CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 164
(ĐC sưu tầm trên NET)
Ảnh minh họa Lã Hậu
Ảnh minh họa Chiêu Tín
Ảnh minh họa Ly Cơ
Tranh phác họa về Giả Nam Phong
Tạo hình Võ Tắc Thiên trong phim
Đây Chính Là Cách Cha Ông Ta DÙNG MÁU Để Bảo Vệ Vững Chắc Biên Giới Trong Lịch Sử Việt Nam
Rợn người trước những việc làm 'quái đản' của 5 hoàng hậu tàn ác nhất lịch sử Trung Quốc
(Techz.vn) Dưới đây là 5 bà hoàng hậu tàn ác nhất lịch sử Trung Quốc với những việc làm vô cùng máu lạnh khiến ai đọc cũng phải rùng mình và khiếp sợ.
Lã Hậu - Hoàng hậu độc ác nhất Trung Hoa
Ảnh minh họa Lã Hậu
Lã Hậu (Lã Trĩ) được biết đến là hoàng
hậu đầu tiên của lịch sử Trung Quốc và được các sử gia đánh giá rất cao
về tài năng chính trị lẫn quân sự khi giúp Lưu Bang lên ngôi hoàng đế,
lập ra nhà Hán và còn sinh cho ông 2 người con 1 trai 1 gái. Sau khi Lưu
Bang lên ngôi hoàng đế ông đã phong con trai Lưu Doanh làm thái tử còn
con gái là Lỗ Nguyên công chúa.
Sau đó, Lã Hậu còn tham gia trực tiếp
vào việc sát hại 2 vị tướng có công lớn lập ra nhà Hán là Hàn Tín cũng
Bành Việt khiến Hoàng đế ngày càng xa lánh bà và sủng ái Thích phu nhân.
Lúc bấy giờ, Thích phu nhân với dung mạo
xinh đẹp hút hồn lại giỏi ca múa và còn hạ sinh được cho Lưu Bang chàng
hoàng tử vừa khôi ngô, tuấn tú lại thông minh nên ông vô cùng sùng bái
bà và hoàng tử. Những năm sau đó, khi Lưu Bang chết, Lã Hậu chuyên quyền
tìm cách trả thù Thích phu nhân với những hành động man rợ nhất.
Lã Huệ đã sai người chặt chân tay, móc
mắt Thích phu nhân và bắt bà uống thuốc để bị câm điếc rồi nhốt vào
trong hầm đất. Thích phu nhân vừa chịu nỗi đau mất con lại bị hành hạ
đến thân tàn ma dại nên chẳng bao lâu thì qua đời trong uất ức.
Sau đó, để diệt cỏ tận gốc, Lã Hậu còn
nghĩ ra mọi cách để tiêu diệt nốt con trai của Thích phu nhân nhưng đã
bất thành. Vì Hán Huệ Đế đã biết được mọi sự và hiểu sự độc ác của mẹ
mình nên đã ra sức bảo vệ hoàng đệ Lưu Doanh. Chỉ tiếc rằng đến cuối
cùng, Lã Huệ vẫn giết được Lưu Doanh khi đang đi săn.
Trước những tội ác “trời không dung đất không tha” của mình, Lã Hậu được mệnh danh là hoàng hậu tàn ác nhất lịch sử Trung Quốc.
Chiêu Tín – Quái vật của lịch sử Trung Quốc
Ảnh minh họa Chiêu Tín
Chiêu Tín là cơ thiếp của Quảng Xuyên
Vương Lưu Khứ, bà nổi tiếng là quái vật của lịch sử Trung Quốc với những
màn tra tấn phi tần từng chồng sủng ái hết sức ghê rợn và ám ảnh.
Dựa theo lịch sử đã ghi chép thì lúc đầu
hoàng đế Lưu Khứ rất sủng ái Vương Chiêu Bình và Vương Địa Dư. Sau đó,
với bản tính hoang dâm vô độ nên Lưu Khứ đã bỏ bê hai nàng và quay ra
sủng ái Chiêu Tín. Khi bị hoàng đế bỏ mặc và sủng ái người khác thì
Chiêu Bình và Địa Dư rất căm tức nên bàn mưu hãm hại Chiêu Tín nhưng bị
phát hiện.
Chuyện bị bại lộ, Lưu Khứ đã ra tay tra
khảo Chiêu Bình và Địa Dư rất tàn bạo và kết quả là cả hai đã nhận tội
và ông còn triệu tập các phi tần đến bắt họ dùng kiếm đâm chết Địa Dư,
còn Chiêu Bình thì do Chiêu Tín đâm chết.
Khi vụ việc đã kết thúc, Chiêu Tín vẫn
chưa hả cơn giận, bà còn vu cáo một phi tần khác được Lưu Khứ sủng ái
tên là Vọng Ngưỡng. Lưu Khứ tin lời Chiêu Tín nên đã kêu gọi các phi tần
đến nơi Vọng Ngưỡng ở, lột hết quần áo cô và dùng dùi nung đỏ gí vào
người khiến nàng đau đớn bỏ chạy, nhảy xuống giếng tự sát.
Thấy thế, Chiêu Tín liền lôi lên và lấy
giáo đâm vào chỗ kín của Vọng Ngưỡng, xẻo mũi cắt miệng, cắt lưỡi nàn
đem nấu chín và bắt các phi tần phải chứng kiến.
