BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 140 (Nguyễn Du)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Nhà thơ Nguyễn Du

Nguyễn Du - Đại thi hào với những áng thơ bất hủ

Nhắc đến Đại thi hào Nguyễn Du người ta lại chợt nhớ đến Truyện Kiều. Truyện Kiều không chỉ được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục đông đảo mọi tầng lớp độc giả, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là nguồn cảm hứng sáng tác của các văn nghệ sĩ cho ra đời rất nhiều tác phẩm thi ca, nhạc họa, mà còn vượt qua mọi không gian, thời gian để trở thành Di sản văn hóa thế giới. Tuy nhiên, sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du không chỉ có Truyện Kiều, di sản văn học của cụ còn rất đồ sộ với những áng thơ văn lấp lánh khác...
Nguyễn Du - Đại thi hào với những áng thơ bất hủ - Ảnh 1
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Thanh Thuận
Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Nguyễn Du là dịp để chúng ta nhìn lại con người và sự nghiệp văn chương vĩ đại mang tầm nhân loại của bậc Đại thi hào Nguyễn Du. Trong đó, Truyện Kiều - một tác phẩm toàn bích với "lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu" được tôn vinh vào hàng bậc nhất. Bởi Truyện Kiều như một bảo tàng tiếng Việt kết tinh vẻ đẹp, bản sắc, trí tuệ, tinh thần văn hóa dân tộc, qua đó giáo dục cho thế hệ trẻ cảm thụ, hiểu sâu hơn những giá trị chân - thiện - mỹ mà cha ông để lại. Đây cũng là dịp để chúng ta quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới với một nền văn hóa lịch sử lâu đời rất đáng tự hào.
Tuy nhiên, trong thời gian chuẩn bị và đến khi diễn ra các hoạt động kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, chúng ta mới nhận ra có quá nhiều các hoạt động, hàng loạt các chương trình, hội nghị, hội thảo, xuất bản, ra mắt... xung quanh Truyện Kiều. Có lẽ, người ta đã "quên" rằng, ngoài kiệt tác Truyện Kiều, di sản văn học của Đại thi hào Nguyễn Du còn rất phong phú, đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị được sáng tác bằng chữ Nôm, chữ Hán, có cả Ðường thi và lục bát dân tộc khi ông làm quan ở kinh thành, đi sứ hoặc thời kỳ luân lạc vì chiến tranh và lui về quê ở ẩn.
Hơn nửa thế kỷ sống trên cõi đời, Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế một di sản thi ca đồ sộ với ba tập thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục); sáng tác chữ Nôm có: "Văn chiêu hồn" (nguyên có tên "Văn tế thập loại chúng sinh"), "Thác lời trai phường nón", "Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ". Trong đó, thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là một thành tựu xuất sắc.
Với nhiều nhà thơ khác cùng thời, những sáng tác thường khuôn chiếu trong những đề tài ca tụng vương triều, tụng ca thánh đế, xướng họa, đề vịnh quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Du thì khác. Ông thậm chí tách mình khỏi đám đông ấy. Thơ ông bao quát một phạm vi hiện thực rộng lớn, mở rộng đề tài và phản ánh đa dạng số phận con người. Thi hào cảm thương cảnh ngộ ông lão đói nghèo, người gảy đàn ở thành Thăng Long, những người thường gặp chung quanh đến những nhân vật chìm khuất trong lịch sử, từ nỗi nhớ người thân đến biết bao cảnh đời trầm luân trên đường đi sứ Trung Hoa...
Trên tất cả là sự nhập thân, cảm thông sâu sắc của chính tấm lòng nhà thơ với mọi kiếp người. Mỗi tứ thơ, mỗi câu thơ của ông đều chan chứa nỗi niềm, bộc lộ tiếng nói cá nhân nghệ sĩ theo một cách nhìn riêng, một điểm nhìn khác biệt trước thực tại. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ lớn, một năng lực sáng tạo phi thường và "con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời", "lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột" (lời Tiên Phong Mộng Liên Ðường) thì Nguyễn Du mới có được kiệt tác Truyện Kiều và những vần thơ chữ Hán chất nặng suy tư.
Mảng thơ chữ Hán được Nguyễn Du sáng tác xuyên suốt gần 30 năm đã khắc họa cuộc đời và tâm tư của một nhà thơ sống trong giai đoạn lịch sử đầy biến động. Trong suốt những năm tháng loạn lạc, trải qua quãng đời bể dâu, gió bụi cho đến những năm ra làm quan triều Nguyễn, thông qua "những điều trông thấy", thông qua tư tưởng nhân văn, nhân đạo và bút sắc tài hoa, Nguyễn Du đã sáng tác "Thanh Hiên thi tập". Bao trùm tập thơ là tâm trạng hoang mang, xót xa về thân phận, nỗi đau buồn của một con người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời dâu bể: "Một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây", "Người đã đến bước đường cùng"...
Tập thơ "Nam Trung tạp ngâm" cho thấy nỗi đau đời, thương đời tiếp tục theo đuổi ông trong những ngày ra làm quan. Với người khác, được làm quan là một dịp vinh thân và cơ may tiến thân, riêng với Nguyễn Du, ông ngại ngần và cảm nhận nhiều hơn ở phía mặt trái, những hệ lụy, ràng buộc: "Khá thương mình đầu bạc vẫn phải chịu để người sai khiến/ Không cùng với núi xanh giữ được thủy chung" (Vọng trông chùa Thiên Thai). Những bài thơ trong tập này cũng khẳng định, chính trong khoảng thời gian này, thi nhân bắt đầu có những nhận thức sâu sắc về bản chất xã hội đương thời.
Trong tập "Bắc hành tạp lục", bên cạnh mấy bài thơ viết về Thăng Long dâu bể, xót thương từ một kiếp ca nhi, một nàng hầu và biết bao người xưa cảnh cũ đã phai bạc dần theo năm tháng, còn lại tất thảy đều viết về chuyến đi sứ Trung Quốc kéo dài qua suốt một năm trời. Trong tư cách một vị Chánh sứ, Nguyễn Du cũng như bao người đi sứ khác thường nói đến nỗi nhớ nhà, tình cảnh nơi đất khách quê người, những cảnh trí lạ lùng mà lần đầu mình được gặp, được biết, thưởng ngoạn.
Song điều khác biệt là ông thường nhạy cảm quan sát, phản ánh cuộc sống những người dân lao động bình thường như: Ông cháu người hát rong ở Thái Bình, người kéo xe ở Hồ Nam; thôn, xóm bên trạm Tây Hà; thảm trạng đói rét và việc binh đao làm nghẽn đường... Đặc biệt, trước hình ảnh người mẹ với ba đứa con đói khổ đối lập với bữa tiệc phung phí của đám quan lại, một ý nghĩ bất chợt nảy sinh trong nhà thơ: "Ai vẽ bức tranh này - dâng lên nhà vua rõ" (Những điều trông thấy)...
Với số lượng bài lớn, đề tài phong phú, tập "Bắc hành tạp lục" được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là tập thơ kết tinh các giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. Bài thơ "Long thành cầm giả ca" (Bài ca người gảy đàn ở Long thành) là một điển hình về nỗi thương đời, thương mình. Với những câu thơ tài hoa, Nguyễn Du khắc họa rõ nét những đổi thay của cả một thời kỳ lịch sử và một đời người, bày tỏ nỗi thương đời và thương mình đến xót xa: "Khúc xưa giọng mới lệ rơi/ Lắng nghe dạ những bùi ngùi xót xa/ Hai mươi năm bỗng ta hồi nhớ/ Tiệc Giám hồ gặp gỡ hoa khôi/ Người xưa thành cũ suy đồi/ Bể dâu, dâu bể nổi trôi vô thường/ Tan tành hết Tây Sơn vương nghiệp/ Chỉ còn đây một kiếp cầm ca/ Trăm năm nào có bao xa!/ Đau lòng chuyện cũ lệ ta tuôn trào".
Nguyễn Du qua Truyện Kiều và nhiều tác phẩm chữ Hán, chữ Nôm đã đến với nhân dân trong bầu tâm sự đầy cảm thông sâu sắc. Ẩn sâu bên trong ngôn ngữ của Danh nhân văn hóa thế giới là khát vọng mạnh mẽ của một nhân cách lớn được kiến tạo bởi các yếu tố tài năng thiên bẩm, sóng gió cuộc đời và thời cuộc. Và bởi vậy, với hậu sinh, Nguyễn Du luôn là bậc hiền sĩ, ngọn đuốc sáng rực rỡ của thi ca Việt Nam.
Sinh thời Nguyễn Du từng viết: "Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Thiên hạ ai người khóc Tố Như). Thật đáng kinh ngạc và nể phục, bởi dù chưa đến 300 năm sau như Nguyễn Du từng đề cập, nhưng với những gì mà thế giới và các thế hệ người Việt đang làm, thì chắc hẳn tới nghìn năm sau, Nguyễn Du vẫn sống mãi trong lòng hậu thế.
Thanh Thuận
Nguyễn Du
阮攸

Tượng đài Nguyễn Du
Sinh 3 tháng 1, 1766
Bích Câu, Thăng Long
Mất 16 tháng 9, 1820 (54 tuổi)
Huế
Bút danh Tố Như, Thanh Hiên, Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ
Công việc Nhà thơ
Quan nhà Lê trung hưng
Quan nhà Nguyễn
Quốc gia Đại Nam
Tác phẩm nổi bật Truyện Kiều

Sách kể mối tình Nguyễn Du - Hồ Xuân Hương

Năm đó, Nguyễn Du 24 tuổi, ưu tư, thâm trầm; còn Xuân Hương đang tuổi 17 căng tràn sức sống và thông minh, sắc sảo. Mối tình của họ được viết trong cuốn sách "Nguyễn Du trên đường gió bụi".

Cuốn sách của tác giả Hoàng Khôi vừa xuất bản giữa tháng 9. Cuộc đời Nguyễn Du đầy thăng trầm theo những biến động thời thế, chính trị. Nguyễn Du trên đường gió bụi miêu tả 10 năm gió bụi trong cuộc đời tác giả Truyện Kiều, từ 1786 đến 1796.
Nguyễn Du sinh ra trong gia đình đại quý tộc, nhưng 10 tuổi thì mất cha, 13 tuổi mất mẹ, rơi vào cảnh mồ côi phải ở cùng anh cả, có lúc làm con nuôi của một vị quan, cũng có khi đi giang hồ ba năm ở Trung Quốc.
body-chuan-4779-1380615248.jpg
Sách Nguyễn Du trên đường gió bụi của tác giả Hoàng Khôi
Năm 1790, Nguyễn Du ở tại gác tía gần Hồ Tây của anh Nguyễn Khản (lúc đó đang làm quan Tham tụng). Làng Nghi Tàm hồi ấy có gia đình thầy đồ Diễn trú ngụ. Gia đình thầy đồ có cô con gái duy nhất tên Xuân Hương. Xuân Hương đang ở tuổi 16 - 17, là cô gái xinh xắn, nghịch ngợm và có phần hiếu thắng do được ông bà thầy đồ Diễn chiều chuộng. Cô học chữ Hán, chữ Nôm rất nhanh, lại biết làm thơ, ứng đối thông minh, sắc sảo. Vì thế rất nhiều người trong đám học trò cảm mến Xuân Hương, nhưng nàng vẫn chưa thấy phục và yêu ai.
Theo Hoàng Khôi, Xuân Hương gặp Nguyễn Du trong một lần bơi thuyền đi hái sen. Họ kết bạn và nhanh chóng cảm mến nhau. Hoàng Khôi viết trong sách: “Xuân Hương gặp Nguyễn Du, thấy chàng vừa sâu sắc vừa thông minh hóm hỉnh nên ngày càng cảm mến. Còn Nguyễn Du trong nỗi cô đơn dằng dặc mấy năm trời, nay gặp được một cô gái trẻ sắc sảo, tài hoa lại mạnh mẽ nên tự nhiên thấy mình như có sự bù đắp. Dù chưa ai nói gì với ai, cả hai đều ngầm cảm nhận một tình cảm lạ đang nhen nhóm trong mình”. Hoàng Khôi còn kể chi tiết mối tình giữa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du, những khi họ quan tâm, chăm sóc nhau, cùng nhau đi chơi, thăm thú bạn bè hay luận thi ca.
Đặc biệt, cả hai hồn thơ lớn đều mượn thơ để nói hộ lòng. Với tính cách chủ động, Hồ Xuân Hương làm thơ tặng Nguyễn Du, bài thơ Hỏi trăng mà bà viết cũng là lời của một cô gái ướm hỏi ý người yêu: “Trải mấy thu nay vẫn hãy còn / Cớ sao khi khuyết lại khi tròn / Hỏi con bạch thỏ đà bao tuổi / Lại chị Hằng Nga đã mấy con? / Đêm tối cớ chi soi gác tía? / Ngày xanh còn thẹn với vừng son / Năm canh lơ lửng chờ ai đó? / Hay có tình riêng với nước non?". Với tâm hồn thi ca, đại thi hào cũng bày tỏ nỗi lòng sâu kín của mình qua bài thơ Thạch Đình tặng biệt. Bài thơ sau này được đưa vào tập “Lưu Hương Ký” của Hồ Xuân Hương: “Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời / Nước non sầu nặng muốn đi về / Cung hoàng diệu vợi đường khôn lọt / Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê / Đã chắc hương đâu cho lửa bén / Lệ mà hoa lại quyến xuân đi / Xanh vàng chẳng phụ lòng nhân ái / Tròn trặn gương tình cũng khó khi”.
Mối tình kéo dài trong ba năm, cho tới khi Nguyễn Du phải về lại Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh đề xây từ đường cho dòng họ. Sau đó, mỗi người đi một con đường. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn, cả hai lần lấy chồng đều làm lẽ.
Bên cạnh mối tình giữa Nguyễn Du với "bà Chúa thơ Nôm", cuốn sách Nguyễn Du trên đường gió bụi còn cung cấp nhiều tư liệu quý về cuộc đời đại thi hào, như chuyện Nguyễn Du theo Gia Long, hay thời điểm và hoàn cảnh ông sáng tác Truyện Kiều, giải thích tại sao những bài thơ tả cảnh vật, con người Trung Hoa nhưng lại không trùng với con đường mà ông đi sứ…
Trước Hoàng Khôi, đã có nhiều giai thoại, sách viết về cuộc đời Nguyễn Du, nổi bật trong số đó là Ba trăm năm lẻ (tác giả Vũ Ngọc Khánh, xuất bản năm 1988) và cuốn Nguyễn Du (tác giả Thế Quang, xuất bản năm 2010). Tuy nhiên cả hai cuốn trên đều nói sơ lược, thậm chí còn không nhắc tới khoảng thời gian 10 năm lưu lạc, vốn được coi là điểm mờ trong niên biểu về Nguyễn Du. 
Tác giả Hoàng Khôi tên thật là Vũ Ngọc Khôi, hiện nghiên cứu, giảng dạy văn học tại Hà Nội và là thành viên Hội Kiều học. Ông đã xuất bản 12 cuốn sách là những sáng tác văn học, sách nghiên cứu, bút ký. Để viết cuốn Nguyễn Du trên đường gió bụi, Hoàng Khôi đã tiếp xúc với nhiều công trình nghiên cứu có tính phát hiện mới về Nguyễn Du. Ông cũng gặp gỡ nhiều nhà khoa học, những chuyên gia ở Hội Kiều học để tìm hiểu cho cuốn sách này. Hoàng Khôi cho biết ông “dựng một chân dung Nguyễn Du theo cách mình hiểu” bằng tình yêu dành cho đại thi hào cùng với mong muốn được góp một chút gì đó cho quê hương Nghi Xuân của ông.
Hiền Đỗ
NGUYỄN DU
ĐÃ CHỊU ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO NHƯ THẾ NÀO

Đại Lãn

nguyendu-tuongViết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót quang trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế. Vì vậy cho nên khi nghiên cứu về văn thơ của cụ thì bắt buộc chúng ta phải biết về nhân sinh của chính cụ và qua quan niệm khổ của Phật giáo. Theo giáo lý của đức Đạo sư thì nền tảng căn bản của việc học Phật được đặt trên ba học Giới-Định-Tuệ, cho nên Thiền định được coi như là một pháp môn tu học chung cho cả hai thừa Đại và Tiểu trong việc hoàn thiện ba nghiệp thâ-khẩu-ý thanh tịnh để chấm dứt khổ đau mà đức Đạo sư đã căn cứ vào những hiện tượng duyên khởi-hiện hữu-vô thường-biến dịch của nhân sinhvũ trụxác nhận rằng: “Thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rỗng, là đau khổ”. Ngay đến những trạng thái mà người đời cho rằng hạnh phúc an vui cũng luôn bị luật vô thường chi phối nên chúng chỉ là những trạng thái có được giả tạm không thật hữu, nên chúng cũng thuộc về đau khổ. Do đó, đau khổ bao gồm tất cả mọi ý nghĩa được quan niệm có được phát xuất từ ba phương diện: Khổ-khổ (Dukkha-dukkha), hoại-khổ (viparināma-dukkha), và hành-khổ (samkhāra-dukkha) [ba phương diện này chúng tôi đã giải thích phẩn dẫn nhập], bằng vào giải thoát khổ đau do ba nghiệp sinh ra, khi hành giả đạt được giải thoát hoàn toàn khổ đau thì tự nhiên an lạc hạnh phúc hiển bày.
Và theo cái học của Thiền thì gồm có: Thiền Thế gian, và Thiền Tiểu thừa - Thiền Đại thừa (Như lai Thiền) cuối cùng là Thiền của Tối thượng thừa (Tổ sư Thiền). Ba loại Thiền trước được y cứ vào văn tự của kinh điển để học và thực tập, nhưng riêng Tối thượng thừa Thiền thì không y cứ vào văn tự của kinh điển thông thường mà chỉ tạm mượn những kinh nào khế họp với căn cơ bén nhạy tạo ra những nghi tình bất hợp lý đối với thế trí biện thông của thế gian, cộng với những duyên sống để khai mở những vướng mắc của vô minh khổ đau cho hành giả mà thôi, nên Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đã chủ trương “Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự.[1] ” Ở đây Nguyễn Du tiên sinh cũng đã từng học Thiền và thực tập thiền qua kinh Kim cương (một quyển Kinh mà Thiền tông Trung hoa mượn làm duyên, để y cứ cho những người mới bước chân vào Tối thượng thừa Thiền thực tập của Hoàng Mai ngũ tổ và, cũng nhờ Kinh Kim cương mà Tổ Huệ Năng thành vị tổ sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa[2] . Nhưng vì sao tiên sinh đã từng thực tập Thiền bằng cách độc tụng tư duy về kinh Kim cương hàng nghìn lần mà cũng vẫn chưa ngộ được chỗ rốt ráo của kinh, trong khi chỉ qua cái nhìn lại “dưới chân đài phân kinh” của Thái tử Lương Chiêu Minh xưa kia còn để lại, thì ngộ ra được cái bổn lai diện mục rốt ráo của Kinh Kim Cương chính “Vô Tự” thị chân kinh (Tối thượng thừa Thiền)? Thật ra ở đây cụ Tiên Điền, nếu trước đó đã không độc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương thì chưa chắc qua cái nhìn đó cụ có thể ngộ ra được chỗ rốt ráo của kinh được! Nhưng chính nhờ đã huân tập hàng nghìn lần về nghi tình “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, 應無所住而生其心”[3] (nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ). Vậy nơi nào là nơi không có chỗ trụ? Đây chính là cái nghi tình được tạo ra bỡi thiền Công Án hay Tham Thoại Đầu của Tổ sư Thiền mà cụ đã được huân tập kinh qua đến mức vừa đầy; bây giờ chỉ cần giọt nước cuối cùng đổ vào nghi tình đó thì cái nghi tình đó sẽ bùng vỡ. Ở đây chính cái nhìn lại “Dưới chân đài phân kinh” là giọt nước cuối cùng để Tiên sinh ngộ ra được “Vô tự” chính là chân kinh, cũng chính là không chỗ trụ. Giờ đây đích thị Nguyễn Du tiên sinh đã trở thành một Thiền sư. Nhưng trước khi để trở thành một Thiền sư thì Nguyễn Du tiên sinh trước đó cụ đã kinh qua những năm tháng dài độc tụng tư duy, nghiền ngẫm về kinh Kim Cương, và trước đó nữa tuy chúng ta không biết được cụ đã học tập những kinh sách nào được ghi lại qua văn thơ, nhưng qua tư tưởng Phật giáo, mà cụ đã thể hiện trong văn thơ để lại ngoài truyện Kiều ra, cho chúng ta thấy rằng Phật giáo Tiểu thừa đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cụ qua nhân quả báo ứng của mỗi cá thể được thay thế bỡi mệnh Trời, thể hiện tư tưởng nhân duyên sống của nhân sinh, qua đó chúng bị luật vô thường luôn chi phối đổi thay. Mệnh Trời ở trong truyện Kiều chỉ là một tiền đề được cụ nêu lên để đại diện cho một quan niệm của Nho giáo, bằng vào nhân bản tính qua tác nhân tạo nghiệp của con người theo luật tắc nhân quả báo ứng của Phật giáo mà phủ định đi tính siêu hình Định mệnh hay Thiên mệnh của Nho giáo, điều này nếu không muốn nói là điều sai lầm của Nho giáo mà cụ nhìn ra được. (việc này chúng tôi sẽ bàn kỹ qua nghiên cứu truyện Kiều).
