TÌNH YÊU VÔ BỜ 18/a (Máu mủ gặp lại)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lôi Tú Vinh lớn lên ở huyện Văn Thành, TP.Châu Sơn, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Cô được một gia đình nhận nuôi từ Viện phúc lợi, vì khi đó hai vợ chồng nọ sinh được một người con nhưng không may đứa trẻ yểu mệnh đã qua đời. Vì đau xót cho đứa con cộng thêm việc sữa mẹ tràn về rất nhiều nên họ muốn có một đứa con để xoa dịu nỗi đau.
Về sau, người mẹ nuôi này mang thai và sinh thêm hai cô con gái sinh đôi, dù vậy Tú Vinh chia sẻ "Cuộc sống vốn không mấy dư giả nhưng họ vẫn đối xử với tôi rất tốt".
Bất hạnh thay, vào năm Tú Vinh 11 tuổi, người mẹ nuôi qua đời vì bạo bệnh, khi được 16 tuổi, cô phải bươn chải làm thuê phụ giúp gia đình. Một thân một mình lặn lội khi còn quá trẻ, Tú Vinh luôn mong mỏi tìm được bố mẹ ruột của mình.
Mấy năm gần đây, người bố nuôi của Tú Vinh ngày càng yếu, ông
đã đem tất cả mọi chuyện kể cho cô nghe: "‘Bố mẹ xin con từ Viện phúc
lợi ở thị xã Thụy An về, rất có thể bố mẹ đẻ của con là người Thụy An
đấy".
Kể từ đó, cô hầu như đều sống và làm việc tại thành phố Thụy An, Chiết Giang để tìm kiếm người thân. Đúng là cô đã được sinh ra tại thị trấn Đinh Điền, thành phố Thụy An. Gia đình cô khi đó đã có 4 người con, hoàn cảnh khá túng thiếu.
Tuy nhiên, bố mẹ đẻ của cô vẫn luôn muốn sinh được một cậu con trai nên khi bé gái là Tú Vinh mới vừa chào đời được 3 ngày, họ đã lén lút để con trước cửa Viện phúc lợi Thụy An.
Hơn 30 năm trước, bố đẻ của Lôi Tú Vinh đã qua đời. Hơn 10 năm sau, mẹ cô là bà Trần Kim Muội mới đem chuyện về đứa con gái bị đem đi cho kể với các con. Những năm qua, các chị em của cô cũng khắc khoải tìm kiếm thành viên bị thất lạc của gia đình.
Trong khi đó, Tú Vinh cũng đơn độc trên hành trình tìm lại gia
đình không mệt mỏi. "Vài năm nay, cuộc sống của tôi đã dần ổn định, con
trai cũng đã vào trung học nên tôi càng có nhiều thời gian để tìm lại
ruột thịt của mình", người phụ nữ 39 tuổi cho hay.
Có lần Tú Vinh đã đăng tải thông tin tìm người thân trên Nhật báo Thụy An, và ông trời không bao giờ phụ lòng người khi cô đã tìm được gia đình mình vào ngày 21/6 vừa qua.
"Vừa nhìn thấy Tú Vinh, tôi đã có thể khẳng định đây chính là em gái mình. Không chỉ giống nhau về ngoại hình, tôi còn có cảm giác gần gũi đặc biệt đến khó tả, chính là cảm giác cùng chung máu mủ", người chị ba nói.
Kết quả giám định ADN cũng cho thấy, bà Trần Kim Muội và Lôi Tú Vinh có quan hệ mẹ con. "Tôi sống ở Đường Hạ, dù có chuyển nhà vài lần nhưng đều sống quanh khu đó. Nhà của các chị tôi cũng ở gần đó", Tú Vinh chia sẻ.
Cuộc sống thật khôn lường khi dù cách nhau 1km mà họ phải chịu đựng nỗi đau chia li suốt mấy mươi năm. Hi vọng suốt quãng đời còn lại, họ sẽ sống bên nhau đầm ấm, hạnh phúc và không để lạc mất nhau thêm lần nào nữa.
Đó là cuộc tìm nhau đầy bất ngờ của 2 chị em bà Hồ Thị Thanh Trà (SN 1959) và bà Hồ Thị Vinh (SN 1963).
Trong ngôi nhà nhỏ ẩn mình dưới hàng cây xanh rợp bóng, cụ Nguyễn Thị Dần (SN 1930) cùng ông Hồ Văn Phước (SN 1964, cháu bà Dần) đã kể lại câu chuyện ly kỳ chẳng khác nào chuyện trong phim.
Tháng 10-1970, cuộc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt, bà Dần về làm dâu nhà họ Hồ được 6 tháng thì hai người con chồng là bà Trà và bà Vinh bị lính ngụy bắt đưa đi.
Bà Trà sau đó được đưa vào một gia đình ở tỉnh Quảng Ngãi nhận làm
con nuôi. Đến năm 1976, khi đất nước đã thống nhất, bà theo gia đình vào
làm kinh tế mới và định cư hẳn ở thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy, tỉnh
Kon Tum. Bà Vinh bị bắt đưa ra Quảng Trị sau đó được đưa di chuyển khắp
nơi rồi lấy chồng và định cư ở xã Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Năm 2006, con trai bà Trà là anh Nguyễn Thanh Khê (SN 1983) và con gái bà Vinh là chị Lê Thị Mỹ Châu (SN 1984) tình cờ gặp nhau khi cùng học chung một trường Cao Đẳng tại tỉnh Đồng Nai.
Hôm đó, Châu đi chơi với nhóm bạn thì gặp Khê tại quán cà phê. Khi biết Khê quê Quảng Nam, Châu đem câu chuyện gia đình mình kể cho Khê nghe rằng: Quê Châu cũng ở Quảng Nam, hồi nhỏ do chiến tranh nên mẹ Châu thất học, bị lính Mỹ bắt cóc và lưu lạc gia đình từ nhỏ cho đến nay chưa tìm được.
Châu nghe mẹ kể lại, trong gia đình mình có ông ngoại làm cách mạng, bà ngoại bị Mỹ giết chết. Ông bà ngoại có 3 người con gái gồm chị đầu Hồ Thị Thức, chị kế tiếp là Hồ Thị Trà và mẹ mình tên Hồ Thị Vinh.
Nghe Châu hỏi có biết trường hợp nào như vậy hay không, Khê chết
điếng cả người vì câu chuyện Châu kể trùng khớp với câu chuyện lâu nay
mẹ vẫn thường kể cho anh nghe.
Tìm hiểu thêm một vài thông tin, Khê và Châu nhận ra rằng mình chính là anh em con dì ruột. Hai anh em vui mừng cho số điện thoại của bà Trà và bà Vinh để hai người liên lạc nói chuyện với nhau.
Khi đã nhận ra máu mủ ruột thịt, bà Trà đón xe từ Kon Tum xuống Đồng Nai để gặp em gái. Giây phút gặp nhau, hai người phụ nữ với mái đầu “tóc bạc gác tóc xanh” ôm nhau khóc như những đứa trẻ.
Tối hôm đó, họ không ngủ một giây phút nào mà để dành thời gian động viên, kể cho nhau nghe về những tháng năm xa cách.
Do thời điểm bị bắt đi cả hai còn quá nhỏ, hai chị em bà Trà chỉ còn nhớ nhỏ giọt vài thông tin về quê hương, cha mẹ của mình. Sau thời gian sắp xếp lại những chi tiết trong trí nhớ, mãi đến đầu năm 2015, bà Trà vẽ bản đồ và sai con trai tìm về quê hương thì may mắn được người quen chỉ đường về thôn Hưng Lộc gặp cụ Dần. Sau khi tìm được gốc tích, hai chị em bà Trà dìu dắt chồng con hẹn nhau trở về quê hương. Trời đổ mưa kín lối trong ngày trở về quê của hai người con bị thất lạc 45 năm nhưng những cái ôm quyện chặt, những giọt nước mắt hạnh phúc đã xua tan đi cái lạnh của mùa đông …
Trở về nhà, hai chị em bà Trà lại khóc hết nước mắt khi biết rằng, kể từ ngày mình bị bắt đi, không ngày nào nơi quê hương xứ Quảng này, người cha già là cụ Hồ Văn Long (SN 1921), chị gái và bà Dần không khỏi mong ngóng. Cụ Long đã dành gần nửa cuộc đời còn lại để đi tìm con trong vô vọng. Đến năm 2005, do tuổi già sức yếu, cụ mất đi và để lại tâm nguyện tìm hai người con cho cụ Dần lúc này tuổi đã già, sức đã yếu.
Sau một thời gian chung vui, gặp lại chị em, họ hàng, hai người phụ nữ cùng gia đình lại phải quay về với cuộc sống mưu sinh thường ngày nơi đất khách quê người và cũng là quê hương thứ hai của mình. Cụ Dần vẫn lặng lẽ sống trong căn nhà nhỏ với sự đùm bọc, yêu thương của xóm làng. “Tôi vui không thể tả khi hai người con tìm về. Bây giờ, nếu có chết đi tôi cũng yên lòng vì tâm nguyện bao năm của hai vợ chồng tôi đã đạt được” – cụ Dần bộc bạch.
Trao đổi với chúng tôi qua điện thoại, bà Trà cho biết cuộc sống của hai chị em bà tuy không còn vất vả như xưa nhưng vẫn không được khá giả. Sau mấy chục năm lưu lạc trở về, bà Trà vừa mừng vừa tủi nhưng bà nói rằng chị em bà không trách cứ ai mà chỉ trách chiến tranh đã gây ra tội ác với không chỉ riêng gia đình bà mà còn với vô vàn những hoàn cảnh khác.
Đó
là câu chuyện cảm động về hai anh em ông Nguyễn Đình Kế và bà Nguyễn
Thị Trang, ở xóm 8 xã Hà Linh, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh).Anh em trùng phùng sau 70 năm cách biệt
Ngôi nhà nhỏ của vợ chồng bà Nguyễn Thị Trang nằm ngay ven đường quốc
lộ 15A, phía trước là núi, sau lưng là hồ rộng mênh mông, phong cảnh
nước non hữu tình. Mấy năm trở lại đây, tuy con cái thành đạt và đi làm
ăn xa, song tinh thần ông bà, đặc biệt là bà Trang, vẫn luôn phấn chấn.
Bởi lẽ, bà vừa tìm lại được người anh trai ruột thịt của mình sau nhiều
năm biền biệt tin tức. Xa cách nhau từ khi tóc còn để chỏm, đến lúc bà
không còn nhớ được rằng mình có một anh trai thì người anh lại đột ngột
dẫn con cháu về khiến bà cảm động không cầm được nước mắt cho ngày hội
ngộ.Bà Nguyễn Thị Trang năm nay đã 74 tuổi. Bà sinh ra trong gia đình có
4 anh em, trong đó có 3 anh em trai, bà là con út. Gia đình đói khổ
nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Đến năm 1945 thì lần lượt bố rồi 2 người
anh trai đầu đã bỏ mẹ con bà đi vì đói. Người mẹ già đành phải đau lòng
mang đứa con trai thứ 3 là Nguyễn Đình Kế, lúc ấy mới có 7 tuổi, cho đi
làm con nuôi. Còn lại mình bà với đứa con gái 5 tuổi bám trụ lại quê
nhà rau cháo nuôi nhau. Ký ức về người anh trai lúc đó trong tâm khảm
của bà Trang chỉ là cuộc gặp lần cuối, khi mẹ dẫn anh giao cho một người
khác, làm con nuôi. “Lúc đó, thấy mẹ khóc, anh Kế cũng khóc nhưng tui
không hiểu chuyện chi tiết. Cuộc sống xô đẩy, bon chen với cơm áo gạo
tiền đã khiến tui quên béng mất mình có người anh trai. Thậm chí, lúc
mất, mẹ tui cũng không đả động gì đến việc nhắc nhở tui tìm anh trai
mình”, bà Trang rơm rớm nước mắt nhớ lại chuyện ngày quá khứ.Thế rồi, bà
Trang cũng như bao cô gái quê khác, lớn lên lập gia đình, nuôi dạy con
cái. Bà sinh hạ được 5 người con, ngoại trừ cậu con trai thứ tư đang làm
việc chân tay ở Thái Lan thì đều là công chức nhà nước. Bà Trang nhìn
xa xăm và nhớ lại, vào một ngày cuối năm, trời rét căm căm, bà đang
chuẩn bị tống cựu nghênh tân thì nhà có khách lạ. Trong đoàn người ấy có
cả ông Nguyễn Ngọc Sơn, giám đốc công ty cao su Hà Tĩnh, và nhiều người
trong làng. Khi bà còn ngỡ ngàng chưa hiểu chuyện gì thì một người đàn
ông tầm 75 tuổi chạy đến nắm tay bà lắc lắc: “Chính em gái tôi đây rồi,
bao năm trời cách biệt, đau đáu tìm về, nay mới có dịp trùng phùng. Em
tôi già và gầy quá”. Trong câu chuyện gặp mặt tại bữa cơm thân mật sau
đó, bà Trang mới biết, người đàn ông nọ chính là anh Kế của mình. Đã hơn
nửa thập kỷ, ông vẫn đau đáu nhớ về cội nguồn. Lúc này, bà mới lật giở
ký ức, 2 anh em ôm nhau mừng mừng, tủi tủi, nước mắt rơi nghẹn ngào. Câu
chuyện tựa cổ tích đang tái hiện giữa đời thường. Ngày đó, nghe tin bà
Trang tìm lại được người anh của mình, bà con lối xóm đến chật kín nhà
để chia vui, niềm vui ngày trùng phùng.Loạn lạc vì chiến tranh, đói kém
Trong ngày gặp mặt, ông Nguyễn Đình Kế đã kể lại cho em gái và bà con
họ hàng nghe về quãng đường lưu lạc của mình cũng như hành trình tìm lại
em gái. Ngày đó, mẹ đem cho ông Kế làm con nuôi một người đàn ông gốc
Huế, tên là Năm, làm cai cho Pháp ở Tổng Hà Linh. Nhận con nuôi được vài
năm, ông Năm Huế trở lại thủ đô, mang theo cả Kế. Với ý định xóa gốc
tích của đứa con nuôi, ông Năm đã thay đổi tên của Kế thành Nguyễn Văn
Ba. Sau khi ông Năm mất, Ba vào bộ đội, rồi xuất ngũ và lấy vợ, lập
nghiệp ở Đà Nẵng. Ông Ba (tức Kế), có 10 người con, đến nay các con đều
đã thành đạt, định cư ở Mỹ. Về chuyện đau đáu với quê hương cũ, ông Kế
kể lại với bà Trang cũng như xóm làng rằng, chưa ngày nào ông thôi nhớ
về quê, dù ký ức rất đỗi nhạt nhòa, mờ mịt.Càng về già, ông càng hay
hoài niệm, nhất là thời điểm các con định cư hết bên trời Tây, chỉ có
hai ông bà sống giữa Đà Nẵng hoa lệ. Thế rồi, một ngày cuối tháng
10.2010, ông xem chương trình thời sự trên Đài Truyền hình Việt Nam nói
về tình hình lũ lụt ở miền Trung, trong đó có nhắc đến địa danh Hà Linh,
huyện Hương Khê. Ban đầu, ông chỉ định lưu tâm để bàn với vợ dành ít
tiền gửi về cứu trợ lũ lụt. Nhưng 2 chữ “Hà Linh” cứ ám ảnh khiến ông
bao đêm trăn trở, lần dở ký ức vụn của tuổi thơ. Thế rồi, trong mớ hỗn
độn ấy, ông chợt nhớ ra năm xưa mình cũng từng ở vùng đất có địa danh
này.Sau ông nhờ mấy người bạn làm ở VTV Đà Nẵng tìm cho đoạn thời sự đã
phát hôm đó. Ông xem đi xem lại, thấy có ông Sơn giám đốc công ty cao su
đóng trên địa bàn này trả lời phỏng vấn. Ông Kế tìm cách liên hệ, xin
số điện thoại để hỏi về địa danh Hà Linh thì được biết, đó là tên của xã
mà công ty đang đóng. Đến lúc ông hỏi về dòng họ Nguyễn Đình thì ông
này không biết, nhưng có hứa sẽ giúp đỡ nếu về đây. Từ đó cho đến khi
quyết định ra Hà Tĩnh tìm em gái, ký ức người đàn ông ở vào cái tuổi
thất thập cổ lai hy này đã chắp ghép được những mảnh vỡ của quá khứ,
rằng ông có một người em gái, có mẹ già và anh trai, nhưng đích xác ai
sống, ai mất thì ông không dám chắc. Dù vậy, ông vẫn quyết tâm ra Bắc để
tìm ra gốc gác của mình. Dù là không còn ai trong gia đình nữa, thì ông
vẫn tin dòng họ sẽ còn một ai đó sống sót.Tháng 11.2010, khi cơn lũ vừa
rút đi, lấy cớ làm công tác cứu trợ nhân đạo, ông Nguyễn Đình Kế cùng
vợ và mấy người cháu xa đánh xe về Hà Linh. Qua câu chuyện rành rẽ với
ông giám đốc công ty cao su, người bạn này đã giúp ông hỏi han tin tức
về nguồn cội của mình. Khi đến UBND xã nhắc về dòng họ Nguyễn Đình, ông
chủ tịch Đặng Minh Đức cho hay, có dòng họ đó ở xã này, hiện trưởng họ
là ông Nguyễn Đình Dưỡng, cán bộ tiền khởi nghĩa trong phong trào Xô
Viết – Nghệ Tĩnh những năm từ 1930 đến năm 1931. Họ rồng rắn kéo nhau
đến nhà ông Dưỡng. Khi nghe nhắc đến đứa cháu tên Kế bị thất lạc năm
xưa, cụ Dưỡng bỗng dưng đứng phắt dậy, chạy đến bên ông Kế run run:
“Thằng Kế năm xưa đây rồi. Chính mày chứ không thể ai khác. Chiến tranh
tàn khốc, cả dòng họ cứ tưởng mày đã theo Tây (vì ngày xưa Kế làm con
nuôi cho ông Năm Huế theo Pháp), không ngờ mày đã giác ngộ mà theo cách
mạng”. Cuộc trùng phùng chưa dừng lại ở đó, cụ Dưỡng cho hay, ông Kế còn
một người em đang sống tại xóm này. Nghe đến đấy, ông Kế vừa hồi hộp,
vừa mừng rỡ. Đến lúc này, ông mới tin rằng, linh cảm về một đứa em máu
mủ ruột rà vẫn còn đâu đó trên đất nước đã trở thành hiện thực.Thắm tình anh em
Hai anh em Nguyễn Đình Kế và Nguyễn Thị Trang gặp nhau, rơi nước mắt
mừng mừng tủi tủi. Mấy chục năm qua khi ký ức về nhau chỉ là một thoáng
xa xăm mỏng mờ nhưng bất ngờ họ lại tìm được tình thân. Ông Kế cũng
chẳng thể nào hình dung được em gái nhỏ bé năm xưa của mình nay đã là
một bà lão già nua gầy gò và sống trong khổ hạnh. Được cái 5 đứa con của
bà Trang đều học hành tử tế và thành đạt. Mấy chục năm nuôi con chăm
cháu đã vắt kiệt sức lực của người đàn bà này. Trong khi đó, ông Nguyễn
Đình Kế có cuộc sống khấm khá hơn ở khu phố sầm uất tại quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng. Từ sau lần gặp lại ấy, ông Kế đã nhiều lần về Hà Tĩnh
để thăm và đỡ đần em gái trong cuộc sống thường nhật. Ông Kế cũng đã 3
lần cho xe về đón vợ chồng bà Trang vào chơi Đà Nẵng, thăm người nhà anh
trai sau 70 năm kỳ ngộ.Giữa năm 2011, sau khi đứa con trai út quyết
định sang Mỹ định cư, vợ chồng ông Nguyễn Đình Kế cũng ngậm ngùi chia
tay em gái để theo con cái sang sống phần đời còn lại ở trời Tây. Xa
nhau, lòng bà khôn nguôi nhung nhớ. Tình anh em hơn nửa thập kỷ không
gặp nhau thì không sao, đến lúc nhận ra, chưa kịp vui niềm hạnh ngộ thì
đã phải chia tay. Có lẽ cũng thấu hiểu nỗi lòng em gái nên cứ vài ngày
một lần, ông Kế lại gọi điện về gặp bà Trang động viên em nên bà cũng
thấy ấm lòng. Nhắc chuyện kỳ ngộ với anh trai mình, bà Trang vẫn còn
nguyên cái cảm giác hồi hộp, hạnh phúc. Có lẽ đó là món quà bất ngờ
nhất, kỳ diệu nhất mà số phận ban tặng cho 2 anh em bà sau gần như cả
cuộc đời.
Người con cuộn tròn trong hình vẽ mẹ bằng phấn
Không
chỉ những bạn trẻ thiếu vắng mẹ mà một người con nào khi nhìn hình ảnh
cô bé cuộn tròn trong hình vẽ người mẹ bằng phấn đều nghẹn ngào.
Bức ảnh được truyền tải đi nhiều lần nên dường như đã không còn biết được tác giả. Nhưng hơn tất thảy, nó là sự đồng cảm sâu sắc đối với những người không còn mẹ, là sự đánh thức tình yêu, hành động đối với bất kỳ ai còn có mẹ trên đời.
Cậu bé 2 tuổi khóc bên xác mẹ
Cậu bé ôm di ảnh mẹ thiệt mạng tại Nga
Ngày
11/09/2012 vừa qua đã xảy ra vụ hỏa hoạn kinh hoàng tại một xưởng may
tại Nga khiến 14 công nhân Việt Nam thiệt mạng. Trong ảnh là cậu bé
Nguyễn Ngọc Minh (10 tuổi, quê Nghệ An) khi đi nhận di hài của mẹ tại
sân bay. Cậu bé ngồi gục trên sàn, một tay cầm di ảnh của mẹ, một tay ôm
mặt khóc nức nở. Sau 5 năm xa cách, Minh “đón” mẹ về nước nhưng mãi mãi
không được gặp mẹ nữa.
Bức
ảnh trên chụp người phụ nữ Syria tên là Aida dùng tay che đi gương mặt
bị thương và những giọt nước mắt tuôn rơi. Cô Aida khóc không phải chỉ
vì những vết thương đang nhức nhối mà còn vì nỗi đau đớn tột bậc khi
chồng cùng hai đứa con nhỏ đã thiệt mạng và ngôi nhà của gia đình bị phá
hủy sau cuộc giao tranh giữa quân đội chính phủ và quân nổi dậy tại quê
hương cô- Idlib, miền bắc Syria.
Chỉ trong chốc lát, người phụ nữ này đã mất đi tất cả những gì quý giá nhất trong cuộc đời vì chiến tranh, loạn lạc. Ở Syria, có hàng nghìn người phụ nữ rơi vào cảnh ngộ như cô Aida.
Khoảnh khắc đứt lìa
Hai
bức ảnh xúc động: một than khóc, một nụ hôn vĩnh biệt người thân đã ra
đi chụp tại Bệnh viện Shifa, thành phố Gaza ngày 18/11 vừa qua cho thấy
sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh. Sẽ chẳng ai bên ai được
mãi mãi dù có yêu thương nhau đến mấy. Sẽ chẳng ai biết được điều gì xảy
ra, phút trước còn vui vẻ bên nhau, phút nhau là lìa xa khi chưa kịp
nói lời tạm biệt.
Bé gái 3 tháng tuổi bị cha đánh chết chỉ vì bé là... con gái
Ngày 5/4, bé gái Neha Afreen (Ấn Độ) đã được đưa tới bệnh viện Vani Vilas, Bangalore trong tình trạng vô cùng nguy kịch, thương tích đầy mình. Sau khi các bác sĩ kiểm tra thì phát hiện trên thân thể non nớt của cô bé 3 tháng tuổi đầy các vết thương, chấn thương nghiêm trọng ở vùng đầu, cổ bị trật khớp, toàn bộ lớp da mỏng manh bị trầy trụa kèm theo các vết cắn và bỏng khắp người.
Các bác sĩ cố hết sức để cứu chữa cho sinh mệnh bé nhỏ, cô bé đáng thương cũng dũng cảm chống lại đau đớn song không thắng nổi thần chết. Ngày 11/4, trái tim bé nhỏ của Neha đã ngừng đập. Các bác sĩ cho rằng cô bé bị thương quá nghiêm trọng ở vùng đầu.
Bức ảnh người mẹ trẻ ôm xác bé Neha Afreen trên tay này làm hàng triệu người rơi lệ.
Bé đã bị bố đánh đến trấn thương nghiêm trọng ở đầu, trật khớp cổ, bị bố cắn, dí thuốc lá đang cháy vào người. Ông bố nhẫn tâm này đã nhét giẻ đầy mồm bé. Vì vậy, bé đã ra đi mãi mãi.
Người gây ra những
vết thương tàn nhẫn và cái chết đau lòng của cô bé 3 tháng tuổi chính
là cha ruột em, ông Umar Farooq, một công nhân sơn xe. Kẻ nát rượu này
đã không ngừng dằn vặt, đánh đập vợ để đòi có “một thằng con trai”!
Buổi tối hôm đó, khi Reshma đi ngủ, Farooq đã nhét giẻ đầy miệng Neha để ngăn bé khóc và ra sức đánh đập cô bé bằng những gì anh ta vớ được.
Lúc người mẹ trẻ tỉnh giấc vào nửa đêm thì phát hiện con gái đang bị co giật dữ dội, nôn ra máu, cô gọi chồng nhưng anh ta thờ ơ. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của hàng xóm, Reshma đưa con nhập viện nhưng cuối cùng, thiên thần bé bỏng đã ra đi mãi mãi.
Những ngày đầu tháng 10, căn nhà của bà Trịnh Thị Hậy nằm rìa thôn Tân Đa (xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) đông hơn thường lệ. Người thân, làng xóm thay nhau đến chia vui với bà Hậy vì người con trai trở về sau gần 40 năm, kể từ lúc nhập ngũ.
“Tôi mừng lắm. Không có gì hạnh phúc bằng việc con trở về đoàn tụ”, bà Hậy nói.
Cụ bà 82 tuổi cho hay gia đình có 7 người con. Tháng 4/1978, chàng trai Nguyễn Văn Kế lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện, anh Kế tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia.
Hòa bình lập lại, những người lính xã Quảng Tân lần lượt trở về, riêng anh Kế thì không. Ngày ngày, bà Hậy cùng chồng mỏi mắt ngóng trông nhưng con trai vẫn biệt tích. Đến năm 1983, người mẹ đau đớn nhận giấy báo tử. Anh Kế được công nhận là liệt sĩ.
“Con đi chiến đấu nhưng không một lá thư, một kỷ vật gửi về. Lúc ấy chúng tôi đành chấp nhận sự thật là con đã hy sinh”, bà Hậy nhớ lại quãng thời gian đau buồn.
Hơn 30 năm qua, cuộc sống khó khăn đủ bề khiến gia đình bà Hậy cũng chưa thể thực hiện ước nguyện tìm hài cốt của con trai. Câu chuyện về người lính Nguyễn Văn Kế anh dũng hy sinh cũng dần lùi sâu vào quá khứ.
Bất ngờ một ngày cuối tháng 9/2017, thông tin và hình ảnh của ông Kế còn sống ở Thái Lan được đăng tải lên mạng xã hội Facebook.
Ông Nguyễn Văn Hùng (anh trai con bác ông Kế) cho hay một người đàn ông ở Quảng Ninh qua Thái Lan làm ăn và gặp ông Kế. Với ký ức mập mờ, ông Kế kể cho người đó việc mình từng là người lính và quê ở Thanh Hóa. Người này lập tức chia sẻ câu chuyện lên mạng Facebook để giúp ông Kế tìm quê hương.
“Thông tin về chú được nhiều người chia sẻ. Ít ngày sau thì gia đình chúng tôi biết tin và liên lạc. Được nhiều người giúp đỡ, đến ngày 1/10, chú trở về quê nhà trong sự vỡ òa của mọi người”, ông Hùng hồ hởi kể.
Bà Hậy xúc động tiếp lời: “Ngày gặp lại, hai mẹ con chỉ biết ôm nhau khóc nức nở. Tôi khóc vì quá hạnh phúc, không thể nói nên lời vì con trai đã từ cõi chết trở về”.
Theo lời ông Kế, ông không hy sinh mà bị quân Pôn Pốt bắt trong lúc vừa chữa xong căn bệnh sốt rét ở một trạm xá. Một thời gian sau, ông trốn được ra ngoài với trí nhớ không rõ ràng.
Ông sống thang lang và sau đó lưu lạc đến một tỉnh ở Thái Lan. Hàng chục năm qua, ông mưu sinh bằng nghề nhặt ve chai. Lúc đau ốm, không vợ con, không người thân thiết bên cạnh.
“Tôi ăn không đủ no, ngủ dưới gầm cầu. Đã nhiều lần tôi muốn về nước nhưng không có cách nào cả. Cuộc sống như tách biệt với bên ngoài”, ông Kế kể.
Phép màu xảy ra khi giờ đây ông đã được mọi người giúp đỡ để về đến
quê nhà. Gặp lại nhiều người thân thiết, trí nhớ của ông cũng hồi phục
nhanh hơn. Mấy hôm nay, ông Kế khan cả giọng nói vì trả lời nhiều câu
hỏi của người thân.
“Nhiều người hỏi tôi có nhớ họ là ai không. Tôi không thể nhớ được vì giờ già rồi, ai cũng khác. Nhưng mọi người nhắc tên gì, con bà này, ông kia là dần dần tôi nhớ ra”, ông Kế vui vẻ nói.
Kể từ ngày con trai về, bà Hậy đã hạ di ảnh thờ và bát hương. Tấm bằng Tổ quốc ghi công cũng được gia đình trả cho chính quyền.
Như chưa hề có cuộc chia ly... 56: May mắn này xin dành cho nhau
Câu chuyện có thật trong bài ca "Giọt sữa cuối cùng"
(VOV) - Trước khi bị địch bắn chết, chị đã kịp giành lại
đứa con 10 tháng tuổi để cho con bú những giọt sữa cuối cùng.
Gần như tất cả những người mộ điệu
cải lương đều biết và yêu quý một bài vọng cổ của nghệ sĩ, soạn giả
Trọng Nguyễn – bài “Giọt sữa cuối cùng”. Nhưng rất nhiều người không
biết rằng, bài ca ấy là câu chuyện có thật được kể bằng âm nhạc – câu
chuyện về sự hy sinh anh hùng của liệt sỹ Nguyễn Thị Tư (ở ấp Trung Hưng
1B, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu).
Câu
chuyện của chị Tư được những người làm phim “Bạc Liêu quê hương tôi” và
nghệ sĩ, soạn giả Trọng Nguyễn phát hiện, tôn vinh vào năm 1997.
Ngôi nhà của liệt sỹ Nguyễn Thị Tư
Chuyện
kể rằng: Như nhiều vùng quê miền Nam anh hùng khác, xã Vĩnh Hưng của
Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ là vùng đệm giữa căn cứ Vĩnh Trinh
của ta và tiểu khu Bạc Liêu của địch.
Chỉ là xã
thôi mà địch đóng ở đây cả cụm pháo 105mm, một tiểu đoàn bảo an và tiểu
đoàn cơ động 411 cùng nhiều ác ôn, dân vệ, tề điệp...
Chị
Tư bấy giờ là vợ của xã đội trưởng Năm Dỏng – một cán bộ diệt ác ôn nổi
tiếng của vùng. Anh Năm Dỏng vào cứ chiến đấu, chị Tư ở nhà thay anh
chăm sóc gia đình, nuôi em, nuôi con và mở quán lập đường dây tiếp tế
thuốc men, lương thực, bảo vệ cán bộ di chuyển từ cứ ra vùng địch tạm
chiếm. Cuối năm 1971, chị Tư sinh bé út đặt tên Lê Mỹ Linh.
Địch
nắm chắc dân Vĩnh Hưng hầu hết thân cách mạng, che chở cho cán bộ nên
chúng mở nhiều trận càn quét, lùng sục tìm bắt anh Năm Dỏng và cán bộ
lãnh đạo xã nhưng không được. Bởi vậy, chúng quyết định bắt chị Tư để uy
hiếp, buộc chị khai ra hầm bí mật của chồng và đồng đội.
Sau hàng loạt đòn tra tấn vẫn không khai thác được gì, chúng ra lệnh giết chết chị Tư, cắt lỗ tai mang về chi khu.
Trước
lúc hy sinh, chị đã van nài bọn chúng xin được cho con bú lần cuối…
Những người làm phim tài liệu “Bạc Liêu quê hương tôi” ngày ấy đã lấy sự
hy sinh anh hùng của chị Tư để đưa làm tứ cho bộ phim.
Câu
chuyện ấy cũng làm soạn giả Trọng Nguyễn bấy giờ là Chủ tịch Hội Văn
học - nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu rơi nước mắt. Ông trằn trọc suốt 1 tuần
trước khi viết thành bài ca “Giọt sữa cuối cùng” như một sự trả nợ ơn
nghĩa đối với người mẹ, người phụ nữ anh hùng của đất Vĩnh Hưng.
Nghe "Giọt sữa cuối cùng"
Chỉ
hơn 1 năm sau, khi bộ phim và bài ca cổ đầy xúc động viết về chị Tư ra
đời, chị đã được công nhận là liệt sỹ. Phần mộ của chị cũng được quy tập
trong nghĩa trang dành cho những người anh hùng của Vĩnh Hưng.
Trọng
Nguyễn lấy nút thắt cao trào nhất là giây phút cuối cùng của chị Tư để
xây dựng một hình tượng người phụ nữ - một người mẹ - người chiến sỹ
tuyệt đẹp:
Bọn giặc gầm lên: “Chồng mày đâu? Đồng đội mầy đâu? ”
Chị lắc đầu: “Tôi không biết”.
Thằng chỉ huy hất hàm ra lệnh: “Bắn!”.
“Khoan! Hãy chờ tôi giây lát”.
Rồi
chị gượng đứng lên, giành lại đứa con từ trong tay giặc. Nước mắt tuôn
trào, chị thầm gọi con… ơi. Bú nhanh lên kẻo không còn kịp nữa. Ơi con
của tôi, ơi bầu sữa. Giọt sữa cuối cùng, con bú cạn nghe con".
Ngày
17/4/1972, khi chị Tư hy sinh, bé Lê Mỹ Linh khi ấy mới chỉ hơn 10
tháng tuổi đã bị địch giằng khỏi vòng tay và bầu sữa mẹ. Cô bé ngày ấy
năm nay đã tròn 40 tuổi.
Khác với mọi người, cô
chưa bao giờ nghe nổi trọn vẹn bài ca “Giọt sữa cuối cùng” viết về mẹ và
chính mình. Bởi lần nào cũng vậy, chỉ nghe đến "vô câu phụng hoàn" là
cô đã thấy nghẹn đắng nơi cổ họng.
Cô nói: “Đất
Vĩnh hưng này, nghe đến bài: “Giọt sữa cuối cùng” thì ai cũng biết là má
tui, nhưng tui không cho mấy đứa ở trỏng bật băng hay ca trước mặt tui.
Tui nghe nó đau quá, chịu hổng nổi”.
Vĩnh Hưng
bây giờ là một trong 8 xã của huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đang trong
tiến trình xây dựng nông thôn mới với khởi điểm ban đầu là xã văn hóa 5
năm liền.
Ông Lê Văn Đỗi – Trưởng ấp Trung Hưng
1B cho biết: “Trung Hưng 1 và xã Vĩnh Hưng là xã anh hùng trong kháng
chiến. Ở đây có biết bao nhiêu thân nhân thương binh, liệt sỹ đã tham
gia nuôi chứa cán bộ. Chị Tư được công nhận là liệt sỹ thì người dân đều
thấy rất xứng đáng. Những gương anh hùng như chị Tư góp phần thú giục
thanh niên toàn xã và gia đình chính sách thể hiện bằng hành động tham
gia xây dựng nông thôn mới”.
Sau 40 năm kể từ
khi chị Nguyễn Thị Tư hy sinh, quê hương Vĩnh Hưng hôm nay đã có những
bước đổi thay kỳ diệu. Cô bé bú giọt sữa cuối cùng của mẹ ngày nào giờ
đã có 2 con, một cháu học lớp 12, một cháu vừa vào lớp 6. Cô mở một gian
hàng tạp hóa nhỏ nơi quê chồng. Căn nhà ngày xưa, giờ giao cho chị Hai
thờ má. Đám giỗ má, Mỹ Linh về thắp lên bàn thờ nén nhang với lời nhắn
nguyện: “Má hãy an lòng, quê mình giờ đã an bình, chị em con đều đã lớn
khôn!”
Tháng 7 tri ân các anh hùng liệt sỹ,
chúng tôi càng yêu quý bài ca cổ "Giọt sữa cuối cùng" vì Trọng Nguyễn
như đã nói hộ tất cả những ai đồng điệu:
"Hoa cỏ mai ai trồng bên mộ chị
Màu tím rưng rưng gợi nhớ ngày xưa.
Vĩnh Hưng ơi! đất anh hùng mỗi bận tôi qua
Đều có bóng dáng và dấu chân của chị.
Dấu chân xưa vẫn còn nằm trong đất
Đất kiên cường dấu chân ấy cũng trổ hoa.
Chị ơi, tôi đang viết về chị một bài ca mà nước mắt đã làm nhòa trang giấy.
Tôi nghe đâu đây như có dòng sữa ấy,
Chảy giữa quê hương làm cao rộng những công trình.
Mỗi chiến công đổi bao nhiêu xương máu
Chỉ có giọt sữa cuối cùng chị gởi lại cho con.
Đêm Vĩnh Hưng lúa trở mình ngậm sữa,
Dâng hạt gạo cho đời, thêm giọt sữa cho con./.
Trong
chương trình phát thanh đặc biệt kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh liệt
sỹ, sau khi chúng tôi phát sóng trực tiếp câu chuyện về sự hy sinh của
liệt sỹ Nguyễn Thị Tư, lại được biết hoàn cảnh của Mỹ Linh và gia đình
liệt sỹ Nguyễn Thị Tư gặp rất nhiều khó khăn, Cơ quan Thường trú Đài
TNVN đã nhận được rất nhiều điện thoại, tin nhắn của quý thính giả trong
cả nước bày tỏ sự cảm thông và chia sẻ.
Mọi
người đã ủng hộ cho Mỹ Linh và gia đình hơn 20 triệu đồng, trong đó có
thính giả tên Đạt hiện ở Ban Chỉ đạo Tây Nguyên ủng hộ 10 triệu đồng;
thính giả tên Thanh ở Công ty Tranimexco Sài Gòn ủng hộ 3 triệu đồng và
hàng chục thính giả ủng hộ từ 500.000 đồng đến vài triệu đồng.
Riêng
Công Đoàn Công ty TNHH Quản lý Bay ở địa chỉ: 5/200, Nguyễn Sơn, Bồ Đề,
Long Biên - Hà Nội chính thức vận động toàn đơn vị ủng hộ 40 triệu đồng
để xây nhà tình nghĩa cho Mỹ Linh và gia đình.
Đài
TNVN xin trân trọng cảm ơn quý thính giả gần xã đã thể hiện tấm lòng
tri ân của mình. Mọi sự đóng góp cho thân nhân liệt sỹ Nguyễn Thị Tư và
Lê Mỹ Linh xin gửi về Cơ quan thường trú Đài TNVN tại khu vực ĐBSCL, số
102- đường Lý Tự Trọng- Quận Ninh Kiều- TP Cần Thơ. Số ĐT:
07103.833.199. Số tài khoản: 0111000513295 - Ngân hàng ngoại thương Cần
Thơ./.
Đau lòng sống cách nhau 1km, thất lạc nhau 39 năm
Ngày 8/7 vừa qua, người phụ nữ 39 tuổi Lôi Tú Vinh lần đầu tiên được gặp mặt mẹ đẻ sau 39 năm chia cắt.
Lôi Tú Vinh lớn lên ở huyện Văn Thành, TP.Châu Sơn, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Cô được một gia đình nhận nuôi từ Viện phúc lợi, vì khi đó hai vợ chồng nọ sinh được một người con nhưng không may đứa trẻ yểu mệnh đã qua đời. Vì đau xót cho đứa con cộng thêm việc sữa mẹ tràn về rất nhiều nên họ muốn có một đứa con để xoa dịu nỗi đau.
Về sau, người mẹ nuôi này mang thai và sinh thêm hai cô con gái sinh đôi, dù vậy Tú Vinh chia sẻ "Cuộc sống vốn không mấy dư giả nhưng họ vẫn đối xử với tôi rất tốt".
Bất hạnh thay, vào năm Tú Vinh 11 tuổi, người mẹ nuôi qua đời vì bạo bệnh, khi được 16 tuổi, cô phải bươn chải làm thuê phụ giúp gia đình. Một thân một mình lặn lội khi còn quá trẻ, Tú Vinh luôn mong mỏi tìm được bố mẹ ruột của mình.
Kể từ đó, cô hầu như đều sống và làm việc tại thành phố Thụy An, Chiết Giang để tìm kiếm người thân. Đúng là cô đã được sinh ra tại thị trấn Đinh Điền, thành phố Thụy An. Gia đình cô khi đó đã có 4 người con, hoàn cảnh khá túng thiếu.
Tuy nhiên, bố mẹ đẻ của cô vẫn luôn muốn sinh được một cậu con trai nên khi bé gái là Tú Vinh mới vừa chào đời được 3 ngày, họ đã lén lút để con trước cửa Viện phúc lợi Thụy An.
Hơn 30 năm trước, bố đẻ của Lôi Tú Vinh đã qua đời. Hơn 10 năm sau, mẹ cô là bà Trần Kim Muội mới đem chuyện về đứa con gái bị đem đi cho kể với các con. Những năm qua, các chị em của cô cũng khắc khoải tìm kiếm thành viên bị thất lạc của gia đình.
Có lần Tú Vinh đã đăng tải thông tin tìm người thân trên Nhật báo Thụy An, và ông trời không bao giờ phụ lòng người khi cô đã tìm được gia đình mình vào ngày 21/6 vừa qua.
"Vừa nhìn thấy Tú Vinh, tôi đã có thể khẳng định đây chính là em gái mình. Không chỉ giống nhau về ngoại hình, tôi còn có cảm giác gần gũi đặc biệt đến khó tả, chính là cảm giác cùng chung máu mủ", người chị ba nói.
Kết quả giám định ADN cũng cho thấy, bà Trần Kim Muội và Lôi Tú Vinh có quan hệ mẹ con. "Tôi sống ở Đường Hạ, dù có chuyển nhà vài lần nhưng đều sống quanh khu đó. Nhà của các chị tôi cũng ở gần đó", Tú Vinh chia sẻ.
Cuộc sống thật khôn lường khi dù cách nhau 1km mà họ phải chịu đựng nỗi đau chia li suốt mấy mươi năm. Hi vọng suốt quãng đời còn lại, họ sẽ sống bên nhau đầm ấm, hạnh phúc và không để lạc mất nhau thêm lần nào nữa.
Cuộc trùng phùng ly kỳ sau 45 năm thất lạc
14/04/2015 14:39
(NLĐO)- 2 tháng nay, người dân thôn Hưng Lộc, xã Bình Định Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam vẫn bàn tán xôn xao câu chuyện 2 chị em ruột tìm về nhà sau 45 năm thất lạc.
Trong ngôi nhà nhỏ ẩn mình dưới hàng cây xanh rợp bóng, cụ Nguyễn Thị Dần (SN 1930) cùng ông Hồ Văn Phước (SN 1964, cháu bà Dần) đã kể lại câu chuyện ly kỳ chẳng khác nào chuyện trong phim.
Tháng 10-1970, cuộc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt, bà Dần về làm dâu nhà họ Hồ được 6 tháng thì hai người con chồng là bà Trà và bà Vinh bị lính ngụy bắt đưa đi.
Cụ Nguyễn Thị Dần cùng ông Hồ Văn Phước kể lại câu chuyện cuộc trở về sau 45 năm bị thất lạc của chị em bà Trà.
Năm 2006, con trai bà Trà là anh Nguyễn Thanh Khê (SN 1983) và con gái bà Vinh là chị Lê Thị Mỹ Châu (SN 1984) tình cờ gặp nhau khi cùng học chung một trường Cao Đẳng tại tỉnh Đồng Nai.
Hôm đó, Châu đi chơi với nhóm bạn thì gặp Khê tại quán cà phê. Khi biết Khê quê Quảng Nam, Châu đem câu chuyện gia đình mình kể cho Khê nghe rằng: Quê Châu cũng ở Quảng Nam, hồi nhỏ do chiến tranh nên mẹ Châu thất học, bị lính Mỹ bắt cóc và lưu lạc gia đình từ nhỏ cho đến nay chưa tìm được.
Châu nghe mẹ kể lại, trong gia đình mình có ông ngoại làm cách mạng, bà ngoại bị Mỹ giết chết. Ông bà ngoại có 3 người con gái gồm chị đầu Hồ Thị Thức, chị kế tiếp là Hồ Thị Trà và mẹ mình tên Hồ Thị Vinh.
Cụ Dần hiện sống một mình trong ngôi nhà nhỏ dưới sự đùm bọc của xóm làng
Tìm hiểu thêm một vài thông tin, Khê và Châu nhận ra rằng mình chính là anh em con dì ruột. Hai anh em vui mừng cho số điện thoại của bà Trà và bà Vinh để hai người liên lạc nói chuyện với nhau.
Khi đã nhận ra máu mủ ruột thịt, bà Trà đón xe từ Kon Tum xuống Đồng Nai để gặp em gái. Giây phút gặp nhau, hai người phụ nữ với mái đầu “tóc bạc gác tóc xanh” ôm nhau khóc như những đứa trẻ.
Tối hôm đó, họ không ngủ một giây phút nào mà để dành thời gian động viên, kể cho nhau nghe về những tháng năm xa cách.
Do thời điểm bị bắt đi cả hai còn quá nhỏ, hai chị em bà Trà chỉ còn nhớ nhỏ giọt vài thông tin về quê hương, cha mẹ của mình. Sau thời gian sắp xếp lại những chi tiết trong trí nhớ, mãi đến đầu năm 2015, bà Trà vẽ bản đồ và sai con trai tìm về quê hương thì may mắn được người quen chỉ đường về thôn Hưng Lộc gặp cụ Dần. Sau khi tìm được gốc tích, hai chị em bà Trà dìu dắt chồng con hẹn nhau trở về quê hương. Trời đổ mưa kín lối trong ngày trở về quê của hai người con bị thất lạc 45 năm nhưng những cái ôm quyện chặt, những giọt nước mắt hạnh phúc đã xua tan đi cái lạnh của mùa đông …
Trở về nhà, hai chị em bà Trà lại khóc hết nước mắt khi biết rằng, kể từ ngày mình bị bắt đi, không ngày nào nơi quê hương xứ Quảng này, người cha già là cụ Hồ Văn Long (SN 1921), chị gái và bà Dần không khỏi mong ngóng. Cụ Long đã dành gần nửa cuộc đời còn lại để đi tìm con trong vô vọng. Đến năm 2005, do tuổi già sức yếu, cụ mất đi và để lại tâm nguyện tìm hai người con cho cụ Dần lúc này tuổi đã già, sức đã yếu.
Sau một thời gian chung vui, gặp lại chị em, họ hàng, hai người phụ nữ cùng gia đình lại phải quay về với cuộc sống mưu sinh thường ngày nơi đất khách quê người và cũng là quê hương thứ hai của mình. Cụ Dần vẫn lặng lẽ sống trong căn nhà nhỏ với sự đùm bọc, yêu thương của xóm làng. “Tôi vui không thể tả khi hai người con tìm về. Bây giờ, nếu có chết đi tôi cũng yên lòng vì tâm nguyện bao năm của hai vợ chồng tôi đã đạt được” – cụ Dần bộc bạch.
Trao đổi với chúng tôi qua điện thoại, bà Trà cho biết cuộc sống của hai chị em bà tuy không còn vất vả như xưa nhưng vẫn không được khá giả. Sau mấy chục năm lưu lạc trở về, bà Trà vừa mừng vừa tủi nhưng bà nói rằng chị em bà không trách cứ ai mà chỉ trách chiến tranh đã gây ra tội ác với không chỉ riêng gia đình bà mà còn với vô vàn những hoàn cảnh khác.
Ông Nguyễn Công Danh, Chủ tịch UBND xã Bình Định Nam, cho biết ngoài
trường hợp hai chị em bà Trà, tại địa phương còn có nhiều trường hợp bị
địch bắt đi và thất lạc trong thời kỳ chiến tranh. Vào năm 1994, bà Hồ
Thị Tấn (chị em con chú bác của bà Trà) cũng đã tìm về nhà sau khi bị
thất lạc cùng thời điểm với bà Trà.
Bài -ảnh: Quang Vinh
Hương Khê: Anh em lạc nhau 70 năm bất ngờ hội ngộ
Bố mẹ lần lượt qua đời,
anh em ông Kế ly tán khi mới 5 – 7 tuổi nên ký ức về nhau cũng nhạt nhòa
như mưa qua cửa kính. Thế nhưng, sau 70 năm bặt tin nhau, họ bất ngờ ần
ra nhau từ một chi tiết rất nhỏ.
Xzone
Những bức ảnh chia lìa tình máu mủ khiến cả thế giới xúc động
Em bé con nằm co ro trong hình vẽ mẹ do chính em tự vẽ. Đôi giầy nhỏ xinh của em được đặt dưới chân "mẹ". Dù chưa đọc lời chú thích người xem cũng hiểu rằng mẹ của em đã chết và em nhớ mẹ biết nhường nào.
- Phía sau những bức ảnh khiến hàng triệu người cảm động
- Cảm động hình ảnh cô gái cõng bạn trai tàn phế
Bức ảnh được truyền tải đi nhiều lần nên dường như đã không còn biết được tác giả. Nhưng hơn tất thảy, nó là sự đồng cảm sâu sắc đối với những người không còn mẹ, là sự đánh thức tình yêu, hành động đối với bất kỳ ai còn có mẹ trên đời.
Cậu bé 2 tuổi khóc bên xác mẹ
Tôi mất tất cả rồi...
Chỉ trong chốc lát, người phụ nữ này đã mất đi tất cả những gì quý giá nhất trong cuộc đời vì chiến tranh, loạn lạc. Ở Syria, có hàng nghìn người phụ nữ rơi vào cảnh ngộ như cô Aida.
Khoảnh khắc đứt lìa
Bé gái 3 tháng tuổi bị cha đánh chết chỉ vì bé là... con gái
Ngày 5/4, bé gái Neha Afreen (Ấn Độ) đã được đưa tới bệnh viện Vani Vilas, Bangalore trong tình trạng vô cùng nguy kịch, thương tích đầy mình. Sau khi các bác sĩ kiểm tra thì phát hiện trên thân thể non nớt của cô bé 3 tháng tuổi đầy các vết thương, chấn thương nghiêm trọng ở vùng đầu, cổ bị trật khớp, toàn bộ lớp da mỏng manh bị trầy trụa kèm theo các vết cắn và bỏng khắp người.
Các bác sĩ cố hết sức để cứu chữa cho sinh mệnh bé nhỏ, cô bé đáng thương cũng dũng cảm chống lại đau đớn song không thắng nổi thần chết. Ngày 11/4, trái tim bé nhỏ của Neha đã ngừng đập. Các bác sĩ cho rằng cô bé bị thương quá nghiêm trọng ở vùng đầu.
Bức ảnh người mẹ trẻ ôm xác bé Neha Afreen trên tay này làm hàng triệu người rơi lệ.
Bé đã bị bố đánh đến trấn thương nghiêm trọng ở đầu, trật khớp cổ, bị bố cắn, dí thuốc lá đang cháy vào người. Ông bố nhẫn tâm này đã nhét giẻ đầy mồm bé. Vì vậy, bé đã ra đi mãi mãi.
Buổi tối hôm đó, khi Reshma đi ngủ, Farooq đã nhét giẻ đầy miệng Neha để ngăn bé khóc và ra sức đánh đập cô bé bằng những gì anh ta vớ được.
Lúc người mẹ trẻ tỉnh giấc vào nửa đêm thì phát hiện con gái đang bị co giật dữ dội, nôn ra máu, cô gọi chồng nhưng anh ta thờ ơ. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của hàng xóm, Reshma đưa con nhập viện nhưng cuối cùng, thiên thần bé bỏng đã ra đi mãi mãi.
Nhờ Facebook, 'liệt sĩ' được trở về nhà sau 34 năm báo tử
Sự trở về bất ngờ của ông Kế (ở Thanh Hóa) sau hàng chục năm lưu lạc
khiến gia đình, bà con lối xóm vui mừng khôn xiết. Ngày ngày, người dân
thay nhau đến chia vui, hỏi thăm ông.
Những ngày đầu tháng 10, căn nhà của bà Trịnh Thị Hậy nằm rìa thôn Tân Đa (xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa) đông hơn thường lệ. Người thân, làng xóm thay nhau đến chia vui với bà Hậy vì người con trai trở về sau gần 40 năm, kể từ lúc nhập ngũ.
“Tôi mừng lắm. Không có gì hạnh phúc bằng việc con trở về đoàn tụ”, bà Hậy nói.
Cụ bà 82 tuổi cho hay gia đình có 7 người con. Tháng 4/1978, chàng trai Nguyễn Văn Kế lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện, anh Kế tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia.
Hòa bình lập lại, những người lính xã Quảng Tân lần lượt trở về, riêng anh Kế thì không. Ngày ngày, bà Hậy cùng chồng mỏi mắt ngóng trông nhưng con trai vẫn biệt tích. Đến năm 1983, người mẹ đau đớn nhận giấy báo tử. Anh Kế được công nhận là liệt sĩ.
“Con đi chiến đấu nhưng không một lá thư, một kỷ vật gửi về. Lúc ấy chúng tôi đành chấp nhận sự thật là con đã hy sinh”, bà Hậy nhớ lại quãng thời gian đau buồn.
Hơn 30 năm qua, cuộc sống khó khăn đủ bề khiến gia đình bà Hậy cũng chưa thể thực hiện ước nguyện tìm hài cốt của con trai. Câu chuyện về người lính Nguyễn Văn Kế anh dũng hy sinh cũng dần lùi sâu vào quá khứ.
Bà Hậy vui mừng bên người con trai vừa từ cõi chết trở về. Ảnh: Nguyễn Dương. |
Ông Nguyễn Văn Hùng (anh trai con bác ông Kế) cho hay một người đàn ông ở Quảng Ninh qua Thái Lan làm ăn và gặp ông Kế. Với ký ức mập mờ, ông Kế kể cho người đó việc mình từng là người lính và quê ở Thanh Hóa. Người này lập tức chia sẻ câu chuyện lên mạng Facebook để giúp ông Kế tìm quê hương.
“Thông tin về chú được nhiều người chia sẻ. Ít ngày sau thì gia đình chúng tôi biết tin và liên lạc. Được nhiều người giúp đỡ, đến ngày 1/10, chú trở về quê nhà trong sự vỡ òa của mọi người”, ông Hùng hồ hởi kể.
Bà Hậy xúc động tiếp lời: “Ngày gặp lại, hai mẹ con chỉ biết ôm nhau khóc nức nở. Tôi khóc vì quá hạnh phúc, không thể nói nên lời vì con trai đã từ cõi chết trở về”.
Theo lời ông Kế, ông không hy sinh mà bị quân Pôn Pốt bắt trong lúc vừa chữa xong căn bệnh sốt rét ở một trạm xá. Một thời gian sau, ông trốn được ra ngoài với trí nhớ không rõ ràng.
Ông sống thang lang và sau đó lưu lạc đến một tỉnh ở Thái Lan. Hàng chục năm qua, ông mưu sinh bằng nghề nhặt ve chai. Lúc đau ốm, không vợ con, không người thân thiết bên cạnh.
“Tôi ăn không đủ no, ngủ dưới gầm cầu. Đã nhiều lần tôi muốn về nước nhưng không có cách nào cả. Cuộc sống như tách biệt với bên ngoài”, ông Kế kể.
Người thân, làng xóm đến chia vui với gia đình bà Hậy. Ảnh: Nguyễn Dương. |
“Nhiều người hỏi tôi có nhớ họ là ai không. Tôi không thể nhớ được vì giờ già rồi, ai cũng khác. Nhưng mọi người nhắc tên gì, con bà này, ông kia là dần dần tôi nhớ ra”, ông Kế vui vẻ nói.
Kể từ ngày con trai về, bà Hậy đã hạ di ảnh thờ và bát hương. Tấm bằng Tổ quốc ghi công cũng được gia đình trả cho chính quyền.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện
Quảng Xương, cho biết huyện đang phối hợp với lãnh đạo xã để xác minh
con người, nhân thân và các giấy tờ tùy thân (nếu có) của ông Kế.
“Sau khi xác minh, huyện sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng làm chế độ thương bệnh binh cho ông Kế. Huyện cũng hướng dẫn lãnh đạo xã làm việc này sớm nhất có thể”, bà Thu nói.
“Sau khi xác minh, huyện sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng làm chế độ thương bệnh binh cho ông Kế. Huyện cũng hướng dẫn lãnh đạo xã làm việc này sớm nhất có thể”, bà Thu nói.
'Liệt sĩ' trở về sau 37 năm lưu lạc
Nhập
ngũ năm 1973, đến năm 1990 ông Tước (quê Hưng Yên) được công nhận liệt
sĩ. Tuy nhiên, gần đây ông Tước bất ngờ trở về gia đình.
Như chưa hề có cuộc chia ly: Sự trở về của bốn anh em sau 41 năm
Thứ sáu, 21/11/2014 | 06:27 GMT+7
(ĐSPL) - Những năm tháng chiến tranh ác liệt, vùng đất Bến Hải anh hùng trở thành nơi đầu tuyến lửa. Mất mát và đau thương hiện hữu ngay trong tâm trí những đứa trẻ khi vừa sinh ra đã phải rời xa quê hương. Trong ký ức vụn vỡ, chỉ là những mảnh ghép mơ hồ về một vùng quê nắng gió. Nhưng, từ sợi chỉ mơ hồ ấy, sau mấy chục năm xa xứ, những người con tìm về lại quê hương trong sự ngỡ ngàng, kỳ diệu.
Nhân dân Vĩnh Linh đón học sinh K.8 trở lại quê nhà vào năm 1973 sau bảy năm sơ tán ra miền Bắc. (ảnh tư liệu) |
Những đứa trẻ "mồ côi" quê hương
Xuôi
dòng Bến Hải, chúng tôi tìm về mảnh đất máu thịt Vĩnh Kim (huyện Vĩnh
Linh, tỉnh Quảng Trị) để cùng người dân nơi đây sống lại những năm binh
lửa hào hùng và ký ức về chuyến đi K.8 của những đứa trẻ mồ côi nơi đây.
Chiến tranh kết thúc, tất cả lần lượt tìm về với quê hương. Nhưng,
trong số ấy, bốn đứa cháu của bà Nguyễn Thị Quyên (72 tuổi, trú Xóm
Rooc, xã Vĩnh Kim) mãi không thấy về. Để rồi hơn 40 năm trời, những đứa
cháu ngày nào mới quay về với quê hương trong mòn mỏi đợi chờ của người
dì ruột.
Nhắc đến những năm tháng
xưa, người đàn bà 72 tuổi tâm sự: "Chưa bao giờ ký ức của tui thôi nghĩ
về những năm tháng ấy. Nó như một phần máu xương của tui gắn với bốn đứa
cháu còn đỏ hỏn. Sáng hôm nớ năm 1967, tui và chị ruột tên là Tuyền ra
rẫy nhổ sắn về nấu ăn, bom đạn thì ác liệt không biết mô mà lần. Chị
mang rổ sắn về nhà, còn tôi đi sau một chút. Về tới gần nhà chị, tui
nghe tiếng máy bay ầm ầm. Dứt tiếng bom thì tui nghe tiếng kêu la "O
Tuyền bị thương rồi". Căn nhà chị tui sập. Tui chạy ào xuống, bức vách
đất đè lên thằng Hoàng, con trai của chị".
Những
giọt nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má nóng hổi, bà Quyên kể tiếp:
"Chị tui chết ngay sau đó. Chỉ còn lại bốn đứa con là Nguyễn Văn Cháu
(SN 1959), Nguyễn Thị Lan (SN 1962), Nguyễn Văn Phượng (SN 1964) và
Nguyễn Văn Hoàng (SN 1967). Thằng Hoàng khi ấy còn đang bú, nó bị bức
vách đất tường nhà sập đè lên nhưng may mắn chỉ bị thương nhẹ". Chiến
tranh đã cướp mất đi mẹ của những đứa trẻ khi cách đó chưa lâu, cha
chúng vừa qua đời bởi căn bệnh ung thư quái ác. Lúc đó, bốn đứa trẻ bơ vơ chỉ còn biết trông nhờ vào người dì ruột.
Thế
rồi bom đạn giội xuống mảnh đất Vĩnh Kim ngày càng ác liệt, bà Quyên
ngậm ngùi xin cho những đứa cháu mình đi ra Bắc theo diện K.8. Gạt dòng
nước mắt, bà kể tiếp: "Bom đạn mù mịt không biết khi mô hết, chỉ tội
nghiệp cho cu Hoàng khi mất mẹ phải bú dì. Thế rồi phải xin cho chúng đi
Bắc, lòng tui xót lắm, nhớ lắm nhưng ở lại thì bom đạn biết đâu mà
lường. Thế là thằng Cháu đi đầu tiên. Ngày chuẩn bị cho chúng đi, tôi sợ
chúng lạc sau này không tìm được đường về quê hương nên ghi tên tuổi,
quê quán vào một miếng giấy nhỏ đeo vào cổ cho mấy anh em. Nhưng rồi dì
cháu, anh em cũng vẫn thất lạc nhau".
Đó
là chuỗi ký ức dài về những năm tháng bắt đầu lưu lạc nơi xứ người của
những đứa trẻ và sự khắc khoải đợi chờ của bà Quyên. Cuối năm 1967, Lan
khi đó mới 5 tuổi, Hoàng mới được 10 tháng đi theo gia đình bà Quyên
trong chiến dịch K.8 ra Tân Kỳ (Nghệ An). Phượng khi đó mới 3 tuổi đi
theo gia đình người bác bên nội cũng ra đó. Ra tới Tân Kỳ được một thời
gian, khoảng năm 1969, mấy đứa trẻ về ở Trại nhi đồng Nguyễn Bá Ngọc tại
xã Hưng Đạo (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên). Cầm trên tay mảnh giấy của
người dì ghi quê hương mình ra đi, nhưng cũng vì quá nhỏ nên những đứa
trẻ không còn giữ được.
Ra Trại nhi
đồng nuôi dưỡng con em mồ côi ở Hưng Yên, ba chị em Lan, Hoàng, Phượng
thuộc ba độ tuổi nên sống ở ba khu trại khác nhau. Tâm trí thơ dại ngày
một phai dần những hình ảnh về quê nhà, khi họ lần lượt được những gia
đình khác nhận về nuôi dưỡng.
Nỗi khắc khoải quê nhà
Những
đứa cháu đi tập kết chưa được bao lâu thì bà Quyên được cử đi học
trường sư phạm ở huyện Duy Tiên (tỉnh Hà Nam). Kể từ ấy, bà bắt đầu rong
ruổi khắp xứ Bắc, tìm các cháu trong khắc khoải vô vọng. Ngược xuôi
khắp nơi, nhưng không ai còn nhớ về những đứa trẻ ấy. Chỉ đến khi bà trở
về lại quê nhà thì may mắn tìm được người con trai đầu của chị mình là
anh Cháu. Vì là đứa con lớn nhất được đi tập kết đầu tiên, Cháu còn nhớ
và tìm về được quê nhà qua những lời nhắc nhở của bà Quyên.
Bà Quyên cho biết thêm, sau khi anh Cháu biết ba đứa em của mình đã lưu lạc đâu đó trên đất Bắc, anh lại tìm ra Hà Nội
để hỏi tìm tung tích của các em. Nhưng rồi hồ sơ thất lạc, sau nhiều
chuyến kiếm tìm trong vô vọng, mấy năm sau anh Cháu mất trong một tai
nạn bom mìn ở tây Gio Linh. Kể từ đây, con đường tìm kiếm những đứa cháu
của bà Quyên về lại với mảnh đất quê hương không thể tiếp tục. Bà Quyên
bảo: "Nhiều đêm tui khóc vì nhớ chúng lắm. Tui lại nghĩ đến lời chị gái
khi tui không lo được cho chúng. Từ ngày thằng Cháu mất, tui coi như
hết hy vọng, đau khổ thêm bội phần".
Bà Nguyễn Thị Quyên tâm sự với PV về những đứa cháu một thời lưu lạc của mình. |
Thế
nhưng, bà Quyên cũng như những người thân của ba đứa trẻ ấy lại không
thể ngờ rằng ở đâu đó xa xôi, những đứa trẻ năm nào giờ đã là những
người lớn tuổi, trong tâm trí luôn đau đáu nỗi nhớ quê nhà và đang ngày
đêm tìm về nơi chôn nhau cắt rốn. Hành trình đi tìm lại cội nguồn của ba
đứa trẻ lưu lạc ấy lại bắt đầu từ những lá thư gửi cho chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly".
Anh Phượng với những ký ức còn sót lại, đã lên đường đi tìm lại chị em
mình. Kết cục có hậu đã đến, sau những năm tháng không biết mệt mỏi ấy,
anh đã tìm được chị và em trai của mình. Hiện, anh Phượng sống tại
TP.HCM, chị Lan sống ở Hải Dương, và Hoàng sống tại Quảng Ngãi.
Bà
Quyên nhớ lại: "Tui nhớ như in đó là số 31 của chương trình ti vi lúc
chiều 7/6/2010, là tui được gặp lại mấy đứa. Khi gặp nhau chỉ biết òa
khóc. Nghe thằng Phượng nói khiến tui càng khóc: "Con chỉ nhớ hai tiếng
Vĩnh Linh - Quảng Bình thôi. Con nhớ gió cát, nhớ bom đạn chứ không nhớ
nổi ai hết. Nhưng lòng dạ con cứ bồi hồi mỗi lần đi qua miền Trung. Thế
rồi con quyết tâm đi tìm lại quê hương". Giờ đây trên mảnh đất này,
không chỉ riêng ba đứa cháu gọi bằng dì ruột của bà Quyên may mắn trở về
vào năm 2010 sau 41 năm lưu lạc.
Bà
Quyên còn có hai đứa cháu khác ở thôn Hương Nam (cũng thuộc xã Vĩnh Kim)
là Hiền và Huệ là hai trong số 120 đứa trẻ Vĩnh Linh mồ côi, được đưa
từ Tân Kỳ ra Hưng Yên nuôi dưỡng vào năm 1969. Bố mẹ của Hiền và Huệ
cũng chết vì bom năm 1967. Huệ may mắn được một gia đình ở Hà Nội đón về
nuôi và năm 2003 tìm được về quê hương. Hiền được một gia đình tận Vĩnh
Phúc đón về làm con nuôi. Mãi một năm sau khi Lan, Phượng, Hoàng tìm về
được quê nhà thì từ Vĩnh Phúc, Hiền cũng tìm được quê hương để đoàn tụ
với các chị em mình.
Chiến tranh đã
lùi xa, những hố bom cũng dần lấp đầy và những hố sâu ký ức xa xứ của
những đứa trẻ lưu lạc năm nào cũng sẽ được bù đắp bằng tình yêu, khát
vọng quê hương đầy máu và nước mắt.
Sợi chỉ mong manh
Trao
đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Viết Thanh, Trưởng thôn Rooc (xã Vĩnh
Kim) xác nhận, chuyện bốn người cháu của bà Nguyễn Thị Quyên lưu lạc
suốt mấy chục năm trời mới tìm lại được quê hương là sự thật. "Có lẽ
chính tình máu mủ là sợi dây kết nối họ lại với nhau, kết nối tâm hồn
những người con xa xứ về với quê hương", ông Thanh nói.
Hữu Hòa - Nhâm Thân
Cuộc đoàn tụ "như chưa hề có cuộc chia ly" của cô gái 17 năm bị bán sang Trung Quốc làm vợ
Biết tin cô gái sinh năm 1982 bị bán sang Trung Quốc sau 17 năm mới có cơ hội trở về, nhiều người anh em họ hàng và hàng xóm đã kéo đến đông đúc để chia vui, nhiều người nói đây quả là phép màu...
Như xem... cô dâu về làng
Trưa 4/2, hàng chục người bà con hàng
xóm đã đến gia đình ông Bùi Văn Hán (66 tuổi ở thôn Đự, xã Thành Thọ,
huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) để đón cô con gái ông Hán trở về sau 17
năm mất liên lạc.
Khung cảnh gia đình ông Hán diễn ra giống chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly".
Người đầu tiên nhanh chân ra đón cô gái 17 năm mất tích là người hàng xóm thân thiết ngày xưa.
Phía bên trong nhà, ông Hán không kìm
nổi nỗi xúc động cũng nhanh chóng hòa mình vào với đám đông người đang
hướng về đứa con gái của ông.
Sau vài giây như "chết đứng
người", ông Hán chạy ra ôm chầm lấy con gái, hai bố con chỉ biết khóc
thay cho lời nói. Sau đó là tiếng khóc nức nở từ chị Hà "Bố ơi, con nhớ
bố lắm".
Rồi người cha vui mừng khôn
xiết nhìn sang xung quanh thốt lên: "Con gái tôi chẳng khác xưa chút
nào. Đây là con tôi bấy lâu nay đi tìm..".
Không khí tại gia đình ông Hán mỗi lúc
lại thêm đông vì những người hàng xóm và họ hàng kéo đến chia vui. Trong
câu chuyện, ông Hán nhắc lại cái ngày con gái bỏ nhà: "Tôi không nhớ
chính xác ngày nhưng khoảng tháng 7/2000, lúc đó 18 tuổi. Hai chị em
tranh nhau cái xe đạp tập tành cho thằng em trai, em nó ngã. Tôi không
kiềm chế được nên tát nó một cái".
Ông Hán nhớ lại thời thời điểm con gái bỏ đi.
Ông Hán bảo: "Thế là nó bỏ nhà đi, cứ
nghĩ nó đi một lúc rồi về. Đến bữa ăn không thấy con về, cả nhà mới tá
hỏa đi tìm nhưng không thấy. Thế là nó đi một mạch suốt mười mấy năm
qua. Gia đình tôi đã cắt cử người đi khắp mọi noi, vào cả trong miền Nam
nơi có nhiều người thân, họ hàng xem con có đến không. Nhiều năm nay
tôi cứ nghĩ quẩn quanh, chả biết nó sống chết thế nào…".
Đối với những người hàng xóm, mỗi người
góp một câu rồi xuýt xoa, ai cũng vui mừng. Nhiều người nhắc lại cô gái
18 tuổi khi đó sắp đi lấy chồng bỗng dưng bỏ nhà ra đi. Nhưng hôm nay,
tất cả như đang đón cô dâu mới về làng!
Hàng xóm kéo đến chúng vui với gia đình ông Hán và chứng kiến ngày trở về của chị Hà.
Trước đó, ngay sau khi về đến Hà Nội tá
túc tại một nhà người dân "tốt bụng", chị Hà đã chia sẻ lại quãng thời
gian sống ở Trung Quốc. Cuộc đời 17 năm nơi đất khách quê người như một
bộ phim nhiều tập.
Theo chị Hà, bị bố tát, giận bố nên đã
trót dại bỏ nhà đi lên thành phố. Tại đây, chị Hà gặp một người phụ nữ
xin việc, người này hứa sẽ lo cho có công ăn việc làm và cuộc sống.
Tuy nhiên, 7 ngày ròng rã đi trên tàu, người con gái từ quê ra tỉnh không hay biết mình đã rơi vào tay bọn buôn người.
Khi biết mình đang ở đất Trung Quốc thì
cũng là lúc bọn buôn người đã khống chế chị hoàn toàn. Sau đó 1 năm, chị
Hà bị bán cho một người đàn ông Trung Quốc làm vợ. Sống chung với người
đàn ông này 3 năm, sau đó chị đã tìm cách thoát được ra ngoài và mang
theo 2 đứa con lưu lạc đến thành phố Quế Lâm.
Hiện, chị
đang chung sống với một người đàn ông làm công nhân xây dựng, người này
tuy rất nghèo nhưng rất yêu thương vợ. Tuy vậy, chị Hà luôn nung nấu ý
định bằng mọi giá tìm con đường để trở về quê hương.
Chị Hà vui mừng khi gặp lại gia đình
Khoảng tháng 4/2016 trong khi đang bán
hàng thuê ở trung tâm TP Quế Lâm, chị gặp được cặp vợ chồng Việt đi du
lịch sang Trung Quốc, chị Hà tâm sự lại số phận của mình và mong muốn
được vợ chồng này tìm kiếm giúp chị người thân đang sống ở Thạch Thành.
Cặp vợ chồng người Việt đã chụp lại chân
dung chị và đăng trên facebook. Không ngờ, sau một thời gian, chị Hà đã
được đoàn tụ cùng gia đình sau 17 năm lưu lạc.
Chị Hà chia sẻ thêm, kể từ khi được mọi
người giúp đỡ làm các thủ tục kết hôn hợp pháp với người chồng và có
visa… Ít nhất hai lần chị đã về đến giáp vùng biên để sang Việt Nam
nhưng bất thành.
"Chồng em không có tiền, tích góp chỉ
đủ cho em đi thôi. Một lần chồng đưa đến cửa khẩu gần Móng Cái nhưng em
không có tiền thuê người người phiên dịch tiếng Việt. Chồng em thì sợ
về rồi em sẽ không sang nữa, thế là cả hai quay lại. Còn một lần gần đây
cũng do không có tiền nên về gần Lạng Sơn thì em cũng quay lại. Đến hôm
nay thì được trở về nhà rồi, hạnh phúc quá không biết nói gì hơn...", chị Hà chia sẻ bằng thứ tiếng Việt trúc trắc vì đã quên mất nhiều sau 17 năm xa xứ.
Theo Tri thức trẻ
Nhận xét
Đăng nhận xét