CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 223
(ĐC sưu tầm trên NET)
Suốt giai đoạn "9 năm kháng Pháp", trong vai trò tình báo
quân sự, ông Tống Văn Trinh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu thập
thông tin quân địch, tạo điều kiện cho quân ta thực hiện thành công
nhiều chiến dịch. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và trở thành học trò của
nhà tình báo Trần Hiệu.
Chiến tích trong chiến dịch Lê Hồng Phong
Năm 1950-1951, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chủ động mở bốn chiến dịch lớn
thuộc phạm vi Phân liên khu miền Tây, gồm Long Châu Hà 1 và 2, Sóc
Trăng 1 và 2. Chuỗi bốn chiến dịch này gọi chung là chiến dịch Lê Hồng
Phong nhằm "giương đông, kích tây", thu hút sự chú ý quân sự của địch để
chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ ở phía Bắc.
Trước khi mở chiến dịch Lê Hồng Phong, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Nam Bộ triệu tập Hội nghị quân sự cấp cao. Thành phần gồm ban chỉ huy các tỉnh đội, các đơn vị chủ lực, các binh chủng tham mưu (quân báo, tác chiến, chính trị, binh vận...). Chủ trì là các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Dương Quốc Chính, Nguyễn Bình, Nguyễn Chánh, Hoàng Minh Đạo. Lúc bấy giờ ông Hoàng Minh Đạo là Trưởng ban Quân báo Nam Bộ.
Tống Văn Trinh là Trưởng ban Quân báo chiến dịch tỉnh Cần Thơ, nên được chỉ định báo cáo toàn bộ tình hình địch. Ông đã báo cáo rành rọt, cách bố phòng, các ổ đề kháng... của địch. Nhân đó, đề xuất luôn phương thức đánh địch.
Vào chiến dịch, Tống Văn Trinh được giao nhiệm vụ phụ trách mối liên lạc giữa các chi quân báo, các đơn vị bộ đội liên quan đến chiến dịch. Chủ yếu là quân báo Cần Thơ và Chi 50 - Phòng điệp báo Quân khu 9. Đồng thời, Tống Văn Trinh còn chỉ huy đội hành động đốt cháy toàn bộ kho quân cụ của đội cơ giới Motorisés, phá hủy nhà in An Hà (bên hông Đài Truyền hình Cần Thơ ngày nay), đặt bộc phá làm nổ 6 trạm biến thế, khiến cho thành Cần Thơ phải mất điện trong nhiều ngày.
Năm 1954, Tống Văn Trinh được trên phân công tập kết ra Bắc trong biên chế Sư đoàn 330.
Đầu năm 1957, Tống Văn Trinh đang là trợ lý Ban Quân lực của Sư đoàn 330 thì nhận được lệnh điều động về Bộ Tổng tham mưu. Về đến Bộ Tổng tham mưu, Tống Văn Trinh mới biết mình nhận nhiệm vụ mới tại Cục Tình báo. Lúc này, Cục Tình báo có mật danh là Cục 2, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 15/7/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập một cơ quan mang ẩn danh là Tình báo Chiến lược nhưng hiện danh là Nha Liên lạc trực thuộc Thủ tướng phủ. Giám đốc Nha là nhà tình báo Trần Hiệu. Năm 1957, Nha Liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo thành Cục Tình báo - một cơ quan tình báo chiến lược toàn diện của Đảng và cũng do ông Trần Hiệu trực tiếp chỉ huy.
Tống Văn Trinh cùng một số đồng đội bước vào giai đoạn huấn luyện đặc biệt và bí mật do chính nhà tình báo Trần Hiệu làm chủ nhiệm khóa. Những người tham gia khóa huấn luyện đặc biệt này được dân sự hóa mọi sinh hoạt.
Họ được học lái tất cả các loại xe thông dụng, học nhảy dù, học sử dụng các loại máy chụp hình, tráng phim, rửa hình, học sử dụng điện đài, học võ thuật, học nhiều loại ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Thái và Lào), học cách khai thác kiểm tra thông tin...
Đầu năm 1959, Tống Văn Trinh nhận được lệnh trình diện tại "Trung tâm" (Mật danh của Cục 2 - Tình báo). Buổi trình diện thực ra chỉ là cuộc chuyện trò thân mật giữa hai thầy trò là ông và Cục trưởng Trần Hiệu.
Tại buổi nói chuyện này, ông Trần Hiệu cho biết: "Trung tâm đã chuẩn bị đưa cậu đến một chiến trường hết sức phức tạp và quan trọng vì có quá nhiều loại gián điệp quốc tế tập trung. Địch dùng nơi đây làm bàn đạp xâm nhập chống phá miền Bắc nước ta. Tôi cũng không giấu cậu nữa, cậu sẽ phải hoạt động đơn tuyến tại Lào cho đến khi có lệnh mới. Cậu nên nhớ, nước Lào với nước ta như môi với răng, môi hở thì răng lạnh. Chúng ta giúp bạn cũng là tự giúp mình. Nhiệm vụ đầu tiên của cậu là tạo thế hợp pháp và vỏ bọc vững chắc, thọc sâu, leo cao, lập mạng lưới tình báo để khai thác nhiều nguồn tin khác nhau về quân sự, chính trị và kinh tế từ Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Vientiane. Đảng và Trung tâm tin tưởng cậu".
Bí danh N113 và con đường sang Lào
Sau buổi tiếp xúc với Cục trưởng Trần Hiệu, Tống Văn Trinh bắt đầu một cuộc chiến đấu mới trên đất bạn Lào trong suốt 17 năm với mật hiệu N113. Một ngày đầu xuân, Tống Văn Trinh được một chiếc xe ôtô Volga và một cán bộ lạ đến đón. Chiếc xe lao nhanh về hướng nam.
Sau mấy ngày chạy liên tục, chiếc xe thả ông và người cán bộ lạ ở thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông và người cán bộ hóa trang thành thợ rừng tiếp tục đi về phía thượng nguồn sông Giang. Người cán bộ lạ trở về Hà Nội, ông tiếp tục được một cán bộ giao liên đưa đi bộ cắt rừng suốt 3 tháng. Cả 2 chỉ được ăn cầm hơi bằng lương khô mang theo và nước suối thiên nhiên. Họ đi qua vùng hoạt động của biệt kích Lào thân Mỹ để đến xóm Xiêng Vang (Thà Khẹt). Tại đây Tống Văn Trinh nhận được giấy cư trú "hợp pháp" mang tên Nguyễn Văn Độ - Một Việt kiều ở Thái Lan từ trước năm 1945.
Người giao liên trở về Việt Nam. Ông "Độ" đi tìm người giao liên mới bằng quy ước và mật khẩu. Người giao liên mới tiếp tục đưa ông "Độ" vượt biên sang tỉnh Nakhone Phanom, Thái Lan cư trú tạm trong nhà một Việt kiều. Sau đó, người giao liên mới biến mất.
Theo kế hoạch đã vạch sẵn trước khi rời Hà Nội, ông "Độ" nhờ ông chủ nhà: "Tôi muốn sang Lào làm ăn. Bác chỉ cần giúp đưa tôi đến Nong Khai, tôi sẽ tự sang Lào".
Từ Nong Khai, ông "Độ" được một cơ sở bí mật đưa an toàn vào Lào trong bộ trang phục một doanh nhân Việt kiều cư trú ở Thái Lan. Theo chỉ thị của "Trung tâm", ông "Độ" tìm đến nhà ông Bùi ở đường Nong Bone gần That Phoune xin cư ngụ.
Ông Bùi là thầu khoán của Hãng xây dựng Calavy, Lào. Hãng này luôn tuyển công thợ là người Việt Nam.
Thời đó, cảnh sát phụ trách ngoại kiều của Lào (police d`imigration) quy định xét cấp cho ngoại kiều hai loại giấy phép: Giấy màu vàng, thời hạn 6 tháng cho người mới đến được người bản xứ có thân thế làm giấy bảo đảm, hết hạn thì đến gia hạn thêm, người nhận giấy phép loại này phải đóng thuế cư trú rất cao. Giấy màu đỏ, thời hạn 2 năm, chỉ cấp cho người cư trú lâu năm và mỗi lần gia hạn được 2 năm. Người có giấy đỏ, đóng thuế cư trú ít hơn loại đầu.
Trước đó có một người tên Nguyễn Văn Đan ở Sài Gòn qua làm thư
ký cho Hãng Calavy. Do không chịu đựng cảnh xa nhà, ông ta đã về nước.
Khi về, ông ta bỏ lại giấy phép cư trú màu vàng. Ông Bùi dùng mối quan
hệ thân thiết của mình nhờ một người làm việc trong ngành cảnh sát thay
ảnh ông "Độ" và bộ hồ sơ cư trú của ông Đan.
Sau 2 lần lột xác, Tống Văn Trinh trở thành Nguyễn Văn Đan, thư ký cho Hãng Calavy, Lào.
Đã có giấy tờ hợp pháp và lý lịch hoàn hảo, "Nguyễn Văn Đan" được ông Bùi giới thiệu vào làm thư ký Phòng Đăng kiểm xe (Bureau Contrôle d'Auto) thuộc Sở Công chánh Vientiane - Ngạch công chức chính thức của Vương quốc Lào. Nhờ vị trí làm việc này, thầy Nguyễn Văn Đan đã dễ dàng đổi từ thẻ vàng sang giấy phép cư trú dài hạn màu đỏ.
Chỉ một thời gian ngắn, "Nguyễn Văn Đan" chiếm được cảm tình tất cả đồng nghiệp. Năm 1960, "Trung tâm" thu xếp vợ con ông "Đan" từ Việt Nam qua sống chung cùng ông. Tất cả các con ông "Đan" đều được làm hồ sơ mang họ Nguyễn cho phù hợp với vỏ bọc của ông.
Suốt 5 năm đầu, "Nguyễn Văn Đan" chỉ làm mỗi nhiệm vụ là tạo thiện cảm, xây dựng các mối quan hệ thân tình với các gia đình có con em làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tại Lào và chính quyền VNCH.
Năm 1964, "Trung tâm" chỉ thị, phải tạo mọi điều kiện cần thiết để tiếp nhận điệp viên T phụ trách điện đài.
Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, vì ông "Đan" không chỉ lo giấy phép cư trú, mà còn phải tạo nghề nghiệp bình phong cho người phụ trách điện đài và đặc biệt là nơi đặt điện đài, bảo đảm hoạt động an toàn.
Suy tính mãi, ông "Đan" đã tìm ra một giải pháp. Ông vận động bà con Việt kiều góp tiền xây dựng một ngôi trường tư thục mang tên La Fontaine dạy chương trình phổ thông Lào nhưng có kèm thêm tiếng Việt. Sau khi ngôi trường đi vào hoạt động, ông đón điệp viên T sang với vỏ bọc là thầy giáo dạy tiếng Lào.
Năm 1970, ông "Đan" tiếp tục "lót ổ" cho điệp viên Q vào vỏ bọc tổng giám thị của trường La Fontaine.
Học sinh Trường La Fontaine hàng năm thi tuyển lên trung học (lycée) đạt tỷ lệ cao, vì vậy uy tín của trường ngày càng cao. Học trò ngày càng đông, phải mở thêm một sơ sở khác ở xóm Xiêng Khoảng, cũng tại Vientiane.
Chui sâu vào hãng hàng không Lào
Cuối năm 1960, Đại tá Deuang và Đại úy Koong Le cầm đầu một cuộc đảo chính lật đổ phái hữu thân Mỹ tại Lào. Phe đảo chính lập chính phủ trung lập do Hoàng thân Souvanna Phouma làm Thủ tướng. Chính phủ này cũng chỉ tồn tại được vài tháng. Thủ tướng Hoàng thân Souvanna Phouma bị Phoui Sanani Kone lật đổ để thành lập một chính phủ thân Mỹ khác do chính ông ta làm Thủ tướng.
Từ đó, dòng họ Sanani Kone nắm giữ hầu hết các cơ quan quyền lực và một số ngành kinh doanh độc quyền béo bở. Trong đó, có Công ty cổ phần Hàng không nội địa Vương quốc Lào - Societé Véha Akat (SVA). Các dòng họ có thế lực chính trị ở Lào đều có tên trong Hội đồng quản trị. Dòng họ Sanani Kone chiếm đông nhất, gồm Thủ tướng Phoui, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Oudone, Ngoại trưởng Ngôn, cố vấn quân sự Bộ Quốc phòng Oun. Kế đến là các vua Mèo như Touby Lyfoung, Toujeu Lyfoung và Tiao Souk Bouavongs.
Oun Sanani Kone (cố vấn Bộ Quốc phòng) là Chủ tịch hội đồng quản trị SVA, kiêm giám đốc một hãng sửa chữa máy bay. Oun Sanani Kone thuê một chuyên gia người Pháp tên Francois Le Fouasse làm giám đốc điều hành Hãng Hàng không SVA. Ông Francois Le Fouasse có vợ là người Việt tên Trần Kim Hoa. Trần Kim Hoa có quan hệ rất mật thiết với chính quyền Sài Gòn (Giữa Francois Le Fouasse và Ngô Đình Nhu đã có những phi vụ vận chuyển ma túy bí mật sẽ có dịp chúng tôi đề cập đến trong loạt bài khác). Về sau, Trần Kim Hoa làm Giám đốc SVA, được Sứ quán VNCH cử làm hội trưởng Hội Phụ nữ Việt kiều ở Vientiane.
Nhờ có nhiều mối quan hệ trong Sở Công chánh, ông "Đan" nhận thấy SVA là một công ty dễ dàng khai thác tin tình báo. Ông báo cáo về "Trung tâm" và nhận được chỉ thị phải tìm cách xâm nhập vào "lãnh địa" đó. Bằng nhiều mối quan hệ, năm 1963, ông "Đan" trở thành kế toán trưởng của VSA. Một thời gian ngắn, ông "Đan" được Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đặc biệt ưu ái, xem như người nhà.
Chính mối quan hệ thân thiện với Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone (cố vấn Bộ Quốc phòng) đã tạo thêm điều kiện cho thầy Đan giao thiệp rộng rãi với giới thượng lưu Lào. Thầy Đan thường được mời dự các ngày lễ lớn của gia đình họ cũng như các lễ Boun của dòng họ Sanani Kone.
Điều này, không chỉ làm cho những người quen biết mà cả các nhân viên sứ quán của chính quyền Sài Gòn cũng phải nể trọng. Trong đó có viên Trung tá B - Tùy viên quân sự Đại Sứ quán VNCH tại Lào. Thời gian này, mọi tình hình của chính quyền Lào thân Mỹ và VNCH tại Lào đều được báo cáo đầy đủ về "Trung tâm".
Đầu năm 1971, ông "Đan" nhận thấy có điều gì đó bất thường khi một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ và VNCH bất ngờ xuất hiện tại Lào. Qua dòng họ nhà Sanani Kone, ông phát hiện Mỹ và VNCH thỏa thuận với chính quyền Lào thân Mỹ thực hiện một kế hoạch quân sự lớn tại khu vực Đường 9 Hạ Lào. Ngay lập tức, ông và cộng sự báo cáo ngay về "Trung tâm".
Cùng thời điểm đó, một cán bộ tình báo của ta đang trú ẩn trong bộ máy cao cấp của chính quyền VNCH cũng báo cáo về Hà Nội: "Mỹ và VNCH sắp thực hiện một chiến dịch quân sự lớn tại Hạ Lào nhằm cắt đứt đường Trường Sơn". "Trung tâm" chỉ thị cho ông "Đan" tìm cách thu thập thông tin chi tiết về kế hoạch này tại Lào.
Ông "Đan" nhắm đến viên Trung tá B - Tùy viên quân sự Đại sứ quán VNCH tại Lào
Nông Huyền Sơn
Giải Mật Hồ Sơ Điệp Viên Bí Số N113 TỐNG VĂN TRINH - Người Làm Tê Liệt Nòng Cốt VNCH, MỸ Khiếp Sợ
“Giải mật hồ sơ điệp viên mang bí số N113”: Trò chơi lớn
Năm 1971, chuẩn bị thế ngoại giao với Chính phủ Lào thân
Mỹ để thực hiện "Chiến dịch Lam Sơn 719" Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã
đưa một đoàn sĩ quan quân sự sang làm tùy viên Đại sứ quán VNCH tại
Vientian. Trong số đó có viên trung tá tên B. Trung tá B nhờ ông "Đan"
làm cầu nối kết thân với dòng họ nhà Sanani Kone để thuận lợi cho việc
đàm phán quân sự.
Ông Tống Văn Trinh và vợ lúc ông làm Giám đốc Sở Tư Pháp Hậu Giang.
Ông
"Đan" gợi ý: "Ông nên tổ chức một bữa tiệc chiêu đãi, tôi sẽ mời ngài
Bộ trưởng Quốc phòng Oudone Sanani Kone và Cố vấn quân sự Oun Sanani
Kone đến dự để hai bên kết thâm giao". Viên trung tá B sướng như được
lên cõi tiên, coi ông "Đan" như một vị cứu thế.
Viên trung tá mừng rỡ tổ chức ngay tiệc chiêu đãi.
Nguyên nhân Mỹ và VNCH thất trận Hạ Lào
Giữa
bữa tiệc, ông "Đan" vờ say rượu để có cớ vào phòng làm việc của trung
tá B ngủ. Trong khi trung tá B còn mê mải cụng ly với 2 vị lãnh đạo quốc
phòng Lào, ông "Đan" đàng hoàng dùng máy ảnh chuyên biệt chụp lại trọn
bộ 2 bản kế hoạch "Chiến dịch Dewey Canyon II" của Mỹ và "Chiến dịch Lam
Sơn 719" của VNCH.
Ngày hôm sau, toàn bộ chi
tiết 2 kế hoạch quân sự "khủng" đó nằm gọn trên bàn làm việc của Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương của ta. Căn cứ vào kế hoạch của địch,
các vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng soạn thảo kế hoạch đón lõng phản công mang
tên "Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào". Ông Lê Trọng Tấn - Phó
tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được giao làm Tư lệnh và
ông Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy chiến
dịch.
Khi địch bắt đầu di binh thực hiện chiến dịch, quân ta cũng bắt đầu động binh khởi động kế hoạch đón lõng vào ngày 30/1/1971.
Nhất
cử nhất động của địch, quân ta đều nắm trong lòng bàn tay. Các sư đoàn
308, 304, 324, Sư đoàn 2 và lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4, B5,
559 cùng một số lực lượng của Quân Giải phóng nhân dân Lào (Gồm 4 trung
đoàn pháo, 3 trung đoàn cao xạ phòng không, 3 trung đoàn công binh, 4
tiểu đoàn thiết giáp), liên quân Lào - Việt kề vai sát cánh đã làm chủ
hoàn toàn chiến trường. Hầu như mọi cánh quân của địch đều lọt vào mạng
lưới giăng sẵn của quân ta.
Trận giao chiến vùng
Hạ Lào này được tờ Paris Macth (Pháp) viết: "Mục tiêu của cuộc hành
quân này là tạo lập một hành lang dài 24 km dọc theo Đường 9 đến Sê Pôn,
sâu vào đất Lào 35 km đến tận con đường nhánh có ý nghĩa chiến lược của
đường mòn Hồ Chí Minh. Giai đoạn 3 của chiến dịch phải là một cuộc hành
quân càn quét dài ngày nhưng do bị thiệt hại nặng, tướng Lãm (quân đội
VNCH) phải ra lệnh rút quân sớm kể từ ngày 10/3/1971.
Quân
đội VNCH chỉ có thể rút quân bằng không lực Mỹ, đường bộ đã bị Bắc Việt
chặn toàn bộ. Toàn bộ chiến dịch bị kết thúc sớm vào ngày 24/3/1971.
Thiệt hại của quân đội VNCH ước tính lên đến 10.000 người, gần một nửa
số quân tham chiến ở Lào. Mỹ chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ nhưng cũng thiệt
hại 107 chiếc trực thăng và 176 phi hành đoàn". Hơn 1.000 quân, trong đó
có đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù VNCH - đầu
hàng và bị quân ta bắt sống.
Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của quân dân hai nước Việt - Lào đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
Che
giấu thất bại, Nguyễn Văn Thiệu vẫn cho họp báo công bố "thắng lợi".
Nhiều phóng viên quốc tế đặt câu hỏi: "Nếu thắng lợi, tại sao quân VNCH
rút quân giống như tháo chạy khỏi Hạ Lào?". Một số phóng viên còn trưng
ra những bức hình trực thăng bốc quân vội vã, một số binh sĩ VNCH phải
bám càng, treo mình lơ lửng.
Nguyễn Văn Thiệu
trâng tráo trả lời: "Về chiến lược, chúng tôi giáng một đòn đau vào sống
lưng Trường Sơn của Việt Cộng. Về chiến thuật, chúng tôi chủ trương
đánh nhanh rút gọn. Vì lẽ đó, tôi tuyên bố, chúng tôi thắng lợi hoàn
toàn trận Hạ Lào". Một phóng viên khác hỏi tiếp: "Liệu đường Trường Sơn
đã bị tê liệt chưa hay vẫn còn hoạt động như trước?". Thiệu không trả
lời và ngay sau đó tuyên bố giải tán cuộc họp báo.
Chiến dịch hành quân Kou Keo
Chiến
dịch Lam Sơn 719 thất bại khiến giới quân sự Mỹ đau đầu. Họ không mảy
may nghi ngờ trọn bộ kế hoạch đã rơi vào tay quân ta mà ngây thơ nghĩ
rằng, quân đội cách mạng Lào đã giúp quân ta khiến chúng thua trận. Cay
cú, giới quân sự Mỹ xúi quân đội của chính quyền thân Mỹ thực hiện một
chiến dịch quân sự nhằm trả đũa quân đội cách mạng Pathét Lào.
Ngày
25/5/1972, với sự hậu thuẫn của quân đội Mỹ, lực lượng quân đội Lào
thân Mỹ bất ngờ đổ quân xuống Cánh đồng Chum thực hiện một kế hoạch quân
sự mang tên "Chiến dịch hành quân Kou Keo". Đó là phần mở đầu của chiến
dịch mang tên "phục thù" của lực lượng liên quân Mỹ - Lào - Thái.
Trưa
hôm đó, vừa từ hãng hàng không về đến nhà, ông "Đan" nhận được tin mật
từ quê nhà gửi sang yêu cầu báo cáo thông tin về kế hoạch quân sự của
địch ở Cánh đồng Chum. "Trung tâm" yêu cầu phải báo cáo trước 24 giờ
đêm. Có nghĩa là ông "Đan" chỉ có 12 giờ để thực hiện một nhiệm vụ gần
như bất khả thi.
Ông đành dùng tư thế "người
nhà" của dòng họ nhà Sanani Kone đi tìm gặp ngay viên sĩ quan tham mưu ở
Bộ Quốc phòng. Đó là cách thu thập thông tin rất nguy hiểm, dễ lộ vỏ
bọc điệp viên nhưng ông không còn cách nào khác.
Ông
bày một cuộc nhậu rồi khéo léo hỏi thăm tình hình chiến sự. Vô tình,
viên sĩ quan này phun hết mọi kế hoạch của chiến dịch hành quân Kou Keo.
Từ cuộc nhậu với viên sĩ quan cao cấp, ông "Đan" ghi nhận: "Lực lượng
quân đội Lào thân Mỹ được huy động gồm Trung đoàn Cơ động số 5 ở
Chinaimô, một binh đoàn của quân Hạ Lào - Savannakhét, 2 tiểu đoàn lính
Mèo ở Sảm Thông, Long Chẹng của tướng phỉ Vàng Pao.
Mục
tiêu cuộc hành quân không nhằm chiếm đóng mà tập trung đánh phá cơ sở
hậu cần và làm tiêu hao dẫn đến tiêu diệt lực lượng Pathét Lào. Theo kế
hoạch, sau 3 ngày càn quét và oanh kích bằng không quân, liên quân Lào
thân Mỹ sẽ rút quân theo hai con đường, Phone Hông và bản Ban Paksane.
Chiến dịch Kou Keo chỉ là đòn đánh nhử quân cách mạng Pathét".
Bản đồ "Chiến dịch Lam Sơn 719".
Ngay
đêm đó, "Trung tâm" nhận được bản báo cáo của ông Đan. Từ báo cáo của
ông, quân cách mạng Pathet Lào không rơi vào cái bẫy "Giương đông kích
tây" của địch.
Thực tế cho thấy, vào ngày
21/5/1972, quân Mỹ tập trung không quân đánh phá ác liệt các điểm cao
trọng yếu và trục đường giao thông để mở đường cho bộ binh tấn công bằng
3 mũi vào các điểm cao ở Thẩm Lửng ngày 25/5/1972. Đoán được kế hoạch
của địch, quân Pathét Lào đón lõng và đánh tan 6 tiểu đoàn (có 2 tiểu
đoàn Thái Lan) ở Hin Đăm, Thẩm Lửng, đẩy lui nhiều đợt tiến công của
địch ở Mường Sủi, đồng thời dùng đặc công, pháo binh tập kích địch ở
Long Chẹng.
Đúng như báo cáo, vào ngày
11/8/1972, địch chuyển hướng tấn công toàn lực vào Cánh đồng Chum từ
hướng khác: 4 tiểu đoàn Thái Lan tiến đường bộ theo 3 hướng đông nam,
tây và đông bắc. Mặt khác 2 tiểu đoàn Thái Lan đổ bộ đường không xuống
Phu Keng đánh hướng tây bắc. Quân Pathét Lào tập trung lực lượng đã phục
kích sẵn ở Phu Luông, Phu Huasang, Phu Thông, đồi 5 mỏm, điểm cao 1294,
bản Lao, Phu Học chờ địch chui vào rọ để phản đột kích. Kết quả, địch
bị diệt và bị bắt sống hơn 700 tên. Quân Pathét Lào giữ được trận địa.
Sau
này, khi hoàn thành nhiệm vụ trở về nước, ông Tống Văn Trinh kể lại:
"Ngay trong ngày địch vừa mở cuộc hành quân vào Cánh đồng Chum, Trung
tâm gởi mật điện sang cho tổ của tôi yêu cầu báo cáo âm mưu và ý đồ của
địch chiếm đóng hay hành quân xong rồi rút? Ngày, giờ và đường rút quân?
Trung tâm yêu cầu trả lời ngay trước 24 giờ đêm. Tổng tham mưu trưởng
Văn Tiến Dũng, nôn nóng thức chờ điện trả lời của chúng tôi đến gần 12
giờ khuya.
Đọc xong báo cáo của chúng tôi, ông
tỏ vẻ hài lòng và rất phấn khởi. Ông chỉ thị phương án tác chiến ngay
cho Tướng Lê Trọng Tấn đang là đặc phái viên của ta bên cạnh Bộ chỉ huy
Quân đội Phathét Lào trong chiến dịch này. Nhờ đoán được ý đồ của địch,
quân Pathét Lào đã giáng cho liên quân Mỹ - Lào ngụy một trận đòn choáng
váng".
Đời thường của một điệp viên
Sau
ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, "Trung tâm" hỏi ông: Muốn hồi hương
hay tiếp tục ở lại Lào? Đang là kế toán trưởng hãng hàng không có thu
nhập của giới thượng lưu, ông chấp nhận bỏ lại tất cả để được về quê mẹ.
Được "Trung tâm" chấp nhận cho hồi hương, ông Tống Văn Trinh sung sướng
tột cùng.
Về đến Việt Nam, ông xin được chuyển ngành về tỉnh Cửu Long (giờ là Vĩnh Long) làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.
Thạc sĩ Toán học Tống Quang Anh (người ngồi), con trai trưởng của ông Tống Văn Trinh.
Năm
1977, do nhu cầu nhân sự, ông Tống Văn Trinh được điều chuyển sang tỉnh
Hậu Giang giữ chức Trưởng ban Pháp chế. