vụ với hoạt động du lịch, vui chơi giải trí của nhân viên CIA. Ngay cả những phần tử ủng hộ nhiệt liệt chính sách chống khủng bố của Chính phủ Mỹ cũng không thể chấp nhận lối sống vương giả kiểu “James Bond” của những điệp viên CIA khi thi hành nhiệm vụ.
Nhận xét
Đăng nhận xét