Sau đó, Chiêu Tín còn hãm hại phi tần
tên là Vinh Ái khiến cô sợ quá nhảy xuống giếng nhưng không chết. Chiêu
Tín sai người lôi lên Vinh Ái lên trói lại và lấy dao nung làm mù hai
mắt nàng, cắt hai tay và nung chì đổ vào miệng khiến Vinh Ái chết ngay
tức thì. Chưa hết, Chiêu Tín còn sai người phân thây Vinh Ái ra và bắt
chôn mỗi thứ một nơi. Tổng cộng, có tới 14 phi tần mà Lưu Khứ từng sủng
ái đều bị Chiêu Tín hành hạ dã man vậy.
Ly Cơ - Hồng nhan họa thủy
Ảnh minh họa Ly Cơ
Ly Cơ, còn gọi Lệ Cơ, là một phi tần của
Tấn Hiến công. Nàng được mệnh danh là "hồng nhan họa thủy", khiến Tấn
Hiến công say mê và còn cho dự bàn việc nước. Hơn một năm sau, Ly Cơ
sinh con đặt tên là Cơ Hề Tề.
Tấn Hiến công có rất nhiều con trai và
tài giỏi nhất là Cơ Trùng Nhĩ, Cơ Di Ngô và thái tử Cơ Thân Sinh. Nhưng
vì sủng ái Ly Cơ nên Tấn Hiến công muốn phế Thân Sinh để lập Hề Tề làm
Thế tử.
Về phía Lý Cơ, vì muốn con trai mình
giành được vị trí Thế tử mà bà đã không ít lần gièm pha Thân Sinh với
Hiến công, bịa chuyện Thân Sinh có ý sàm sỡ, còn buông lời xằng bậy coi
thường vua cha. Đến khi Hiến công tỏ ý muốn thay ngôi thì Ly Cơ lại tỏ
ra nhân từ, can Hiến công không nên làm chuyện đó. Nhưng sau lưng bà lại
nghĩ ra mưu thâm kế độc, cụ thể là Ly Cơ mở lời ngon ngọt nói với Thân
Sinh rằng Tấn Hiến công nằm mơ thấy người mẹ đã khuất của chàng và giục
Thân Sinh cúng lễ cho mẹ.
Thân Sinh vốn thật thà nên đã nghe lời
Ly Cơ và sai người dâng thịt rượu vừa cúng dâng lên cho Tấn Hiến Công
dùng. Thật trớ trêu khi Ly Cơ đã bỏ thuốc độc vào đồ ăn trước khi dâng
lên Hiến Công. Khi Hiến công mới đi săn về, định ăn ngay thì Ly Cơ
khuyên nên thử trước và Hiến công đã cho chó và một viên quan nhỏ ăn
thử, kết cục là cả chó và người đều chết.
Trước sự tình đó, Tấn Hiến công nổi giận
đùng đùng và cho người giết Thân Sinh. Thân Sinh nghe tin, biết mình
không chạy nổi, liền tự sát ở Tân Thành và Cơ Tề Hề lên làm thái tử.
Giả Nam Phong – Hoàng hậu xấu nhất Trung Quốc
Tranh phác họa về Giả Nam Phong
Theo sử sách lịch sử Trung Quốc đã ghi
lại thì Giả Nam Phong xấu đến mức: ngũ quan không cân đối, sắc da rất
đen, răng hô, khuôn mặt dữ tợn. Thậm chí đến tận ngày nay, khi nhắc đến
vị hoàng hậu ấy, người đời không khỏi giật mình khi lịch sử và dân gian
truyền lại về ngoại hình của bà như sau: "Dáng người thấp lùn, ngũ quan
không cân đối, hơn nữa sắc da lại rất đen, răng hô, chân to và cục mịch.
Không những thế lưng còn gù và khuôn mặt trông rất dữ tợn…".
Năm 271, vua Tấn Vũ Đế yêu cầu lập Giả
Ngọ lấy Tư Mã Trung (bị bệnh chậm phát triển) nhưng lúc đó Giả Ngọ còn
quá bé, chỉ khoảng 11 - 12 tuổi nên không thể mặc vừa y phục cô dâu nên
Giả Nam Phong đã thế chân em lên làm thái tử phi.
Sau đó, Giả Nam Phong đã sinh được 4
người con nhưng tất cả đều là con gái nên bà luôn thấy ghen ghét, đố kị
và tìm mọi cách hãm hại những phi tần đang mang thai khác. Thủ đoạn của
Giả Nam Phong phải nói là thâm độc và hiểm ác vô cùng.
Khi biết trong cung có cung nữ mang long
thai nên bà ta tìm cách vu oan cho phi tần và tự tay dùng ngọn kích nhỏ
cầm tay phóng thẳng đến người cung nữ khiến nàng sảy thai và chết tại
chỗ. Vì hoàng đế là người thiểu năng trí tuệ, nên bà ta lộng hành thâu
tóm triều chính, tìm cách hãm hại thái tử, thái hậu, giết đại thần, tông
thất.
Võ Tắc Thiên - Nữ vương đầu tiên và duy nhất của Trung Hoa
Tạo hình Võ Tắc Thiên trong phim
Võ Tắc Thiên ban đầu chỉ là một thiếp
của vua Đường Cao Tông. Năm 654, Võ Tắc Thiên hạ sinh một bé gái là công
chúa An Định (tên thật là Lý Lệnh Ngọc).
Tuy nhiên, sau khi Vương hoàng hậu tới
thăm thì công chúa An Định đã chết yểu khiến Đường Cao Tông kết tội
Vương hoàng hậu giết con, cho rằng bà làm vậy vì ghen tức với Võ Tắc
Thiên.
Từ đó, Vương hoàng hậu luôn tìm cách trả
thù Võ Tắc Thiên như sai người yểm bùa hãm hại quý phi học Võ nhưng bại
lộ nên đã bị phế và đầy vào lãnh cung.
Hơn nữa, người đời sau kể lại rằng Võ
Tắc Thiên đã ra lệnh cho chặt tứ chi của Vương hoàng hậu và Tiêu Thục
Phi, sau đó ngâm họ trong thùng rượu lớn cho tới chết. Các cung nữ biết
chuyện thậm chí còn bị Võ Tắc Thiên cắt lưỡi để không thể nói ra bí mật
động trời ấy.
Để nắm được quyền hành, Võ Tắc Thiên
được cho là đã bất chấp giết chết con ruột của mình, từ việc bóp mũi
khiến công chúa An Định chết yểu rồi vu oan cho Vương hoàng hậu, cho tới
việc ép thái tử Lý Trung chết, đầu độc Lý Hoằng chết trong chuyến thăm
hành cung ở Hà Bắc. Con thứ hai của bà là Lý Hiền lên làm thái tử cũng
vì bất kính mà bị Võ Tắc Thiên ép tự tử năm 684.
Thay thế thái tử Lý Hiền là Lý Hiển lên
ngôi năm 683. Chỉ sau một tháng trên ngôi báu, lấy cớ vợ Đường Trung
Tông Lý Hiển là yêu nữ lộng quyền, Võ Hậu quyết định phế vua. Tình trạng
tương tự tiếp tục diễn ra và tới năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức trở
thành hoàng đế.
Chưa hết, Võ Tắc Thiên còn nổi tiếng là
dâm ô, đưa rất nhiều đàn ông vào cung để hưởng lạc nhưng không ai có thể
phủ nhận được, bà ta là một người đàn bà quyền lực, có khả năng lãnh
đạo, có óc chính trị và trị vì đất nước rất hưng thịnh.
3 ca sĩ thống trị YouTube Việt Nam: Sơn Tùng bị mất vị trí số 1 bởi một nhân vật không ngờ
(Techz.vn) Hiện tại, trên Yotube Việt Nam top 3 ca sĩ
đang nắm giữ vị trí thống trị trong bảng xếp hạng đều là những nhân vật
rất đình đám nhưng vị trí dẫn đầu của Sơn Tùng đã bị một nhân vật không
ngờ soán ngôi.
Link gốc
Triều Trần là một trong những triều đại hiển hách nhất
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Dưới thời Trần, dân tộc chúng ta đã 3
lần chiến thắng quân Mông - Nguyên xâm lược. Nói đến triều Trần là nói
tới hào khí Đại Việt - hào khí Đông A.
1. Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại phải chứng kiến đội quân xâm lược tàn bạo như giặc Mông - Nguyên, người đương thời đã đúc kết, vó ngựa của quân Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc được ở đó. Các vùng lãnh thổ bao la trên thế giới đều lần lượt nằm dưới vó ngựa của quân Mông Cổ. Tể tướng cuối cùng của nhà Nam Tống là Lục Tú Phu đã ôm vua Tống nhảy xuống biển tự tử và nhà Tống trở thành triều đại Nguyên của quân Mông Cổ sau này. Gần như cả châu Á, châu Âu và một phần Bắc Phi đã bị quân Mông Cổ xâm chiếm. Các vương công quý tộc của nước Nga phải đội mâm cho các tướng lĩnh Mông Cổ ăn tiệc; Giáo hoàng La Mã đã phải thốt lên: Ta sợ quân Tác Ta (chỉ quân Mông Cổ) đến mất ăn, mất ngủ. Vậy mà, có hai dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược Mông - Nguyên giòn giã: Việt Nam và Nhật Bản. Cả 3 lần đánh vào Đại Việt, quân giặc đều kéo theo 50 vạn quân, 2 lần đánh Nhật Bản, mỗi lần họ đem theo 15 vạn quân. Nhật Bản chiến thắng cả 2 lần, bởi mỗi khi chiến thuyền quân Nguyên áp sát bờ biển Nhật Bản liền bị một trận bão lớn nổi lên dìm đắm toàn bộ. Nhân dân Đại Việt chiến thắng Mông - Nguyên bởi như lời Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đúc kết, đó là chiến thắng do “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước giúp sức”. Chiến thắng của dân tộc chúng ta vang dội tới mức khi ấy thông tin còn rất hẹp và cách trở, vậy mà tin chiến thắng của dân tộc ta đã bay sang tận vùng Trung Đông. Nhà sử học nổi tiếng của dân tộc Ba Tư khi ấy đã viết trong cuốn cổ sử của dân tộc mình khi nghe tin chiến thắng này: “Ở phương Đông xa xôi, có một dân tộc đã đánh thắng quân Tác Ta”.
3. Trước
họa ngoại xâm, triều Trần đã tổ chức hội nghị Bình Than năm 1282 để
thống nhất bàn kế sách chống giặc. Hội nghị Diên Hồng do Thượng hoàng
Trần Thánh Tông triệu họp các phụ lão trong cả nước để trưng cầu dân ý,
hỏi về chủ trương hòa hay chiến khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại
Việt lần thứ 2. Hội nghị này được tổ chức trước thềm điện Diên Hồng vào
tháng Chạp năm Giáp Thân 1284. Tất cả các phụ lão trong cả nước đã được
mời về kinh đô, được ban yến và để triều đình tham khảo ý kiến: Nên HÀNG
hay nên ĐÁNH. Tất cả các bô lão tham dự hội nghị đã đồng thanh giơ tay
hô ĐÁNH. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã viết về sự kiện này: “Giặc Hồ vào
cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bầy tôi họp
bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi đến ban yến hỏi kế
ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành
ủng hộ của dân chúng, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng
hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin
lời hay vậy”. Đây có thể xem là hội nghị dân chủ đầu tiên của lịch sử
Việt Nam.
Sau khi lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh tan cuộc xâm lăng lần thứ ba (1288) của giặc Nguyên - Mông, thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về lại kinh đô. Có người dâng lên Thượng hoàng và nhà vua những hòm tờ biểu của những người Việt gửi cho quân Nguyên để xin được làm quan, Thượng hoàng và nhà vua đã có hành động “vô tiền, khoáng hậu”: Ra lệnh đốt hết các bức thư ấy và không truy cứu một ai. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng “Thượng hoàng sai đốt đi để yên lòng những kẻ phản trắc”. Cũng năm này, sau chiến thắng năm 1288, triều đình trở lại kinh thành Thăng Long và tổ chức luận công ban thưởng cho những người đã có công lao chống giặc bảo vệ đất nước. Khi ban thưởng xong có người vẫn còn thắc mắc, thượng hoàng Thánh Tông đã dụ rằng nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ (chỉ giặc Nguyên) sẽ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, nhất vạn giặc Hồ trở lại và các khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ!
Chính vì cách làm thật sự “đắc nhân tâm” ấy mà triều đình đã huy động được sức mạnh vĩ đại của toàn dân chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược hung bạo. Tất nhiên, chiến thắng vĩ đại của nhân dân Đại Việt trong thế kỷ 13 có công lao to lớn của cả dân tộc. Thế nhưng, chính những câu chuyện và những hành động vô cùng ý nghĩa nêu trên chính là nguyên nhân quan trọng gắn kết lòng dân trong nước để vua tôi, cha con, anh em, toàn dân triệu người như một kết thành khối đoàn kết vĩ đại vùng lên chiến thắng quân xâm lược.
Tiết lộ về người phụ nữ độc ác nhất trong lịch sử Trung Quốc
Trong lịch sử Trung
Hoa, không hiếm những trường hợp các bà Hoàng hậu nổi danh vì những đòn
ghen khiến bất kỳ ai cũng phải rợn người.
Lã Hậu là Hoàng thái hậu đầu tiên
trong trung Quốc, so với sự độc ác, tàn bạo của bà ta thì Võ Tắc Thiên
cũng không thể sánh bằng. Sau khi Lưu Bang qua đời, Lưu Doanh tức Hán
Huệ Đế được kế thừa hoàng vị, nhưng khi đó vì tuổi còn nhỏ nên quyền lực
đều nằm trong tay mẹ của hoàng đế là Lã Hậu.
Theo Sử ký (Tư Mã Thiên):
Lã
Hậu (241 TCN – 180 TCN) hay còn gọi là Lữ Hậu, Hán Cao Hậu, thời con
gái bà có tên là Lã Trĩ – là vợ của Hán Cao Tổ Lưu Bang, mẹ của Hiếu Huệ
đế và công chúa Lỗ Nguyên.
Lã Hậu đã thay chồng sát hại công thần
Lã
Hậu là con người cứng rắn quyết đoán, giúp Cao Tổ bình định thiên hạ,
các quan đại thần bị Cao Tổ giết phần lớn do sức của Lữ Hậu, như Hàn
Tín, Bành Việt.
Hàn
Tín chết vì bị Lã Hậu vu oan cho ông “âm mưu tập hợp người nhà làm phản
ở kinh đô để làm nội ứng cho Trần Hy”. Khi Lưu Bang đem quân đi đánh
dẹp Trần Hy, danh tướng bách chiến bách thắng Hàn Tín bị Lã Hậu lừa vào
cung, bị võ sĩ trói lại rồi bị mang chém ở nhà treo chuông trong cung
Trường Lạc, rồi bà ta lại sai giết cả ba họ nhà Hàn Tín.
Sau khi Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô, thấy ông đã chết mà vừa mừng vừa thương.
Bành
Việt cũng là một đại công thần “công cao lấn át chủ” cần phải trừ khử.
Lã Hậu khuyên Lưu Bang: “Bành Việt là dũng tướng, nếu thả vào đất Thục
mà dấy quân làm phản thì để ẩn họa cho mình, chi bằng giết luôn để trừ
hậu họa”.
Dã tâm của Lã Hậu ngày càng lớn, bà ta
hi vọng có thể nắm được quyền lực tối cao của vương triều Tây Hán, vì
thế bắt đầu tiêu diệt các phi tần khác. Trước tiên, bà ta bức hại các
thân vương, sau đó dùng thủ đoạn tàn ác với Thích phi và con trai bà ta
là Lưu Như Ý. Sau khi Lưu Bang mất, Lã Hậu liền lệnh cho thuộc hạ nhốt
Thích phi vào nhà lao nữ, đồng thời bắt Thích phi làm những việc nặng
nhọc, hàng ngày phải lao động từ sáng đến tối, nếu số lượng gạo xay mà
không đủ thì không cho ăn cơm.
Vì muốn diệt trừ
Lưu Như Ý, Lã Hậu đã triệu Lưu Như Ý hồi cung. Nhưng Lưu Doanh rất yêu
quý người anh em này nên luôn bảo vệ Lưu Như Ý. Nhân cơ hội Lưu Doanh ra
ngoài đi săn, Lã Hậu đã đầu độc chết Lưu Như Ý, việc này khiến Lưu
Doanh vô cùng đau lòng. Tạo hình của Lưu Như Ý trên phim.
Sau
khi con trai của Thích phi bị hại chết, Lã Hậu bắt đầu bức hại Thích
Phi, biến Thích phi thành “người lợn” (một hình phạt vô cùng tàn khốc).
Bà ta còn cho gọi Lưu Doanh đến nhìn “người lợn”.
Lã Hậu có những hình phạt đối rất tàn khốc
Huệ
Đế sau khi nhìn thấy "người lợn" thì vô cùng kinh hãi, đã bật khóc rất
lớn, khi trở về cung vì bị ám ảnh bởi “người lợn” mà mắc bệnh nặng. Cuối
cùng vì không chịu được những hành động tàn độc, hiểm ác của mẹ mình,
Huệ Đế đã cho người truyền đạt lại sự bất mãn của mình với mẹ, và tuyên
bố bản thân không đủ năng lực để trị vì đất nước, sau đó qua đời ở tuổi
24.
Sau khi Huệ Đế qua đời, Lã Hậu muốn đưa
Thiếu Đế lên ngôi, nhưng Thiếu Đế biết mẹ của mình bị Lã Hậu sát hại,
nên đã nói với Lã Hậu rằng khi nào lớn lên sẽ trả thù cho mẹ, điều này
khiến Lã hậu vô cùng tức giận nên đã ra tay sát hạt Thiếu Đế, sau đó lập
Lưu Nghĩa làm vua, nhưng khi Lưu Nghĩa đăng cơ được bốn năm thì Lã hậu
qua đời.
4 vị hoàng đế “máu lạnh" khét tiếng trong lịch sử Trung Hoa
Những hoàng đế được đánh giá là kẻ bạo chúa khét tiếng trong việc giết hại quá nhiều người vì mục đích riêng.
Lưu Bang giết đại công thần Hàn Tín
Năm 206 TCN, quân Hán của Lưu Bang và quân Sở của Hạng Vũ nổ ra
chiến tranh. Cuộc chiến kéo dài liên tiếp 5 năm ròng, sử cũ vẫn thường
gọi là “Hán Sở tranh hùng”.
Lưu Bang khi ấy nhờ biết cách nhìn người, tin dùng Hàn Tín, quân
thần trên dưới đồng lòng nên năm 202 TCN đã đánh bại Sở vương Hạng Vũ,
sáng lập nên vương triều Đại Hán kéo dài hơn 400 năm sau đó.
Sau những chiến tích vang dội lẫy lừng, Hàn Tín được triều đình sắc phong làm Tề vương, sau lại được thăng làm Sở vương.
Còn về phía dân chúng, vào thời đó người ta còn gọi ông là “quốc sĩ
vô song”, "công cao vô nhị, lượt bất thế xuất”.... nhưng cũng chính vì
uy danh lừng lẫy ấy, nhân vật lịch sử này đã phải nhận kết cục vô cùng
bi thảm.
Tần Thủy Hoàng giết chính cha ruột của mình
Tần Thủy Hoàng có lẽ là vị vua
duy nhất sợ cái chết đến mức điên dại. Quá trình này đã khiến biết bao
người dân vô tội bị chết để thỏa mãn cho sở thích quái đản của vị vua
này. Lúc còn sống cho xây lăng mộ gồm 3 tầng, trên cùng là ngoại cung,
tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung, nằm ở phía Bắc núi Ly Sơn
thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây.
Rất nhiều binh sĩ, thợ thuyền được điều động đến để xây lăng mộ cho
vị hoàng đế này. Dã man hơn, sau khi thợ chôn cất châu báu, để tránh bị
lộ ra ngoài, vị vua này đã sai đóng đường hầm, chôn sống những người
thợ ở đây với mục đích biến họ trở thành thần giữ của cho Tần Thủy
Hoàng.
Chu Nguyên Chương giết bạn vào sinh ra tử
Chu Nguyên Chương cũng được đánh giá là một điển hình trong số những Hoàng đế khai quốc giết công thần, dù công trạng của ông đối với xã tắc Minh triều khi đó là không thể phủ nhận.
Trước khi truyền ngôi cho thái tử, Chu Nguyên Chương đã ra tay “dọn
đường”, “tắm máu” công thần - những người anh em đã đồng cam cộng khổ
với mình như Hồ Duy Dung, Lam Ngọc...
Trong công cuộc trừ khử công thần này, Chu Nguyên Chương đã gây ra
cái chết cho khoảng 45.000 người, từ quan lớn đến quan nhỏ và cả những
người có liên lụy dù ít hay nhiều.
Con đường lên làm hoàng đế của Võ Hậu trải dài "đầy máu"
Bà ép thái tử Lý Trung chết, lập Lý Hoằng là con cả của mình làm
thái tử. Khi Lý Hoằng bất mãn với việc can dự triều chính của Võ Hậu,
ông cũng bị mẹ đầu độc chết trong chuyến thăm hành cung ở Hà Bắc. Con
thứ hai của bà là Lý Hiền lên làm thái tử cũng vì bất kính mà bị Võ Tắc
Thiên ép tự tử năm 684.
Thay thế thái tử Lý Hiền là Lý Hiển lên ngôi năm 683. Chỉ sau một
tháng trên ngôi báu, lấy cớ vợ Đường Trung Tông Lý Hiển là yêu nữ lộng
quyền, Võ Hậu quyết định phế vua. Tình trạng tương tự tiếp tục diễn ra
và tới năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức trở thành hoàng đế.
Mời quý độc giả xem video: Một ngày của hoàng đế. Nguồn: Vietnamnet
Những câu chuyện thú vị thời Trần
Cập nhật lúc 10:40, Thứ Sáu, 07/02/2020 (GMT+7)
1. Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại phải chứng kiến đội quân xâm lược tàn bạo như giặc Mông - Nguyên, người đương thời đã đúc kết, vó ngựa của quân Mông Cổ đi đến đâu, cỏ không mọc được ở đó. Các vùng lãnh thổ bao la trên thế giới đều lần lượt nằm dưới vó ngựa của quân Mông Cổ. Tể tướng cuối cùng của nhà Nam Tống là Lục Tú Phu đã ôm vua Tống nhảy xuống biển tự tử và nhà Tống trở thành triều đại Nguyên của quân Mông Cổ sau này. Gần như cả châu Á, châu Âu và một phần Bắc Phi đã bị quân Mông Cổ xâm chiếm. Các vương công quý tộc của nước Nga phải đội mâm cho các tướng lĩnh Mông Cổ ăn tiệc; Giáo hoàng La Mã đã phải thốt lên: Ta sợ quân Tác Ta (chỉ quân Mông Cổ) đến mất ăn, mất ngủ. Vậy mà, có hai dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược Mông - Nguyên giòn giã: Việt Nam và Nhật Bản. Cả 3 lần đánh vào Đại Việt, quân giặc đều kéo theo 50 vạn quân, 2 lần đánh Nhật Bản, mỗi lần họ đem theo 15 vạn quân. Nhật Bản chiến thắng cả 2 lần, bởi mỗi khi chiến thuyền quân Nguyên áp sát bờ biển Nhật Bản liền bị một trận bão lớn nổi lên dìm đắm toàn bộ. Nhân dân Đại Việt chiến thắng Mông - Nguyên bởi như lời Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đúc kết, đó là chiến thắng do “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước giúp sức”. Chiến thắng của dân tộc chúng ta vang dội tới mức khi ấy thông tin còn rất hẹp và cách trở, vậy mà tin chiến thắng của dân tộc ta đã bay sang tận vùng Trung Đông. Nhà sử học nổi tiếng của dân tộc Ba Tư khi ấy đã viết trong cuốn cổ sử của dân tộc mình khi nghe tin chiến thắng này: “Ở phương Đông xa xôi, có một dân tộc đã đánh thắng quân Tác Ta”.
2. Sinh
thời, cha Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu và Trần Cảnh, tức vua Trần Thái
Tông có mối bất hòa không đợi trời chung (Trần Liễu là anh ruột Trần
Cảnh). Trước khi mất, Trần Liễu nắm tay con trai dặn rằng phải cướp được
ngôi vua. Sau khi bị quân và dân nhà Trần đánh bại vào năm 1258, lúc
này quân Mông Cổ đã chiếm được nhà Tống ở Trung Quốc và thiết lập triều
Nguyên nên chuẩn bị binh lực đánh phục thù nước Đại Việt. Khi ấy, Trần
Quốc Tuấn là Quốc công tiết chế, Trần Quang Khải (con trai thứ 3 của
Trần Thái Tông) là Thượng tướng Thái sư triều đình, hai người là con chú
con bác ruột. Để thử lòng các con, Trần Quốc Tuấn đem lời dặn dò trăn
trối của cha hỏi hai thuộc hạ thân tín là Yết Kiêu và Dã Tượng, cả 2
người đã can Trần Quốc Tuấn không nên làm như thế: “Chúng tôi thề xin
chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”.
Trước tấm lòng trung quân ái quốc của hai vị tướng tâm phúc, Trần Quốc
Tuấn đã cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Ông đem chuyện này hỏi
con trai là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Nghiễn đã thưa với
cha rằng dẫu khác họ cũng không ai làm vậy huống gì anh em cùng một họ.
Lại một hôm, ông đem chuyện này hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương
Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng khuyên cha hãy nhân cơ hội này giành lại ngôi
vua. Quá tức giận, ông rút gươm kể tội con trai và cho rằng Quốc Tảng là
loạn thần tặc tử. Trần Quốc Nghiễn đã dập đầu xin cha tha tội cho em,
ông đồng ý tha cho nhưng truyền lệnh sau khi ông mất đậy nắp quan tài
mới cho Quốc Tảng vào viếng. Khi giặc Nguyên vào cướp nước ta, Trần Quốc
Tảng được giao trấn giữ Hải Ninh - An Bang và có công lao lớn, vì vậy
năm 1289, ông được phong làm Tiết độ sứ. Địa danh Cửa Ông ở Quảng Ninh
hiện nay chính là tên người dân gọi ông một cách tôn kính.
Nghi lễ rước kiệu Ngọc Lộ khai hội Đền Trần năm 2019 tại Nam Định (Lễ hội Đền Trần thường được tổ chức vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Riêng năm nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh nCoV nên tạm dừng lễ hội) |
4. Đại Việt sử ký toàn thư chép
câu chuyện rằng Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung xin chồng là Thái sư
Trần Thủ Độ cho một người thân của bà làm Câu đương (một chức dịch nhỏ),
Trần Thủ Độ đồng ý và ghi tên người ấy. Khi xét duyệt, hỏi tên người
đó, người ấy vui mừng chạy đến. Thái sư nói: Ngươi vì có công chúa (tức
Trần Thị Dung, bị triều đình phế từ Thái hậu xuống công chúa để gả cho
Trần Thủ Độ) xin cho, vì vậy không thể so sánh với người khác, phải chặt
một ngón chân để phân biệt. Người ấy kêu xin tha. Từ đó không ai dám
nhờ vả việc riêng nữa.
Vua Thái Tông nhà Trần có lần ban quả muỗm cho các quần thần, đến
Tiểu hiệu Hoàng Cự Đà thì không còn nữa. Khi giặc Mông Cổ đánh sang, cả
triều đình xuôi mạn Hoàng Giang lánh nạn. Khi đoàn thuyền của Thái tử
chạy giặc gặp Hoàng Cự Đà, quan quân gọi lớn hỏi quân Mông Cổ ở đâu? Cự
Đà trả lời: Không biết, đi mà hỏi những người ăn muỗm ấy, rồi dong
thuyền đi thẳng. Sau khi thắng giặc, luận công tội mọi người, có người
đề nghị khép Hoàng Cự Đà vào tội nặng. Vua Trần Thái Tông suy nghĩ hồi
lâu rồi nói Cự Đà tội đáng chết nhưng ta cũng có phần lỗi trong đó và
tha cho.Sau khi lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh tan cuộc xâm lăng lần thứ ba (1288) của giặc Nguyên - Mông, thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về lại kinh đô. Có người dâng lên Thượng hoàng và nhà vua những hòm tờ biểu của những người Việt gửi cho quân Nguyên để xin được làm quan, Thượng hoàng và nhà vua đã có hành động “vô tiền, khoáng hậu”: Ra lệnh đốt hết các bức thư ấy và không truy cứu một ai. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng “Thượng hoàng sai đốt đi để yên lòng những kẻ phản trắc”. Cũng năm này, sau chiến thắng năm 1288, triều đình trở lại kinh thành Thăng Long và tổ chức luận công ban thưởng cho những người đã có công lao chống giặc bảo vệ đất nước. Khi ban thưởng xong có người vẫn còn thắc mắc, thượng hoàng Thánh Tông đã dụ rằng nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ (chỉ giặc Nguyên) sẽ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, nhất vạn giặc Hồ trở lại và các khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ!
Chính vì cách làm thật sự “đắc nhân tâm” ấy mà triều đình đã huy động được sức mạnh vĩ đại của toàn dân chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược hung bạo. Tất nhiên, chiến thắng vĩ đại của nhân dân Đại Việt trong thế kỷ 13 có công lao to lớn của cả dân tộc. Thế nhưng, chính những câu chuyện và những hành động vô cùng ý nghĩa nêu trên chính là nguyên nhân quan trọng gắn kết lòng dân trong nước để vua tôi, cha con, anh em, toàn dân triệu người như một kết thành khối đoàn kết vĩ đại vùng lên chiến thắng quân xâm lược.
Vũ Trung Kiên
Những người kể chuyện lịch sử
Ngày 20 tháng 01 năm 2020
Trên quê hương Sơn La Anh
hùng có nhiều di tích lịch sử về một thời hào hùng đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc, như: Khu di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La; Đền thờ Vua Lê
Thái Tông; Khu di tích cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô; Ngã ba
Cò Nòi... Những câu chuyện lịch sử về truyền thống cách mạng của quê
hương, đất nước đã được những thuyết minh viên truyền tải với nhiều cảm
xúc đến du khách thập phương, thắp sáng thêm ngọn lửa truyền thống cách
mạng bất diệt.
Khách tham quan Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La.
Đã
nhiều lần tôi đến thăm Khu di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, mỗi
lần đến lại có thêm cảm nhận sâu sắc hơn về tinh thần anh dũng, trung
kiên của các chiến sỹ cộng sản từng bị giam cầm nơi đây qua những lời kể
của thuyết minh viên. Lần này cũng vậy, hòa vào dòng người vào thăm Nhà
tù Sơn La vào giáp Tết Canh Tý, những câu chuyện lịch sử cách đây 8-9
thập kỷ dường như được tái hiện qua những hình ảnh, giọng kể và những
dấu tích lịch sử để lại trên từng bức tường đá xà lim, chiếc cùm sắt.
Theo lời của chị thuyết minh viên: Năm 1908, thực dân Pháp xây dựng Nhà
tù Sơn La chủ yếu để giam cầm thường phạm. Nhưng sau ngày Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời (3/2/1930), phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc
ngày càng dâng cao, thực dân Pháp đã mở rộng nhà tù và biến nơi đây
thành địa ngục để giam cầm, đày ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những
người chiến sỹ cộng sản. Nhưng chúng đã nhầm, chính nơi đây, khí tiết
của người cộng sản đã tỏa sáng và thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng
khắp núi rừng Tây Bắc. Nơi đây trở thành trường học cách mạng vĩ đại rèn
luyện, bổ sung cho Đảng, cho cách mạng Việt Nam những chiến sỹ cộng sản
xuất sắc như các đồng chí: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương
Bằng, Lê Đức Thọ...
Mỗi
một dấu tích trong Nhà tù Sơn La là một câu chuyện lịch sử khác nhau đã
được các chị truyền tải bằng giọng truyền cảm tới du khách. Qua mỗi câu
chuyện không chỉ khiến du khách xúc động mà trên gương mặt hướng dẫn
viên cũng bộc lộ rõ những cảm xúc bồi hồi: “...Một ngày tù nhân chỉ còn
một nắm cơm nếp nhão, lẫn cả trấu và sạn, ăn với muối trắng hoặc canh
rau muống già nấu suông... Mỗi năm, tù nhân được phát một manh chiếu,
một bộ quần áo bằng vải thô, một chăn chiên mỏng dính không đủ để chống
chọi với cái rét buốt lạnh của miền rừng núi... Nơi giam cầm còn tồi tệ
hơn, ngày nóng như thiêu, như đốt, đêm lạnh thấu xương thịt... Nhiều
đồng chí đã mắc những căn bệnh hiểm nghèo như ho lao, kiết lỵ, thương
hàn... và nhiều tù nhân đã gửi xác tại nghĩa địa Gốc Ổi...”.
Và
nơi đây, các chiến sỹ cộng sản xuất bản tờ báo “Suối Reo”, với số báo
đầu tiên phát hành vào tháng 5/1941 - tờ Báo là món ăn tinh thần, cổ vũ,
động viên rất lớn đối với các chiến sỹ trong Nhà tù Sơn La... Đồng chí
Xuân Thủy đã viết 4 câu thơ làm lời tựa: “Thu sang hoa cỏ già rồi/Suối
reo lên để cho đời trẻ trung/Thu sang non nước lạnh lùng/Suối reo lên để
cho lòng ta reo”.
Khác
với những lần trước, sau khi tham quan Nhà tù Sơn La, tôi đã nán lại
trò chuyện với chị Nguyễn Thị Hồng Phương, người đã có hơn 20 năm công
tác tại Bảo tàng tỉnh, trong đó hơn 10 năm làm thuyết minh viên. Chia sẻ
về nghề, chị Phương tâm sự: Để những câu chuyện về các tù chính trị tại
Nhà tù Sơn La được truyền tải chân thực và hấp dẫn khách du lịch, các
thuyết minh viên được đơn vị tạo điều kiện cho đi học tập nâng cao kỹ
năng thuyết minh, đặc biệt là cách truyền đạt cảm xúc. Hiện nay, Nhà tù
Sơn La có 8 thuyết minh viên, nhiều chị có thâm niên nghề hàng chục năm.
Trung bình mỗi năm, chúng tôi đã thuyết minh cho gần 1.000 đoàn khách
trong nước và nước ngoài đến tham quan. Tất cả chúng tôi đều luôn cố
gắng truyền tải đến du khách những câu chuyện lịch sử chân thực và hấp
dẫn.
Trong
những năm làm thuyết minh viên, có một kỷ niệm chị Phương luôn nhớ đó
là được gặp cụ Nguyễn Văn Trân - một trong bốn tù chính trị thực hiện
cuộc vượt ngục thành công vào năm 1943. Chị Phương bùi ngùi: Một ngày
của mùa hè năm 2002, tôi thuyết minh cho một đoàn khách khoảng 20 người
đến tham quan Nhà tù, trong đó có hai cụ già rất chăm chú lắng nghe tôi
thuyết minh, thi thoảng cụ ông nói nhỏ với cụ bà điều gì đó. Khi thuyết
minh về cuộc vượt ngục vào tháng 8/1943 do Chi bộ Nhà tù Sơn La tổ chức,
cụ ông bước đến gần phía tôi và nói: Tôi chính là Nguyễn Văn Trân, một
trong bốn tù chính trị vượt ngục năm xưa. Khoảnh khắc đó không chỉ riêng
tôi mà tất cả những người khác trong đoàn đều ngỡ ngàng và xúc động,
bởi được gặp nhân chứng lịch sử.
Hôm
đó, cụ Trân đã kể cho mọi người nghe về những cái tết của tù chính trị
bị giam ở Nhà ngục Sơn La, đáng nhớ nhất là cái tết năm 1942. Đó là tết
mà các chiến sỹ cách mạng được cai ngục cho phép tổ chức đón năm mới.
Câu đối tết năm đó: “Hẹn với non sông đưa mới lại/Mở toang cửa ngục đón
xuân vào” của đồng chí Huy Liệu được treo ở cửa ra vào của trại giam
lớn... Sau câu chuyện, cụ Trân căn dặn chị Phương cố gắng trong công
việc để truyền tải đến du khách hiểu giá trị quan trọng của Nhà tù Sơn
La; để thế hệ trẻ tự hào về truyền thống cách mạng của quê hương, đất
nước.
Đầu
xuân với các thuyết minh viên ở Nhà tù Sơn La, chúng tôi cảm nhận thêm
những đóng góp thầm lặng của họ khi truyền tải đến du khách những câu
chuyện về lịch sử, để mỗi người dân đất Việt thêm tự hào về truyền thống
bất khuất, kiên cường của cha anh, thêm niềm tin son sắt vào con đường
mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, đưa đất nước vững bước đi lên.
Nhận xét
Đăng nhận xét