1/ NGUYỄN DU VÀ CUỘC ĐỜI.
Qua tiểu sử của cụ, ngoại trừ mười năm của thời thơ ấu an ổn sống trong vòng tay của mẹ và gia đình tại Thăng Long và quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh; nhưng sau đó những biến cố cứ mãi dồn dập đổ lên đầu cậu bé Nguyễn Du: mười tuổi cha mất, mười hai tuổi mẹ lại qua đời không gì bất hạnhđoạn trường hơn là làm đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ vào cái tuổi đang còn ham chơi, đang cần chỗ nương tựa … và cũng từ đó bắt đầu cụ nếm mùi thăng trầm khổ ải tủi nhục trong nương nhờ ở tạm từ nơi này qua nơi khác và, cũng luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của những người thân. Việc đổi thay triều đại, việc lên voi xuống chó chỉ trong tích tắc và, những hậu quả đầy khổ đau tất yếu theo sau qua chánh báo (cá nhân) cùng y báo (gia đình-xã hội), đã nói lên được tính vô thường khổ đau luôn hiện hữu qua cuộc sống nhân sinh và riêng cá nhân cụ. Hơn bốn mươi ba năm còn lại trên cõi đời, trong khoảng thời gian này, nhất là mười năm giang hồ cát bụi, sống xa mái ấm gia đình lúc nào cụ cũng mang một nỗi buồn đau rộng lớn, thương mình, thương những người thân, thương cho những đồng loại phải chịu đày đọa khổ cực. Cửa nhà tan nát đổi thay trong kiếp người bên cạnh những đổi thay của ngoại cảnh thiên nhiên, thời thế loạn lạc chia ly, kế sinh nhai mịt mờ phía trước, thân phận ăn đậu ở nhờ tủi cực khôn nguôi, nỗi lo lắng luôn dằn vặt trong nếp tư duy suy nghĩ, đến nỗi mới ba mươi tuổi trên đầu mà tóc trắng bạc phơ, tư tưởng muốn sống nơi vắng vẻ vô sự cũng bắt đầu xuất hiện:
 “Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Tư tưởng muốn xuống tóc vào rừng ở ẩn làm một người vô sự trước cuộc sống là một dấu hiệu tự quy hướng vế chính mình để dọn đường cho việc nghiên cứu Phật phápthực hành độc kinh Phật, trở thành một hành giả tu tập thiền sau này của cụ. Tư tưởng này xuất hiện trong khoảng thời gian mười năm lưu lạc giang hồ cát bụi đã hình thành qua những kinh nghiệm sống, kinh qua trong những đắng cay khổ nhục của cuộc sống lưu đày rày đây mai đó của một thân lữ thứ trên quê hương rộng mà không có nhà, có thể đây là thời gian từ năm 1786-1795. Sau mười năm lưu lạc giang hồ cụ đã trở về sống với núi rừng dưới chân núi Hồng Lĩnh bên dòng Lam giang và, cuối cùng cũng không tránh được phải ra làm quan với một thái độ bất đắc dĩ, để từ đó cụ ghi lại cuộc đời mình qua những vần thơ chữ Hán đầy thương đau và buồn chán, nghiệt ngã cho chính mình và tha nhân cùng xã hội. Những hình ảnh cụ ghi lại qua thơ văn không ngoài cái quan niệm vô thường-khổ-không của Phật giáo như trên chúng tôi đã trình bày đối với cuộc đời qua khổ-khổ, hoại khổ, hành khổ, đầy ngậm ngùi đớn đau, đầy xúc động trong một cái nhìn sâu xa từ hiện tượng đến bản chất của chúng. Cái nhìn tận căn đẽ này chính là cái nhìn chánh kiến của Phật giáo, từ mê qua ngộ. Khi là mê thì các pháp trở thành pháp thế gian, pháp hữu lậu, pháp khổ đau; còn khi chúng ta ngộ ra rồi thì các pháp này trở thành pháp xuất thế gian, pháp vô lậu, pháp an vui giải thoát.
Từ một cậu bé tuổi vừa lên năm đã theo gia đình về quê nội tại Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh dưới núi Hồng Lĩnh, cạnh sông Lam, khi cha mình cáo lão từ quan về quê vào năm Tân mão 1771[4] . Đây là dấu hiệu mở màn của bước chân đầu cho những bước phong trần khổ ải sau này của cụ. Sau khi cậu bé Nguyễn Du theo cha và gia đình về quê thì, năm năm sau người cha mất đi và, tiếp hai năm nữa là mất luôn cả người mẹ thân yêu. Bây giờ cậu bé Nguyễn Du thật sự đã trở thành trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ; mới mười hai tuổi đầu mà cậu bé phải chịu một nỗi mất mát đớn đau đoạn trường đến thế thì cuộc đời của cậu sẽ ra sao sau này? Đây là những kí ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những năm biến động sau này cho cả gia đìnhcá nhân cậu bé. Những hình ảnh đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ là người đã trải quakinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:
“Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
Cận nhật trường an đại dĩ phi.[5] ”
憶 昔 吾 翁 謝 老 時
飄 飄 蒲 駟 此 江 湄
仙 舟 激 水 神 龍 鬥
寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛
一 自 衣 裳 無 覓 處
兩 隄 煙 草 不 勝 悲
百 年 多 少 傷 心 事
近 日 長 安 大 已 非
(Giang Đình hữu cảm)
Dịch:
Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
Tấp nập ngựa xe bến sông này.
Thuyền tiên rẽ nước rồng giao đấu,
Lọng quý trên không hạc gieo lành.
Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
Khói cỏ đôi bờ chịu bi thương.
Cận nhật kinh thành nhiều khác lạ,
Trăm năm nhiều ít chuyện thương tâm!
Qua bài thơ này Nguyễn Du tiên sinh đã ghi lại những kí ức những cảnh tượng đã xảy ra khi cha cáo lão từ quan về làng, khi mình còn là một cậu bé vừa lên năm nào ngựa xe trên bến dưới thuyền, cờ lọng quý che phủ rợp trời cho đến khi áo xiêm lộng lẫy không còn tìm thấy nữa và, những biến động gia đình xảy ra sau đó; mọi việc vô thường đều đổi thay một cách nhanh chóng, từ hình thức trạng thái tâm lý này đổi sang hính thức trạng thái tâm lý khác. Ngay đến khói cỏ bên đôi bờ đê không còn xanh nữa mà đã theo lòng người bi thương không kém và, những biến động khác thường nơi kinh đô cũng thay đổi. Lòng người thay đổi, thế sự đổi thay. Từ những thay đổi này: nếu là lìa xa những người chúng ta thương yêu quí mến như cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc bạn bè và, những hoàn cảnh yêu thích của ta (thuộc về ái biệt ly); cùng những gì mà chúng ta mong muốn đạt được: như mong cùng chung sống với nhau, không chia lìa ngăn cách, nhưng chúng không thuận tình với mong ước của chúng ta (thuộc về cầu bất đắc) thì, tất cả những điều đó mang đến cho cá nhân Nguyễn Du tiên sinh và cả cho chúng ta những đều đau khổ thương tâm hết.
Trên là những nét chấm phá về cuộc đời long đong chìm nổi khổ đau mà Nguyễn Du tiên sinh đã kinh qua và nhìn thấy ngay trong cuộc sống của chính mình và tha nhơn trong xã hội. Trước hết cá nhân tiên sinh đối với với gia đình anh em họ hàng thân thích và, nơi quê hương cố chủ; vì biến cố gia đình: cha mẹ mất sớm sau đó mang đến tình trạng gia đình ly tán, thậm chí đến nơi ở cũng không còn nữa. Ngay bản thân của Nguyễn Du tiên sinh phải cậy nhờ vào anh em cùng những thân nhân khác mà sống lay lất qua ngày. Thời gian ly tán này (ái biệt ly) là một thời gian tạo ra những biến động về tâm lý cho cậu bé Nguyễn Du, một cảm thức đau khổ về nỗi chia ly và một mặc cảm ăn nhờ ở đậu sinh ra đau buồn và hận cho chính thân mình không làm gì được trong khi đầu đã bạc mà thời gian cứ qua đi:
“…Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên …”
鴻 嶺 無 家 兄 弟 散
白 頭 多 恨 歲 時 遷
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)[6]
Dịch:
Hồng Lĩnh không nhà anh em vắng,
Bạc đầu hận lắm tháng năm qua…
hay:
“ … Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.”
