Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 222
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Giải Mật Chuyên Án Tóm Gọn Hàng Trăm Gián Điệp Của VNCH Cài Vào Quân Ta
Giải mật chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở Miền Bắc
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, với âm mưu "đánh Cộng sản
trong lòng Cộng sản", Cơ quan Tình báo Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã
tung ra miền Bắc hàng trăm tên gián điệp, biệt kích. Tất cả số này đều
bị ta tiêu diệt hoặc bắt sống.
Không những thế, lực lượng Công an nhân dân (CAND) còn thực hiện
thành công chiến thuật "dùng người của địch, phương tiện của địch để
đánh lại địch".
Chuyên án BK63 là một chiến công tiêu biểu của cuộc đấu tranh bí mật
này. Trong suốt 10 năm (1961- 1970), lực lượng an ninh đã dùng chính
gián điệp mà CIA đánh ra Bắc để câu nhử CIA đưa phương tiện và nhiều
toán biệt kích ra Bắc theo ý đồ của ta. Được sự giúp đỡ của Cục Chính
trị Tổng cục An ninh, phóng viên Chuyên đề ANTG đã tiếp cận khá đầy đủ
hồ sơ chuyên án. Loạt bài tư liệu này sẽ dựng lại phần nào cuộc đấu trí
suốt 10 năm của các cán bộ an ninh với trung tâm CIA… Kỳ I: Chiếc thuyền lạ trên bãi biển và cuộc truy lùng "người trở về" 1. Một buổi sáng đầu tháng 4/1961, cũng như bao buổi
sáng khác, ông Ngột, một ngư dân ở thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Yên
Hưng, tỉnh Hồng Quảng (nay là Quảng Ninh) cùng một bạn chài từ trong
làng ra bến thuyền để đi biển. Nhưng khi qua đầm Thùa (thôn La Khê), hai
người bất ngờ thấy có một chiếc thuyền nan có kiểu dáng rất lạ, không
giống như của ngư dân vùng Hồng Quảng đang sử dụng.
Tò mò, hai người đến xem thì thấy trong thuyền có hai chiếc bơi chèo,
một chiếc giỏ đan bằng mây để đựng cá, một cần câu, một ống câu. Thấy
những vật này bỏ trong chiếc thuyền vô chủ, ông Ngột đã lấy mang về nhà,
còn chiếc thuyền thì mang để ở bến thuyền với ý định sẽ dùng chung.
Nhưng sáng hôm sau, khi ra bến thì không thấy chiếc thuyền đâu nữa.
Chuyện chiếc thuyền lạ lập tức được báo cho Cơ quan Công an. Công an
huyện Yên Hưng sau đó cử cán bộ đi xác minh đã tìm thấy chiếc thuyền lạ
này ở một xã khác cách xã Tiền An 2km. Người chủ của chiếc thuyền trình
bày rằng anh ta mua lại của một gia đình thuyền chài.
Đúng lúc chuyện chiếc thuyền lạ bỗng nhiên dạt vào bờ còn chưa hết
xôn xao thì mấy hôm sau, anh Phạm Văn Hán, ở xã Tiền An lên báo với Công
an xã rằng mẹ anh là bà Trới, chiều ngày 9/4 khi lên núi Đầm Thùa lấy
củi thì bất ngờ thấy ở gần nhà Phạm Ốc có một người đàn ông lạ ngồi
trong bụi rậm, xung quanh có rất nhiều quần áo. Khi thấy bà, người này
úp mặt trên đầu gối như che mặt rồi gừ lên một tiếng nghe sởn tóc gáy,
tưởng ma, bà vứt cả dao lẫn củi bỏ chạy về nhà. Khi Công an huyện cử cán bộ đến
gặp bà Trới để hỏi chuyện này thì bà nói rằng không có gì cả, người ngồi
trong bụi rậm hôm ấy là Phạm Ốc, hôm đó đi lấy dây rừng về buộc chuồng
lợn, thấy bà đi một mình nên định trêu bà thôi. Sau đó Ốc đã đến nhà xin
lỗi vì làm bà sợ.
Tuy nhiên, với các cán bộ an ninh, xâu chuỗi những thông tin lại đã
khiến họ đặt một nghi vấn lớn hơn, bởi Phạm Ốc có một người anh ruột là
Phạm Chuyên vốn là một phần tử chống đối ở địa phương nhưng hai năm
trước đã bỏ trốn đi Nam.
Theo hồ sơ lưu tại Cơ quan Công an thì Phạm Chuyên sinh năm 1922,
thời Pháp thuộc đi lính khố xanh và được đi học về điện đài. Sau Cách
mạng Tháng Tám, Chuyên tham gia Cách mạng và được kết nạp vào Đảng và có
một thời gian làm ở Ty Công an Quảng Yên. Tháng 10/1947, Chuyên bị Pháp
bắt, sau được tha và làm thư ký hội đồng ở thị xã Hồng Gai. Tháng
5-1948, Chuyên bỏ về quê, sau đó chạy vào căn cứ địa cách mạng ở huyện
Hoành Bồ và được kết nạp Đảng lại.
Cuối năm 1948, Chuyên được phân công phụ trách 3 xã ở huyện Yên Hưng;
đầu năm 1949, Chuyên được điều về làm ở Ban Thi đua tỉnh; đầu năm 1950
chuyển sang làm ở Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Yên. Năm 1953, khi được cử đi
học trường Đảng, Chuyên bị tố hủ hóa sau đó đã cùng tình nhân bỏ vào
vùng địch nên lại bị khai trừ Đảng. Sau hòa bình, dù được bố trí công
tác trong một cơ quan, nhưng cuối năm 1957, Chuyên bất mãn, nên bỏ cơ
quan về và gọi cả em trai là Phạm Ốc lúc đó đang học y sĩ bỏ học về
nhà.
Về quê, sẵn tư tưởng bất mãn nên Chuyên sáng tác ca dao, hò vè đả
kích, khích động quần chúng đấu tranh. Tháng 6/1959, sau khi bị Tòa án
nhân dân huyện Yên Hưng gọi lên xét hỏi về hành động chống đối chính
quyền, khi được cho về viết kiểm điểm, Chuyên đã bỏ trốn đi Nam. Thời
gian sau đó, có bưu thiếp của Chuyên gửi về báo tin Chuyên làm ăn phát
đạt.
Một loạt câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Phạm Chuyên đã quay về?
Người ngồi trong bụi rậm chính là hắn? Việc Phạm Ốc tự nhận là người ở
bụi cây dọa bà Trới là một trò đánh lạc hướng điều tra của công an và để
dập tắt mọi sự nghi ngờ?
Một báo cáo khẩn cấp của Công an Hồng Quảng gửi về Bộ Công an. Sau
khi nhận được chỉ thị của Bộ, một đội trinh sát tinh nhuệ bí mật triển
khai bám sát những thành viên trong gia đình Phạm Ốc và theo dõi những
biến động khả nghi ở vùng lân cận.
Đêm 6/6/1961, phát hiện Phạm Đắc, em ruột Phạm Chuyên, xách một túi
vải đi về thị xã Quảng Yên với nhiều dấu hiệu nghi vấn, tổ công tác
quyết định bắt Phạm Đắc đưa về Đồn Công an Quảng Yên. Tại đây, khi khám
xét chiếc túi đã thu giữ một máy phát tin, một gói cơm nếp và một số
thực phẩm. Đấu tranh ngay trong đêm, Đắc khai chiếc máy này là của Phạm
Chuyên, chiếc thuyền nan mà người dân xã Tiền An phát hiện thấy ở bờ
biển chính là thuyền của Chuyên.
Kế hoạch vây bắt Phạm Chuyên được vạch ra. Khuya 11/6/1961, đồng chí
Nguyễn Minh, Trưởng Ty Công an Hồng Quảng đã chỉ huy tổ trinh sát đặc
nhiệm bí mật bắt Phạm Chuyên ngay tại nhà. Khám nhà, công an thu được 19
bộ lốc mã giấu trong cót thóc. Mở rộng diện đấu tranh, ta thu được trọn
bộ điện đài vô tuyến điện gồm một máy thu, một máy phát và một máy phát
điện quay tay.
Từng làm công an và lại được CIA đào tạo bài bản nên những ngày đầu
bị bắt, Phạm Chuyên kiên quyết không khai và giở nhiều thủ đoạn để đối
phó với cán bộ điều tra. Sau khi nhận báo cáo của Công an Hồng Quảng,
đồng chí Nguyễn Tài, lúc đó là Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị (đồng chí
Nguyễn Tài sau này là Thứ trưởng Bộ Công an, rồi chuyển sang làm Tổng
cục trưởng Tổng cục Hải quan), trực tiếp xuống Hồng Quảng.
Sau những cuộc trò chuyện với Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài nhận
ra một điều Phạm Chuyên là kẻ tráo trở nhưng lại rất thương mẹ, thương
em, vì vậy cùng với việc thuyết phục Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài
cũng chỉ đạo phải làm tốt chính sách với với gia đình Phạm Chuyên. Vì
vậy mà sau vài lần nói chuyện với Cục trưởng Nguyễn Tài, cùng với sự tác
động của các cán bộ an ninh, Phạm Chuyên mới khai lại toàn bộ.
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng gửi Bộ Công an về việc bắt Phạm Chuyên.
2. Trong bản báo cáo ngày 5/7/1961 có đóng dấu "tối mật" của Sở
Công an khu Hồng Quảng đã trình bày lại toàn bộ quá trình trốn vào Nam
của Phạm Chuyên như sau:
Ngày 25/6/1959, sau khi được Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng cho về viết kiểm thảo, Phạm Chuyên quyết định bỏ trốn.
Ban đầu Chuyên lên Hà Nội rồi mua vé xe khách đi vào Vinh. Từ Vinh,
Chuyên đi theo đường số 8 lên biên giới rồi vượt biên sang Lào. Sang
Lào, sau khi được tiếp nhận, Chuyên được đưa về Savanakhet để thẩm vấn.
Sau 9 tháng ở Lào và qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên được đưa về trung
tâm tiếp đón đồng bào vượt tuyến ở Sài Gòn. Tháng 5/1960, sau khi trải
qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên đề đạt nguyện vọng được có một việc làm
để sinh sống, khi nào cần sẽ tình nguyện về miền Bắc làm việc, nếu không
xin cứ cho nằm lại ở trung tâm.
Công việc mà Chuyên được Sở Nghiên cứu chính trị giao cho làm sau đó
là đi nói chuyện ở một số địa phương với nội dung xuyên tạc về chính
sách thuế nông nghiệp, hợp tác xã ở miền Bắc.
Sau vài tháng đi nói chuyện, một ngày đầu tháng 9/1960, một người tên
là Phan đến gặp Chuyên. Phan giới thiệu là nhân viên của Sở Nghiên cứu
chính trị thuộc Phủ Tổng thống (thực chất là cơ quan tình báo, phản gián
chiến lược của chính quyền VNCH được thành lập năm 1956 do Trần Kim
Tuyến làm giám đốc. Sở này có nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tình báo
chiến lược về mọi mặt; tổ chức, chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc
Việt, bảo vệ an ninh nội bộ…). Câu chuyện của Phan vẫn chỉ xoay
quanh việc Chuyên vượt tuyến, việc Chuyên từng học điện đài thời Pháp
thuộc. Cuối cùng, Phan mới lật bài ngửa với Chuyên khi hỏi thẳng có dám
mạo hiểm trở lại miền Bắc không. Sau khi Chuyên đồng ý, Phan hẹn lần sau
sẽ gặp để bàn tiếp công việc.
Vài ngày sau, Phan lại tới và yêu cầu Chuyên tự viết bản kế hoạch
hoạt động khi quay trở lại miền Bắc. Chuyên lập tức viết một bản kế
hoạch, trình bày chi tiết từ kế hoạch vượt tuyến trở lại miền Bắc, tới
phương pháp gây dựng cơ sở khi ra Bắc, cách thức lãnh đạo đấu tranh,
phương tiện liên lạc để cung cấp tin cho trung tâm ở Sài Gòn và cả dự
trù kinh phí hoạt động… Cầm bản kế hoạch này, Phan ra về và hẹn sẽ gặp
lại sau khi nghiên cứu.
Một buổi chiều giữa tháng 9/1960, Phan quay trở lại gặp Chuyên và đưa
Chuyên đến khách sạn Majestic để gặp một người Mỹ. Người Mỹ này lại hỏi
Chuyên những câu hỏi mà Phan đã hỏi nhiều lần; gã người Mỹ còn hỏi
Chuyên về ấn tượng với chính thể miền Nam rồi sau đó câu chuyện kết
thúc. Một tuần sau, Phan lại đưa Chuyên đến gặp gã người Mỹ nhưng địa
điểm là ngôi biệt thự trên một con phố. Gã người Mỹ lại đặt những câu
hỏi trắc nghiệm tâm lý. Khi kết thúc, gã nói với Chuyên rằng "cán bộ của
chính phủ sẽ gặp ông nữa. Riêng tôi, chúc ông thành công". 3. Đó là nội dung Phạm Chuyên khai vào tháng 6/1961.
Mấy chục năm sau, trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng
đặc biệt Quân đội VNCH" của dịch giả, giáo sư Vũ Đình Hiếu (Giáo sư Vũ
Đình Hiếu là một cựu biệt kích quân đội VNCH, sang Mỹ năm 1975, đi học
trở lại, sau này trở thành giáo sư chuyên ngành Công nghệ thông tin,
từng giảng dạy các trường đại học ở bang Texas - (Mỹ), căn cứ vào những
tài liệu đã giải mã của Lầu Năm Góc cũng đề cập tới việc CIA và tình báo
VNCH tuyển chọn Phạm Chuyên, trong đó có nhắc tới 2 người đã thẩm vấn
và đào tạo Chuyên, đó là Trung úy Đỗ Văn Tiên, nhân viên của Phòng 45 và
Edward Reagan, nhân viên CIA.
Phòng 45 là mật danh của Phòng Bắc Việt, trực thuộc Phòng Liên lạc
Phủ Tổng thống VNCH, thực chất là một đơn vị tình báo do CIA lập ra vào
cuối năm 1958 gồm 12 sĩ quan người Việt cấp bậc từ thiếu úy đến trung
úy. Tất cả những người này đều do CIA tuyển chọn và đào tạo về nghiệp vụ
tình báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình
báo.
"Phòng 45 lập kế hoạch 5 năm để xâm nhập vào vùng hậu phương mà đối
phương kiểm soát rất chặt chẽ. Lần này Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống
giao trách nhiệm cho Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) phái một
điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích
hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng
Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam.
Thoạt đầu Phạm Chuyên từ chối, mặc dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho
đàn em theo dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Trung úy Tiên (Francois) buộc
phải cộng tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết
phục Chuyên. Sau hơn 6 tháng CIA trổ tài, Phạm Chuyên nhận lời. Anh ta
được đưa ra Nha Trang để làm kỳ trắc nghiệm tâm lý. Chuyên đạt điểm xuất
sắc trong kỳ trắc nghiệm.
Sau đó, Chuyên còn phải trải qua hai kỳ khảo nghiệm nữa, một ở Sài
Gòn và một ở Nha Trang. Tiếp theo CIA huấn luyện cho Chuyên 6 tháng về
kỹ năng truyền tin. Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì
Trung úy Tiên và Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm
nhập miền Bắc…".
Nhưng, đây là chuyện của mấy chục năm sau, khi các hồ sơ đã được giải
mật. Còn vào thời điểm năm 1961 thì CIA vẫn chắc mẩm rằng đã thành
công khi đưa được Phạm Chuyên trở lại miền Bắc an toàn… (Còn tiếp)
Theo An Ninh Thế Giới
Điệp viên Ares và hành trình trở lại miền Bắc Việt Nam
Sáng sớm ngày 5/4/1961, tại một bến tàu ở Đà Nẵng, một chiếc tàu hình
dáng như tàu đánh cá trọng tải khoảng 40 tấn chở theo một chiếc xuồng
cao su và một chiếc thuyền nan nhỏ lặng lẽ rời bến. Ra khỏi cửa biển Đà
Nẵng, chiếc tàu nhằm thẳng hướng Tây - Bắc.
Sau điệp viên Ares, nhiều toán biệt kích bị bắt ngay sau khi đặt chân xuống miền Bắc.
Trên tàu, ngoài thuyền trưởng và mấy thủy thủ, có một người khách nói
giọng Bắc. Các thủy thủ chỉ được thuyền trưởng thông báo đó là một cán
bộ của Trung ương đi công tác đặc biệt và là người chỉ huy chung trên
suốt hành trình. "Cán bộ Trung ương" ấy không ai khác chính là Phạm
Chuyên.
Chạy mải miết suốt 3 ngày, tới 4 giờ chiều 7/4, khi đã ở vùng biển
Vịnh Bắc Bộ, thấy phía trước mặt lờ mờ nhiều dãy núi đá, thuyền trưởng
cho tàu dừng lại, nấu cơm ăn và nắm cho Chuyên một nắm to.
Khi bữa cơm chiều kết thúc đã là 6 giờ 30 phút. Cuối xuân nên trời
tối rất nhanh, thuyền trưởng cho tàu nhổ neo nhằm thẳng hướng có dãy núi
đá chạy vào bờ. Sau hơn 3 giờ, tàu đã đi vào khu vực Hồng Gai. Khi chạy
qua luồng Cửa Dứa, đến gần một quả núi cao, Quân, gã lái tàu vốn là một
ngư dân trước khi vượt tuyến vào Nam đã có thâm niên đi biển ở khu vực
Quảng Ninh - Hải Phòng 20 năm nên rất thành thạo luồng lạch, khẳng định
là núi cột cờ, Quân cho tàu dừng lại, thuyền trưởng lệnh cho nhóm thủy
thủ hạ chiếc thuyền nan và chiếc xuồng cao su xuống nước.
Sau hơn nửa tiếng chuẩn bị, đưa máy truyền tin và hành lý của Chuyên
lên thuyền nan, buộc chiếc thuyền nan vào phía sau xuồng cao su, Chuyên
ngồi lên chiếc thuyền nan, Quân lái chiếc xuồng cao su chạy về phía hang
Đầu Gỗ rồi rẽ sang ghềnh Si.
2 giờ sáng ngày 8/4, đến ghềnh Si, Quân lái xuồng cao su quay lại
tàu, Chuyên bơi thuyền nan theo kênh tiến vào núi đất. Vì nước xuống rất
mạnh, lại chèo ngược dòng nên đến gần sáng, Chuyên mới vào được bờ. Vội
vã vác hai chiếc máy truyền tin cùng tư trang lên giấu ở rừng sú,
Chuyên kéo chiếc thuyền vào một lạch nhỏ giữa rừng sú và trốn trong rừng
cả ngày. Vậy là sau 22 tháng bỏ trốn vào Nam, Phạm Chuyên đã trở lại
quê hương nhưng với một vai trò khác, điệp viên của CIA với mật danh
Ares. 2. Để chuẩn bị cho chuyến trở về này của Chuyên,
trước đó gần một năm, Phan (tức trung úy Đỗ Văn Tiên (biệt danh
Francois), nhân viên Phòng 45) và nhân viên CIA Edward Reagan đã chuẩn
bị rất kỹ lưỡng.
Đầu tháng 10-1960, sau khi vượt qua các vòng thẩm vấn, Phan đưa
Chuyên đến một căn phòng trên tầng 5 ngôi nhà số 13 đường Kỳ Đồng. Tại
đây, Phan thông báo với Chuyên rằng Tổng bộ đồng ý tuyển dụng, từ hôm
nay Chuyên sẽ phải trải qua một khóa đào tạo. Thời gian học, Chuyên được
hưởng lương 3.000 đồng tiền miền Nam/ tháng. Sau thời gian học, lương
sẽ tăng lên 5.000 đồng/ tháng.
Ngay ngày hôm sau, Phan bắt đầu công việc huấn luyện Chuyên bằng cách
đưa cho một tập tài liệu về phương pháp công tác yêu cầu đọc kỹ, sau đó
có gì thắc mắc thì hỏi lại và cùng thảo luận. Nội dung tài liệu này là
hướng dẫn các phương pháp hoạt động gián điệp gồm: công tác bí mật;
hướng phát triển cơ sở; tuyên truyền - điều tra - phân tích, chia loại;
lãnh đạo đấu tranh; liên lạc báo cáo… Thời gian đọc và thảo luận tài
liệu này trong 1 tuần.
Sau một tuần học về phương pháp công tác, Phan đưa một người nữa,
giới thiệu tên là Tý, nhân viên điện đài đến hướng dẫn Chuyên về cách
truyền tin bằng vô tuyến điện. Giữa tháng 1/1961, khi đã thành thạo việc
phát tin, Chuyên được chuyển đến một ngôi nhà ở đường Nguyễn Biểu để
thực tập. Thời kỳ đầu tập liên lạc với Đài P8M ở ngay Sài Gòn, sau đó
chuyển sang liên lạc với một đài ở xa hơn. Sau gần một tháng thực tập,
khi đã thành thục, Chuyên phải trải qua một cuộc kiểm tra. Kết thúc khóa
học này, tên đài của Chuyên được trung tâm đặt là ARES; bí danh của
Chuyên là "Hạ Long". Khi liên lạc, trung tâm sẽ xưng hô là "Tổng bộ".
Phan còn hướng dẫn Chuyên trong trường hợp không liên lạc được qua
điện đài thì sẽ dùng thư, bưu thiếp để báo cáo tình hình. Tất cả thư,
bưu thiếp đều dùng danh nghĩa hai em trai của Chuyên là Phạm Ốc và Phạm
Đắc gửi cho Chuyên qua một người khác làm trạm trung gian. Bưu thiếp sẽ
gửi tới 2 địa chỉ: Phạm Kỷ, số 186 ấp Tây 3, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình
- Gia Định và Phạm Thị My, học sinh đệ nhất Trường Lê Quý Đôn, số 216
Phan Đình Phùng - Sài Gòn. Thư chỉ gửi cho bà Kraemer Jean ở Pháp.
Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, giữa tháng 2/1961, Phan quay lại gặp
Chuyên để tiếp tục huấn luyện về chính trị. Kết thúc khóa học, Phan đưa
Chuyên ra Nha Trang nghỉ mát nửa tháng. Trong nửa tháng ở Nha Trang,
Phan tiếp tục đưa bản kế hoạch công tác khi trở ra Bắc của Chuyên viết
trước đó để thảo luận, đặc biệt là cách nói dối thế nào cho hợp lý nếu
sau khi ra Bắc mà bị bắt và Công an miền Bắc không thu được tài liệu. Cả
hai thống nhất trong hoàn cảnh này Chuyên sẽ khai do vào Nam không được
thu dung vì bị nghi vấn nên quyết định vượt tuyến quay về đầu thú, chưa
kịp ra trình diện thì đã bị bắt.
Nhưng khi bàn đến phương án nếu bị bắt mà Công an thu được cả máy
móc, tài liệu thì cả hai không tìm được tiếng nói chung, Phan nói rằng
trong hoàn cảnh ấy Chuyên "tùy cơ ứng biến" nhưng tuyệt đối không được
nhận là "cán bộ chính trị miền Nam cử ra Bắc" vì như vậy sẽ là vi phạm
Hiệp định Geneve. Sau đó, Phan đưa Chuyên ra Đà Nẵng nhận tàu.
Nhiệm vụ mà Chuyên được giao trong lần quay trở lại miền Bắc là: tổ
chức cơ sở quần chúng; tổ chức một khu căn cứ chuẩn bị cho hoạt động vũ
trang; tổ chức cơ sở vùng biên để làm cơ sở đón tiếp tế về người, vũ
khí, hàng hóa lương thực từ miền Nam ra; cập nhật và báo cáo tin tức về
các mặt quân sự, chính trị, kinh tế ở vùng hoạt động.
Phan bàn rất kỹ với Chuyên về đối tượng tiếp cận để gây dựng lực
lượng, theo đó, ngoài dân chài, thì phải đặc biệt chú ý tới cán bộ xã,
đoàn viên thanh niên. Khi đã có lực lượng, giai đoạn đầu tùy theo tình
hình phát triển của cơ sở và dựa vào chính sách, hướng dẫn quần chúng
tham gia đấu tranh hợp pháp với những bất hợp lý trong việc thực hiện
chính sách dân công, hợp tác xã… Việc chuyển hình thức đấu tranh tùy
theo sự phát triển của cơ sở và theo sự chỉ đạo từ trung tâm, dứt khoát
không được tự động làm khi chưa có lệnh.
Theo kế hoạch Phan đưa ra, sau khoảng 1 đến 2 năm, khi Chuyên đã gây
dựng được cơ sở vững và guồng máy hoạt động tốt, trung tâm sẽ cử người
ra hoặc Chuyên chỉ định người mà mình đã tuyển để thay thế, Chuyên sẽ
trở lại miền Nam. Trong trường hợp bị lộ, Chuyên báo cáo để trung tâm tổ
chức đón. Trường hợp khẩn cấp, có thể bị bắt thì Chuyên rút vào rừng
trốn, chờ trung tâm tổ chức cho tàu ra đón bằng đường biển…
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng về việc khai thác Phạm Chuyên sau gần hai tháng bắt giữ.
3. Sở dĩ Phạm Chuyên được đào tạo kỹ lưỡng như vậy
vì Ares là điệp viên đầu tiên do CIA đào tạo để đánh ra miền Bắc. CIA kỳ
vọng nếu Ares xâm nhập và hoạt động được ở miền Bắc sẽ là cơ sở để tiếp
tục đưa điệp viên và các toán biệt kích ra Bắc.
Sau này, trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc
biệt Quân đội VNCH" của dịch giả Vũ Đình Hiếu cũng viết rằng để chuẩn bị
cho việc đưa Phạm Chuyên xâm nhập miền Bắc, trong khi Chuyên được huấn
luyện các kỹ năng thì trung úy Tiên và Edward Reagan bận rộn phác thảo
kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc.
"CIA cho rằng việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là
rất hợp lý. Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà
Nẵng tìm địa điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao
quanh làm mật cứ. Mọi động thái cũng như đường đi, nước bước của họ từ
đó về sau có mật hiệu là Pacific.
Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch
ngắn hạn: thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo Vĩ tuyến 17 để
thăm dò. Nhân vật được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo
Công giáo, quê ở Hà Tĩnh, tên là Vũ Công Hồng. Anh ta được huấn luyện
cấp tốc và đưa ra sống ở Huế trong một căn nhà được bảo vệ rất nghiêm
mật. Vũ Công Hồng (mang mật danh là Hirondelle) đã sẵn sàng lên đường.
Thiếu tá Trần Khắc Kính nhân vật thứ hai của Phòng Liên lạc Phủ Tổng
thống chỉ đạo mọi hoạt động xuất phát từ Huế, với mật danh là Atlantic
(…). Vài tuần sau, Hồng trở về căn cứ an toàn. Mặc dù Hồng chỉ cung cấp
một ít thông tin về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt,
nhưng cũng đủ làm cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi. Sau chuyến
đi của Hồng hai tháng, Chuyên đã sẵn sàng lên đường, với hành trang là
kiến thức của một năm được huấn luyện.
Đầu tháng 4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành
trình 2 ngày về phía Bắc. Không may cho Chuyên do gặp phải thời tiết
xấu, chiếc Nautilus 1 đành quay trở về nơi xuất phát. Vài hôm sau thời
tiết đẹp trở lại, Chuyên tiếp tục lên đường. Cả Tiên và Reagan đều ra
bến tàu tiễn đưa Chuyên. Sau này Tiên nhớ lại là khi chia tay với
Chuyên, anh ta đã chúc Chuyên may mắn nhưng Chuyên không nói nửa lời". 4. Sau một ngày trốn trong trong rừng sú, đêm 8/4,
sau khi chôn giấu máy truyền tin, Chuyên lẩn về nằm ở trong vườn nhà
mình nhưng không dám vào nhà vì sợ em dâu, là vợ Phạm Ốc, và vợ con mình
biết sẽ bị lộ. Sáng hôm sau, khi thấy Ốc đi làm, Chuyên mới gọi Ốc. Tối
hôm đó, Chuyên gặp mẹ và hai em trai là Ốc và Đắc. Sau mấy ngày trốn
trong nhà, khi nghe thông tin có người đến nhà ông Ngột lấy hai mái chèo
ở chiếc thuyền lạ ngoài bãi biển, Chuyên mang máy truyền tin cùng tư
trang lên rừng trốn.
Dù phải sống trong cảnh trốn chui trốn lủi, nhưng Chuyên cũng 3 lần
lấy máy ra liên lạc về trung tâm. Nhưng vì chậm so với giờ lên máy đã
quy ước với trung tâm nên đều không được. Chuyên viết thư và bưu thiếp
sau đó để Ốc chép lại có nội dung mật báo gửi vào 3 địa chỉ đã quy ước
từ trước với Phan.
Cho tới ngày 27/4, lần thứ 4 lên máy, Chuyên mới liên lạc được với
trung tâm, báo cáo đã về tới nơi nhưng căn cứ bị động nên còn ở La Khê.
Hai ngày sau, Chuyên lại liên lạc với trung tâm. Sau đó, cách vài ngày,
Chuyên lại lên máy liên lạc với trung tâm. Cùng với báo cáo tình hình
vào Nam, Chuyên bắt tay vào tuyển người, ngoài 2 em ruột, một em họ,
Chuyên chú ý tới những người bạn và một số cán bộ cùng công tác trước
kia có tư tưởng bất mãn; Chuyên dự định tổ chức cơ sở vùng ghềnh Si, lập
ban đón tiếp, chuẩn bị nhận tiếp tế chuyến đầu tiên vào cuối tháng 5.
Với các ngư dân, Chuyên có ý định dùng gạo để mua chuộc và tổ chức
họ. Khi trung tâm chuyển tiền ra sẽ tổ chức thuyền đánh cá để có thể
nhận tiếp tế từ ngoài xa ở Hạ Long hay Cát Bà, để tàu tiếp tế không phải
vào quá sâu, sẽ nguy hiểm; lựa chọn người để cuối tháng 10-1961 sẽ gửi
vào Nam học vô tuyến điện, sau đó ra làm nhiệm vụ liên lạc điện đài để
Chuyên tập trung vào việc tổ chức, gây dựng lực lượng…
Tất cả những dự định ấy mới chỉ được vạch ra thì sau 7 phiên liên lạc
bằng điện đài, tối ngày 6/6/1961 Đắc bị bắt khi đang trên đường mang
điện đài và lương thực lên rừng tiếp tế cho Chuyên.
Biết em bị bắt trước sau gì cũng sẽ khai ra việc mình vượt tuyến xâm
nhập về Bắc, Chuyên quyết định đánh lạc hướng bằng cách một mặt viết thư
xin đầu thú rồi cho em ra bưu điện gửi tới Công an huyện Yên Hưng nhưng
trong lúc ấy cũng lên kế hoạch liên lạc với Trung tâm cho rút bằng
đường biển. Tuy nhiên, kế hoạch này chưa kịp thực hiện thì chỉ vài ngày
sau khi em bị bắt, Chuyên cũng bị bắt khi đang trốn trong bồ thóc trong
buồng cùng với súng ngắn, lựu đạn, tiền và tài liệu; sau đó Chuyên phải
khai nơi giấu bộ máy điện đài thứ hai cùng tất cả tài liệu trong hang
trên núi Đá Chồng.
Sau gần 2 tháng đấu tranh, Phạm Chuyên đã bị khuất phục và khai hết
kế hoạch mà CIA giao cho khi xâm nhập ra Bắc. Sau khi đánh giá lại toàn
bộ quá trình bắt, đấu tranh với Phạm Chuyên, Cục Bảo vệ Chính trị và Sở
Công an Hồng Quảng khẳng định tất cả vẫn đảm bảo bí mật, một kế hoạch
táo bạo được gửi lên Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, đó là cho lập Chuyên án
BK63 đấu tranh với CIA với mục đích: duy trì chuyên án hoạt động lâu dài
nhằm khống chế được hoạt động của địch đối với địa bàn khu vực Đông
Bắc; phát hiện toàn bộ âm mưu và thủ đoạn hoạt động gián điệp biệt kích
đối với miền Bắc, tạo điều kiện để chủ động tấn công lại địch. Tổ chức
câu nhử, đón bắt những nhóm gián điệp khác nhằm khai thác triệt để các
trung tâm gián điệp biệt kích của địch; tính toán khả năng phái khiển
người vào tổ chức của địch khi cần thiết.
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã chỉ đạo trong quá trình đấu tranh phải
đảm bảo nguyên tắc "tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch" để
vận dụng vào việc bố trí các tin tức, tình huống giả tạo với phương châm
"không để thiệt hại cho ta, chỉ được lợi cho ta".
Những cán bộ tham gia chuyên án cũng không thể nghĩ từ đây, một cuộc chiến âm thầm đã diễn ra tới 10 năm sau mới kết thúc… (Còn tiếp) Kỳ 1: Giải mật chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở Miền Bắc
Theo An Ninh Thế Giới
Chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở miền Bắc: 10 năm 'dắt mũi' CIA
Sau biệt kích trong toán Eagle nhảy dù xuống Bắc Giang với hàng loạt
nhiệm vụ phá hoại. Tuy nhiên, khi vừa tiếp đất cả bọn đã phải tra tay
vào còng số 8. Điều đáng nói là tất cả tin tức và hoạt động vẫn được
toán Eagle báo cáo về đầy đủ khiến “Tổng bộ” rất hoan hỉ.
Giữa năm 1964, “Tổng bộ” thông báo Ares chuẩn bị đón thêm người. Đó
là toán biệt kích mang tên Eagle. Ngày 28/6/1964, 6 biệt kích trong toán
Eagle nhảy dù xuống Bắc Giang với nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ
số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe lửa Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai
Phả. Tuy nhiên, khi vừa tiếp đất cả bọn đã phải tra tay vào còng số 8.
Điều đáng nói là tất cả tin tức và hoạt động vẫn được toán Eagle báo cáo
về đầy đủ khiến “Tổng bộ” rất hoan hỉ. 1. Năm nay đã gần 90 tuổi nhưng Thiếu tướng Lê Mai,
nguyên Giám đốc Công an tỉnh Quảng Ninh, một trong những cán bộ đã trực
tiếp chỉ đạo Chuyên án BK63 từ những ngày đầu, vẫn còn minh mẫn. Nhắc
lại chuyện xưa, Thiếu tướng Lê Mai bảo rằng đó là những ngày không thể
nào quên.
Sau gần hai tháng bị bắt, trực tiếp thấy công an đối xử với mình và
người thân trong gia đình, đặc biệt là với bà mẹ già, rất chu đáo, Phạm
Chuyên đồng ý lập công chuộc tội, tham gia chuyên án.
Sáng 8/8/1961, sau gần 2 tháng mất liên lạc, “Tổng bộ” tại Sài Gòn
nhận được điện từ đài Ares. Ares báo cáo tình hình tạm ổn, có thể liên
lạc lại được, nhưng để đảm bảo an toàn thì khoảng cách giữa hai phiên
phải thưa hơn, không như lịch truyền tin được.
Các sĩ quan tình báo tại Trung tâm dù đều là những người được CIA đào
tạo bài bản, nhất là các phương pháp thẩm tra trên điện đài, sau khi
kiểm tra đã chúc mừng Ares thoát hiểm và nhắc nhở chú ý đảm bảo an ninh.
Trong khi đó, cách trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn hơn 2.000km, ở một
bãi hoang thuộc xã Trạp Khê (huyện Yên Hưng), Phạm Chuyên ngồi gõ manip
truyền tin, bên cạnh là các cán bộ Cục Bảo vệ Chính trị và Công an Hồng
Quảng. Kết thúc phiên liên lạc, tất cả mọi người mới thở phào vì mọi
việc diễn ra đúng kế hoạch.
Để chuẩn bị cho phiên liên lạc này, nhiều ngày trước đó, các cán bộ
tham gia Chuyên án BK63 đã phải bàn bạc, đưa ra nhiều tình huống để có
phương án xử lý.
Theo lời khai của Phạm Chuyên, trước khi kết thúc khóa huấn luyện về
điện đài, tên Tý, người hướng dẫn Chuyên về điện đài đã mang máy ghi âm
đến để ghi tín hiệu với mục đích cho central gián điệp nghe quen, đề
phòng trường hợp khi Chuyên ra Bắc bị bắt, Công an Bắc Việt lấy được
thiết bị và các quy ước liên lạc sẽ đánh tráo manip.
Không những thế, Tý còn huấn luyện Chuyên biết cách hội thoại trong
lề lối thông báo giúp cho nhân viên báo vụ ở Trung tâm khi nhận điện
nghe sẽ biết ngay điệp viên đang bị khống chế, bằng cách đài chính bắt
nhắc lại một nhóm nào đó trong lúc đài đối đang chuyển điện, nếu có an
ninh: nhắc lại tự do không theo quy luật nào.
Ngoài các biện pháp kỹ thuật là thêm những ký tự đã quy ước sẵn khi
gõ manip để báo cho Tổng đài biết đang bị khống chế, trong quá trình hỏi
đáp, tổng đài sẽ có những câu hỏi để thẩm tra xem đang trao đổi với
điệp viên hay một đối tượng giả, hoặc điệp viên đang bị khống chế.
Tổng đài hỏi “Địa điểm tiếp tế bằng phi cơ ở đâu?”, nếu đang bị khống
chế, điệp viên trả lời “Cát Bà” hoặc một điểm vu vơ nào đó; nếu không
bị khống chế, trả lời “Chưa tìm được”…
Tuy nhiên, việc đứt liên lạc suốt gần 2 tháng vẫn khiến “Tổng bộ”
nghi ngờ, vì vậy việc thẩm tra vẫn được thực hiện ở phiên liên lạc sau
khi trong bức điện thứ 2 đã hỏi tình trạng máy truyền tin, nơi cất giấu.
Các trinh sát quyết định sáng tác bản tin cho Ares báo cáo về hai
nơi chôn cất máy, có tọa độ, mốc đánh dấu bằng các cây rừng có gai góc,
kèm theo việc này là một số tin tức hoạt động quân sự, kinh tế được lấy…
trên báo. Cho tới tháng 10/1961, sau vài
lần thẩm tra nữa, “Tổng bộ” mới tin Ares thực sự vẫn đang hoạt động hiệu
quả khi lần liên lạc nào, Ares cũng cung cấp rất nhiều tin về các hoạt
động kinh tế rất chuẩn xác vì được trinh sát “copy” từ các báo. Với lý
do cần có kinh phí và phương tiện để hoạt động, Ares đề nghị được tiếp
tế sớm.
“Tổng bộ” yêu cầu Ares tìm địa điểm đón hàng rồi báo cáo cùng quy ước
an ninh và ám hiệu nhận hàng. Sau khi tính toán, Ban chuyên án quyết
định chọn nơi nhận hàng là khu Đầu Đá, một điểm trong Vịnh Hạ Long.
Ngày 16/1/1962, tàu Nautilus 1, chính là tàu đưa Phạm Chuyên ra Bắc,
cùng với 10 thủy thủ từ Đà Nẵng mang theo 30 thùng đồ gồm máy truyền
tin, vàng, tiền miền Bắc (tiền thật) lương thực, thực phẩm, vũ khí ra
tiếp tế cho Chuyên. Sau khi toàn bộ hàng hóa đã tập kết lên bãi, toàn bộ
thủy thủ cùng hàng hóa bị bắt gọn.
Trong khi đó, Ares thông báo không nhận được hàng, vì có thể đúng hôm
chiếc tàu chở hàng ra tiếp tế đã bị giông lốc đánh chìm và đề nghị tiếp
tục chuyển đồ tiếp tế ra. Cùng với đề nghị tiếp tế, Ares vẫn đều đặn
cung cấp tin tức rất “giá trị” do các trinh sát tổng hợp hoặc sáng tác
ra.
Hơn một tháng sau chuyến hàng đầu tiên, Ares bất ngờ nhận được thông
báo Tổng bộ đã chuyển hàng ra và chỉ tọa độ cất giấu. Hàng hóa là 23
kiện lương thực, thuốc và 7 thùng vũ khí. Cho tới tháng 8/1963, Tổng bộ
đã 3 lần tiếp tế bằng đường biển cho Ares. Tuy nhiên, lần này khi tàu
bốc hàng trở ra thì bất ngờ bị công an vũ trang phát hiện truy đuổi, bắt
được.
Với lý do việc tiếp tế bằng đường biển đã bị lộ, Ares đề nghị Tổng bộ
tiếp tế bằng đường không. Đề xuất này lập tức được chấp nhận vì “Tổng
bộ” cũng cho rằng tiếp tế bằng đường không sẽ được nhiều và nhanh hơn,
lại ít nguy hiểm.
Sau khi đi tìm địa điểm, Ban chuyên án quyết định chọn địa điểm nhận
hàng là Khe Ru (huyện Hoành Bồ), đây là một bãi cỏ trên đỉnh núi, xa
dân, hướng bay từ đông bắc sang rồi thẳng ra biển, máy bay thả dù rất an
toàn. Tín hiệu quy ước địa điểm nhận hàng là 3 cột khói hình tam giác ở
giữa bãi.
Nhận được thông báo của Ares về địa điểm, “Tổng bộ” đồng ý ngay và
thông báo chuẩn bị nhận hàng. Trước ngày hẹn, một tổ công an vũ trang
cùng tổ công tác gồm 3 trinh sát và Phạm Chuyên dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của đồng chí Lê Mai, lúc đó là Phó giám đốc Công an tỉnh, lên bãi
thả chuẩn bị.
Đúng ngày hẹn, từ sáng, giữa bãi thả, 3 đống cỏ khô được chất lên,
trên cùng phủ lá tươi để tạo khói. Đợi suốt một ngày mà không thấy máy
bay đâu khiến ai cũng thấy bồn chồn. Cho tới gần 17h mới nghe thấy tiếng
máy bay, lập tức 3 đống cỏ khô được châm lửa. Khi 3 cột khói bốc lên
cũng là lúc chiếc máy bay bay qua, thả xuống hai cái dù hàng.
Sau lần tiếp tế này, với lý do mở rộng địa bàn hoạt động, Ares tiếp
tục đề nghị tiếp tế ngoài lương thực, thuốc men, tiền mặt cần có cả vũ
khí, thuốc nổ, máy ảnh, ống nhòm… tất cả những đề nghị này đều được đáp
ứng.
Có chuyến, “Tổng bộ” thả xuống 30 thùng hàng, ngoài lương thực, thực
phẩm còn trang bị cho Ares cả súng giảm thanh, máy ảnh, máy ghi âm và
đặc biệt cả một bộ máy truyền tin đời mới nhất chạy bằng ắc quy khô chứ
không cần quay ragono.
Cho tới khi kết thúc chuyên án, “Tổng bộ” đã tiếp tế cho Ares tổng
cộng 6 chuyến hàng, 3 chuyến đường biển, 3 chuyến đường không, ngoài
lương thực, thực phẩm, vũ khí còn có nhiều phương tiện, máy móc phục vụ
hoạt động gián điệp, tiền, vàng, có chuyến thả tới 150 ngàn đồng tiền
miền Bắc, một số tiền có giá trị rất lớn.
Nhưng quan trọng hơn, tin tưởng
Ares mà “Tổng bộ” đã cung cấp 5 đầu mối gián điệp cài lại ở Hải Phòng,
Quảng Ninh. Cũng từ Ares, hai toán biệt kích khi được tung ra Bắc để
“tăng cường lực lượng” đã bị bắt ngay khi chân vừa chạm đất.
Một bản tin do trinh sát sáng tác cho Ares.
2. Giữa năm 1964, “Tổng bộ” thông báo Ares chuẩn bị đón thêm người. Đó là toán biệt kích mang tên Eagle.
Ngày 28/6/1964, 6 biệt kích trong toán Eagle nhảy dù xuống Bắc Giang
với nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe
lửa Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai Phả. Tuy nhiên, khi vừa tiếp đất
cả bọn đã phải tra tay vào còng số 8. Điều đáng nói là tất cả tin tức
và hoạt động vẫn được toán Eagle báo cáo về đầy đủ khiến “Tổng bộ” rất
hoan hỉ.
Hơn một năm sau, ngày 21/9/1967, toán Red Dragon (Rồng đỏ) gồm 7 biệt
kích được thả xuống Hà Giang với nhiệm vụ phá hoại các tuyến quốc lộ
và cơ sở kinh tế. Nhưng cũng như toán Eagle, vừa nhảy dù xuống, 7 “Rồng
đỏ” đã bị bắt khi chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra trong khi “Tổng bộ” vẫn
nhận được các bản báo cáo.
Sau này, trong cuốn sách của dịch giả Vũ Đình Hiếu viết rằng: “Theo
các dữ liệu trong các bản báo cáo về tất cả những gì liên quan đến toán
Red Dragon, cho thấy có những bất đồng khá sâu sắc giữa hai trung tâm
chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ và Việt Nam.
Người Mỹ tin là toán biệt kích đã nằm trong tay đối phương và bị
khống chế, buộc phải gửi đi những bản báo cáo sai sự thật về cho SOG.
Các sĩ quan quân đội Sài Gòn thì ngược lại, cho rằng toán biệt kích Red
Dragon vẫn còn hoạt động, vì toán vẫn tiếp tục liên lạc từ năm 1968, cho
đến 1969 mới chấm dứt”. 3. Thiếu tướng Lê Mai kể rằng để đảm bảo bí mật,
suốt 10 năm thực hiện chuyên án, tổ công tác gồm 3 trinh sát và Phạm
Chuyên toàn sống trong hang hoặc lán trại ở những khu rừng núi biệt lập.
Ban đầu, tổ đóng ở Bãi Cháy. Nhưng khi máy bay Mỹ liên tục ném bom miền
Bắc, nhất là Hải Phòng, Quảng Ninh thì lại phải thay đổi.
Ngày ấy, cơ quan cũng ít ôtô, trong khi mỗi lần liên lạc bằng điện
đài lại phải cần ôtô để chở máy. Vậy là tổ lại chuyển về Hà Lầm để đỡ
phải đi lại. Nhưng về Hà Lầm chưa được bao lâu thì khu vực này bị ném
bom, vậy là lại chuyển vào sống ở một hang núi ở Quang Hanh. Ở Quang
Hanh, mỗi lần liên lạc lại phải dùng xe ôtô chạy lên Uông Bí để thay đổi
tọa độ liên lạc.
Vừa lo đảm bảo an toàn, nhưng cái khó nữa là phải sáng tác tin tức
báo cáo làm sao địch không phát hiện ra đang bị “ăn quả lừa”. Dù không
theo định kỳ cụ thể nhưng thông thường cứ 10 – 20 ngày phải có một bản
tin để báo cáo về “Tổng bộ”.
Suốt 10 năm, các trinh sát đã sáng tác tới gần 300 bản báo cáo, trong
đó có cả những tình huống giật gân, như bị truy đuổi, bị bắt hụt, điều
kiện hoạt động cực kỳ khó khăn…
Thiếu tướng Lê Mai kể rằng quy trình sản xuất báo cáo là các trinh
sát soạn ra trình cho ông duyệt, sau đó ông lại trình về Bộ Công an để
Cục trưởng Nguyễn Tài duyệt lần cuối rồi chuyển lại cho Ares phát vào
Nam.
Nội dung tin về kinh tế thì tập hợp từ các báo và thực tế đời sống mà
ai cũng biết, nhưng tin tức về quốc phòng an ninh thì phải tính toán.
Có lần “Tổng bộ” yêu cầu xác định tọa độ các cây cầu trên Quốc lộ 18
cần đánh sập, sau khi thị sát, Ban chuyên án quyết định cung cấp tọa độ
những cây cầu đã hỏng để lập báo cáo. Sau khi địch ném bom, Ares lại có
báo cáo kết quả rất chính xác rằng cầu đã hư hỏng nặng. Vì vậy mà uy
tín của Ares ngày càng tăng. Về các công trình quốc phòng, rất nhiều báo
cáo về trận địa pháo được trinh sát “sáng tác” như thật cho Ares báo
cáo.
Tôi đã đọc trong hồ sơ chuyên án những bản tin viết tay do đồng chí
Nguyễn Nhàn, trinh sát phòng Bảo vệ Chính trị Công an Hồng Quảng sáng
tác vào năm 1967. Như bản tin ngày 14/7/1967, tức là chuyên án đã thực
hiện được 7 năm, Ares vẫn báo cáo: “Vùng Quảng Khê - La Khê, tọa độ 930 -
160, có các cơ sở: Khấu, Đắc, Ốc, Hiển.
Các mục tiêu vùng này: có trận địa tên lửa hoạt động thường xuyên ở
quanh vùng La Khê ở các tọa độ 89-17, 92-16, 92-18. Ở La Khê còn có một
đơn vị huấn luyện Hải quân (khoảng 1B) và 1 lớp đặc công, nghe nói lớp
đặc công thỉnh thoảng vào vùng Đà Nẵng đánh xong lại ra. Có các ụ pháo
bảo vệ bờ biển đặt trên các núi ở tọa độ 94-20, 94-17. Kho xăng ngầm ở
90-16…”. 4. Mấy chục năm sau, trong cuốn sách “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật”, cựu sĩ quan tình báo Mỹ Sedgwick Tourison viết rằng:
"Điệp viên ARES. Tôi biết anh ta quá đi chứ, tôi đã nghiên cứu hồ sơ
của anh ta, anh ta có nhiều tên nhưng tên thật là Phạm Chuyên. Chúng tôi
tuyển mộ để đánh anh ta quay trở lại Bắc Việt Nam năm 1961. Anh ta vẫn
giữ liên lạc với chúng tôi ít ra là cho đến năm 1969 và tôi không biết
rõ là anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt động cho Bắc Việt (…).
Trong cuộc chiến tranh này, cán bộ phản gián của Bộ Công an Việt Nam
đã đối đầu với Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Bấy giờ các toán gián điệp
người Việt Nam do CIA và Lầu Năm Góc tuyển mộ và cho nhảy dù xuống miền
Bắc Việt Nam để xây dựng các cơ sở kháng chiến, đằng sau các phòng tuyến
của địch.
Một số nhân viên điện đài đã bị bắt chỉ vài giờ sau khi họ đặt chân
xuống mặt đất và đã bị lực lượng phản gián của Hà Nội khuất phục, mở
điện đài thông báo cho Sài Gòn và Washington những gì mà Hà Nội muốn cho
họ biết”.
Nhưng đó là chuyện sau này, còn vào thời điểm ấy, những bản tin chi
tiết từng đơn vị, từng tọa độ của Ares đã khiến cho “Tổng bộ” tin tưởng
tuyệt đối. Vì vậy mà trong 10 năm, ghi nhận thành tích công tác của
Ares, “Tổng bộ” đã thưởng cho điệp viên này tới 12 huân chương, trong
đó có Huân chương “Anh dũng Bội tinh”. (Còn tiếp) Kỳ 1: Giải mật chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở Miền Bắc Kỳ 2: Điệp viên Ares và hành trình trở lại miền Bắc Việt Nam
Theo An Ninh Thế Giới
Chuyên án bắt gián điệp ở miền Bắc: Chuyện không có trong hồ sơ
Trong bản tin cuối cùng gửi về "Tổng bộ" trước khi chấm dứt liên lạc,
Ares đã có những lời chia tay rất thống thiết. Chuyên án BK63 chính thức
kết thúc. Điệp viên Ares-Phạm Chuyên trở lại cuộc sống đời thường. Câu
chuyện về một quãng đời "không giống ai" của ông chỉ có anh em trong nhà
biết...
1. Nhờ một cán bộ Công an thị xã Quảng Yên dẫn
đường, tôi đến ngôi nhà của gia đình ông Phạm Chuyên ở thôn Thùa, xã
Tiền An vào một ngày cuối tháng 3. Đó là căn nhà xây 3 gian, mái lợp
ngói nằm dưới chân một quả đồi, cách con đường liên xã vài trăm mét.
Đây là ngôi nhà năm 1961, Phạm Chuyên đã về ẩn náu khi từ miền Nam
ra. 10 năm sau, khi chuyên án kết thúc, ông Chuyên cùng vợ con sống ở
đây cho tới ngày cuối đời. Chỉ chiếc xe đạp cũ kỹ để bên hiên, anh cán
bộ đi cùng tôi bảo: "Ngày còn sống, ông già có thói quen tập thể dục
bằng đạp xe, mãi năm 90 tuổi rồi mà ông vẫn đạp xe đi khắp". Thấy cán bộ công an huyện đến
thăm, người con dâu của ông Vẹt, con trai út của ông Chuyên đi xuống mở
cửa cho chúng tôi vào. Sau hơn nửa thế kỷ dãi dầu mưa nắng lại không
được tu sửa, căn nhà đã xập xệ, cũ kỹ. Giữa nhà là chiếc bàn thờ đặt di
ảnh ông bà Phạm Chuyên.
Bà vợ ông mất cách đây mấy năm; tháng 12/2014, khi đã qua tuổi 95,
ông đi theo bà sau mấy tháng bị ốm. Căn nhà này giờ khóa cửa cả ngày,
buổi tối chỉ có ông Vẹt xuống ngủ cho đỡ cô quạnh. Trong căn nhà cũ kỹ
này, chủ nhà vẫn dành một góc trang trọng nhất treo tấm bằng Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất do Chủ tịch nước tặng ông Phạm Chuyên năm 1997 vì
"Đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước" và Huy
chương Vì An ninh Tổ quốc do Bộ Công an tặng.
Anh cán bộ đi cùng tôi kể rằng cách đây mấy năm, Bộ Công an đã tặng
gia đình ông Chuyên 50 triệu đồng để sửa nhà. Hôm đi nhận tiền ở Công an
huyện, ông Chuyên chỉ nói cảm ơn rồi khóc vì cảm động. Nhưng nhận tiền
về, ông không dùng sửa nhà mà dành phần lớn cho đứa cháu nội vừa bị tai
nạn giao thông đi chữa bệnh.
Trung tá Nguyễn Văn Chiếm, Đội phó Đội An ninh Công an thị xã Quảng
Yên kể rằng hôm đến Công an huyện nhận tiền, ngồi nói chuyện với anh,
ông bảo mất ngủ cả đêm hôm trước vì nhớ những ngày cùng ăn, cùng ở, cùng
làm việc với các trinh sát trong suốt 10 năm tham gia Chuyên án BK63.
Ông Phạm Chuyên.
2. Năm 1961, khi giao nhiệm vụ cho Phạm Chuyên ra
Bắc, Phan hứa chỉ sau 1, 2 năm sẽ rút về Nam. Nhưng có lẽ thấy Ares hoạt
động quá hiệu quả trong khi các toán biệt kích khác (ngoài hai toán
Eagle và Red Dragon) khi ra Bắc đều mất hút hoặc bị bắt nên "Tổng bộ"
quên luôn lời hứa ấy; vì vậy thay vào việc rút về thì "Tổng bộ" tiếp tế
cho Ares 6 chuyến tiền, hàng, vũ khí. Giữa năm 1969, sau gần 10 năm đưa
Ares ra miền Bắc, "Tổng bộ" có yêu cầu Phạm Chuyên quay lại miền Nam
đồng thời cũng ra lệnh cho hai toán Eagle và Red Dragon "triệt thoái". Đầu tháng 10/1969, Bộ Công an
quyết định kết thúc chuyên án Red Dragon bằng cách cho tuyên truyền trên
báo, đài về việc bắt giữ một toán biệt kích tại Hà Giang đồng thời Red
Dragon ngừng liên lạc.
Với 2 chuyên án BK63 và Eagle, Cục Bảo vệ Chính trị cũng lên kế hoạch
để kết thúc bằng cách từ tháng 9/1969 đã cho Ares và Eagle gửi điện vào
"Tổng bộ" thông báo rất muốn được trở về miền Nam sớm, nhưng phải có
thời gian để tìm giấy tờ, lương thực để việc rút lui đảm bảo an toàn.
Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị nên chưa thực hiện
được.
Riêng với Eagle, ta còn bồi thêm bằng một bản tin khác với nội dung "vì
khó khăn không thể triệt xuất được bằng đường bộ, đường biển nên Eagle
đành quay lại nhờ cơ sở giúp đỡ chờ khi nào có điều kiện Trung ương ra
đón sau".
Ngày 16/12/1969, chỉ 3 ngày sau khi ta tuyên truyền công khai trên
báo vụ án gián điệp ở Hà Giang, "Tổng bộ" gửi cho Ares bức điện với nội
dung: "Tổng bộ rất khổ tâm vì lý do an ninh nên Tổng bộ quyết định
chấm dứt liên lạc vô tuyến với Hạ Long từ ngày 1/1/1970, nếu để kéo dài
ngày nào sẽ bất lợi cho cả đôi bên. Hạ Long hãy chôn giấu tất cả trang
bị và tiêu hủy tài liệu giấy tờ, tìm cách vượt tuyến về trình diện với
trung tâm chiêu hồi địa phương, sẽ có đại diện Tổng bộ đến đón tiếp. Hạ
Long có tin tức gì đặc biệt hãy gửi về Tổng bộ trước ngày 31/12/1969".
Cùng lúc ấy, toán Eagle cũng nhận được một bức điện có nội dung tương tự.
Cuối tháng 12/1969, trong báo cáo gửi Thứ trưởng Bộ Công an Viễn Chi,
Ban chuyên án đưa ra 3 nhận định về lý do địch cùng lúc muốn rút cả hai
về Nam:
Thứ nhất, từ khi địch có chủ trương rút các toán gián điệp biệt kích
tung ra miền Bắc hoạt động lâu ngày trở về miền Nam để rút kinh nghiệm
nhằm thẩm tra, thử thách trực tiếp, đồng thời tính toán một kế hoạch
mới, nhưng địch đều bị thất bại, mà dần dần các toán đều bị mất.
Thứ hai, qua những vụ án ta đã kết thúc trước đó và quá trình đấu
tranh chuyên án BK63 và Eagle, có thể khiến địch bắt đầu nghi ngờ nhưng
chưa có cơ sở để kết luận.
Thứ ba, có thể do trước đó ta đã tuyên truyền công khai trên báo đài
vụ án gián điệp ở Hà Giang ra đầu hàng nên địch có phản ứng thăm dò phản
ứng của Ares và Eagle như thế nào; mặt khác cũng có thể địch nghi ngờ.
Sau khi đánh giá lại toàn bộ quá trình thực hiện 2 chuyên án, Cục Bảo
vệ Chính trị kết luận mục đích đặt ra với 2 chuyên án đều đã đạt được
nên cũng đến lúc phải kết thúc. Vấn đề đặt ra là cần kết thúc cả hai
chuyên án BK63 và Eagle nhưng để làm cho địch không kết luận được thì
cách kết thúc mỗi chuyên án phải khác nhau.
Chuyên án Eagle được kết thúc bằng cách trong bản tin cuối cùng trước
khi chấm dứt liên lạc, toán Eagle báo cáo về "Tổng bộ" vì rừng núi bao
la, đường xa không thể rút bằng đường bộ nên cả toán đề nghị giải tán
nương nhờ cơ sở, khi trung tâm có điều kiện sẽ ra đón.
Còn với Ares, trong bản tin cuối cùng gửi về "Tổng bộ" trước khi chấm
dứt liên lạc, Ares đã có những lời chia tay rất thống thiết: "Tham
chiếu công điện của Tổng bộ vì lý do an ninh tôi rất khổ tâm phải ngừng
liên lạc với Tổng bộ như quy định. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để sớm
vượt qua mọi khó khăn, hy vọng sẽ sớm trở về gặp mặt Tổng bộ…".Đó là lần cuối cùng Ares liên lạc với "Tổng bộ" trước khi biến mất.
Ngày 1/1/1970, Chuyên án BK63 chính thức kết thúc. Sau gần 10 năm
thực hiện, chuyên án đã 13 lần vượt qua sự kiểm tra an ninh của trung
tâm tình báo địch, cung cấp 307 tin giả, câu móc và bắt giữ hàng chục
tên gián điệp biệt kích, thu giữ 1 tàu cùng hàng chục tấn vũ khí, khí
tài hiện đại của trung tâm tình báo địch tiếp tế cho BK63. Số vũ khí này
Bộ Công an đã giao cho Bộ Quốc phòng đưa vào chiến trường miền Nam đánh
Mỹ. Không những thế, qua chuyên án, ta đã nắm được hầu hết âm mưu, biết
trước hoạt động bắn phá của Không quân Mỹ trong chiến tranh leo thang
phá hoại miền Bắc tại Quảng Ninh để kịp thời sơ tán nhân dân.
Ngôi nhà Ares đã sống tới cuối đời.
3. Tôi hỏi Thiếu tướng Lê Mai suốt gần 10 năm tham
gia chuyên án, ông ấn tượng nhất ở Phạm Chuyên điểm gì? Thiếu tướng Lê
Mai bảo rằng đó là người rất thông minh và sống tình nghĩa, đặc biệt là
rất thương bà mẹ. Sau ngày bị bắt, Phạm Chuyên chỉ đề nghị công an không
bắt bà mẹ. Giữ đúng lời hứa, không chỉ bà mẹ mà tất cả các em Phạm
Chuyên cũng được cho về làm ăn bình thường; không những thế, còn được hỗ
trợ khi khó khăn. Thiếu tướng Lê Mai kể rằng ngày
ấy là lãnh đạo Công an tỉnh, dù bận rất nhiều việc nhưng mỗi tháng ông
lại xuống thăm anh em trinh sát và Phạm Chuyên một lần, vừa để nắm tình
hình công việc nhưng cũng để động viên tinh thần vì tổ công tác đặc biệt
này luôn phải sống biệt lập.
Ngay cả Cục trưởng Nguyễn Tài ở Hà Nội thỉnh thoảng cũng điện xuống
Quảng Ninh hỏi thăm Phạm Chuyên. Do yêu cầu công việc bí mật nhưng thỉnh
thoảng các cán bộ lại đón mẹ của Chuyên đưa lên thăm con làm Chuyên rất
cảm động. Chính cách cư xử đầy tình nghĩa của các cán bộ an ninh ấy đã
khuất phục Phạm Chuyên hoàn toàn.
Năm 1970, sau khi chuyên án kết thúc, để Phạm Chuyên có cuộc sống
bình thường, Công an Quảng Ninh đã liên hệ với chính quyền huyện Đông
Triều cấp đất ở, ruộng vườn và bỏ tiền ra dựng nhà cho anh ta. Nhưng chỉ
gần một năm sau, với lý do muốn được về quê sinh sống, Phạm Chuyên trả
lại nhà, đưa vợ con trở lại ngôi nhà của bố mẹ để lại ở xã Tiền An,
huyện Yên Hưng. Ông bà có hai người con, một trai, một gái nhưng họ đều
đông con nên cuộc sống vất vả. Các con của ông bà đều ở riêng nên nhà
chỉ có hai ông bà sống với nhau.
Trở về cuộc sống đời thường, ông Chuyên sống cuộc đời của một lão
nông. Câu chuyện về một quãng đời "không giống ai" của ông chỉ có anh em
trong nhà biết, còn người làng chỉ thấy ông là một lão nông chịu khó
làm lụng, cày cấy, chăn nuôi. Người ta chỉ thấy lạ là ngay cả những năm
sau này, thỉnh thoảng nhà ông lại có một ông khách đi xe con về thăm vài
tiếng rồi đi. Mỗi lần ông khách đến, hai ông tay bắt mặt mừng chuyện
trò rôm rả. Ông khách đặc biệt ấy chính là Thiếu tướng Lê Mai.
Thiếu tướng Lê Mai kể rằng những năm còn công tác, nhất là thời gian
được điều về Bộ công tác, ông không có thời gian gặp gỡ. Năm 1990 nghỉ
hưu, ông về Hạ Long sống, năm nào cũng ít nhất một lần ra Quảng Yên thăm
ông Chuyên. Mấy chục năm sau khi chuyên án kết thúc, dù một người đã
lên cấp tướng, nhưng giữa họ vẫn còn lại mối thâm tình của hai người bạn
già. Trong mỗi lần gặp gỡ ấy, câu chuyện của hai ông già loanh quanh
một hồi rồi lại quay về BK63.
Cuối năm 2014, sau mấy tháng nằm liệt giường, khi biết mình không qua
khỏi, ông Chuyên bảo con cháu điện cho Thiếu tướng Lê Mai. "Hôm tôi ra,
ông ấy còn tỉnh nên thấy tôi ông ấy mừng lắm, cho gọi hết con cháu lại
bảo đây là ân nhân, nói rồi ông ấy cứ nằm khóc. Một tuần sau thì ông ấy
mất".
Đưa cho tôi xem một tập bản thảo viết tay bằng bút bi, Thiếu tướng Lê
Mai kể rằng năm 2003, theo lời khuyên của ông, ông Chuyên đã viết lại
tự truyện đời mình. Viết xong, ông đưa cho Thiếu tướng Lê Mai giữ, coi
như kỷ niệm giữa hai người bạn về một quãng đời không thể nào quên.
Tôi đã đọc hết tập bản thảo ấy, thật bất ngờ, ở phần cuối, Phạm
Chuyên đã nhắc tới cuốn sách "Đội quân bí mật - Cuộc chiến bí mật" của
cựu sĩ quan CIA Sedwick Tourison: "Trong cuốn “Đội quân bí mật -
Cuộc chiến bí mật" do Nhà xuất bản của Viện Hải quân Mỹ in năm 1995,
Sedwick Tourison đã dành khá nhiều trang viết về tôi. Nhưng những điều
tác giả viết về tôi, có rất ít điều đúng hoặc gần đúng, còn phần lớn là
sai, thậm chí còn được "cường điệu" lên để quan trọng hóa các tư liệu… Những điều Tourison viết về tôi thường là chuyện "nghe hơi nồi
chõ", không đúng là điều tất nhiên, không cần bàn cãi, cũng không đáng
trách (…). Tuy nhiên, có hai điều, Tourison nói: tôi có nhiều tên. Kháng
chiến chống Pháp tôi là Nguyễn Thiết. Hòa bình lập lại, trên báo Việt
Nam Độc lập, tôi là Phạm Văn. Vào Sài Gòn, năm 1959 tôi mang tên Nguyễn
Bảo Thùy. Trong kháng chiến chống Mỹ, chính xác là trong nhiệm vụ điệp
viên, người ta đặt cho tôi bí danh là Hạ Long, mang mật danh Ares, mà Cơ
quan Tình báo Mỹ cũng biết đến tôi qua mật danh này. Còn tên "cúng cơm"
của tôi (cha mẹ đặt) là Phạm Chuyên. Thứ hai, đây cũng là điều cơ bản
quan trọng hơn, Tourison chưa dám khẳng định tôi làm việc cho ai? Cho cơ
quan tình báo Sài Gòn hay cho Bộ Công an Việt Nam Dân chủ Cộng hòa? Là một cố vấn an ninh của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, một tình
báo viên tầm cỡ mà sau 25 năm, sau khi Mỹ thua Việt Nam phải rút quân,
Tourison về theo, và nghiền ngẫm để cho ra đời cuốn sách mà vẫn chưa
thấy được thực chất của vụ việc, quả thật là chậm quá. Như vậy, cũng có
nghĩa là Tourison (CIA miền Nam) thua Công an miền Bắc, Mỹ thua Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là hoàn toàn chính đáng".
(Hết) Kỳ 1: Giải mật chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở Miền Bắc Kỳ 2: Điệp viên Ares và hành trình trở lại miền Bắc Việt Nam
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét