CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 95
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lý do Einstein được trao giải Nobel vì “những khám phá của ông về hiệu ứng quang điện” thay vì thuyết tương đối chính là vì sự phản ứng của Bergson. Ảnh: Einstein nhận giải Nobel năm 1921. Nguồn: Albert Einstein Archives / Princeton University Press.
Ngày mùng 6 tháng 4 năm 1922, Einstein đã gặp một người mà ông sẽ không bao giờ quên. Đó là một trong những triết gia nổi tiếng bậc nhất của thế kỷ, được biết đến rộng rãi vì đã ủng hộ một lý thuyết về thời gian có thể giải thích được những chuyện mà đồng hồ không thể: ký ức, linh cảm, kỳ vọng và dự đoán. Cuộc gặp gỡ đã được sắp xếp dưới hình thức một sự kiện học thuật thân mật. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như mong đợi. Nhà vật lý và triết gia đã xung đột, mỗi người bảo vệ một ý kiến trái chiều, thậm chí là xung khắc nhau, trong cách nhận thức về thời gian. Tại Hội triết học Pháp – một trong những tổ chức đáng kính nhất ở Pháp – họ đã đối đầu với nhau trước sự chứng kiến của một nhóm trí thức chọn lọc. “Cuộc đối thoại giữa triết gia vĩ đại nhất và nhà vật lý lỗi lạc nhất của thế kỷ 20” đã được chép lại một cách đầy đủ. Nó hoàn toàn thích hợp cho kịch bản một vở kịch. Cuộc gặp gỡ và những câu từ mà họ phát biểu sẽ còn được nhắc đến trong suốt phần còn lại của thế kỷ.
Triết gia ấy tên là Henri Bergson. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, tên tuổi, uy tín và sự ảnh hưởng của ông hoàn toàn vượt trội nhà vật lý, người mà trái lại, ngày nay lại quá nổi tiếng [so với nhà triết học]. Bergson được so sánh với Socrates, Copernicus, Kant, Simon Bolívar, và thậm chí là cả với Don Juan. Nhà triết học John Dewey, được biết đến như người đại diện chính cho chủ nghĩa thực dụng Mỹ, đã khẳng định đầy mạnh mẽ rằng “không có vấn đề triết học nào thể hiện được cùng bộ mặt và khía cạnh như nó đã thể hiện trước Giáo sư Bergson.” William James, giáo sư tại Đại học Harvard và là một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã mô tả cuốn Creative Evolution (1907) (Sự tiến hóa sáng tạo) của Bergson là “một phép màu thực sự”, đánh dấu “sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mới”. Với James, Matter and Memory (1896) (Vật chất và Ký ức) [một quyển sách khác của Bergson] đã tạo ra “một dạng lý thuyết mang tính cách mạng kiểu Copernic, tương đương với ‘Principles’ (Các nguyên lý) của Berkeley hay ‘Critique’ (Phê phán) của Kant.” Nhà triết học Jean Wahl có lần đã nói rằng “nếu được yêu cầu nêu tên bốn triết gia vĩ đại nhất, thì bạn có thể trả lời rằng: Socrates, Plato – gộp hai người họ làm một – Descartes, Kant và Bergson.”
Danh tiếng của Bergson đã bị nguy hại sau khi ông đối đầu với chàng trai trẻ. Nhưng Einstein cũng vậy. Những chỉ trích hướng về phía nhà vật lý ngay lập tức gây bất lợi cho ông. Vài tháng sau, giải thưởng Nobel được trao cho Einstein không phải nhờ lý thuyết tương đối – lý thuyết đã mang lại danh tiếng cho ông. Thay vào đó, nó được trao cho ông “bởi khám phá của Einstein về hiệu ứng quang điện” – một lĩnh vực khoa học không mang lại sự ngạc nhiên cho trí tưởng tượng của công chúng ở mức mà lý thuyết tương đối đã làm được. Nguyên nhân đằng sau quyết định tập trung vào các công trình khác thuyết tương đối trực tiếp bắt nguồn từ nhận xét của Bergson ở Paris ngày hôm đó.
Chủ tịch Hội đồng xét giải Nobel giải thích rằng mặc dù “hầu hết các thảo luận tập trung vào lý thuyết tương đối của ông ấy,” nhưng nó không xứng đáng với giải thưởng. Tại sao không? Có nhiều lý do phức tạp khác nhau, nhưng nguyên nhân chính được đưa ra buổi tối hôm đó là rất rõ ràng: “Không có gì bí mật là nhà triết học Bergson đã thách thức lý thuyết này ở Paris.” Bergson đã chỉ ra rằng lý thuyết tương đối “đi đôi với tri thức luận” hơn là với vật lý – và do vậy nó “vốn dĩ là chủ đề của các cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các nhóm triết học.”
Lời giải thích hôm đó của vị chủ tịch hội đồng chắc hẳn đã nhắc nhở Einstein về những sự kiện mùa xuân năm trước ở Paris. Rõ ràng ông đã khơi lên một cuộc tranh cãi và đây chính là hậu quả. Ông đã không thể thuyết phục nhiều nhà tư tưởng về giá trị định nghĩa của mình về thời gian, đặc biệt là khi lý thuyết của ông bị so sánh với lý thuyết của triết gia nổi tiếng. Trong bài diễn văn nhận giải của mình, Einstein vẫn rất bướng bỉnh. Ông đọc một bài giảng có nội dung không phải về hiệu ứng quang điện, lý thuyết đã chính thức mang lại cho ông giải thưởng, mà về lý thuyết tương đối – công trình đã đưa ông lên vị thế một ngôi sao nổi tiếng khắp thế giới nhưng khi ấy vẫn đang bị đặt nghi vấn.
Việc nhắc đến tên tuổi của Bergson của người trao giải thưởng Nobel là một chiến thắng ngoạn mục cho triết gia, người đã dành trọn một đời và có một sự nghiệp huy hoàng nhờ chỉ ra rằng không nên hiểu thời gian chỉ qua lăng kính khoa học. Ông nhấn mạnh một cách bền bỉ và kiên định rằng phải hiểu thời gian theo kiểu triết học. Nhưng chính xác thì ý ông ta là gì? Hóa ra, triết học của Bergson cũng gây tranh cãi như vật lý của Einstein vậy.
Vào cái ngày “thực sự lịch sử” khi hai người gặp nhau, Bergson đã vô tình bị cuốn vào một cuộc thảo luận mà ông rõ ràng đã có ý tránh. Cho tới thời điểm ấy, nhà triết học có uy tín hơn Einstein rất nhiều. Ông nói trong khoảng nửa giờ. Ông đã bị một người đồng nghiệp xấc xược kích động, để rồi bị người tổ chức sự kiện ép phát biểu. “Chúng tôi còn Einstein hơn cả ngài, Ngài Einstein ạ,” ông nói. Những tiếng nói phản đối ông vang lên khắp phòng. “Tất cả chúng tôi cứ nghĩ rằng Bergson đã chết rồi,”- nhà văn, họa sĩ Wyndham Lewis giải thích – “nhưng thuyết tương đối, kỳ lạ thay vừa mới nêu ra đã làm ông ấy sống lại.”
Nhà vật lý đáp lại sau không đầy một phút – trong phần trả lời ấy có một câu nói phê phán mà sau này vẫn thường xuyên được người ta trích dẫn: “Chẳng có thời* nào của các nhà triết học cả”1. Một câu trả lời thật khiêu khích.
Những gì Einstein nói sau đó ở buổi tối hôm ấy còn gây tranh cãi hơn nữa: “Chỉ có một loại thời gian khác với thời gian của các nhà vật lý đó là thời gian tâm lý.” Ngay tại thời điểm đó Einstein đã mở màn cho cuộc tranh luận qua việc khẳng định chỉ có hai cách hiểu đúng về thời gian: hiểu theo kiểu vật lý và hiểu theo kiểu tâm lý. Mặc dù gây tranh cãi trong những bối cảnh đặc biệt mà Einstein đề cập, hai cách chiêm nghiệm về thời gian này đã có một lịch sử rất dài. Với Einstein, chúng thậm chí còn có thể có lịch sử dài hơn – trở thành hai lăng kính chính phản chiếu hầu hết những nghiên cứu về bản chất của thời gian trong suốt thế kỷ hai mươi. Viễn cảnh đơn giản, nhị nguyên về thời gian do Einstein chủ trương đã làm Bergson phẫn nộ. Nhà triết học phản ứng lại bằng cách viết hẳn một cuốn sách để đối đầu với Einstein. Lý thuyết của ông ta [Einstein] là “một mớ triết học siêu hình cấy ghép vào khoa học, nó không phải là khoa học,” Bergson viết.
Einstein đã phản công lại với tất cả năng lượng, sức mạnh và nguồn lực của mình. Trong những năm sau đó, hầu hết mọi người đã nhận ra rằng Bergson đã thua trong cuộc tranh luận với nhà vật lý trẻ. Những cách nhìn của nhà khoa học về thời gian chiếm ưu thế trong hầu hết những cuộc thảo luận của các học giả về đề tài này, không chỉ kiềm chế quan điểm của Bergson mà cả những cách tiếp cận nghệ thuật và văn chương khác, bằng cách loại chúng xuống mức quan trọng thứ yếu và phụ trợ. Với nhiều người, thất bại của Bergson đại diện cho một chiến thắng của “tính duy lý” trước “trực giác”. Nó đánh dấu một thời điểm khi các trí thức không còn theo kịp các cuộc cách mạng trong khoa học bởi chúng ngày càng phức tạp. Vì lý do này, có lẽ họ nên đứng ngoài cuộc. Khoa học và các hệ quả của nó chỉ nên để dành cho các nhà khoa học, những người tạm coi là biết đôi chút về chúng. Do vậy bắt đầu “sự thoái trào sau một thời kỳ thành công chưa từng có của triết học Bergson về thời gian tuyệt đối – mà không nghi ngờ gì chính là vì sự ảnh hưởng của thuyết tương đối”. Quan trọng nhất là, sau đó bắt đầu thời kỳ tầm ảnh hưởng của triết học suy tàn dưới sự đe dọa bởi ảnh hưởng đang lên của khoa học.
Hai người đàn ông này chi phối hầu hết những thảo luận về thời gian trong suốt nửa đầu của thế kỷ hai mươi. Nhờ Einstein, chủ đề thời gian cuối cùng đã “bị phế truất khỏi vị trí cao ngất của nó”, rơi từ đỉnh cao của triết học xuống địa hạt thực tế của vật lý. Ông đã chỉ ra rằng “niềm tin của chúng ta về ý nghĩa khách quan của tính đồng thời” cũng như của thời gian tuyệt đối phải bị “loại bỏ” vĩnh viễn sau khi ông đã “xua tan giáo điều này khỏi tâm trí chúng ta”. Nhà vật lý đã chỉ ra rằng, “tự thân không gian, và tự thân thời gian” là hai khái niệm “bị buộc phải tan khuất hoàn toàn vào bóng tối.”
Bergson, ngược lại, lại khẳng định rằng Thời gian có nhiều ý nghĩa hơn những gì mà các nhà khoa học đã từng đánh cược – và ý của ông là tất cả các nhà khoa học, từ những nhà tiến hóa kiểu Darwin tới các nhà thiên văn hay vật lý. Để giải thích những khía cạnh quan trọng nhất của Thời gian mà các nhà khoa học thường không mấy khi đếm xỉa tới, Bergson thường viết hoa thuật ngữ thời gian. Ông gắn nó với élan vital, một khái niệm được dịch rộng rãi thành “vital impulse” (đà sống). Đà sống này, ông lập luận, xen lẫn nhau xuyên suốt vũ trụ mang tới cho sự sống một lực đẩy và không ngừng dâng lên, nảy sinh ra những sáng tạo hoàn toàn bất ngờ, và khoa học không thể nào hiểu thấu hết được. Mặc dù khoa học không thể hoàn toàn giải quyết nó nhưng nó chính là xương sống của các công trình nghệ thuật và sáng tạo. Ảnh hưởng của Bergson lên văn chương được thấy ở Gertrude Stein, T. S. Elliot, Virginia Woolf, William Faulkner, và nhiều nhà văn khác, những người đã đưa vào những đứt gẫy, xoắn vặn, xoay vòng trong giọng trần thuật nơi tương lai xuất hiện trước quá khứ và quá khứ xuất hiện trước tương lai.
“Vậy, thời gian là gì”, thánh Augustine đã tự hỏi trong Confessions (Tự thú) của ông, chỉ ra một nghịch lý trong nhận thức của chúng ta về thời gian. Chưa có thứ gì lại trực quan hơn nhưng cũng phức tạp hơn như chính thời gian cả: “Nếu không ai hỏi tôi, thì tôi biết; nhưng nếu tôi muốn giải thích cho người đặt câu hỏi, tôi lại chẳng biết gì cả.” Những câu chữ này, viết ở Bắc Phi đâu đó khoảng những năm 397-398, có vẻ như mang tính tiên tri cực kỳ chính xác ở Châu Âu 1500 năm sau. Satosi Watanabe, một trong những người tiếp bước Bergson trung thành nhất, đã khẳng định một cách đơn giản: “Quan điểm này [của Augustine], sau mười lăm thế kỷ trong tiến trình của khoa học của nhân loại, vẫn thể hiện quan điểm hiện nay của các nhà triết học.” Có lẽ không có gì phóng đại khi mô tả thời hiện đại là sự bất lực trong việc xử lý thời gian cũng như với tiền bạc; nó là một chuỗi những nỗ lực bất thành để làm chủ cả hai.
Trong cuốn sách quan trọng đầu tiên của mình, được xuất bản trước khi ông bước vào tuổi ba mươi, Bergson đã phát triển một lý thuyết triết học về thời gian trong đó ông giải quyết các vấn đề về thời gian một cách cụ thể, khác biệt hoàn toàn với những gì người ta nhìn nhận về nó trước đó. “Cái thời gian mà các nhà thiên văn học sử dụng trong công thức của họ,” ông giải thích, “cái thời gian mà đồng hồ chia thành các khoảng bằng nhau, có thể nói rằng nó là một thứ gì đó khác.”
Bergson thấy rằng định nghĩa về thời gian của Einstein qua đồng hồ hoàn toàn sai lạc. Nhà triết học không thể hiểu nổi tại sao ai đó lại chọn để mô tả thời gian của một sự kiện đáng chú ý, như là thời điểm đoàn tàu đến, theo kiểu sự kiện ấy trùng khớp với giờ chỉ trên một cái đồng hồ.
Ông không hiểu được tại sao Einstein lại cố gắng thiết lập cách thức cụ thể này như một cách thức đặc quyền để xác định tính đồng thời. Bergson tìm kiếm một định nghĩa căn bản hơn cho tính đồng thời, một định nghĩa không chỉ kết thúc ở cái đồng hồ mà còn lý giải vì sao cái đồng hồ được người ta dùng đến ngay từ đầu. Nếu khái niệm căn bản hơn rất nhiều về tính đồng thời này là không tồn tại thì “đồng hồ chẳng phục vụ cho bất kỳ mục đích nào cả.” ông lập luận. Phải, người ta mua đồng hồ “để biết bây giờ là mấy giờ,” Bergson thừa nhận.
Nhưng “biết bây giờ là mấy giờ” đã tiền giả định rằng sự tương ứng giữa số giờ chỉ trên đồng hồ và một “sự kiện đang xảy ra” có ý nghĩa với người trong cuộc nên khiến họ lưu tâm tới nó. Một vài sự tương ứng nhất định nào đó giữa các sự kiện có ý nghĩa đáng kể với chúng ta – trong khi phần lớn những sự tương ứng khác thì không – đã lý giải cảm nhận căn bản của chúng ta về tính đồng thời và việc tại sao đồng hồ được sử dụng rộng rãi.Tự thân đồng hồ không thể giải thích được cả tính đồng thời lẫn thời gian, ông lập luận.
Nếu không tồn tại một cảm nhận về tính đồng thời căn bản hơn những gì thể hiện qua việc khớp một sự kiện với một giờ chỉ trên đồng hồ, thì đồng hồ sẽ chẳng phục vụ cho một mục đích có ý nghĩa nào cả:
Chúng sẽ chỉ là các linh kiện máy móc để chúng ta tự mua vui bằng cách so sánh chúng với nhau; chúng sẽ không được sử dụng để phân loại các sự kiện; nói ngắn gọn, chúng sẽ tồn tại vì chính bản thân chúng chứ chẳng vì phục vụ chúng ta. Chúng sẽ mất lý do tồn tại vì nhà lý luận thuyết tương đối cũng như vì mọi người, vì anh ta chỉ dùng chúng để xác định thời điểm diễn ra một sự kiện.
Bergson lập luận rằng, toàn bộ ảnh hưởng của công trình của Einstein có được là nhờ vào việc nó đã vận hành như một “dấu hiệu” đưa ra một hình dung tự nhiên và trực quan về tính đồng thời. “Chẳng qua là vì” khái niệm của Einstein “giúp chúng ta nhận biết tính đồng thời có trong tự nhiên này, bởi vì đây là dấu hiệu của nó, và bởi vì nó có thể được biến đổi thành tính đồng thời mang tính trực quan của chúng ta” ông giải thích. Công trình của Einstein khiến ta cảm thấy đầy tính cách mạng và bất ngờ, bởi niềm tin về tnh đồng thời mang tính trực quan của chúng ta còn mạnh mẽ. Nếu không còn niềm tin trực quan này, công trình của Einstein chỉ đơn thuần là một thứ dấu hiệu đại diện cho đối tượng của nó.
Bergson đã chiêm nghiệm về đồng hồ trong nhiều năm. Ông đồng ý rằng đồng hồ giúp lưu ý về tính đồng nhất nhưng không nghĩ rằng hiểu biết về thời gian của chúng ta lại có thể dựa trên một mình nó. Quay lại năm 1889, ông cũng đã từng nghĩ về giả thiết này và nhanh chóng coi nhẹ nó: “Khi mắt chúng ta dõi theo bề mặt một chiếc đồng hồ, chuyển động của cây kim tương ứng với những dao động của quả lắc, tôi không đo khoảng thời gian, như mọi người có thể nghĩ; tôi chỉ đơn giản đếm những điểm đồng nhất, điều đó rất khác.” Có gì đó khác biệt, có gì đó kì lạ, có gì đó quan trọng và điều gì đó vượt ra ngoài bản thân chiếc đồng hồ cần phải được thêm vào trong hiểu biết của chúng ta về thời gian. Chỉ có điều đó mới giải thích được tại sao chúng ta lại gắn cho đồng hồ một sức mạnh như vậy: tại sao chúng ta mua nó, tại sao chúng ta sử dụng nó, và ban đầu, tại sao chúng ta lại sáng chế ra nó.
Nhà triết học đã mô tả sự thay đổi luôn diễn ra quanh chúng ta, nhưng – thật nghịch lý – hầu hết các nhà khoa học hạ thấp vai trò khía cạnh này của thế giới. Ngay cả trong thuyết tiến hóa (theo cách giải thích của Herbert Spencer) cũng giả định sự sản sinh các dạng tiến hóa mới qua sự tái tổng hợp của các vật liệu cũ. Làm như vậy, nó đã lờ đi sự hình thành những đột biến trong cuộc sống. Bằng việc chỉ tập trung nhìn vào thế giới thực như một thứ gì đó cố định vĩnh viễn, người ta có thể không nhận ra những khả năng mới: “Ta có thể nói rằng trong thời gian trực cảm, được coi như một tiến trình của tạo hóa, có sự hình thành không ngừng những khả năng chứ không chỉ hình thành những thực tại.” Điều gì xảy ra nếu những nhà tư tưởng khắp thế giới tán đồng với thay đổi cấp tiến mà Bergson mô tả? Bergson đã nhận thức rất rõ về các hệ quả ấy. Một ví dụ là các học giả sẽ phải giảm bớt những nỗ lực của họ trong việc hiểu thế giới chỉ qua những gì cấu tạo nên nó. Chủ nghĩa duy vật, một cách nhìn triết học gắn kết chặt chẽ với triết lý của René Descartes, có vẻ như đang gặp phải nguy hiểm. Einstein, nhà triết học lập luận, đã tiếp bước Descartes một cách mù quáng. Bergson đã kết thúc cuốn sách gây tranh cãi của mình với câu nói quả quyết: “Einstein là người tiếp nối Descartes.”
Bergson nghĩ rằng Einstein chưa từng hiểu ông. Một lần ông giãi bày với một người bạn rằng Einstein không thể hiểu ông bởi vì “cậu ta không quen với triết học và đặc biệt là triết học bằng tiếng Pháp nữa.” Thậm chí có lẽ Einstein còn chưa “đọc cuốn sách của tôi”, [mà anh ta] chỉ dựa vào nguồn khác như “nhà vật lý Pháp này hay kia, những người không hề hiểu tôi, và không có đủ nền tảng triết học để hiểu tôi, thì vẫn chẳng thể tiếp thu được lời giải thích của tôi.”
Trong suốt cuộc tranh luận, Einstein đã khẳng định rõ ràng quan điểm của mình về mục đích của triết học và tại sao triết học lại không đóng vai trò gì trong việc lý giải về thời gian. Đối mặt với người phản đối mình, ông đã đặt cho triết học một vai trò hết sức hạn chế. Ông tiếp tục tự giải thích, đưa ra hai lối suy nghĩ thường thấy về thời gian, thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian tâm lý là thời gian mà một người nhận thức, trong khi thời gian vật lý là thời gian mà một dụng cụ khoa học đo được, như đồng hồ chẳng hạn. Thời gian được đo bởi một dụng cụ thường khác biệt với thời gian mà một người nhận thức. Các nhân tố như sự tẻ nhạt, thiếu kiên nhẫn, hay những thay đổi nho nhỏ về mặt sinh lý học đã ảnh hưởng tới việc nhận thức thời gian tâm lý. Với sự phổ biến của các công cụ đo thời gian, sự khác biệt giữa thời gian theo cảm nhận và thời gian theo đo đạc ngày càng được chú ý. Ví dụ như khi đọc nhật ký của Franz Kafka, chúng ta biết rằng trong một tài liệu riêng tư ở thời kỳ ấy, một “đồng hồ nội tại” thì thường không đồng nhất với một “đồng hồ bên ngoài”.
Nhưng trong hầu hết các trường hợp, nhận thức vật lý và tâm lý về thời gian không cần phải khác nhau quá nhiều. Hầu hết mọi người đều có thể ước lượng thời gian theo một cách khá tương thích với cách thức của đồng hồ, xác định rất chuẩn thời gian ăn sáng, trưa và tối. Hầu hết mọi người có thể đánh giá tính đồng thời của hai sự kiện theo một cái cách tương tự như các dụng cụ đo đạc. Nhưng khi phải làm việc với các sự kiện cực nhanh thì điều đó không đúng nữa. Trong những trường hợp này (ví dụ như trong vòng cuối của cuộc đua ngựa), sai sót trong nhận thức về tính đồng thời bằng tâm lý khi so sánh với tính đồng thời được xác định bởi một dụng cụ là rất rõ ràng; tính đồng thời qua nhận thức tâm lý khác biệt rất rõ với những gì được xác định với dụng cụ hỗ trợ. Trong một vũ trụ được đánh dấu bởi các sự kiện xảy ra gần với tốc độ của ánh sáng, sự khác biệt giữa chúng [nhận thức tâm lý và vật lý về thời gian] là vô cùng lớn.
Theo Einstein, triết học đã được sử dụng để giải thích mối liên quan giữa tâm lý và vật lý. “Tôi tin rằng, thời gian của các nhà triết học, cùng một lúc vừa là thời gian tâm lý vừa là thời gian vật lý,” ông giải thích ở Paris. Nhưng qua việc tập trung vào những hiện tượng ở tốc độ vô cùng lớn, lý thuyết tương đối đã chỉ ra nhận thức thời gian theo tâm lý thực sự không chính xác như thế nào. Einstein nhấn mạnh, nhận thức về thời gian theo tâm lý, không chỉ đơn giản là sai lầm mà nó cũng không liên hệ với điều gì cụ thể cả. “Chúng chẳng qua chỉ là những cấu trúc trong tinh thần và đối tượng của tư duy logic mà thôi”. Vì tốc độ khổng lồ của ánh sáng, nhân loại đã tổng quát hóa nhận thức của họ về tính đồng thời “một cách bản năng” và đã sai lầm áp dụng chúng lên toàn bộ phần còn lại của vũ trụ. Lý thuyết của Einstein đã sửa chữa sự tổng quát hóa sai lầm này. Thay vì tin vào phần chồng lấn giữa nhận thức thời gian theo tâm lý và vật lý (mà cả hai đều quan trọng, mặc dù một trong hai đã được chấp nhận là ít chính xác hơn cái còn lại), ông lập luận rằng chúng là hai khái niệm riêng biệt: một ước lượng về mặt tinh thần (nhận thức theo tâm lý), hoàn toàn bất bình đẳng khi so sánh với khái niệm “khách quan”: thời gian vật lý.
Bergson và Einstein đều đồng thuận rằng tồn tại một sự khác biệt về mặt bản chất giữa nhận thức thời gian theo kiểu tâm lý và theo kiểu vật lý, nhưng từ đó họ đã đưa ra những suy luận khác nhau. Với Einstein, nó đưa ông đến kết luận rằng, “thời gian của các nhà triết học không tồn tại, chỉ có một thời gian theo kiểu tâm lý là khác biệt với thời gian của các nhà vật lý.” Trái lại, với Bergson, bài học này – rằng sự ước định về mặt tâm lý và vật lý của thời gian được hình thành khác nhau – đã khiến nhiệm vụ của nhà triết học trở nên thú vị hơn, đặc biệt bởi không có ai, kể cả các nhà vật lý có thể lờ đi việc liên kết thời gian với những vấn đề của loài người.
Khoa vật lý hiện đại đã đi từ vấn đề thời gian tuyệt đối và phổ cập của Newton đến thời gian tương đối và co giãn của Einstein. Thời gian theo Einstein có thể chậm lại hoặc tăng tốc tùy theo hoạt động của người quan sát và cường độ của lực hấp dẫn nơi đó. Thời gian không còn tính phổ cập nữa. Quá khứ của người này có thể là tương lai của người kia. Vậy sự khác biệt giữa thời gian tâm lý là thế nào? Phật giáo chối bỏ thời gian tuyệt đối và chỉ sử dụng thời gian tâm lý như một yếu tố kích thích sự hành trì tâm linh. Không có ở bình diện hạt nhân, có ở cùng khắp ở bình diện vũ trụ, mũi tên thời gian phải chăng chỉ là một nhãn hiệu của tinh thần?
Thuận: Suy tư về thời gian là việc đầu tiên của môn siêu hình, đó là lời của Gaston Bachelard: Thời gian không phải là một niệm để diễn tả như Saint Augustin đã nói vào thế kỷ thứ IV: “Thời gian là gì? Nếu có ai hỏi thì tôi biết. Nhưng khi tôi cần giải thích thì tôi lại không biết gì”.
Thời gian giữ một vai trò quan trọng không những trong siêu hình học mà cả trong vật lý học. Trong các cuộc nghiên cứu về thiên nhiên, luôn luôn các nhà vật lý phải đối đầu với vấn đề thời gian. Điều này có vẻ mâu thuẫn khi ta mới nhìn, vì lẽ thời gian thì phù du còn các nhà vật lý thì muốn tìm ra định luật tức là những quan hệ không thay đổi. Galilée vào thế kỷ 16, là người đầu tiên đã xem thời gian như một kích thước cơ bản để đo đạt sự chuyển động các vật thể. Nhưng chính Newton với những luật cơ học đã cho thời gian một định nghĩa minh bạch. Ông đã xác định việc di chuyển các vật thể trong không gian bằng vị trí và tốc độ của chúng vào những thời điểm kế tiếp nhau. Thời của Newton là duy nhất, tuyệt đối và phổ cập. Nó trôi chảy cùng một cách theo cái nhìn của mỗi người, và mỗi con người trên vũ trụ đều cùng chia sẻ một quá khứ, một hiện tại và một vị lai. Không gian và thời gian được phân định rõ ràng: thời gian trôi đi mà không có sự can thiệp nào của không gian. Năm 1905 quan niệm về một thời gian tuyệt đối đã được đặt lại bởi Einstein khi ông công bố lý thuyết hạn chế về lực tương đối. Với Einstein, thời gian không còn cố định và phổ cập như Newton đã nghĩ. Nó không còn dửng dưng với vũ trụ trong đó nó trôi chảy, mà trở nên co giãn khi nó lệ thuộc vào sự chuyển động của người quan sát. Khi người ta di chuyển càng nhanh thì thời gian càng chậm lại. Như vậy một nhà du hành vũ trụ di chuyển với tốc độ bằng 87% tốc độ ánh sáng sẽ thấy thời gian chậm lại một nửa. Trong tàu vũ trụ, anh ta sẽ già đi kém hai lần người em song sinh ở mặt đất. Ông em có nhiều nếp nhăn hơn, nhiều tóc bạc hơn, tim đập nhanh hơn, và đặc biệt những nhu cầu về đời sống như ăn nhiều hơn, uống nhiều hơn, đọc sách cũng nhiều hơn. Đó là nghịch lý anh em song sinh Langevin theo tên của nhà bác học Pháp đã diễn tả. Lý thuyết về luật hấp dẫn đã chỉ ra rất rõ ràng về sự chậm lại của thời gian: Khi tốc độ gia tăng, thì thời gian chậm lại. Khó nhận biết trong sinh hoạt hằng ngày, sự chậm lại của thời gian sẽ rõ rệt với những tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng (300000 km/s). Ở độ 99% tốc độ ánh sáng, thời gian chậm lại 7 lần. Ở độ 99,9% tốc độ ánh sáng thời gian chậm lại 22,4 lần. Sự chậm lại của thời gian này không phải một trò của tâm trí. Nó đã được quan sát trong trường hợp những hạt được phóng đi với tốc độ cao trong máy gia tốc: những hạt này sống lâu hơn là khi còn nằm im, trước khi tan rã.
Một cuộc cách mạng tư tưởng khác: không gian và thời gian không còn bị tách biệt rõ ràng và Einstein đã gom chúng lại thành một cặp duy nhất. Không gian cũng trở nên co giãn. Và hoạt động của hai thành viên này bổ sung cho nhau. Khi mà thời gian chậm lại thì không gian cũng co lại. Nếu một trong hai anh em song sinh ngồi trong tàu vũ trụ với tốc độ 87% tốc độ ánh sáng thì không những anh ta già đi kém hai lần ông em ở trái đất, mà không gian của anh ta cũng thu hẹp lại: ở mặt đất người em sẽ nhìn thấy con tàu của anh mình rút ngắn lại phân nửa.
Thời gian còn chậm lại không những do tốc độ mà còn do luật hấp dẫn nữa. Đây là điều mà Einstein đã công bố năm 1915 trong lý thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Ở gần lỗ đen lực hấp dẫn rất lớn, đồng hồ của nhà du hành vũ trụ chậm lại so với đồng hồ của một người ở mặt đất. Sự chậm lại của thời gian còn được thực nghiệm khi các nhà vật lý có thể đo được một sự thay đổi của thời gian bằng 2,5 phần triệu của một phần tỷ giây đồng hồ giữa trên và dưới một tòa tháp cao 23m tại Đại học Harvard. Đồng hồ ở mặt đất chậm hơn vì lẽ nó nằm gần tâm điểm trái đất, nơi đó lực hấp dẫn hơi mạnh hơn ở trên. Đây thật sự là giá trị đúng đã được tiên đoán bởi thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Tính co giãn của thời gian có một hậu quả cơ bản: nó mất đi tính chất phổ biến của nó, và nó không còn giống nhau ở mỗi người. Hiện tại của tôi có thể là quá khứ của một người khác, và là vị lai của người thứ ba nếu hai người sau chuyển động đối với tôi. Vì lẽ ý niệm đồng thời mất đi ý niệm của nó, chữ hiện thời hóa ra rắc rối. Và nếu đối với một người khác vị lai đã đến, trong khi quá khứ hãy còn là hiện tại, như vậy mọi thời điểm đều giống nhau. Không có thời gian nào là ưu tiên cả. Theo Einstein sự trôi chảy của thời gian chỉ là ảo tưởng và ông diễn tả ý này để làm dịu bớt nỗi buồn trong một bức thư viết năm 1955 khi bạn ông- Michelle Besso qua đời, và sau đó chưa đến một tháng ông cũng tạ thế. Ông nói: “Với chúng tôi, sự phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ là một ảo tưởng mặc dù rất dai dẳng”. Còn đối với nhà vật lý hiện đại thời gian không trôi chảy: nó chỉ bất động như một đường thẳng đi vào vô tận theo cả hai chiều hướng.
Matthieu: Theo Phật giáo, thời gian vật lý tuyệt đối chỉ là một ý niệm. Tự nó không có mà chỉ có tương quan với các hiện tượng, và với sự sống. Thời gian không thể nắm bắt được ngay ở giây phút hiện tại khi nó ngừng trôi, và như vậy nó vô thủy vô chung. Đối với hiện tại thì quá khứ đã chết còn tương lai thì chưa đến. Làm thế nào để có hiện tại khi nó bị treo giữa cái không còn nữa và cái chưa đến?
Thời gian vật lý không có tự tính vì lẽ người ta không thể biết một thời điểm rõ ràng trong các thời điểm liên tục của thời gian. Ta không thể nhận chân ra nó vào ban đầu, trong khi, hay lúc nó chấm dứt. Nếu ta định nghĩa một giới hạn gồm một tập hợp giữa ban đầu, trong khi, và khi chấm dứt, rõ ràng tập hợp này không có trong một của ba thành phần. Thời hạn cũng không thể có ngoài khi khởi đầu, khoảng giữa và khi chấm dứt và vì vậy quan niệm về một thời hạn chỉ có tính cách quy ước. Thời gian cũng như không gian chỉ có do kinh nghiệm của chúng ta khi tiếp xúc với các hiện tượng. Nếu không có hiện tượng thì không thể có thời gian.
Thuận: Phải phân biệt rõ ràng thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian vật lý không tùy thuộc vào nhận thức của chúng ta. Đó là thời gian của đồng hồ mà người ta đo được nhờ vào một sự chuyển động đều đặn: sự rung động của một nguyên tử, hay sự chuyển động của trái đất chung quanh mình. Vì thế, nói về thời gian hay không gian trước khi vũ trụ được lập thành, không có ý nghĩa nào cả vì lẽ khi ấy không có một chuyển động nào có thể đo đạc được. Theo thuyết Big Bang, thời gian và không gian nảy sinh một lượt cùng với vũ trụ. Thánh Augustin cũng quan niệm thời gian xuất hiện cùng với thế gian. Ông cho rằng đáng buồn cười với ý nghĩa Thượng đế đã chờ đợi một thời gian vô tận trước khi quyết định tạo dựng thế gian. Theo ông thì thế gian không phải được tạo dựng theo thời gian mà cùng với thời gian.
Trái lại thời gian tâm lý thì không trôi chảy đều đặn. Nó thật sự rất co giãn. Thật vậy, khi xem cùng một vở kịch, một khán giả buồn nản sẽ thấy thời gian kéo dài lê thê, còn người bạn anh ta thì lại thích thú và không còn cảm thấy thời gian trôi qua nữa. Một giây phút sợ hãi hay thất vọng có thể xem như kéo dài cả thế kỷ, trong khi một thoáng hạnh phúc lại qua nhanh như một chớp mắt. Mặt khác, càng già đi thì chúng ta lại cảm thấy thời gian càng qua nhanh. Sự trái ngược giữa thời gian tâm lý và thời gian vật lý luôn luôn xuất hiện trong lịch sử tư tưởng. Với các triết gia tiền Socrates, thời gian gắn liền với hoạt động như thời gian vật lý. Heraclite đã nói: “Thời gian cũng giống như một đứa bé chơi trictrac (một loại cờ) còn Aristote thắc mắc nếu không có “tâm” thì liệu có thời gian hay không. Thế kỷ thứ IV St. Augustin phản bác lý luận của Aristote: “Thời gian không phải là sự di chuyển của một vật mà nó chỉ trôi chảy trong tâm hồn vì điều ta chờ mong (vị lai) trở thành điều để ta chú tâm (hiện tại) rồi lại rơi vào ký ức (quá khứ). Lập trường này được triết gia người Đức Edmund Husserl công nhận vào thế kỷ 20.
Matthieu: Kant cũng nói rằng ý niệm về thời gian và không gian tùy thuộc vào sự giao tiếp của chúng ta với thiên nhiên chớ không phải tự thiên nhiên mà có: “Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan do chúng ta trực giác, chứ nó không thể có ngoài chúng ta”. Một ý niệm tương tự cũng xuất phát từ các triết gia Phật giáo khi cho rằng thời gian không hề có tự tính, nếu không có hiện tượng và không có người quan sát thì cũng không có thời gian. Nếu nói về sự khởi đầu của thời gian thì chỉ là một ảo tưởng vì một khi đã đặt vấn đề khởi đầu thì người ta sẽ tự hỏi cái gì đã có trước sự khởi đầu ấy. Thay vì nói như Einstein, thời gian vật lý luôn luôn ở tại đó giống như một kích thước bất động, ta sẽ nói là nó không hề ở đó, như vậy khác gì nói thời gian là mộng ảo.
Thuận: Saint Augustin cũng nói không có một thứ thời gian nào khác ngoài thời gian tâm lý. Ngoài ký ức, sự chú tâm vào hiện tại và sự chờ mong tương lai, thời gian chỉ là cái “không”. Vì thế nên tất cả đều ở trong thời gian nên tất cả đều không thật có, chỉ là hiện tượng. Thời gian tâm lý mà chúng ta cùng cảm nhận được rất khác với thời gian vật lý. Chúng ta nghĩ rằng nó chuyển động. Theo chúng ta nó trôi chảy như một dòng sông. Trên con tàu chúng ta bỏ neo ở hiện tại, chúng ta ngắm nhìn thời gian rời xa quá khứ và ngóng chờ những đợt sóng kế tiếp của vị lai. Chúng ta cho thời gian một chiều hướng và chính sự hình dung thời gian trong không gian mà chúng ta cảm nhận quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ thì đầy dẫy kỷ niệm còn tương lai thì chứa đựng những ngóng chờ. Có thể là hoạt động của não bộ làm chúng ta cảm nhận được thời gian đang trôi qua. Những sự kiện của thế giới bên ngoài được chuyển từ các giác quan đến bộ não để tổng hợp thành một hình ảnh trong tâm thức. Hoạt động của não bộ đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của nhiều vùng khác nhau với những chức năng khác nhau. Theo nhà thần kinh sinh học Francisco Valera, vì sự phức tạp của công việc nối kết và tổng hợp những hoạt động của não bộ, mà chúng ta mới cảm nhận được về thời gian. Từ hoạt động liên hợp và đồng bộ của những tế bào thần kinh, một trạng thái sinh học vượt trội hình thành. Vì lẽ hoạt động này chỉ vào khoảng thời gian từ vài phần mười đến vài phần trăm của một phần ngàn giây, chúng ta có cảm giác một hiện tại có bề dày nào đó. Nhưng sự đồng bộ của các tế bào thần kinh không cố định và không kéo dài, và tiếp tục các tế bào thần kinh đồng bộ khác đi vào hoạt động và tạo nên những trạng thái sinh học kế tiếp và chính những trạng thái này cho chúng ta cảm giác thời gian đang trôi và có sự liên tục về thời gian. Một trong những đặc tính quan trọng nhất của thời gian tâm lý là nó luôn luôn tiến về phía trước và đưa chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Giống như một mũi tên khi rời khỏi dây cung, thời gian tâm lý không bao giờ trở lui, và chính vì sự không trở lui đó mà chúng ta bị ám ảnh bởi cái chết. Chúng ta biết chắc chắn là chúng ta sẽ chết.
Matthieu: Phật giáo sử dụng thời gian tâm lý để chế ngự sự lo sợ về cái chết, và để tăng cường sự kiên trì trong thực hành việc chuyển hóa nội tâm. Một Phật tử thuần thành sẽ không sợ cái chết, vì nếu thiền định miên mật người Phật tử sẽ đón chờ một cách an lạc khi giờ chết đến. Gampopa, vị hiền triết Tây Tạng thế kỷ 14 đã viết: “khi còn trẻ, thì người ta sợ việc sinh và tử như một con nai muốn thoát ra khỏi bẫy. Ở tuổi trung niên thì không nên tiếc gì nữa dù có phải chết đi như người nông phu đã chăm bón cẩn thận mảnh ruộng của mình. Và khi đã già thì phải hạnh phúc như người đã thực hiện xong một công việc to lớn”.
Một ẩn sĩ Tây Tạng thường lật úp cái bát mỗi tối trước khi ngủ để phòng trường hợp không còn thức dậy được nữa (ở Tây Tạng người ta thường lật úp bát khi có người chết). Ông ta nghĩ rằng mỗi phút giây ông ta đang tiến gần đến cái chết. Mỗi khi thở ra, ông ta cảm thấy hạnh phúc khi được thở vào. Bồ tát Long Thọ đã viết:
Nếu cuộc đời bị vùi lấp bởi muôn ngàn đau khổ này
Lại mong manh hơn cả một bong bóng trên mặt nước
Thì có phải mầu nhiệm biết bao sau khi ngủ
Lại được thở vào, thở ra và thức dậy hoàn toàn khỏe khoắn
Tất cả những gì mà ta gom góp sau cùng rồi cũng mất đi
Cái gì mà ta xây dựng rồi cũng sẽ đổ sụp
Cái gì mà được kết nối rồi cũng sẽ chia lìa
Và cái gì sinh động rồi cũng sẽ biến mất trong cái chết.
Việc nhận thức thời gian trôi không thể đảo ngược được là liều thuốc kích thích sự tinh tấn của chúng ta. Liên Hoa Sanh, vị tổ khai sáng Phật giáo ở Tây Tạng đã nói:
Giống như dòng nước trôi về biển cả
Như mặt trời, mặt trăng đi về phía sau núi khi chiều xuống
Như ngày và đêm, giờ và những giây phút trôi qua
Cuộc đời luôn luôn tuôn chảy mà không hề lay động.
Đức Phật cũng dùng hình ảnh một lực sĩ nắm bắt bốn mũi tên đang bay do bốn cung nỏ bắn ra theo bốn phía khác nhau. Tuy vậy Người bảo: “Thời gian và cái chết còn đến mau hơn thế”. Đối với một phật tử thuần thành, thời gian là một vật quý vô giá và không nên lãng phí một phút giây nào.
Thuận: Thật vậy, việc thời gian trôi chảy so với tâm thức bất động của chúng ta không thích hợp với khoa vật lý đương đại. Nếu thời gian trôi thì tốc độ của nó sẽ là bao nhiêu? Một câu hỏi hoàn toàn vô lý. Tôi phải nói rõ rằng trên bình diện vi mô thời gian không còn đi theo một chiều nữa. Trong thế giới những hạt bụi, thời gian có thể trôi theo hai chiều. Hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Nếu đảo ngược lại thứ lớp các sự kiện trong thời gian, chúng ta lại có hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Cả hai cảnh trên đều giống hệt nhau. Những định luật vật lý để diễn tả sự kiện này không hề nói lên là thời gian đã đi theo một chiều. Những phim ảnh về thế giới các hạt bụi có thể chiếu theo hai chiều.
Matthieu: Thế tại sao trong thế giới những hạt bụi thời gian không còn tuyệt đối, thì trong thế giới vĩ mô lại có thứ thời gian khác tồn tại ngoài tâm thức của chúng ta.
Thuận: Như tôi đã nói với bạn, Einstein đã nghĩ rằng thời gian trôi lăn chỉ là một ảo tưởng. Khi đập tan ý niệm phổ cập của thời gian, ông đã phá vỡ sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và thời gian. Ông hy vọng loại ra được ý niệm không đảo ngược được trong vật lý. Nhưng mũi tên thời gian lại xuất hiện trong những trạng huống khác cả trong thế giới vi mô của cơ học lượng tử, và thuyết phục hơn trong thế giới vĩ mô. Tất cả dường như có một mũi tên thời gian tâm lý luôn đi từ phía trước, và một mũi tên nhiệt động học chỉ đi theo một chiều hướng nhất định. Điều này dựa trên định luật thứ hai của môn Nhiệt động học cho rằng mọi thứ rồi cũng sẽ xáo trộn. Chúng ta có thể thấy những biểu hiện của sự gia tăng xáo trộn ấy khi quan sát một cục nước đá tan dưới mặt trời, hay những hòn đá của một lâu đài cũ bị bỏ hoang phế. Trong cả hai trường hợp trạng thái đầu tiên và trạng thái sau cùng khác hẳn nhau. Sự di chuyển từ quá khứ đến vị lai xác định chiều hướng trôi chảy của thời gian tâm lý, sự thay đổi từ một trạng thái trật tự đến một trạng thái mất trật tự nói lên chiều hướng của thời gian nhiệt động học. Phật giáo thường nói đến vô thường, vậy có đề cập đến một chiều hướng của sự vô thường đó chăng?
Matthieu: Chắc chắn rằng Phật giáo ý thức được chiều hướng của thời gian quy ước. Sự vô thường tế nhị của các hiện tượng gần giống như ý niệm nhiệt động học: nếu một cái nhà già đi theo năm tháng và sau cùng trở thành hoang phế, là vì không có hiện tượng nào dù nhỏ như hạt bụi cũng không bao giờ giữ được sự nguyên vẹn ban đầu nhưng luôn mang theo mình mầm móng của sự hủy hoại.
Thuận: Năm 1854 mũi tên nhiệt động học làm dấy lên tiếng kêu tuyệt vọng của nhà vật lý người Đức Herman Von Hemholtz: “Vũ trụ đi về cái chết!”. Theo ông một nhiệt động cứ tăng lên theo sau các tạo dựng của thiên nhiên bắt buộc phải đưa đến sự chấm dứt các hoạt động sáng tạo trong lòng vũ trụ. Tòa lâu đài vũ trụ bao gồm các ngôi sao, các hành tinh, các thiên hà v.v... những sáng tạo của những thiên tài con người như những bản nhạc của Mozart, tranh của Monet sẽ bị chôn vùi dưới những mảnh vụn của một vũ trụ hoang phế.
Nếu định luật thứ hai của môn nhiệt động học đưa đến một cách khắc nghiệt sự tàn lụi và cái chết của vũ trụ, làm sao để hiểu được chúng ta lại không sống trong một vũ trụ hoàn toàn bị xáo trộn? Làm sao để giải thích sự tổ chức có hệ thống và sự hài hòa của vũ trụ? Làm thế nào vũ trụ có thể thoát ra sự phức tạp đó? Làm sao từ một cái không chứa đầy năng lực lại có thể sản sinh những hạt bụi sơ khai, những thiên hà, những ngôi sao, hành tinh cả sự sống và tâm thức con người. Định luật thứ hai về nhiệt động học có bị xâm phạm ở một vài nơi nào đó trong vũ trụ chăng? Câu trả lời là không. Nhiệt động học không ngăn cấm một vài vùng có tổ chức, có trật tự xuất hiện trên vũ trụ với điều kiện chúng phải đi cùng với sự sáng tạo những nơi khác lộn xộn hơn. Để minh xác điều này hãy trở lại với ví dụ tòa lâu đài bị bỏ hoang. Một lực lượng thợ thuyền có thể tái tạo lại được nó, nhưng muốn làm được thế họ phải ăn uống nhiều hơn, và năng lượng đều đặn mà họ tạo ra với thức ăn lại đổ vào năng lượng tiêu hao cho công việc. Như vậy sau cùng sự lộn xộn mà các ông thợ tạo ra cao hơn trật tự do sự tái tạo lại cái lâu đài kia. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học vẫn được tôn trọng.
Mũi tên thời gian nhiệt động học gắn liền với mũi tên thời gian vũ trụ được đặt trên căn bản sự trương nở của vũ trụ. Khi thời gian trôi đi, các thiên hà rời xa nhau, vũ trụ nguội lại và loãng dần đi. Đến phút thứ ba của sự lập thành vũ trụ, nhiệt độ lên đến hàng triệu độ. Sau 15 tỷ năm tiến hóa, nhiệt độ rơi xuống– 2700 tức là nhiệt độ của ánh sáng hóa thạch. Trong lòng cái lạnh kinh người ấy, những ngôi sao trở nên nguồn nhiệt lượng và năng lượng nhờ vào những phản ứng nguyên tử đã xảy ra trong lòng chúng mà sức nóng lên đến hàng mười triệu độ. Sự giảm thiểu những sự lộn xộn gây ra bởi sự xuất hiện các cấu trúc phức tạp như những hành tinh, những ngôi sao, thiên hà được bù đắp bởi nhiệt lượng mà các ngôi sao thải ra trong không gian. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học lại được tôn trọng. Các mũi tên thời gian vũ trụ và thời gian nhiệt động học nối kết chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên những vấn đề về chiều hướng thời gian còn lâu mới được giải quyết vì bị che phủ bởi một màn sương mù dày đặc. Nếu một ngày nào đó vũ trụ tiến đến một sự trương nở tột bực và sụp đổ, thời gian nhiệt động học gắn liền với sự trương nở vũ trụ có đảo ngược lại chăng trong một vũ trụ bị co lại. Đống đá hỗn độn kia có đột nhiên biến trở lại thành một lâu đài tráng lệ chăng? Và thời gian tâm lý có trôi lăn theo chiều hướng đảo ngược? Thật ra, nếu điều này xảy ra cư dân của một vũ trụ bị co lại sẽ tưởng tượng như đang ở trong một vũ trụ trương nở vì các cấu trúc não bộ của họ cũng sẽ bị đảo ngược. Vấn đề đảo ngược thời gian do đó không thể đặt ra được, hay đó chỉ là một trò chơi của tinh thần.
Nhưng chúng ta hãy trở lại cuộc tranh luận về ý niệm thời gian vật lý của Einstein. Triết gia người Pháp Henri Bergson không chấp nhận lý thuyết của Einstein theo đó thời gian chỉ là một ảo tưởng không có thật cũng không có kỳ hạn. Theo Bergson thời gian phải có một “bề dày” và chỉ bề dày đó mới phù hợp với đời sống nội tâm. Chỉ có kỳ hạn của thời gian mới cho phép tự do sáng tạo, tiến bộ và phát minh cùng sự bừng sáng tinh thần. Triết gia người Đức Edmund Husserl cũng nói đến “thời gian không dồn nén được” mà khoa thần kinh sinh học công nhận. Thời gian vật lý theo quan niệm Einstein có phải là tất định và trái với đạo làm người không? Nếu mọi thứ sắp đến đều đã được định sẵn thì còn đâu là ý chí phấn đấu và hy vọng?
Matthieu: Ý niệm về mọi sự sắp xảy ra đều đã được định trước là vô lý. Như chúng ta đã biết khi nói về sáng tạo, nếu tất cả đều đã được định trước, tất cả nguyên nhân và điều kiện của tương lai đều phải có sẵn ở hiện tại. Và nếu được như thế thì không có gì ngăn cản chúng xảy ra lập tức. Và nếu như chúng không hiện diện tất cả ở hiện tại thì vẫn còn cái gì đó khiến chúng không xảy ra.
Thuận: Làm thế nào để dung hợp thời gian tâm lý và thời gian vật lý?
Matthieu: Ý niệm về thời gian vật lý phải chăng đơn giản là một sự trừu tượng hóa thời gian tâm lý, cái thời gian sinh ra từ sự phân biệt giữa cái gì đã xảy ra và cái gì chưa đến? Người ta có thể tháo gỡ ý niệm thời gian vật lý khi hiểu rằng một thoáng chốc không có thời hạn và như vậy tổng số những thoáng chốc cũng không thể có thời hạn. Thời gian chỉ là một nhãn hiệu mà ta dán lên cho nhận thức của ta về một sự thay đổi. Nếu thời gian vật lý có một tính cách tuyệt đối thì phải có sự liên tục, nghĩa là phải có một sự giao tiếp giữa quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai.
Thuận: Đúng thế.
Matthieu: Một thoáng chốc là điểm không thời hạn giữa hiện tại và tương lai. Nhưng làm sao mà cái thoáng vừa trôi qua và cái thoáng hiện tại cùng có chung một cái gì không? Nếu có, hoặc là cái thoáng hiện tại biến thành quá khứ, và cái thoáng quá khứ trở thành hiện tại. Cũng thế, nếu cái thoáng hiện tại có điểm nào giao tiếp với cái thoáng tương lai, thì hoặc hiện tại trở thành tương lai và tương lai lại trở thành hiện tại. Như vậy muôn ngàn thoáng chốc đã qua và sắp đến đều có thể lẫn lộn với hiện tại.
Thuận: Người ta thấy một lập luận tương tự ở Aristote trong quyển “Vật lý”: “Nếu trước và sau cả hai cùng ở chung trong một thoáng chốc thì cái gì sẽ xảy ra nếu một sự kiện cách đây mười ngàn năm lại đồng thời với cái đang ở hiện tại”. Nhưng tôi cũng nhắc cho bạn rõ là với các nhà thần kinh sinh học như Valera cái thoáng chốc hay nói khác đi là cái hiện tại không phải là không có thời hạn. Thời hạn này không dưới vài phần mười của một phần ngàn giây tức là thời hạn tối thiểu để các tế bào thần kinh hoạt động.
Matthieu: Lập luận mà tôi đưa ra không đề cập đến thời gian sinh lý và chủ quan, mà chỉ nói đến thời gian vật lý. Nó phá vỡ cái cảm nghĩ xem thời gian như một thực tại đang trôi chảy. Nếu thời gian trôi chảy không thể bắt gặp được trong giây phút hiện tại mà hiện tại thì không dời đổi, làm thế nào trên bình diện chân lý tương đối ta có thể đi từ hiện tại sang tương lai? Bồ tát Thế Thân viết trong A tỳ đàm: “Do sự kết thức tức khắc của một thoáng chốc cho nên không có sự chuyển động thật sự, mà chỉ có sự sản sinh không ngừng dứt các thoáng chốc”.
Thuận: Người ta lại tìm thấy ý này trong câu nói của Bòece: “Cái hiện tại khi trôi qua là thời gian, còn cái hiện tại đang dừng lại là thiên thu”. Theo Kant thời gian không thể tách biệt khỏi dòng tư tưởng nhận ra nó. Ông đã nghĩ rằng thời gian cho phép sự kế tục các sự việc trong khi không gian thì giúp cho sự đồng thời xuất hiện các sự việc đang hiện thực. Nhưng ông ta vẫn xem không gian và thời gian tách biệt như Newton, và như vậy là trái với quan niệm của Einstein. Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng xem không gian và thời gian như những thực thể tách biệt?
Matthieu: Không hẳn như vậy vì lẽ Phật giáo không quan niệm không gian như một thực tại. Không gian cũng như thời gian tương quan với trải nghiệm mà chúng ta có được với những hiện tượng vật lý rõ ràng. Nếu ta quan sát một vùng trong không gian dù rộng lớn đến đâu, cái vùng đó cũng chỉ là một ý niệm. Không gian không thể được xem từ một thành phần của nó, hoặc tách rời khỏi các thành phần của nó. Nếu thực thể không gian gồm tất cả thành phần của nó, thì để đi vào không gian đó, ta phải đồng thời đi vào một lượt các thành phần của nó, điều không thể xảy ra được. Như vậy thực thể không gian chỉ là một nhãn hiệu tinh thần, không có tự tính.
Thuận: Còn quan niệm thời gian có giống như quan niệm Einstein là thời gian không trôi chảy chăng? Theo thuyết tương đối thời gian vật lý là bất động đứng im. Như vậy thì trong toàn bộ cái đôi “không, thời” có chứa đựng tất cả các sự kiện từ khi vũ trụ bắt đầu cho đến khi chấm dứt không?
Matthieu: Không, thời gian không bất động và đứng im vì lẽ thời gian không thực. Đôi “không, thời” của Einstein không thể xem như tuyệt đối mà chỉ là một quy ước. Bản thể tuyệt đối của thời gian là tánh không, nó không có tự tính. Người ta gọi điều này là “chiều hướng thứ tư” của thời gian vượt trên ba chiều kia là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chiều hướng thứ tư này đôi khi được đồng hóa với hiện tại, vì lẽ hiện tại không có thời gian. Trên bình diện thiền định, thiền giả ở trong trạng thái an lạc của hiện tại và dễ dàng nhận ra tánh không sáng ngời của Tâm, và sự rõ ràng trong suốt của thế giới hiện tượng. Và điều này là bất di bất dịch, không phải theo nghĩa một thực thể thường hằng mà là một trạng thái chân xác của tinh thần và của hiện tượng, vượt khỏi mọi ý niệm đến và đi, hiện hữu hay không hiện hữu, một hay tất cả, khởi đầu hay chấm dứt.
Thời gian là gì sự ảo tưởng về thời gian
Einstein và Bergson - Cuộc tranh luận làm thay đổi nhận thức về thời gian
30/06/2017 08:30 -
Jimena Canales
LTS: Bản dịch dưới đây được trích từ ba chương đầu
của quyển sách “Nhà vật lý và triết gia: Einstein, Bergson và cuộc tranh
luận đã làm thay đổi nhận thức của chúng ta về thời gian” (2015) của
Jimena Canales, giáo sư Lịch sử Khoa học tại Đại học Ilinois Ubarna
Champaign. Việc Tia Sáng sử dụng nội dung quyển sách đã được sự cho phép
của NXB Princeton University Press và tác giả.
Lý do Einstein được trao giải Nobel vì “những khám phá của ông về hiệu ứng quang điện” thay vì thuyết tương đối chính là vì sự phản ứng của Bergson. Ảnh: Einstein nhận giải Nobel năm 1921. Nguồn: Albert Einstein Archives / Princeton University Press.
Ngày mùng 6 tháng 4 năm 1922, Einstein đã gặp một người mà ông sẽ không bao giờ quên. Đó là một trong những triết gia nổi tiếng bậc nhất của thế kỷ, được biết đến rộng rãi vì đã ủng hộ một lý thuyết về thời gian có thể giải thích được những chuyện mà đồng hồ không thể: ký ức, linh cảm, kỳ vọng và dự đoán. Cuộc gặp gỡ đã được sắp xếp dưới hình thức một sự kiện học thuật thân mật. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như mong đợi. Nhà vật lý và triết gia đã xung đột, mỗi người bảo vệ một ý kiến trái chiều, thậm chí là xung khắc nhau, trong cách nhận thức về thời gian. Tại Hội triết học Pháp – một trong những tổ chức đáng kính nhất ở Pháp – họ đã đối đầu với nhau trước sự chứng kiến của một nhóm trí thức chọn lọc. “Cuộc đối thoại giữa triết gia vĩ đại nhất và nhà vật lý lỗi lạc nhất của thế kỷ 20” đã được chép lại một cách đầy đủ. Nó hoàn toàn thích hợp cho kịch bản một vở kịch. Cuộc gặp gỡ và những câu từ mà họ phát biểu sẽ còn được nhắc đến trong suốt phần còn lại của thế kỷ.
Triết gia ấy tên là Henri Bergson. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, tên tuổi, uy tín và sự ảnh hưởng của ông hoàn toàn vượt trội nhà vật lý, người mà trái lại, ngày nay lại quá nổi tiếng [so với nhà triết học]. Bergson được so sánh với Socrates, Copernicus, Kant, Simon Bolívar, và thậm chí là cả với Don Juan. Nhà triết học John Dewey, được biết đến như người đại diện chính cho chủ nghĩa thực dụng Mỹ, đã khẳng định đầy mạnh mẽ rằng “không có vấn đề triết học nào thể hiện được cùng bộ mặt và khía cạnh như nó đã thể hiện trước Giáo sư Bergson.” William James, giáo sư tại Đại học Harvard và là một nhà tâm lý học nổi tiếng, đã mô tả cuốn Creative Evolution (1907) (Sự tiến hóa sáng tạo) của Bergson là “một phép màu thực sự”, đánh dấu “sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mới”. Với James, Matter and Memory (1896) (Vật chất và Ký ức) [một quyển sách khác của Bergson] đã tạo ra “một dạng lý thuyết mang tính cách mạng kiểu Copernic, tương đương với ‘Principles’ (Các nguyên lý) của Berkeley hay ‘Critique’ (Phê phán) của Kant.” Nhà triết học Jean Wahl có lần đã nói rằng “nếu được yêu cầu nêu tên bốn triết gia vĩ đại nhất, thì bạn có thể trả lời rằng: Socrates, Plato – gộp hai người họ làm một – Descartes, Kant và Bergson.”
Danh tiếng của Bergson đã bị nguy hại sau khi ông đối đầu với chàng trai trẻ. Nhưng Einstein cũng vậy. Những chỉ trích hướng về phía nhà vật lý ngay lập tức gây bất lợi cho ông. Vài tháng sau, giải thưởng Nobel được trao cho Einstein không phải nhờ lý thuyết tương đối – lý thuyết đã mang lại danh tiếng cho ông. Thay vào đó, nó được trao cho ông “bởi khám phá của Einstein về hiệu ứng quang điện” – một lĩnh vực khoa học không mang lại sự ngạc nhiên cho trí tưởng tượng của công chúng ở mức mà lý thuyết tương đối đã làm được. Nguyên nhân đằng sau quyết định tập trung vào các công trình khác thuyết tương đối trực tiếp bắt nguồn từ nhận xét của Bergson ở Paris ngày hôm đó.
Chủ tịch Hội đồng xét giải Nobel giải thích rằng mặc dù “hầu hết các thảo luận tập trung vào lý thuyết tương đối của ông ấy,” nhưng nó không xứng đáng với giải thưởng. Tại sao không? Có nhiều lý do phức tạp khác nhau, nhưng nguyên nhân chính được đưa ra buổi tối hôm đó là rất rõ ràng: “Không có gì bí mật là nhà triết học Bergson đã thách thức lý thuyết này ở Paris.” Bergson đã chỉ ra rằng lý thuyết tương đối “đi đôi với tri thức luận” hơn là với vật lý – và do vậy nó “vốn dĩ là chủ đề của các cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các nhóm triết học.”
Lời giải thích hôm đó của vị chủ tịch hội đồng chắc hẳn đã nhắc nhở Einstein về những sự kiện mùa xuân năm trước ở Paris. Rõ ràng ông đã khơi lên một cuộc tranh cãi và đây chính là hậu quả. Ông đã không thể thuyết phục nhiều nhà tư tưởng về giá trị định nghĩa của mình về thời gian, đặc biệt là khi lý thuyết của ông bị so sánh với lý thuyết của triết gia nổi tiếng. Trong bài diễn văn nhận giải của mình, Einstein vẫn rất bướng bỉnh. Ông đọc một bài giảng có nội dung không phải về hiệu ứng quang điện, lý thuyết đã chính thức mang lại cho ông giải thưởng, mà về lý thuyết tương đối – công trình đã đưa ông lên vị thế một ngôi sao nổi tiếng khắp thế giới nhưng khi ấy vẫn đang bị đặt nghi vấn.
Việc nhắc đến tên tuổi của Bergson của người trao giải thưởng Nobel là một chiến thắng ngoạn mục cho triết gia, người đã dành trọn một đời và có một sự nghiệp huy hoàng nhờ chỉ ra rằng không nên hiểu thời gian chỉ qua lăng kính khoa học. Ông nhấn mạnh một cách bền bỉ và kiên định rằng phải hiểu thời gian theo kiểu triết học. Nhưng chính xác thì ý ông ta là gì? Hóa ra, triết học của Bergson cũng gây tranh cãi như vật lý của Einstein vậy.
Vào cái ngày “thực sự lịch sử” khi hai người gặp nhau, Bergson đã vô tình bị cuốn vào một cuộc thảo luận mà ông rõ ràng đã có ý tránh. Cho tới thời điểm ấy, nhà triết học có uy tín hơn Einstein rất nhiều. Ông nói trong khoảng nửa giờ. Ông đã bị một người đồng nghiệp xấc xược kích động, để rồi bị người tổ chức sự kiện ép phát biểu. “Chúng tôi còn Einstein hơn cả ngài, Ngài Einstein ạ,” ông nói. Những tiếng nói phản đối ông vang lên khắp phòng. “Tất cả chúng tôi cứ nghĩ rằng Bergson đã chết rồi,”- nhà văn, họa sĩ Wyndham Lewis giải thích – “nhưng thuyết tương đối, kỳ lạ thay vừa mới nêu ra đã làm ông ấy sống lại.”
Nhà vật lý đáp lại sau không đầy một phút – trong phần trả lời ấy có một câu nói phê phán mà sau này vẫn thường xuyên được người ta trích dẫn: “Chẳng có thời* nào của các nhà triết học cả”1. Một câu trả lời thật khiêu khích.
Những gì Einstein nói sau đó ở buổi tối hôm ấy còn gây tranh cãi hơn nữa: “Chỉ có một loại thời gian khác với thời gian của các nhà vật lý đó là thời gian tâm lý.” Ngay tại thời điểm đó Einstein đã mở màn cho cuộc tranh luận qua việc khẳng định chỉ có hai cách hiểu đúng về thời gian: hiểu theo kiểu vật lý và hiểu theo kiểu tâm lý. Mặc dù gây tranh cãi trong những bối cảnh đặc biệt mà Einstein đề cập, hai cách chiêm nghiệm về thời gian này đã có một lịch sử rất dài. Với Einstein, chúng thậm chí còn có thể có lịch sử dài hơn – trở thành hai lăng kính chính phản chiếu hầu hết những nghiên cứu về bản chất của thời gian trong suốt thế kỷ hai mươi. Viễn cảnh đơn giản, nhị nguyên về thời gian do Einstein chủ trương đã làm Bergson phẫn nộ. Nhà triết học phản ứng lại bằng cách viết hẳn một cuốn sách để đối đầu với Einstein. Lý thuyết của ông ta [Einstein] là “một mớ triết học siêu hình cấy ghép vào khoa học, nó không phải là khoa học,” Bergson viết.
Einstein đã phản công lại với tất cả năng lượng, sức mạnh và nguồn lực của mình. Trong những năm sau đó, hầu hết mọi người đã nhận ra rằng Bergson đã thua trong cuộc tranh luận với nhà vật lý trẻ. Những cách nhìn của nhà khoa học về thời gian chiếm ưu thế trong hầu hết những cuộc thảo luận của các học giả về đề tài này, không chỉ kiềm chế quan điểm của Bergson mà cả những cách tiếp cận nghệ thuật và văn chương khác, bằng cách loại chúng xuống mức quan trọng thứ yếu và phụ trợ. Với nhiều người, thất bại của Bergson đại diện cho một chiến thắng của “tính duy lý” trước “trực giác”. Nó đánh dấu một thời điểm khi các trí thức không còn theo kịp các cuộc cách mạng trong khoa học bởi chúng ngày càng phức tạp. Vì lý do này, có lẽ họ nên đứng ngoài cuộc. Khoa học và các hệ quả của nó chỉ nên để dành cho các nhà khoa học, những người tạm coi là biết đôi chút về chúng. Do vậy bắt đầu “sự thoái trào sau một thời kỳ thành công chưa từng có của triết học Bergson về thời gian tuyệt đối – mà không nghi ngờ gì chính là vì sự ảnh hưởng của thuyết tương đối”. Quan trọng nhất là, sau đó bắt đầu thời kỳ tầm ảnh hưởng của triết học suy tàn dưới sự đe dọa bởi ảnh hưởng đang lên của khoa học.
Hai người đàn ông này chi phối hầu hết những thảo luận về thời gian trong suốt nửa đầu của thế kỷ hai mươi. Nhờ Einstein, chủ đề thời gian cuối cùng đã “bị phế truất khỏi vị trí cao ngất của nó”, rơi từ đỉnh cao của triết học xuống địa hạt thực tế của vật lý. Ông đã chỉ ra rằng “niềm tin của chúng ta về ý nghĩa khách quan của tính đồng thời” cũng như của thời gian tuyệt đối phải bị “loại bỏ” vĩnh viễn sau khi ông đã “xua tan giáo điều này khỏi tâm trí chúng ta”. Nhà vật lý đã chỉ ra rằng, “tự thân không gian, và tự thân thời gian” là hai khái niệm “bị buộc phải tan khuất hoàn toàn vào bóng tối.”
Bergson, ngược lại, lại khẳng định rằng Thời gian có nhiều ý nghĩa hơn những gì mà các nhà khoa học đã từng đánh cược – và ý của ông là tất cả các nhà khoa học, từ những nhà tiến hóa kiểu Darwin tới các nhà thiên văn hay vật lý. Để giải thích những khía cạnh quan trọng nhất của Thời gian mà các nhà khoa học thường không mấy khi đếm xỉa tới, Bergson thường viết hoa thuật ngữ thời gian. Ông gắn nó với élan vital, một khái niệm được dịch rộng rãi thành “vital impulse” (đà sống). Đà sống này, ông lập luận, xen lẫn nhau xuyên suốt vũ trụ mang tới cho sự sống một lực đẩy và không ngừng dâng lên, nảy sinh ra những sáng tạo hoàn toàn bất ngờ, và khoa học không thể nào hiểu thấu hết được. Mặc dù khoa học không thể hoàn toàn giải quyết nó nhưng nó chính là xương sống của các công trình nghệ thuật và sáng tạo. Ảnh hưởng của Bergson lên văn chương được thấy ở Gertrude Stein, T. S. Elliot, Virginia Woolf, William Faulkner, và nhiều nhà văn khác, những người đã đưa vào những đứt gẫy, xoắn vặn, xoay vòng trong giọng trần thuật nơi tương lai xuất hiện trước quá khứ và quá khứ xuất hiện trước tương lai.
“Vậy, thời gian là gì”, thánh Augustine đã tự hỏi trong Confessions (Tự thú) của ông, chỉ ra một nghịch lý trong nhận thức của chúng ta về thời gian. Chưa có thứ gì lại trực quan hơn nhưng cũng phức tạp hơn như chính thời gian cả: “Nếu không ai hỏi tôi, thì tôi biết; nhưng nếu tôi muốn giải thích cho người đặt câu hỏi, tôi lại chẳng biết gì cả.” Những câu chữ này, viết ở Bắc Phi đâu đó khoảng những năm 397-398, có vẻ như mang tính tiên tri cực kỳ chính xác ở Châu Âu 1500 năm sau. Satosi Watanabe, một trong những người tiếp bước Bergson trung thành nhất, đã khẳng định một cách đơn giản: “Quan điểm này [của Augustine], sau mười lăm thế kỷ trong tiến trình của khoa học của nhân loại, vẫn thể hiện quan điểm hiện nay của các nhà triết học.” Có lẽ không có gì phóng đại khi mô tả thời hiện đại là sự bất lực trong việc xử lý thời gian cũng như với tiền bạc; nó là một chuỗi những nỗ lực bất thành để làm chủ cả hai.
Trong cuốn sách quan trọng đầu tiên của mình, được xuất bản trước khi ông bước vào tuổi ba mươi, Bergson đã phát triển một lý thuyết triết học về thời gian trong đó ông giải quyết các vấn đề về thời gian một cách cụ thể, khác biệt hoàn toàn với những gì người ta nhìn nhận về nó trước đó. “Cái thời gian mà các nhà thiên văn học sử dụng trong công thức của họ,” ông giải thích, “cái thời gian mà đồng hồ chia thành các khoảng bằng nhau, có thể nói rằng nó là một thứ gì đó khác.”
Bergson thấy rằng định nghĩa về thời gian của Einstein qua đồng hồ hoàn toàn sai lạc. Nhà triết học không thể hiểu nổi tại sao ai đó lại chọn để mô tả thời gian của một sự kiện đáng chú ý, như là thời điểm đoàn tàu đến, theo kiểu sự kiện ấy trùng khớp với giờ chỉ trên một cái đồng hồ.
Ông không hiểu được tại sao Einstein lại cố gắng thiết lập cách thức cụ thể này như một cách thức đặc quyền để xác định tính đồng thời. Bergson tìm kiếm một định nghĩa căn bản hơn cho tính đồng thời, một định nghĩa không chỉ kết thúc ở cái đồng hồ mà còn lý giải vì sao cái đồng hồ được người ta dùng đến ngay từ đầu. Nếu khái niệm căn bản hơn rất nhiều về tính đồng thời này là không tồn tại thì “đồng hồ chẳng phục vụ cho bất kỳ mục đích nào cả.” ông lập luận. Phải, người ta mua đồng hồ “để biết bây giờ là mấy giờ,” Bergson thừa nhận.
Nhưng “biết bây giờ là mấy giờ” đã tiền giả định rằng sự tương ứng giữa số giờ chỉ trên đồng hồ và một “sự kiện đang xảy ra” có ý nghĩa với người trong cuộc nên khiến họ lưu tâm tới nó. Một vài sự tương ứng nhất định nào đó giữa các sự kiện có ý nghĩa đáng kể với chúng ta – trong khi phần lớn những sự tương ứng khác thì không – đã lý giải cảm nhận căn bản của chúng ta về tính đồng thời và việc tại sao đồng hồ được sử dụng rộng rãi.Tự thân đồng hồ không thể giải thích được cả tính đồng thời lẫn thời gian, ông lập luận.
Nếu không tồn tại một cảm nhận về tính đồng thời căn bản hơn những gì thể hiện qua việc khớp một sự kiện với một giờ chỉ trên đồng hồ, thì đồng hồ sẽ chẳng phục vụ cho một mục đích có ý nghĩa nào cả:
Chúng sẽ chỉ là các linh kiện máy móc để chúng ta tự mua vui bằng cách so sánh chúng với nhau; chúng sẽ không được sử dụng để phân loại các sự kiện; nói ngắn gọn, chúng sẽ tồn tại vì chính bản thân chúng chứ chẳng vì phục vụ chúng ta. Chúng sẽ mất lý do tồn tại vì nhà lý luận thuyết tương đối cũng như vì mọi người, vì anh ta chỉ dùng chúng để xác định thời điểm diễn ra một sự kiện.
Bergson lập luận rằng, toàn bộ ảnh hưởng của công trình của Einstein có được là nhờ vào việc nó đã vận hành như một “dấu hiệu” đưa ra một hình dung tự nhiên và trực quan về tính đồng thời. “Chẳng qua là vì” khái niệm của Einstein “giúp chúng ta nhận biết tính đồng thời có trong tự nhiên này, bởi vì đây là dấu hiệu của nó, và bởi vì nó có thể được biến đổi thành tính đồng thời mang tính trực quan của chúng ta” ông giải thích. Công trình của Einstein khiến ta cảm thấy đầy tính cách mạng và bất ngờ, bởi niềm tin về tnh đồng thời mang tính trực quan của chúng ta còn mạnh mẽ. Nếu không còn niềm tin trực quan này, công trình của Einstein chỉ đơn thuần là một thứ dấu hiệu đại diện cho đối tượng của nó.
Bergson đã chiêm nghiệm về đồng hồ trong nhiều năm. Ông đồng ý rằng đồng hồ giúp lưu ý về tính đồng nhất nhưng không nghĩ rằng hiểu biết về thời gian của chúng ta lại có thể dựa trên một mình nó. Quay lại năm 1889, ông cũng đã từng nghĩ về giả thiết này và nhanh chóng coi nhẹ nó: “Khi mắt chúng ta dõi theo bề mặt một chiếc đồng hồ, chuyển động của cây kim tương ứng với những dao động của quả lắc, tôi không đo khoảng thời gian, như mọi người có thể nghĩ; tôi chỉ đơn giản đếm những điểm đồng nhất, điều đó rất khác.” Có gì đó khác biệt, có gì đó kì lạ, có gì đó quan trọng và điều gì đó vượt ra ngoài bản thân chiếc đồng hồ cần phải được thêm vào trong hiểu biết của chúng ta về thời gian. Chỉ có điều đó mới giải thích được tại sao chúng ta lại gắn cho đồng hồ một sức mạnh như vậy: tại sao chúng ta mua nó, tại sao chúng ta sử dụng nó, và ban đầu, tại sao chúng ta lại sáng chế ra nó.
Nhà triết học đã mô tả sự thay đổi luôn diễn ra quanh chúng ta, nhưng – thật nghịch lý – hầu hết các nhà khoa học hạ thấp vai trò khía cạnh này của thế giới. Ngay cả trong thuyết tiến hóa (theo cách giải thích của Herbert Spencer) cũng giả định sự sản sinh các dạng tiến hóa mới qua sự tái tổng hợp của các vật liệu cũ. Làm như vậy, nó đã lờ đi sự hình thành những đột biến trong cuộc sống. Bằng việc chỉ tập trung nhìn vào thế giới thực như một thứ gì đó cố định vĩnh viễn, người ta có thể không nhận ra những khả năng mới: “Ta có thể nói rằng trong thời gian trực cảm, được coi như một tiến trình của tạo hóa, có sự hình thành không ngừng những khả năng chứ không chỉ hình thành những thực tại.” Điều gì xảy ra nếu những nhà tư tưởng khắp thế giới tán đồng với thay đổi cấp tiến mà Bergson mô tả? Bergson đã nhận thức rất rõ về các hệ quả ấy. Một ví dụ là các học giả sẽ phải giảm bớt những nỗ lực của họ trong việc hiểu thế giới chỉ qua những gì cấu tạo nên nó. Chủ nghĩa duy vật, một cách nhìn triết học gắn kết chặt chẽ với triết lý của René Descartes, có vẻ như đang gặp phải nguy hiểm. Einstein, nhà triết học lập luận, đã tiếp bước Descartes một cách mù quáng. Bergson đã kết thúc cuốn sách gây tranh cãi của mình với câu nói quả quyết: “Einstein là người tiếp nối Descartes.”
Bergson nghĩ rằng Einstein chưa từng hiểu ông. Một lần ông giãi bày với một người bạn rằng Einstein không thể hiểu ông bởi vì “cậu ta không quen với triết học và đặc biệt là triết học bằng tiếng Pháp nữa.” Thậm chí có lẽ Einstein còn chưa “đọc cuốn sách của tôi”, [mà anh ta] chỉ dựa vào nguồn khác như “nhà vật lý Pháp này hay kia, những người không hề hiểu tôi, và không có đủ nền tảng triết học để hiểu tôi, thì vẫn chẳng thể tiếp thu được lời giải thích của tôi.”
Trong suốt cuộc tranh luận, Einstein đã khẳng định rõ ràng quan điểm của mình về mục đích của triết học và tại sao triết học lại không đóng vai trò gì trong việc lý giải về thời gian. Đối mặt với người phản đối mình, ông đã đặt cho triết học một vai trò hết sức hạn chế. Ông tiếp tục tự giải thích, đưa ra hai lối suy nghĩ thường thấy về thời gian, thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian tâm lý là thời gian mà một người nhận thức, trong khi thời gian vật lý là thời gian mà một dụng cụ khoa học đo được, như đồng hồ chẳng hạn. Thời gian được đo bởi một dụng cụ thường khác biệt với thời gian mà một người nhận thức. Các nhân tố như sự tẻ nhạt, thiếu kiên nhẫn, hay những thay đổi nho nhỏ về mặt sinh lý học đã ảnh hưởng tới việc nhận thức thời gian tâm lý. Với sự phổ biến của các công cụ đo thời gian, sự khác biệt giữa thời gian theo cảm nhận và thời gian theo đo đạc ngày càng được chú ý. Ví dụ như khi đọc nhật ký của Franz Kafka, chúng ta biết rằng trong một tài liệu riêng tư ở thời kỳ ấy, một “đồng hồ nội tại” thì thường không đồng nhất với một “đồng hồ bên ngoài”.
Nhưng trong hầu hết các trường hợp, nhận thức vật lý và tâm lý về thời gian không cần phải khác nhau quá nhiều. Hầu hết mọi người đều có thể ước lượng thời gian theo một cách khá tương thích với cách thức của đồng hồ, xác định rất chuẩn thời gian ăn sáng, trưa và tối. Hầu hết mọi người có thể đánh giá tính đồng thời của hai sự kiện theo một cái cách tương tự như các dụng cụ đo đạc. Nhưng khi phải làm việc với các sự kiện cực nhanh thì điều đó không đúng nữa. Trong những trường hợp này (ví dụ như trong vòng cuối của cuộc đua ngựa), sai sót trong nhận thức về tính đồng thời bằng tâm lý khi so sánh với tính đồng thời được xác định bởi một dụng cụ là rất rõ ràng; tính đồng thời qua nhận thức tâm lý khác biệt rất rõ với những gì được xác định với dụng cụ hỗ trợ. Trong một vũ trụ được đánh dấu bởi các sự kiện xảy ra gần với tốc độ của ánh sáng, sự khác biệt giữa chúng [nhận thức tâm lý và vật lý về thời gian] là vô cùng lớn.
Theo Einstein, triết học đã được sử dụng để giải thích mối liên quan giữa tâm lý và vật lý. “Tôi tin rằng, thời gian của các nhà triết học, cùng một lúc vừa là thời gian tâm lý vừa là thời gian vật lý,” ông giải thích ở Paris. Nhưng qua việc tập trung vào những hiện tượng ở tốc độ vô cùng lớn, lý thuyết tương đối đã chỉ ra nhận thức thời gian theo tâm lý thực sự không chính xác như thế nào. Einstein nhấn mạnh, nhận thức về thời gian theo tâm lý, không chỉ đơn giản là sai lầm mà nó cũng không liên hệ với điều gì cụ thể cả. “Chúng chẳng qua chỉ là những cấu trúc trong tinh thần và đối tượng của tư duy logic mà thôi”. Vì tốc độ khổng lồ của ánh sáng, nhân loại đã tổng quát hóa nhận thức của họ về tính đồng thời “một cách bản năng” và đã sai lầm áp dụng chúng lên toàn bộ phần còn lại của vũ trụ. Lý thuyết của Einstein đã sửa chữa sự tổng quát hóa sai lầm này. Thay vì tin vào phần chồng lấn giữa nhận thức thời gian theo tâm lý và vật lý (mà cả hai đều quan trọng, mặc dù một trong hai đã được chấp nhận là ít chính xác hơn cái còn lại), ông lập luận rằng chúng là hai khái niệm riêng biệt: một ước lượng về mặt tinh thần (nhận thức theo tâm lý), hoàn toàn bất bình đẳng khi so sánh với khái niệm “khách quan”: thời gian vật lý.
Bergson và Einstein đều đồng thuận rằng tồn tại một sự khác biệt về mặt bản chất giữa nhận thức thời gian theo kiểu tâm lý và theo kiểu vật lý, nhưng từ đó họ đã đưa ra những suy luận khác nhau. Với Einstein, nó đưa ông đến kết luận rằng, “thời gian của các nhà triết học không tồn tại, chỉ có một thời gian theo kiểu tâm lý là khác biệt với thời gian của các nhà vật lý.” Trái lại, với Bergson, bài học này – rằng sự ước định về mặt tâm lý và vật lý của thời gian được hình thành khác nhau – đã khiến nhiệm vụ của nhà triết học trở nên thú vị hơn, đặc biệt bởi không có ai, kể cả các nhà vật lý có thể lờ đi việc liên kết thời gian với những vấn đề của loài người.
Nguyễn Duy Khánh dịch
-------
1 Nguyên văn: Il n’y a donc pas un temps des philosophes. Có thể sẽ có người hiểu câu văn này theo nghĩa “không có thời gian kiểu triết học”. Nhưng cả tôi và tác giả đều chọn hiểu theo nghĩa đã dịch.
* Sửa lại so với bản in là "Chẳng có thời gian nào của các nhà triết học cả"
-------
1 Nguyên văn: Il n’y a donc pas un temps des philosophes. Có thể sẽ có người hiểu câu văn này theo nghĩa “không có thời gian kiểu triết học”. Nhưng cả tôi và tác giả đều chọn hiểu theo nghĩa đã dịch.
* Sửa lại so với bản in là "Chẳng có thời gian nào của các nhà triết học cả"
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
ĐỐI THỌAI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
ĐỐI THỌAI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
Khoa vật lý hiện đại đã đi từ vấn đề thời gian tuyệt đối và phổ cập của Newton đến thời gian tương đối và co giãn của Einstein. Thời gian theo Einstein có thể chậm lại hoặc tăng tốc tùy theo hoạt động của người quan sát và cường độ của lực hấp dẫn nơi đó. Thời gian không còn tính phổ cập nữa. Quá khứ của người này có thể là tương lai của người kia. Vậy sự khác biệt giữa thời gian tâm lý là thế nào? Phật giáo chối bỏ thời gian tuyệt đối và chỉ sử dụng thời gian tâm lý như một yếu tố kích thích sự hành trì tâm linh. Không có ở bình diện hạt nhân, có ở cùng khắp ở bình diện vũ trụ, mũi tên thời gian phải chăng chỉ là một nhãn hiệu của tinh thần?
Thuận: Suy tư về thời gian là việc đầu tiên của môn siêu hình, đó là lời của Gaston Bachelard: Thời gian không phải là một niệm để diễn tả như Saint Augustin đã nói vào thế kỷ thứ IV: “Thời gian là gì? Nếu có ai hỏi thì tôi biết. Nhưng khi tôi cần giải thích thì tôi lại không biết gì”.
Thời gian giữ một vai trò quan trọng không những trong siêu hình học mà cả trong vật lý học. Trong các cuộc nghiên cứu về thiên nhiên, luôn luôn các nhà vật lý phải đối đầu với vấn đề thời gian. Điều này có vẻ mâu thuẫn khi ta mới nhìn, vì lẽ thời gian thì phù du còn các nhà vật lý thì muốn tìm ra định luật tức là những quan hệ không thay đổi. Galilée vào thế kỷ 16, là người đầu tiên đã xem thời gian như một kích thước cơ bản để đo đạt sự chuyển động các vật thể. Nhưng chính Newton với những luật cơ học đã cho thời gian một định nghĩa minh bạch. Ông đã xác định việc di chuyển các vật thể trong không gian bằng vị trí và tốc độ của chúng vào những thời điểm kế tiếp nhau. Thời của Newton là duy nhất, tuyệt đối và phổ cập. Nó trôi chảy cùng một cách theo cái nhìn của mỗi người, và mỗi con người trên vũ trụ đều cùng chia sẻ một quá khứ, một hiện tại và một vị lai. Không gian và thời gian được phân định rõ ràng: thời gian trôi đi mà không có sự can thiệp nào của không gian. Năm 1905 quan niệm về một thời gian tuyệt đối đã được đặt lại bởi Einstein khi ông công bố lý thuyết hạn chế về lực tương đối. Với Einstein, thời gian không còn cố định và phổ cập như Newton đã nghĩ. Nó không còn dửng dưng với vũ trụ trong đó nó trôi chảy, mà trở nên co giãn khi nó lệ thuộc vào sự chuyển động của người quan sát. Khi người ta di chuyển càng nhanh thì thời gian càng chậm lại. Như vậy một nhà du hành vũ trụ di chuyển với tốc độ bằng 87% tốc độ ánh sáng sẽ thấy thời gian chậm lại một nửa. Trong tàu vũ trụ, anh ta sẽ già đi kém hai lần người em song sinh ở mặt đất. Ông em có nhiều nếp nhăn hơn, nhiều tóc bạc hơn, tim đập nhanh hơn, và đặc biệt những nhu cầu về đời sống như ăn nhiều hơn, uống nhiều hơn, đọc sách cũng nhiều hơn. Đó là nghịch lý anh em song sinh Langevin theo tên của nhà bác học Pháp đã diễn tả. Lý thuyết về luật hấp dẫn đã chỉ ra rất rõ ràng về sự chậm lại của thời gian: Khi tốc độ gia tăng, thì thời gian chậm lại. Khó nhận biết trong sinh hoạt hằng ngày, sự chậm lại của thời gian sẽ rõ rệt với những tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng (300000 km/s). Ở độ 99% tốc độ ánh sáng, thời gian chậm lại 7 lần. Ở độ 99,9% tốc độ ánh sáng thời gian chậm lại 22,4 lần. Sự chậm lại của thời gian này không phải một trò của tâm trí. Nó đã được quan sát trong trường hợp những hạt được phóng đi với tốc độ cao trong máy gia tốc: những hạt này sống lâu hơn là khi còn nằm im, trước khi tan rã.
Một cuộc cách mạng tư tưởng khác: không gian và thời gian không còn bị tách biệt rõ ràng và Einstein đã gom chúng lại thành một cặp duy nhất. Không gian cũng trở nên co giãn. Và hoạt động của hai thành viên này bổ sung cho nhau. Khi mà thời gian chậm lại thì không gian cũng co lại. Nếu một trong hai anh em song sinh ngồi trong tàu vũ trụ với tốc độ 87% tốc độ ánh sáng thì không những anh ta già đi kém hai lần ông em ở trái đất, mà không gian của anh ta cũng thu hẹp lại: ở mặt đất người em sẽ nhìn thấy con tàu của anh mình rút ngắn lại phân nửa.
Thời gian còn chậm lại không những do tốc độ mà còn do luật hấp dẫn nữa. Đây là điều mà Einstein đã công bố năm 1915 trong lý thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Ở gần lỗ đen lực hấp dẫn rất lớn, đồng hồ của nhà du hành vũ trụ chậm lại so với đồng hồ của một người ở mặt đất. Sự chậm lại của thời gian còn được thực nghiệm khi các nhà vật lý có thể đo được một sự thay đổi của thời gian bằng 2,5 phần triệu của một phần tỷ giây đồng hồ giữa trên và dưới một tòa tháp cao 23m tại Đại học Harvard. Đồng hồ ở mặt đất chậm hơn vì lẽ nó nằm gần tâm điểm trái đất, nơi đó lực hấp dẫn hơi mạnh hơn ở trên. Đây thật sự là giá trị đúng đã được tiên đoán bởi thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Tính co giãn của thời gian có một hậu quả cơ bản: nó mất đi tính chất phổ biến của nó, và nó không còn giống nhau ở mỗi người. Hiện tại của tôi có thể là quá khứ của một người khác, và là vị lai của người thứ ba nếu hai người sau chuyển động đối với tôi. Vì lẽ ý niệm đồng thời mất đi ý niệm của nó, chữ hiện thời hóa ra rắc rối. Và nếu đối với một người khác vị lai đã đến, trong khi quá khứ hãy còn là hiện tại, như vậy mọi thời điểm đều giống nhau. Không có thời gian nào là ưu tiên cả. Theo Einstein sự trôi chảy của thời gian chỉ là ảo tưởng và ông diễn tả ý này để làm dịu bớt nỗi buồn trong một bức thư viết năm 1955 khi bạn ông- Michelle Besso qua đời, và sau đó chưa đến một tháng ông cũng tạ thế. Ông nói: “Với chúng tôi, sự phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ là một ảo tưởng mặc dù rất dai dẳng”. Còn đối với nhà vật lý hiện đại thời gian không trôi chảy: nó chỉ bất động như một đường thẳng đi vào vô tận theo cả hai chiều hướng.
Matthieu: Theo Phật giáo, thời gian vật lý tuyệt đối chỉ là một ý niệm. Tự nó không có mà chỉ có tương quan với các hiện tượng, và với sự sống. Thời gian không thể nắm bắt được ngay ở giây phút hiện tại khi nó ngừng trôi, và như vậy nó vô thủy vô chung. Đối với hiện tại thì quá khứ đã chết còn tương lai thì chưa đến. Làm thế nào để có hiện tại khi nó bị treo giữa cái không còn nữa và cái chưa đến?
Thời gian vật lý không có tự tính vì lẽ người ta không thể biết một thời điểm rõ ràng trong các thời điểm liên tục của thời gian. Ta không thể nhận chân ra nó vào ban đầu, trong khi, hay lúc nó chấm dứt. Nếu ta định nghĩa một giới hạn gồm một tập hợp giữa ban đầu, trong khi, và khi chấm dứt, rõ ràng tập hợp này không có trong một của ba thành phần. Thời hạn cũng không thể có ngoài khi khởi đầu, khoảng giữa và khi chấm dứt và vì vậy quan niệm về một thời hạn chỉ có tính cách quy ước. Thời gian cũng như không gian chỉ có do kinh nghiệm của chúng ta khi tiếp xúc với các hiện tượng. Nếu không có hiện tượng thì không thể có thời gian.
Thuận: Phải phân biệt rõ ràng thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian vật lý không tùy thuộc vào nhận thức của chúng ta. Đó là thời gian của đồng hồ mà người ta đo được nhờ vào một sự chuyển động đều đặn: sự rung động của một nguyên tử, hay sự chuyển động của trái đất chung quanh mình. Vì thế, nói về thời gian hay không gian trước khi vũ trụ được lập thành, không có ý nghĩa nào cả vì lẽ khi ấy không có một chuyển động nào có thể đo đạc được. Theo thuyết Big Bang, thời gian và không gian nảy sinh một lượt cùng với vũ trụ. Thánh Augustin cũng quan niệm thời gian xuất hiện cùng với thế gian. Ông cho rằng đáng buồn cười với ý nghĩa Thượng đế đã chờ đợi một thời gian vô tận trước khi quyết định tạo dựng thế gian. Theo ông thì thế gian không phải được tạo dựng theo thời gian mà cùng với thời gian.
Trái lại thời gian tâm lý thì không trôi chảy đều đặn. Nó thật sự rất co giãn. Thật vậy, khi xem cùng một vở kịch, một khán giả buồn nản sẽ thấy thời gian kéo dài lê thê, còn người bạn anh ta thì lại thích thú và không còn cảm thấy thời gian trôi qua nữa. Một giây phút sợ hãi hay thất vọng có thể xem như kéo dài cả thế kỷ, trong khi một thoáng hạnh phúc lại qua nhanh như một chớp mắt. Mặt khác, càng già đi thì chúng ta lại cảm thấy thời gian càng qua nhanh. Sự trái ngược giữa thời gian tâm lý và thời gian vật lý luôn luôn xuất hiện trong lịch sử tư tưởng. Với các triết gia tiền Socrates, thời gian gắn liền với hoạt động như thời gian vật lý. Heraclite đã nói: “Thời gian cũng giống như một đứa bé chơi trictrac (một loại cờ) còn Aristote thắc mắc nếu không có “tâm” thì liệu có thời gian hay không. Thế kỷ thứ IV St. Augustin phản bác lý luận của Aristote: “Thời gian không phải là sự di chuyển của một vật mà nó chỉ trôi chảy trong tâm hồn vì điều ta chờ mong (vị lai) trở thành điều để ta chú tâm (hiện tại) rồi lại rơi vào ký ức (quá khứ). Lập trường này được triết gia người Đức Edmund Husserl công nhận vào thế kỷ 20.
Matthieu: Kant cũng nói rằng ý niệm về thời gian và không gian tùy thuộc vào sự giao tiếp của chúng ta với thiên nhiên chớ không phải tự thiên nhiên mà có: “Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan do chúng ta trực giác, chứ nó không thể có ngoài chúng ta”. Một ý niệm tương tự cũng xuất phát từ các triết gia Phật giáo khi cho rằng thời gian không hề có tự tính, nếu không có hiện tượng và không có người quan sát thì cũng không có thời gian. Nếu nói về sự khởi đầu của thời gian thì chỉ là một ảo tưởng vì một khi đã đặt vấn đề khởi đầu thì người ta sẽ tự hỏi cái gì đã có trước sự khởi đầu ấy. Thay vì nói như Einstein, thời gian vật lý luôn luôn ở tại đó giống như một kích thước bất động, ta sẽ nói là nó không hề ở đó, như vậy khác gì nói thời gian là mộng ảo.
Thuận: Saint Augustin cũng nói không có một thứ thời gian nào khác ngoài thời gian tâm lý. Ngoài ký ức, sự chú tâm vào hiện tại và sự chờ mong tương lai, thời gian chỉ là cái “không”. Vì thế nên tất cả đều ở trong thời gian nên tất cả đều không thật có, chỉ là hiện tượng. Thời gian tâm lý mà chúng ta cùng cảm nhận được rất khác với thời gian vật lý. Chúng ta nghĩ rằng nó chuyển động. Theo chúng ta nó trôi chảy như một dòng sông. Trên con tàu chúng ta bỏ neo ở hiện tại, chúng ta ngắm nhìn thời gian rời xa quá khứ và ngóng chờ những đợt sóng kế tiếp của vị lai. Chúng ta cho thời gian một chiều hướng và chính sự hình dung thời gian trong không gian mà chúng ta cảm nhận quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ thì đầy dẫy kỷ niệm còn tương lai thì chứa đựng những ngóng chờ. Có thể là hoạt động của não bộ làm chúng ta cảm nhận được thời gian đang trôi qua. Những sự kiện của thế giới bên ngoài được chuyển từ các giác quan đến bộ não để tổng hợp thành một hình ảnh trong tâm thức. Hoạt động của não bộ đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của nhiều vùng khác nhau với những chức năng khác nhau. Theo nhà thần kinh sinh học Francisco Valera, vì sự phức tạp của công việc nối kết và tổng hợp những hoạt động của não bộ, mà chúng ta mới cảm nhận được về thời gian. Từ hoạt động liên hợp và đồng bộ của những tế bào thần kinh, một trạng thái sinh học vượt trội hình thành. Vì lẽ hoạt động này chỉ vào khoảng thời gian từ vài phần mười đến vài phần trăm của một phần ngàn giây, chúng ta có cảm giác một hiện tại có bề dày nào đó. Nhưng sự đồng bộ của các tế bào thần kinh không cố định và không kéo dài, và tiếp tục các tế bào thần kinh đồng bộ khác đi vào hoạt động và tạo nên những trạng thái sinh học kế tiếp và chính những trạng thái này cho chúng ta cảm giác thời gian đang trôi và có sự liên tục về thời gian. Một trong những đặc tính quan trọng nhất của thời gian tâm lý là nó luôn luôn tiến về phía trước và đưa chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Giống như một mũi tên khi rời khỏi dây cung, thời gian tâm lý không bao giờ trở lui, và chính vì sự không trở lui đó mà chúng ta bị ám ảnh bởi cái chết. Chúng ta biết chắc chắn là chúng ta sẽ chết.
Matthieu: Phật giáo sử dụng thời gian tâm lý để chế ngự sự lo sợ về cái chết, và để tăng cường sự kiên trì trong thực hành việc chuyển hóa nội tâm. Một Phật tử thuần thành sẽ không sợ cái chết, vì nếu thiền định miên mật người Phật tử sẽ đón chờ một cách an lạc khi giờ chết đến. Gampopa, vị hiền triết Tây Tạng thế kỷ 14 đã viết: “khi còn trẻ, thì người ta sợ việc sinh và tử như một con nai muốn thoát ra khỏi bẫy. Ở tuổi trung niên thì không nên tiếc gì nữa dù có phải chết đi như người nông phu đã chăm bón cẩn thận mảnh ruộng của mình. Và khi đã già thì phải hạnh phúc như người đã thực hiện xong một công việc to lớn”.
Một ẩn sĩ Tây Tạng thường lật úp cái bát mỗi tối trước khi ngủ để phòng trường hợp không còn thức dậy được nữa (ở Tây Tạng người ta thường lật úp bát khi có người chết). Ông ta nghĩ rằng mỗi phút giây ông ta đang tiến gần đến cái chết. Mỗi khi thở ra, ông ta cảm thấy hạnh phúc khi được thở vào. Bồ tát Long Thọ đã viết:
Lại mong manh hơn cả một bong bóng trên mặt nước
Thì có phải mầu nhiệm biết bao sau khi ngủ
Lại được thở vào, thở ra và thức dậy hoàn toàn khỏe khoắn
Tất cả những gì mà ta gom góp sau cùng rồi cũng mất đi
Cái gì mà ta xây dựng rồi cũng sẽ đổ sụp
Cái gì mà được kết nối rồi cũng sẽ chia lìa
Và cái gì sinh động rồi cũng sẽ biến mất trong cái chết.
Việc nhận thức thời gian trôi không thể đảo ngược được là liều thuốc kích thích sự tinh tấn của chúng ta. Liên Hoa Sanh, vị tổ khai sáng Phật giáo ở Tây Tạng đã nói:
Giống như dòng nước trôi về biển cả
Như mặt trời, mặt trăng đi về phía sau núi khi chiều xuống
Như ngày và đêm, giờ và những giây phút trôi qua
Cuộc đời luôn luôn tuôn chảy mà không hề lay động.
Đức Phật cũng dùng hình ảnh một lực sĩ nắm bắt bốn mũi tên đang bay do bốn cung nỏ bắn ra theo bốn phía khác nhau. Tuy vậy Người bảo: “Thời gian và cái chết còn đến mau hơn thế”. Đối với một phật tử thuần thành, thời gian là một vật quý vô giá và không nên lãng phí một phút giây nào.
Thuận: Thật vậy, việc thời gian trôi chảy so với tâm thức bất động của chúng ta không thích hợp với khoa vật lý đương đại. Nếu thời gian trôi thì tốc độ của nó sẽ là bao nhiêu? Một câu hỏi hoàn toàn vô lý. Tôi phải nói rõ rằng trên bình diện vi mô thời gian không còn đi theo một chiều nữa. Trong thế giới những hạt bụi, thời gian có thể trôi theo hai chiều. Hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Nếu đảo ngược lại thứ lớp các sự kiện trong thời gian, chúng ta lại có hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Cả hai cảnh trên đều giống hệt nhau. Những định luật vật lý để diễn tả sự kiện này không hề nói lên là thời gian đã đi theo một chiều. Những phim ảnh về thế giới các hạt bụi có thể chiếu theo hai chiều.
Matthieu: Thế tại sao trong thế giới những hạt bụi thời gian không còn tuyệt đối, thì trong thế giới vĩ mô lại có thứ thời gian khác tồn tại ngoài tâm thức của chúng ta.
Thuận: Như tôi đã nói với bạn, Einstein đã nghĩ rằng thời gian trôi lăn chỉ là một ảo tưởng. Khi đập tan ý niệm phổ cập của thời gian, ông đã phá vỡ sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và thời gian. Ông hy vọng loại ra được ý niệm không đảo ngược được trong vật lý. Nhưng mũi tên thời gian lại xuất hiện trong những trạng huống khác cả trong thế giới vi mô của cơ học lượng tử, và thuyết phục hơn trong thế giới vĩ mô. Tất cả dường như có một mũi tên thời gian tâm lý luôn đi từ phía trước, và một mũi tên nhiệt động học chỉ đi theo một chiều hướng nhất định. Điều này dựa trên định luật thứ hai của môn Nhiệt động học cho rằng mọi thứ rồi cũng sẽ xáo trộn. Chúng ta có thể thấy những biểu hiện của sự gia tăng xáo trộn ấy khi quan sát một cục nước đá tan dưới mặt trời, hay những hòn đá của một lâu đài cũ bị bỏ hoang phế. Trong cả hai trường hợp trạng thái đầu tiên và trạng thái sau cùng khác hẳn nhau. Sự di chuyển từ quá khứ đến vị lai xác định chiều hướng trôi chảy của thời gian tâm lý, sự thay đổi từ một trạng thái trật tự đến một trạng thái mất trật tự nói lên chiều hướng của thời gian nhiệt động học. Phật giáo thường nói đến vô thường, vậy có đề cập đến một chiều hướng của sự vô thường đó chăng?
Matthieu: Chắc chắn rằng Phật giáo ý thức được chiều hướng của thời gian quy ước. Sự vô thường tế nhị của các hiện tượng gần giống như ý niệm nhiệt động học: nếu một cái nhà già đi theo năm tháng và sau cùng trở thành hoang phế, là vì không có hiện tượng nào dù nhỏ như hạt bụi cũng không bao giờ giữ được sự nguyên vẹn ban đầu nhưng luôn mang theo mình mầm móng của sự hủy hoại.
Thuận: Năm 1854 mũi tên nhiệt động học làm dấy lên tiếng kêu tuyệt vọng của nhà vật lý người Đức Herman Von Hemholtz: “Vũ trụ đi về cái chết!”. Theo ông một nhiệt động cứ tăng lên theo sau các tạo dựng của thiên nhiên bắt buộc phải đưa đến sự chấm dứt các hoạt động sáng tạo trong lòng vũ trụ. Tòa lâu đài vũ trụ bao gồm các ngôi sao, các hành tinh, các thiên hà v.v... những sáng tạo của những thiên tài con người như những bản nhạc của Mozart, tranh của Monet sẽ bị chôn vùi dưới những mảnh vụn của một vũ trụ hoang phế.
Nếu định luật thứ hai của môn nhiệt động học đưa đến một cách khắc nghiệt sự tàn lụi và cái chết của vũ trụ, làm sao để hiểu được chúng ta lại không sống trong một vũ trụ hoàn toàn bị xáo trộn? Làm sao để giải thích sự tổ chức có hệ thống và sự hài hòa của vũ trụ? Làm thế nào vũ trụ có thể thoát ra sự phức tạp đó? Làm sao từ một cái không chứa đầy năng lực lại có thể sản sinh những hạt bụi sơ khai, những thiên hà, những ngôi sao, hành tinh cả sự sống và tâm thức con người. Định luật thứ hai về nhiệt động học có bị xâm phạm ở một vài nơi nào đó trong vũ trụ chăng? Câu trả lời là không. Nhiệt động học không ngăn cấm một vài vùng có tổ chức, có trật tự xuất hiện trên vũ trụ với điều kiện chúng phải đi cùng với sự sáng tạo những nơi khác lộn xộn hơn. Để minh xác điều này hãy trở lại với ví dụ tòa lâu đài bị bỏ hoang. Một lực lượng thợ thuyền có thể tái tạo lại được nó, nhưng muốn làm được thế họ phải ăn uống nhiều hơn, và năng lượng đều đặn mà họ tạo ra với thức ăn lại đổ vào năng lượng tiêu hao cho công việc. Như vậy sau cùng sự lộn xộn mà các ông thợ tạo ra cao hơn trật tự do sự tái tạo lại cái lâu đài kia. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học vẫn được tôn trọng.
Mũi tên thời gian nhiệt động học gắn liền với mũi tên thời gian vũ trụ được đặt trên căn bản sự trương nở của vũ trụ. Khi thời gian trôi đi, các thiên hà rời xa nhau, vũ trụ nguội lại và loãng dần đi. Đến phút thứ ba của sự lập thành vũ trụ, nhiệt độ lên đến hàng triệu độ. Sau 15 tỷ năm tiến hóa, nhiệt độ rơi xuống– 2700 tức là nhiệt độ của ánh sáng hóa thạch. Trong lòng cái lạnh kinh người ấy, những ngôi sao trở nên nguồn nhiệt lượng và năng lượng nhờ vào những phản ứng nguyên tử đã xảy ra trong lòng chúng mà sức nóng lên đến hàng mười triệu độ. Sự giảm thiểu những sự lộn xộn gây ra bởi sự xuất hiện các cấu trúc phức tạp như những hành tinh, những ngôi sao, thiên hà được bù đắp bởi nhiệt lượng mà các ngôi sao thải ra trong không gian. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học lại được tôn trọng. Các mũi tên thời gian vũ trụ và thời gian nhiệt động học nối kết chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên những vấn đề về chiều hướng thời gian còn lâu mới được giải quyết vì bị che phủ bởi một màn sương mù dày đặc. Nếu một ngày nào đó vũ trụ tiến đến một sự trương nở tột bực và sụp đổ, thời gian nhiệt động học gắn liền với sự trương nở vũ trụ có đảo ngược lại chăng trong một vũ trụ bị co lại. Đống đá hỗn độn kia có đột nhiên biến trở lại thành một lâu đài tráng lệ chăng? Và thời gian tâm lý có trôi lăn theo chiều hướng đảo ngược? Thật ra, nếu điều này xảy ra cư dân của một vũ trụ bị co lại sẽ tưởng tượng như đang ở trong một vũ trụ trương nở vì các cấu trúc não bộ của họ cũng sẽ bị đảo ngược. Vấn đề đảo ngược thời gian do đó không thể đặt ra được, hay đó chỉ là một trò chơi của tinh thần.
Nhưng chúng ta hãy trở lại cuộc tranh luận về ý niệm thời gian vật lý của Einstein. Triết gia người Pháp Henri Bergson không chấp nhận lý thuyết của Einstein theo đó thời gian chỉ là một ảo tưởng không có thật cũng không có kỳ hạn. Theo Bergson thời gian phải có một “bề dày” và chỉ bề dày đó mới phù hợp với đời sống nội tâm. Chỉ có kỳ hạn của thời gian mới cho phép tự do sáng tạo, tiến bộ và phát minh cùng sự bừng sáng tinh thần. Triết gia người Đức Edmund Husserl cũng nói đến “thời gian không dồn nén được” mà khoa thần kinh sinh học công nhận. Thời gian vật lý theo quan niệm Einstein có phải là tất định và trái với đạo làm người không? Nếu mọi thứ sắp đến đều đã được định sẵn thì còn đâu là ý chí phấn đấu và hy vọng?
Matthieu: Ý niệm về mọi sự sắp xảy ra đều đã được định trước là vô lý. Như chúng ta đã biết khi nói về sáng tạo, nếu tất cả đều đã được định trước, tất cả nguyên nhân và điều kiện của tương lai đều phải có sẵn ở hiện tại. Và nếu được như thế thì không có gì ngăn cản chúng xảy ra lập tức. Và nếu như chúng không hiện diện tất cả ở hiện tại thì vẫn còn cái gì đó khiến chúng không xảy ra.
Thuận: Làm thế nào để dung hợp thời gian tâm lý và thời gian vật lý?
Matthieu: Ý niệm về thời gian vật lý phải chăng đơn giản là một sự trừu tượng hóa thời gian tâm lý, cái thời gian sinh ra từ sự phân biệt giữa cái gì đã xảy ra và cái gì chưa đến? Người ta có thể tháo gỡ ý niệm thời gian vật lý khi hiểu rằng một thoáng chốc không có thời hạn và như vậy tổng số những thoáng chốc cũng không thể có thời hạn. Thời gian chỉ là một nhãn hiệu mà ta dán lên cho nhận thức của ta về một sự thay đổi. Nếu thời gian vật lý có một tính cách tuyệt đối thì phải có sự liên tục, nghĩa là phải có một sự giao tiếp giữa quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai.
Thuận: Đúng thế.
Matthieu: Một thoáng chốc là điểm không thời hạn giữa hiện tại và tương lai. Nhưng làm sao mà cái thoáng vừa trôi qua và cái thoáng hiện tại cùng có chung một cái gì không? Nếu có, hoặc là cái thoáng hiện tại biến thành quá khứ, và cái thoáng quá khứ trở thành hiện tại. Cũng thế, nếu cái thoáng hiện tại có điểm nào giao tiếp với cái thoáng tương lai, thì hoặc hiện tại trở thành tương lai và tương lai lại trở thành hiện tại. Như vậy muôn ngàn thoáng chốc đã qua và sắp đến đều có thể lẫn lộn với hiện tại.
Thuận: Người ta thấy một lập luận tương tự ở Aristote trong quyển “Vật lý”: “Nếu trước và sau cả hai cùng ở chung trong một thoáng chốc thì cái gì sẽ xảy ra nếu một sự kiện cách đây mười ngàn năm lại đồng thời với cái đang ở hiện tại”. Nhưng tôi cũng nhắc cho bạn rõ là với các nhà thần kinh sinh học như Valera cái thoáng chốc hay nói khác đi là cái hiện tại không phải là không có thời hạn. Thời hạn này không dưới vài phần mười của một phần ngàn giây tức là thời hạn tối thiểu để các tế bào thần kinh hoạt động.
Matthieu: Lập luận mà tôi đưa ra không đề cập đến thời gian sinh lý và chủ quan, mà chỉ nói đến thời gian vật lý. Nó phá vỡ cái cảm nghĩ xem thời gian như một thực tại đang trôi chảy. Nếu thời gian trôi chảy không thể bắt gặp được trong giây phút hiện tại mà hiện tại thì không dời đổi, làm thế nào trên bình diện chân lý tương đối ta có thể đi từ hiện tại sang tương lai? Bồ tát Thế Thân viết trong A tỳ đàm: “Do sự kết thức tức khắc của một thoáng chốc cho nên không có sự chuyển động thật sự, mà chỉ có sự sản sinh không ngừng dứt các thoáng chốc”.
Thuận: Người ta lại tìm thấy ý này trong câu nói của Bòece: “Cái hiện tại khi trôi qua là thời gian, còn cái hiện tại đang dừng lại là thiên thu”. Theo Kant thời gian không thể tách biệt khỏi dòng tư tưởng nhận ra nó. Ông đã nghĩ rằng thời gian cho phép sự kế tục các sự việc trong khi không gian thì giúp cho sự đồng thời xuất hiện các sự việc đang hiện thực. Nhưng ông ta vẫn xem không gian và thời gian tách biệt như Newton, và như vậy là trái với quan niệm của Einstein. Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng xem không gian và thời gian như những thực thể tách biệt?
Matthieu: Không hẳn như vậy vì lẽ Phật giáo không quan niệm không gian như một thực tại. Không gian cũng như thời gian tương quan với trải nghiệm mà chúng ta có được với những hiện tượng vật lý rõ ràng. Nếu ta quan sát một vùng trong không gian dù rộng lớn đến đâu, cái vùng đó cũng chỉ là một ý niệm. Không gian không thể được xem từ một thành phần của nó, hoặc tách rời khỏi các thành phần của nó. Nếu thực thể không gian gồm tất cả thành phần của nó, thì để đi vào không gian đó, ta phải đồng thời đi vào một lượt các thành phần của nó, điều không thể xảy ra được. Như vậy thực thể không gian chỉ là một nhãn hiệu tinh thần, không có tự tính.
Thuận: Còn quan niệm thời gian có giống như quan niệm Einstein là thời gian không trôi chảy chăng? Theo thuyết tương đối thời gian vật lý là bất động đứng im. Như vậy thì trong toàn bộ cái đôi “không, thời” có chứa đựng tất cả các sự kiện từ khi vũ trụ bắt đầu cho đến khi chấm dứt không?
Matthieu: Không, thời gian không bất động và đứng im vì lẽ thời gian không thực. Đôi “không, thời” của Einstein không thể xem như tuyệt đối mà chỉ là một quy ước. Bản thể tuyệt đối của thời gian là tánh không, nó không có tự tính. Người ta gọi điều này là “chiều hướng thứ tư” của thời gian vượt trên ba chiều kia là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chiều hướng thứ tư này đôi khi được đồng hóa với hiện tại, vì lẽ hiện tại không có thời gian. Trên bình diện thiền định, thiền giả ở trong trạng thái an lạc của hiện tại và dễ dàng nhận ra tánh không sáng ngời của Tâm, và sự rõ ràng trong suốt của thế giới hiện tượng. Và điều này là bất di bất dịch, không phải theo nghĩa một thực thể thường hằng mà là một trạng thái chân xác của tinh thần và của hiện tượng, vượt khỏi mọi ý niệm đến và đi, hiện hữu hay không hiện hữu, một hay tất cả, khởi đầu hay chấm dứt.
Nhận xét
Đăng nhận xét