故 鄉 弟 妹 音 耗 絕
不 見 平 安 一 紙 書
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
Đệ muội quê nhà bặt âm tín,
Thư báo bình an chẳng thấy nào! 
Từ ly tán cửa nhà, anh em mỗi người mỗi ngả theo sự thăng trầm của chánh báoy báo, vì vậy tin tức quê nhà và cả anh em cũng bặt vô âm tín. Đây là một thứ tình cảm mong muốn được tin nhau, được gặp lại nhau mà không được nên mang bộ mặt “Cầu bất đắc”, thì sẽ sinh ra khổ đau, từ đó:
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thinh sơ…”
一 片 鄉 心 蟾 影 下
經 年 別 淚 雁 聲 初
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
Bao năm lệ biệt đầu tiếng nhạn
Một tấm lòng quê nhớ dưới trăng…
Hay:
“ … Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm…
羈 旅 多 年 燈 下 淚
家 鄉 千 里 月 中 心
(Xuân dạ)**
Dịch:
Bao năm làm khách đèn chong lệ,
Nghìn dặm quê nhà trăng dõi tâm …
Lệ nhỏ dưới đèn, dưới trăng biểu hiện cho hình ảnh cụ Nguyễn Du đang là người lữ khách sống nương nơi quê người, một thân một mình cô độc vào những lúc nhớ nhà, nhớ quê, nhớ người thân mà không được toại nguyện trong việc gặp lại nên phải âm thầm chịu đựng nỗi dày vò thương nhớ khổ đau. Nó là hình ảnh giải tỏa nỗi nhớ nhung khổ nhục qua giọt lệ âm thầm rơi dưới đèn dưới trăng; chỉ có đèn và trăng là vật chứng giám nỗi niềm riêng tư cho lữ khách. Cho dù cụ lúc nào cũng nghĩ nhớ đến quê nhà, nhưng không có cách nào để giải quyết nỗi nhớ thương đó nên đành chấp nhận nó như chấp nhận nỗi bất hạnh của chính mình:
“… Hành nhân hồi thủ xứ,
Vô ná cố hương sầu.”
行 人 回 首 處
無 那 故 鄉 愁
(Tái du Tam Điệp sơn)**
Dịch:
“… Người đi quay đầu nhìn quê cũ,
Đành vậy! thương sầu cố hương thôi.”
Đành chấp nhận thân tàn xin gởi quê người, vì thân xác này trở thành trở ngại cho việc đi đứng trở về thăm quê, nhưng hồn người, tư tưởng người không phải là vật có chất ngại nên tự do tự tại trong việc đi về thăm viếng cố hương. Đây cũng là một hình thức để an ủi và chia sẻ làm vơi đi nỗi thương nhớ vì xa quê:
“… Đỗ vũ nhât thinh xuân khứ hỉ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.”
杜 宇 一 聲 春 去 矣
魂 兮 歸 來 悲 故 鄉
(Ngẫu thư công quán bích I)**
Dịch:
Một tiếng cuốc kêu xuân đã qua,
Hồn ơi về lại, thương cố hương.”
Và cứ như vậy nỗi thương nhớ quê nhà cứ dày vò tâm hồn và thân xác cụ như vậy là mười năm trường, vẫn là kẻ khách lữ phong trần tha phương cầu thực, sống bám nhờ vào người, trong khi trên đầu tóc bạc lại bạc thêm:
“Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia…”
十 載 風 塵 去 國 賒
蕭 蕭 白 髮 寄 人 家
(U cư II)**
Dịch:
Mười năm gió bụi quê xa cách,
Tóc bạc phất phơ cậy nhà người…”
Mười năm gió bụi khổ đau thương nhớ cũng đủ đề cho cụ nhìn rõ ra được chân tướng của cuộc đời qua khía cạnh “ái biệt ly” là khổ, “cầu bất đắc” là khổ. Đây chỉ mới là hai khía cạnh của tám khía cạnh khổ theo đức Đạo sư đã dạy. Trong thời gian mười năm giang hồ cát bụi và, những năm còn lại trên cõi đời cụ còn có những nỗi khổ khác nữa được thể hiện qua trong cuộc sống như: Sống, già, bệnh, tử[7] , oán thù đối mặt nhau, năm uẩn không đều hòa. Đây là những hiện tượng tất yếu phải kinh qua của đời người cho bất cứ một cá nhân nào hiện hữu thì phải bước qua và, chúng cũng trở thành những nguyên nhân đưa đến những kết quả khổ đau khác trong cuộc đờicá nhân cụ và mọi người phải gánh chịu: Hoàn cảnh loạn lạc của chiến tranh cũng đưa đến chia lìa chết chóc người thân, tan nát nhà cửa về gia đình cũng như xã hội về măt kinh tế, chúng là hậu quả của “Oán tắng hội” sinh ra đau khổ đổ lệ u hoài cho kiếp người;
“… Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
Ngư long lãnh lạc nhàn thu da,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.”
桑 梓 乒 前 千 里 淚
親 朋 燈 下 數 行 書
魚 龍 冷 落 閒 秋 夜
百 種 幽 懷 未 一 攄
(Bát muộn)**
Dịch:
Bà con dưới đèn vài tin nhắn,
Quê nhà binh lửa, lệ rơi xa
Đêm thu tịch mịch cá rồng lặng
Trăm mối u hoài một chưa vơi.”
Ai trong chúng ta không lo không sợ cho những người thân yêu của mình trước cơn binh lửa nơi quê nhà, khi chúng ta từ nghìn dặm xa không giúp gì được cho họ, chỉ biết cầu nguyện và dùng nước mắt của mình để tạm vơi đi niềm đau khổ đang dày vò; trong khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè và sợ sệt lẫn nhau khi ở quê người.
“… Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …”
異 鄉 養 拙 初 防 俗
亂 世 全 生 久 畏 人
(U cư I)**
Dịch:
… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,
Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…”
Đây là một kế sống an toàn dành cho những nạn nhân tha hương của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi chết hay tù tội, điều đó chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ Tiên điền Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:
“ … Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …”
四 海 風 塵 家 國 淚
十 旬 牢 獄 死 生 心
(Mỵ trung mạn hứng)**
dịch:
Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,
Lao ngục mười tuần, lòng lo sống chết …”
Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên sinh mới có đủ thời gian để ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự không biết ngõ cùng ai, vì nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng Lĩnh, đó chính là nỗi khổ tâm của cụ:
“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”
我 有 寸 心 無 與 語
鴻 山 山 下 桂 江 深
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,
Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng. 
Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà không biết đem nó ra để bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm không ai dò biết được như đáy dòng sâu Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn Du chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và cũng có thế: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó là những nỗi đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau chung của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong những trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn nữa: Nào là cái đau khổ vỉ thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta bất cử giờ phút nào:
“… Cố hương hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
十 口 孩 兒 菜 色 同
(Ngẫu hứng IV)**
Dịch:
Cố hương hạn hán hại nhà nông,
Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…
Một thân một mình nơi tha hương đất khách, nhưng cụ vẫn canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán mất mùa, không đủ cái ăn cái mặc, thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu do thiếu ăn. Và có gì đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt giường, còn phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà đang réo gọi nữa!
“… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành động …”
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
一 身 臥 病 帝 城 東
(Ngẫu đề)**
Dịch:
Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,
Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …
Một thân một mình nơi đất khách lại bị bệnh, người thân không có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những ngày xuân:
“Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa
長 途 日 暮 新 遊 少
一 室 春 寒 舊 病 多
(U cư II)**
Dịch:
Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…
Trong khi sống nơi đất khách quê người thân thì nhiều bệnh tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật càng ngày càng tăng chứ không giảm và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm, càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn:
“Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”
多 病 多 愁 氣 不 舒
十 旬 困 臥 桂 江 居
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…
Không có buồn nào bằng cái buồn người bị bệnh nặng mà không người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian phá tan màng u ám cho nhân loại được nhờ:
“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,
Dương quang hạ chiếu phá quần âm.
十 年 夙 疾 無 人 問
九 轉 還 丹 何 處 尋
安 得 玄 關 明 月 見
陽 光 下 照 破 群 陰
(Ngọa bệnh II)**
Dịch:
Mười năm tật bệnh không người hỏi,
Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?
Mong hiện ánh sáng trăng màu nhiệm,
Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.
Qua những bài thơ trích đoạn ở trên, chúng tôi chỉ trích ra một ít trong những số bài thơ chữ Hán được cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào những khổ đau buồn thương nỗi nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của gia đình trong loạn lạc chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ, thiên tai hạn hán, chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ Nguyễn Du cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
xuân lan thu cúc thành hư sự,
hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
壯 士 白 頭 悲 向ẻ 天
雄 心 生 計 兩 茫 然
春 蘭 秋 菊 成 虛 事
夏 暑 冬 寒 奪 少 年
(tạp thi I)**
Dịch:
Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc, 
Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,
Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.” 
Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu đã bạc lại bạc thêm. Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang kinh qua và chứng kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới ba mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành qua bài thơ “tự thán” cụ viết;
“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”
生 未 成 名 身 已 衰
蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹
(Tự thán I)**
Dịch:
Sống chưa thành danh thân đã suy
Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.
Chính vô thường mang lại cho chúng ta cái khổ đau. Qua đó, vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc sống chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô thường) chúng ta không giữ được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta đã thấy qua những lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương nhờ nơi Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.
“… Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai ...”
南 浦 傷 心 看 綠 草
東 皇 生 意 漏 寒 梅
(Xuân nhật ngẫu hứng)**
Dịch:
Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…
Nhưng còn những nguyên nhân giáng tiếp mà chúng ta trong nhất thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong, đó chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm chính cho mọi bất toàn trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn cho kiếp người:
“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.
古 今 未 見 千 年 國
形 勢 空 留 百 戰 名
莫 向 清 華 村 口 望
疊 山 不 改 舊 時 青
(Vị Hoàng doanh)**
Dich:
Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,
Hình thể mất, còn danh trăm trận.
Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,
Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.
Triều đại nào tồn tại nghìn năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay hình thể quân trại không còn nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng xảy ra trăm trận chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng Điệp sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ thay đổi, nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. cũng giống như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ còn dân tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng cũng có những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó thuộc về vô hình. còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà thay đổi như:
“ Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
Môn yềm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”
桃 花 桃 葉 落 紛 紛
門 掩 斜 扉 一 院 貧
住 久 頓 忘 身 是 客
年 深 更 覺 老 隨 身
(U cư I)**
Dịch:
Hoa lá cây đào rơi lác đát,
Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.
Ở lâu quên hẵn mình là khách,
Năm tháng càng qua thân càng già…”
Những hiện tượng như lá đào hao đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái thay đổi của nó; nhưng thời gian qua đi thì chúng ta khó mà hình dung được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ nhìn được qua kết quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng. Thời gian vô thường đã tác hạibiến hoại tất cả từ con người đến mọi vật xung quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v… không gì không bị biến hoại thay đổi:
“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư…”
十 載 塵 埃 暗 玉 除
百 年 城 府 半 荒 墟
(Bát muộn)**
Dịch:
Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
Thành quách trăm năm nửa hoang tàn…
Hay:
“…Thành quách suy di nhận sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải…
城 郭 推 移 人 事 改
幾 處 桑 田 變 滄 海
(Long Thành cầm giả ca)**
Dịch:
Thành quách đổi thay việc người đổi,
Bao cảnh ruộng dâu biến biển khơi…
Vô thường biến đổi luôn tạo ra những cú sốc đau cho những người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta, nhưng cuối cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ hai bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:
“Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.[8] ”
古 時 明 月 照 新 城
由 是 昇 龍 舊 帝 京
衢 巷 四 開 迷 舊 跡
管 弦 一 變 雜 新 聲
千 年 富 貴 供 爭 奪
早 歲 親 朋 半 死 生
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星。
(Thăng Long 2)
Quách Tấn dịch:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Điệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ 
Danh lợi quyền lực là những món mồi khá hấp dẫn đối với những ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn lòng tham lợi, tham danh, tham quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi. Nhưng có ai trong chúng ta được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều hơn, cao hơn để bỏ đầy túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng ta là “được voi đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là để thõa mãn lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở hữu cá nhân mình, gia đình mình … Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ nhọc cay đắng càng theo sau và, những oán đối củng tùy theo đó mà hình thành tạo thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì sau khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:
“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”
伯 圖 泯 滅 千 年 後
古 墓 荒 涼 三 尺 秋
(Á phụ mộ)[9]
Dịch:
Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm. 
Theo Nguyễn Du tiên sinh thì, sự nghiệp đồ vương cũng tan tành theo mây khói nghìn năm sau, xác thân nằm đưới ba thước đất, cỏ lạnh úa tàn bao phủ mùa thu chỉ còn lại là một nấm mồ cổ, nhiều khi không người coi sóc hoang phế điêu tàn, không một ai thấy mà không khởi lên tấm lòng hoài cổ thương tâm, đối với những đổi thay biến hoại của những vật thể có hình thì có hoại diệt, không có gì tồn tại mãi trên thế gian này. Tuy chúng tạo cho mọi người trong chúng ta những cú sốc, những vết thương lòng nhức nhối, những nỗi đau khổ triền miên; nhưng chúng ta phải nhìn lại chính chúng ta đã làm được gì trước định luật vô thường biến đổi luôn luôn đó, trong khi mỗi ngày qua đi tóc trên đầu chúng ta lại bạc thêm giỏi lắm cũng chỉ đến trăm năm!:
“… Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh.
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星
(Thăng Long II)**
Dịch:
Thôi đừng than thở chuyện đời chìm nổi,
Tóc bạc đầu mình từng sợi bạc phơ.
Cũng cái nhìn lại chính mình này đã cảnh tĩnh được chính cụ trong cuộc sống tang thương đầy khổ cực này. Cho dù cái khổ về vật chất hay tinh thần đến đâu đi nữa cũng không làm cho cụ biến được bản chất chính con người cụ:
“… Phong trần đội lý lưu bì cốt
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn bồng.”
風 塵 隊 裏 留 皮 骨
客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬
(Trệ khách)**
Dịch:
Tóc rối hai màu bơ phờ, gối khách 
Vẫn giữ thân trong gió bụi muôn ngàn. 
Sở dĩ cụ Nguyễn Du tiên sinh đã giữ được thân mình trong cát bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái nhìn tinh tế và sâu thẳm đối với cuộc đời cũng như đối với các sự vật chung quanh cuộc sống, đó là cái nhìn trong vô thường bến dịch vẫn còn có cái thường còn không biến đổi, nó chính là bản thể của sự vật. Tuy mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị vô thường biến khác nhung bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không trường tồn. Chúng vẫn trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào, chúng vẫn hồng như mọi buổi chiều ráng hạ, chỉ có sắc màu (của ráng chiều thì lúc nào cũng màu hồng, lá của cây rừng thì lúc nào cũng là một màu xanh, ánh sáng mặt trời mặt trăng vẫn sáng như ngày nào) là không đổi:
“Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.”
無 窮 今 古 傷 心 處
依 舊 青 山 夕 照 紅
(Mạn hứng II)**
Dịch:
Điều thương tâm xưa nay vô cùng tận
Núi biếc như xưa chiều chiếu ráng hồng.
2/ NGUYỄN DU VÀ PHẬT GIÁO.
Độc qua thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du chúng ta gặp những bài thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường biến hoại luôn có cái thường còn bất biếnđạo Phật thường gọi là “Vô thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ trên Nguyễn Du tiên sinh cho chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của hiện tượng giới của sự vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường tồn bất biến của bản thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng không bao giờ thay đổi bất cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng sáng như màu nguyên thỉ; hay lá cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh của những ẩn dụ cho những chân lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo nhà Phật, hay:
“… Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…”
達 人 心 境 光 如 月
處 仕 門 前 青 假 山
(Tạp ngâm 2)**
Dịch:
Tấm lòng đạt nhân vầng trăng sáng,
Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.
Chính nhờ có cái nhìn muôn vật giữa cuộc đời này nó mang ý nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật giáo nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc nào cũng sống trong khổ đau của cuộc đời mà cụ vẫn không bị cuộc đời quật ngã, vẫn hiên ngang sống. Người đạt đạo, nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh với vầng trăng sáng, với màu xanh của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn dụ cho chân lý, cho tấm lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: “Tâm vô phân biệt” là “Chân tâm” là “Tâm vô sự”.
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa cụ về với Phật một cách tự nguyện và tự biến thành mình là hành giả tu tập thiền định sau này. Qua mười năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã kinh qua trong đau thương tiếc nhớ khi lăng lóc giữa cát bụi phong ba của cuộc đời: Một mặc dù cụ nhìn thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời trong khổ đau qua vô thường-khổ-không theo quan điểm của Phật giáo và mặc khác cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật và thực hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:
“ … Mãn cảnh giai khônghữu tướng…”
滿 境 皆 空 何 有 相?
(Đề Nhị Thanh động)**
Dịch:
Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Trước hết, từ khi cụ nhìn ra được hiện tượngbản chất của mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư tưởng muốn xuống tóc ẩn tu làm người vô sự đã đưa cụ đến việc học Phật và thực hành theo những lời Phật dạy tùy căn cơ có được của mình. Thật ra ở đây không ai biết được cụ đã học Phật từ bao giờ và học ở đâu? để đẻ ra cái kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền, đề có thời gian huân tậpngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh Phật cũng giống như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo vào lúc nào và học những kinh sách nào, học ở nơi đâu? với cuộc đời năm chìm bảy nổi lênh đênh từ nơi này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm manh áo cũng đủ đứt hơi rồi huống chi là học hành; thế mà theo như tiểu sử của cụ cho chúng ta biết rằng cụ đã từng đi thi và đỗ tam trường trong một kỳ thi Hương và sau đó cụ không đi thi tiếp nữa! Thì việc học Phật của cụ cũng vậy, chỉ biết qua bài thơ chính cụ làm ra qua bài “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” Như vậy cụ đã tập Thiền Công án qua hàng nghìn lần độc tụng về Kinh Kim Cương và cũng đã ngộ được bản Kinh này qua “Vô tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi nghĩ thì có thể cụ bắt đầu học Phật Khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng thời gian mười măn giang hồ gió bụi của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ tâm sự chán đời muốn xuống tóc vào rừng ẩn tu cũng trong khoảng thời gian này.
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Có lẽ đây là giai đoạn quyết định chuyển mình cho một bươc đi mới sau này của cụ. Theo chúng tôi trong hiện tại hoặc sau này, việc cụ không tiếp tục theo đuổi con đường thi cử để thực hiện “chí cỡi mây” của mình theo cái học của Nho gia vào lúc bấy giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ gởi cho cụ khi cụ còn lưu lạc trong đó có câu: “Tự hữu lăng vân chí” (Người vốn có chí cỡi mây) có hai lý do: Thứ nhất nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt thật của hiện tượng (vô thường-khổ đau) cùng bản chất của mọi sự vật là không, do nhân duyên hòa hợphiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định không tiếp tục con đường khoa hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác với triều đình Tây Sơn nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào đi nữa thì đây vẫn là quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm người vô sự: “nằm nghe tùng hát gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ cũng bắt đầu chuyển đổi cho việc học Phật và thực hành sống theo nếp sống vô sự của Phật, vì cụ đã nhận thức rằng:
"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
悵 望 紅 塵 渺 無 際
不 知 日 日 此 中 行
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)**
Dịch:
Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
Sớm chiều trong đó bước quẩn quanh. 
Vì lợi danh quyền lực cuối cùng cũng chỉ mang đến khổ đau và trói buộc chân chúng ta vào vòng dây oan nghiệt chạy quanh suốt đời mãn kiếp trong chốn hồng trần không bao giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì chúng ta không biết bước đi như thế nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của vòng luân hồi lẩn quẩn đó. Giờ đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một vị Tăng an nhiên thả giấc ngủ dưới những làng mây cô đọng chung quanh giấc cô miên lãng đãng trong rừng núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan biểu hiện lên sắc thái tự tại thong dong trong cuộc sống:
"… Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
停 雲 處 處 僧 眠 定
落 口 山 山 猿 咡 哀
一 炷 檀 香 消 慧 業
 回 頭 已 隔 萬 重 崖
(Vọng Quan Âm miếu)**
Dịch:
Mây đọng nơi nơi Thầy an giấc
Chiều xuống non non vượn kêu thương. 
Đốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ, 
Quay đầu đã cách vạn trùng nhai. 
Ở đây chỉ cần biết quay đầu lại là bờ giác ngộ giải thoát, chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn trùng trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt lý thể thì sinh tử tức là Niết-bàn, khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay đầu tức là ngộ, là Phật, là vô lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu tức là mê, là chúng sanh, là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê chúng sanh mà hiểu Phật thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:
“ … Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma …”
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
(Phân Kinh thạch đài)**
Dịch:
Cảnh giới sắc không, mê chẳng biết,
Tâm mê hiểu Phật, Phật thành ma…
Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách yếu của phương cách tu hành và, cũng từ đó hành giả theo Phật có thể thực hành để đạt được sự thể ngộ chân lý qua cuộc sống bằng vào thực hành tu tập để đạt đến trạng tháilinh không tịch rỗng rang này, chứ không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để nói về cảnh giới Phật, cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ cũng chỉ là kiến thức mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê như Kinh Viên Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
Kim Cang Tạng đương tri Như Lai tịch diệt tánh
Vị tằng hữu chung thỉ Nhược dĩ luân hồi tâm
Tư duy tức toàn phục Đản chí luân hồi tế
Bất năng nhập Phật hải Thí như tiêu kim khoáng
kim phi tiêu cố hữu Tuy phục bản lai kim
Chung dĩ tiêu thành tựu nhất thành chân kim thể
Bất phục trùng vi khoáng Sanh tử dữ Niết-bàn
Phàm phu cập chư Phật Đồng vi không hoa tướng
Tư duy do huyễn hóa Hà huống kết hư vọng
Nhược năng liễu thử tâm Nhiên hậu cầu Viên Giác.
金 剛 藏 當 知 如 來 寂 滅 性
未 曾 有 終 始 若 以 輪 迴 心
思 惟 即 旋 復 但 至 輪 迴 際
不 能 入 佛 海 譬 如 銷 金 鑛
金 非 銷 故 有 雖 復 本 來 金
終 以 銷 成 就 一 成 真 金 體
不 復 重 為 鑛 生 死 與 涅 槃
凡 夫 及 諸 佛 同 為 空 花 相
思 惟 猶 幻 化 何 況 詰 虛 妄
若 能 了 此 心 然 後 求 圓 覺
Kim Cang Tạng nên biết Như lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ Nếu dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới Phật Cảnh Phật thành luân hồi
Phật tánh tuy sẵn có Phải tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn có Phải lọc quặng mới thành
Khi đã thành vàng y Không trở lại làm quặng
Sanh tửNiết bàn Phàm phu cùng chư Phật
Thảy đều như hoa đớm Tâm suy nghĩ đã huyễn
Nên lời nói cũng huyễn Làm sao nhập được chơn
Nếu rõ được tâm này Mới cầu được Viên giác.[10] ”
Nếu muốn có cuộc sống bình an vô sự theo cụ Nguyễn Du thì cần phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư linh), sau đó chúng ta làm gì cũng không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết chúng ta phải thực hành ngay trong cuộc sống:
“ … Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.”
羨 殺 北 窗 高 臥 者
平 居 無 事 到 虛 靈
(Ký hữu)**
Dịch:
Muốn làm người nằm cao nơi cửa bắc
Sống yên vô sự đạt đến hư linh.
Khi mà con người sống bình an vô sư thì chính đó là cuộc sống của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang, không bị cái gì trói buộc được. Đó là một điều mà ai là người tu Phật cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy và, ở đây cụ Nguyễn Du cũng vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống bình yên vô sự như hình ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:
“… Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như …”
山 僧 對 竹 兩 無 恙
牧 豎 騎 牛 一 不 如
(lạng sơn đạo trung)**
Dịch:
Sư bên khóm trúc vô sự cả,
Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng trâu…
Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư núi và khóm trúc bên nhau nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức khác nhau không liên quan, trên mặt tinh thần cũng không can hệ với nhau, sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc có cái thể hiện vô sự của nó; cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy mục đồng đang nghiêu ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về. Đây là những hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc, mà ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc sống. Vì sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói buộc vào bất cứ điều kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các duyên sống chung quanh, nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhân tạo ra nghiệp của thế gian. Ở đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách sống vô sự này qua:
“Bất sầu cửu lộ triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
不 愁 久 露 霑 衣 裔
且 喜 鬚 眉 不 染 塵
(Dạ hành)**
Dịch:
Tay áo dầm sương không ngại ướt 
Mày râu, mừng chẳng nhiễm trần ai.
Những hình ảnh ẩn dụ của cụ đưa ra cho chính bản thân mình, đó chính là bước đi giải thoát vô ngại của đạo Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời chứ không phải lánh đời, mà vẫn sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói chung là vẫn làm tất cả mọi chuyện như người thế gian không khác; nhưng chỉ khác với người thế gian là sống với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời trói buộc qua tác nhân không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô ngã, vô pháp thì đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói buộc. Đó chính là lối sống của cụ:
“… Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
笑 啼 徇 俗 干 戈 際
緘 默 藏 生 老 病 餘
(Tạp Thi II)**
Dịch:
Theo đời cười khóc qua thời loạn,
Già bệnh rồi im lặng yên thân.”
Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta lúc nào cũng trong sáng qua cuộc sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống hay sống bằng cách vô sự, không nhiễm ô đời, không để chuyện đời vướng mắc vào tâm mình, tức là chúng ta sống với tâm vô phân biệt. Đó là lối sống với tâm không còn phân biệt chấp trước vào sự vật; tùy duyên mà sống không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như chuyện khóc cười theo đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để cho đời và thời cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng ta bị trói buộc vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta sẽ bị đau khổ vì sự trói buộc đó. Đau khổhậu quả của mọi tác nhân tạo ra nghiệp do cuộc sống của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một kinh nghiệm sống của chính cụ qua tâm không sau khi nghiệp chướng đươc tiêu trừ:
“ … Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không …”
老 去 未 知 生 計 拙
障 消 時 覺 夙 心 空
(Thôn Dạ)**
Dịch:
Già rồi vẫn còn vụng về sinh kế
 Khi nghiệp tiêu mới biết tâm không…
Tâm không ở đây chính là tâm trong sáng, tâm vô sự, tâm chân thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra đã được tiêu trừ rồi thì chính ngay lúc đó chúng ta giải thoát được khổ đau và, cuộc sống của chúng ta cũng trở nên tự tại an lạc được thể hiện, nên cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực hiện cho bằng được tâm vô sự này.
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ nói đến cái quả khi chúng ta tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không còn gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng rang, hay bảo là tâm không, hiện tiền; nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói chung, riêng cái nghiệp trí tuệ tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là nghiệp của trí tuệ thiện thuộc pháp hữu lậu.
Như kinh nghiệm ở trên cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng: Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm chúng ta trở nên rỗng rang không gì trói buộc, đó là một kinh nghiệm tâm linh có được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ, để từ đó cụ bắt đầu cho cuộc sống của chính mình qua:
“ … Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư …”
未 有 文 章 生 孽 障
不 容 塵 垢 雜 清 虛
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Chưa thấy văn chương sinh nghiệt chướng,
Không để bụi nhơ vấy rỗng trong.
Vì bụi nhơ chính là chướng nghiệp chúng có khả năng làm mờ đi bản tính rỗng rang thanh tịnh của chúng ta, và mặc khác chúng kéo chúng ta vào con đương sinh tử khổ đau. Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ với bụi nhơ bằng cách không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta và, lấy văn chương để tiêu khiển.
Vì chính văn chương không phải tự nó sinh ra chướng nghiệt, mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra những nghiệp chướng bằng vào thân-khẩu-ý làm công cụ cho ba độc tham lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn ngã chấppháp chấp tạo ra mọi thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là nghiệp và, khi nghiệp đã trừ đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong sáng, tinh thần nhẹ nhõm an lạc tự hiện ra:
“… Tam lan song hạ ngâm thinh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.”
三 蘭 窗 下 吟 聲 絕
點 點 精 神 遊 太 初
(ngọa bệnh I)**
Dịch:
Dưới cửa tam lan im bặt tiếng,
Tinh thần nhẹ nhõm dạo thái sơ.
Tức là chỉ cho trạng thái tinh thần lân lân nhẹ nhõm rỗng rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi mà mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị cắt đứt thì, tâm thần trở nên nhẹ nhàng thư thái lân lân, vì tâm lúc này không bị ràng buộc bỡi các duyên trói buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu cũng ảnh hưởng đế sự ràng buộc lệ thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong sáng vắng lặng. Đối với cụ Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên đối những cảnh sắc bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, cho dù đó là việc hoa nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay đâm chồi nẩy lộc, cũng không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động nữa:
"… Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như".
葉 落 花 開 眼 前 事
四 時 心 鏡 自 如 如
(Tạp thi II)*
Dịch:
Lá rụng hoa khai ngay trước mắt,
Cõi làng năm tháng vẫn không thay.
Tức là tấm lòng của cụ vẫn trong sáng rỗng rang như cái bản lai diện mục của nó từ nguyên thỉ chưa nhuốm bụi trần phiền não sinh tử vậy. Vì trong hiện tại cõi lòng cụ được như như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm mình vào thiền định. Có lẽ cụ đang tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có thể trụ vào nơi không có chỗ trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt tủy của bản kinh Kim Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung Quốc nói riêng cũng như Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nổ lực thực hành nó, cho nên tâm của cụ lúc nào cũng ở trong nghi tình thiền định này:
"… Mãn cảnh giai khônghữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền...”
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
(Đề Nhị Thanh Động)**
Dịch:
Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Tâm này thường định, chẳng lìa Thiền…”
Thời gian mà cụ bắt đầu có ý muốn xa lánh đời để xuống tóc ẩn tu là thời gian cuối những năm từ 1786-1795, lúc này cụ gần 30 tuổi và thời gian mà cụ sống không lìa thiền đã thể hiện ra trong bài thơ này là vào những năm 1802-1804 tức là khoảng 36 hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với đạo Phật là khá sớm và, việc cụ tự nói lên sự tu tập độc tụng kinh Kim Cương đến hàng nghìn lần không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở ngoặc một tí, vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình thức nào nhất định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bảnmục đích cuối cùng của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, để mọi người không tạo ra nghiệp khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập cũng có rất nhiều cách: độc, tụng, học hành, lễ bái hay làm bất cứ phương cách nào như chúng ta thường nghe là vô lượng pháp môn tu, ở bất cứ nơi đâu, ở chùa hay ở tại thế gian cũng có thể tu tập được hết, với mục đích là để làm cho ba nghiệp của thân-miệng-ý không tạo ra tác nhân nghiệp và, dành cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó, chứ không phải chỉ dành cho các vị xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một tỳ kheo ni mới gọi là tu theo đạo Phật, còn những người không mang hình thức này không phải là người của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp rất nhiều khi đọc những bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam, khi viết về Phật giáo. Có nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở chùa theo Phật mới gọi là những người tu theo đạo Phật còn những tại gia không ở chùa thì không phải là người của đạo Phật!.)
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn cho mình một phương pháp tu cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của chính cụ cho nên Thiền Công Án là một phương pháp Thiền Định làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý của cụ. Vì trong Thiền Công Án này có nhiều cách để huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham thoại đầu về nghi tình công Án này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng đi tụng lại cho đến lúc miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn mạnh, chỉ cần nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình sẽ bùng vỡ ngay, đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như vậy, với mục đíchhuân tập đọc đi đọc lai làm cho nghi tình càng ngày càng lớn hơn và, cho đến lúc nào đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ bùng vỡ, như trường hợp của cụ Nguyễn Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch Đài là duyên cuối cùng, là giọt nước cuối cùng cho nghi tình Kinh Kim Cương của cụ bùng vỡ. Có nhiều người nghĩ rằng đọc kinh không phải tu, nhưng đó là một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh cũng là một phương pháp cắt đứt hết mọi duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh và, việc định tâm vào bản kinh chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm vào kinh thì mọi duyên khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản kinh thôi. Lúc này thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc bằng miệng như tụng, chúng ta dùng mắt để độc và miệng thì giữ im lặng; như vậy thì ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta đang định vào trong kinh không tạo ra các nghiệp. Vậy là ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta ngay lúc đó không tạo ra nghiệp dữ rồi, đó là một cách tu trong muôn ngàn cách tu khác. Ở đây ai trong chúng ta bảo đọc không phải là tu đây!!!? Tu chỉ có một cái nghĩa đơn giản là sửa và, thiền định là một cách sửa tâm hay nhất đối với những người có căn cơ này. Việc lựa chọn kinh Kim Cương để cụ Nguyễn Du tu tập bằng cách đọc kinh là một trong muôn nghìn cách tu thiền định trong đạo Phật, với mục đích là để làm lắng động cái vọng tâm đang lăng xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ, mà cắt đứt dần mọi thứ tạp niệm của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác, miệng tạo tác. Lâu ngày chầy tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở nên trong sáng rỗng rang trở lại.
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống như nước giếng xưa vốn vắng lặng trong sạch không bị người khuấy động, trăng sáng chiếu soi thấy bóng rõ ràng, vì đó là bản chất vắng lặng của nước. Nếu khuấy động lên thì chúng sẽ đục, ánh trăng sáng sẽ không còn thấy được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy không dao động trước mọi duyên thì với bản chất trong sáng thanh tịnh của nó thì tự nó sẽ chiếu soi khắp cả và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua bà thơ ẩn dụ đạo ý:
"Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
明 月 照 古 井
井 水 無 波 濤
不 被 人 牽 捨
此 心 終 不 搖
縱 被 人 牽 捨
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 井 水
(Đạo Ý)**
Dịch:
Trăng sáng chiếu giếng xưa 
Nước giếng không gợn sóng 
Không bị người khuấy động 
Tâm này thật chẳng động 
Nếu bị người khuấy động 
Lay động rồi lại dừng 
Một cõi tâm lắng đọng 
Như trăng soi giếng xưa. 
Thật ra đó chỉ là một thí dụ, cụ đưa để ví dụ cho tâm con người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu được rằng tâm ta khi định một chỗ thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng trong vắng lặng cũng giống như nước giếng xưa nếu khuấy động làm cho nó đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết, còn nếu để nguyên không khuấy động thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh nghiệm được cụ rút ra từ cuộc sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ thường ngày chúng ta không thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của chúng ta, mà chỉ thấy hoàn toàn là những phiền não khổ đau làm cho chúng ta đau khổ; tâm vật lý này luôn vô thường, luôn tạo ra cho chúng ta những thứ phiền não khổ đau từ: xa lìa người thân, những vật mà mình đang sở hữu thuộc về của mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ, thù oán, hoặc những vật mà chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện trước chúng ta cũng tạo ra những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn thuộc về chúng ta (vât chất lẫn tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không được cũng làm cho chúng ta đau khổ; nói chung là mọi thay đổi trong cuộc sống bất như ý chúng ta là mang lại cho chúng ta những đau khổ. Chính những đau khổ này nó vấy đục tâm tư chúng ta, nó làm cho tâm tư chúng ta tối tăm u ám như nước giếng xưa đang trong lành bị chúng ta khuấy đục lên vậy, công dụng hiển thị sáng soi không còn nữa. Do đó chúng ta muốn tâm chúng ta trong lành sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh thần cho đến vật chất chúng ta chỉ cần không đắm nhiễm chạy theo nó để bị trói buộc bị khuấy dục lên thì đó chính là tâm vô sự, đó chính là Phật, là tâm không như cụ đã từng viết:
“… Phật bổn thị không bất trước vật…”
佛 本 是 空 不 著 物
(Phân kinh thạch đài)**
Phật vốn là Không, chẳng chấp vật.
Khi tâm chúng ta không chấp vào mọi sự vật chung quanh cuộc sồng từ tinh thần cho đến vật chất thì đó chính là Phật. Phật này bản thểtính không, tướng của Phật là không vì sự hiện hữu của sắc thân nên Phật do nhân duyên tích hợp mà tác thành, thân Phật này không có thực thể, nó chỉ là một giả hợp của Năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp của đất, nước gió, lửa (thuộc vật chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp của tinh thần (thuộc tâm). Vậy thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên hòa hợphiện hữu, nên sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh, vì Phật chỉ là một giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì tâm cũng không.
Vậy tâm chúng ta đục hay trong cũng từ nơi ta cả chứ không ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, cho nên cụ khuyên chúng ta nên:
"… Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…"
人 了 此 心 人 自 度
靈 山 只 在 汝 心 頭
(Phân kinh thạch đài)**
Dịch:
Người rõ tâm này, người tự độ,
Linh Sơn[11] chỉ ở nơi tâm ngươi
Vì thường thì chúng ta hay cầu Phật ở nơi bên ngoài chúng ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, rất nhiều người nổ lực tìm cầu Phật bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính mình nơi mỗi người, đó là một cái nhìn vô minh thiếu chánh kiến, nên lầm đường lạc lối cầu Phật bên ngoài. Theo cái nhìn thấu tâm đạt lý của cụ Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản tâm của mình rồi thì chính mỗi người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi vô minh mờ tối của chính mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong sáng của chính mình hiện hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào khác ngoài chúng ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyển Du mà không biết chữ Hán hay biết mà không đọc những tập thơ cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của cụ đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế nào mà viết về Nguyễn Du và Phật giáo thì, đương nhiên có những cái nhìn tưởng tượng lệch lạc về vấn đề này. Qua những điều chúng tôi trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo cụ không phải là người của Phật giáo? không phải là người tu theo Phật nào?! Những điều chính cụ viết ra không chịu hiểu không chịu đọc rồi ngồi đó tưởng tượng sai lầm rằng Nguyễn Du ảnh hưởng tâm học của người này người kia v.v… đem áp đặt lên người cụ, trong khi thơ cụ không có bất cứ chỗ nào đề cập đến chủ trương tâm học. Bỡi vì “Người rõ tâm này, người tự độ, Linh Sơn (chỗ Phật nói pháp) chỉ tại tâm ngươi” không phải là “tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta không nhận ra được tự tánh tâm mình, không nhận ra bản lai diện mục của chính mình là vì chúng ta tìm Phật bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp, từ nơi này đến nơi kia để tìm; nhưng rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì ngưởi chỉ đi tìm cái bóng của minh không thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi chính ta mà ta không biết, càng chạy đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê hương xứ sở nguyên sơ của chính mình chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên không thấy đó thôi:
"Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
年 年 秋 色 魂 如 許
人 在 他 鄉 不 自 知
(Giang Đầu Tản Bộ)**
Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy 
Vì mãi xa nhà không biết thôi. 
Tóm lại qua những bài thơ mà chúng tôi đã trích dẫn trong ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho chúng ta một cái nhìn đúng về nhà thơ đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo trong đời sống “bất ly Thiền” hằng ngày của cụ, là một nhà thơ vĩ đại không những là của Việt Nam ta không thôi, mà cụ còn là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế giới nữa. Cái vĩ đại của Cụ nhờ vào hai yếu tố thứ nhất bỡi một thứ trí tuệ nghiệp được huân tập di truyền từ nhiều kiếp trước cộng với cái trí tuệ nghiệp được huân tập từ kiếp này, từ cuộc sống qua đó Phật giáo là một tác động quan trọng đối cuộc sống của cụ, nhất là Thiền tông là một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ khám phá ra bộ mặt thật của chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ sáng tác ra những tác phẩm mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều và Văn Tế thập loại chúng sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ nhận thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự mình vương lên trong cuộc sống được:
“ … Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. …” (Kiều)
Với quan niệm mệnh trời như vậy thì chúng ta còn làm được gì, đành phải bó tay bó chân thôi!
“… Thôi đành nhắm mắt đưa chân. 
Thử xem con tạo xoay vần ra sao?...” (Kiều)
Đúng là với quan niệm như vậy nó làm cho con người trở nên yếu mền, nhu nhược. Đây mới là quan niệm làm cho con người bi quan yếm thế của Nho giáo đối với cuộc sống, chứ không phải quan niệm đời là khổ của Phật giáoquan niệm bi quan yếm thế như nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ là kết quả khổ, phát sinh từ nguyên nhân, chính con người của mỗi cá nhân mang đến kết quả đó mà thôi chứ đời không phải là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Vậy muốn quả khổ này mất đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra khổ thì đời tự nhiên hết khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi quan yếm thế như một số người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở đây với quan niệm mệnh Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao thì, đây mới chính là quan niệm làm cho con người trở nên bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc sống. Nhưng đó là quan niệm mệnh trời của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền đề và, tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự tác tự thọ, của Phật giáo qua nhân quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người làm thì tự con người nhận lấy cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của mệnh Trời kia. Thật sự nếu có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một cán cân mà thôi:
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. …”(Kiều)
Như vậy thì Trời đâu có thiên vị và làm theo ý Trời được, mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo ra mà theo đó mới bắt người chịu những kết quả tương ứng với những tác nhân trước đó của họ. Vậy thì mệnh Trời đã bị con người tước đoạt rồi, vì Trời nếu có, bây giờ chỉ làm một cán cân, cân gúp cho con người trong việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế nào thôi. Vì vấn đề nặng nhẹ có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con người đại diện cho chữ tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng như nhau trên mặt lý tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết luận cho bài viết này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ hai, bài kế tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
……………………………….
* Bài này trích một phần từ bài viết:
- Nguyễn Du “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
**Sách tham khảo
- Tổng tập Văn Học Việt Nam tập 13, 14.
- Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973.
- Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
- Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính, NXB Văn hoá thông tin.
Chú Thích:
[1] 以心傳心。不立文字(Đ.T. 48, trang 03713b13 Huyết mạch luận, Thiếu thất lục môn).
[2] 為說金剛經。至應無所住而生其心。惠能言下大悟 Đ.T. 48, Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
[3] Đ. 48, Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm hành do trang 0349a
[4] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 650 phần chú thích.
[5] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 649.
[6] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập 14,) trang 622.
[7] Tử ở đây mang ý nghĩa sống chết trong từng sát-na một. Chỉ cho sự sống chết thay đổi nhau của những tế bào để tạo nên sự tiến hóa, kể cả tâm lý thay đổi. Sự thay đổi này chính là sự sống chết thay nhau trong từng giây từng khắc. Nếu không có sự thay đổi này thì con người sinh ra lúc nào cũng vẫn là một giọt máu, không có những hiện tượng trẻ lên ba, trẻ lên mười, để trở thành thiếu niên, thanh niên và cuối cùng già yếu và chết đi. Ở đây nói đến tính hiện hữu của Duyên khởi tánh không của cuộc sống.
[8] Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973. trang 170
[9] Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
[10] Đ. 17, No. 0842, Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la liễu nghĩa, trang: 0915c22 (HT. Thích Thiện Hoa dịch.)
[11] Linh Sơn: gọi cho đủ là Linh Thứu sơn, là chỉ cho núi Linh Thứu nơi đức Đạo sư nói pháp độ sinh khi Ngài còn tại thế. Có hai thời kỳ đức Đạo sư nói pháp ở nơi đây: Một, thời kỳ đức Đạo sư thuyết Kinh Pháp Hoa. Hai, thời đức Đạo sư phó pháp cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp (theo Thiền tông) “Dĩ tâm truyền tâm”.

Về thăm quê hương thi hào Nguyễn Du

NGUYỄN TOẠI - Ảnh: NGUYỄN NGỌC VIÊN, ĐÔNG HOÀNG/DNSGCT 28/2/2014

Từ thành phố Vinh chúng tôi theo quốc lộ 1A qua cầu Bến Thủy để đến với huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Về thăm quê hương thi hào Nguyễn Du
Từ thành phố Vinh chúng tôi theo quốc lộ 1A qua cầu Bến Thủy để đến với huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Vùng đất Nghi Xuân vốn nổi tiếng với những dòng họ khoa bảng nổi danh trong lịch sử Việt Nam. Đúng như câu “Địa linh nhân kiệt”, phong cảnh làng quê nằm dưới chân 99 ngọn núi Hồng quả là rất đẹp. Làng (nay được gọi là xã) Tiên Điền, quê hương cụ Nguyễn Du nằm ngay giữa trung tâm huyện. Phía tây làng là sông Lam chảy ra Cửa Hội.
Đường làng Tiên Điền ngày nay
Vì phía đông làng Tiên Điền giáp với các làng nằm bên bờ biển Nam Hải nên Tiên Điền cũng được coi là làng duyên hải. Bờ biển Hà Tĩnh có những dải cát vàng do biển cả và sông dài bồi đắp thành từng doi rộng, trập trùng liên tiếp như những vệt lớn song song, xếp hàng chạy theo vệt sóng. Những đồi cát dài như thế nhờ gió thổi, sóng dồn cứ nhấp nhô cao thấp tạo thành cồn.
Buổi chiều, cảnh ánh tà dương nhuộm thắm những cồn cát trông thật đẹp. Phong cảnh này được cho là nguồn cảm hứng cho câu thơCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia như cách Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều.
Đồng ruộng Tiên Điền
Nhà ở của Nguyễn Du hướng mặt về dãy Hồng Lĩnh xanh biếc. Thời gian về quê ở ẩn, thi hào đã sống rất chan hòa với dân làng. Cùng những người thợ làm tơi nón, Nguyễn Du lên núi hái vọt, hái lá nón, hay chẻ tre vót vành nón, khâu nón thâu đêm suốt sáng.
Để mưu sinh, ông từng làm ngư phủ, theo vạn chài ra sông Lam, xuống biển đánh bắt tôm cá hoặc mang cung kiếm theo phường săn lên núi săn muông thú. Chính quãng thời gian này đã mang lại cho ông những trải nghiệm và cảm xúc để viết Văn tế thập loại chúng sinh bất hủ.
Khu lưu niệm Nguyễn Du mới được xây dựng
Đường vào làng Tiên Điền hiện nay đã được trải nhựa. Bên đường, xen kẽ với những nếp nhà mới xây tươi màu là nhiều di tích, nhà thờ hay bia mộ đã bạc màu của những bậc danh nhân, quan cách xưa. Một cụ già trong làng cho biết trước đây hai bên đường làng dày đặc bia đá cổ, nay đã bị thất lạc hoặc hư hại nhiều.
Khu di tích Nguyễn Du là quần thể các di tích dòng họ trải dài trên địa bàn toàn xã. Trong hơn 400 năm sống ở làng, dòng họ Nguyễn đã xây dựng một số đền chùa, văn bia, cầu cống, đình… nhưng đến nay, đa số đã trở thành phế tích.
Đền thờ tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ Nguyễn Du
Năm 1965, tỉnh Hà Tĩnh đã tiến hành bảo vệ một số di tích còn lại và sau này xây dựng khu lưu niệm Nguyễn Du khá bề thế. Trong đó, nhà trưng bày là một ngôi đình kiến trúc gỗ có niên đại cuối thế kỷ XVIII được chuyển từ huyện khác về đây để làm nơi trưng bày hình ảnh, hiện vật liên quan đến cuộc đời Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền.
Hiện nay, nơi đây có gần một ngàn tài liệu, hiện vật, tiêu biểu như nghiên bút của Nguyễn Du, bản Kiều in từ bản khắc năm 1866, bộ sưu tập Truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng, bộ sưu tập sách viết về Nguyễn Du…
Bên trong đền thờ Nguyễn Nghiễm
Cách khu lưu niệm Nguyễn Du vài trăm mét là đền thờ tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào. Đền thờ quy mô vừa phải nhưng kiến trúc thanh thoát và mỹ thuật, trước cổng có cặp voi đá và ngựa đá.
Tiếc là do thiếu sự chăm sóc nên công trình này trông khá xuống cấp. Điều này cũng tương tự với hầu hết di tích trong làng. Vườn Nguyễn Du ngoài cây muỗm cổ thụ 300 tuổi cũng không có cây cối gì đặc sắc.
Một gian nhà cổ trong làng
Về thăm quê hương của đại thi hào mà mình rất mực yêu mến, chúng tôi không khỏi xúc động trước những di tích gắn liền với nhiều câu thơ đã đi vào tâm hồn của hầu hết người Việt. Thế nhưng bên cạnh đó, một cảm giác tiếc nuối vẫn cứ đeo đuổi mỗi người.
Tiên Điền đẹp, lắm di tích nhưng sự quy hoạch tổng thể và chăm sóc, đầu tư đến nơi đến chốn vẫn chưa có. Ngôi làng khoa bảng này cũng rất giàu vốn liếng văn nghệ dân gian với các điệu hát ví, hát dặm, hát đò đưa, các hình thức diễn xướng dựa trên Truyện Kiều nhưng chẳng được mấy du khách biết đến.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH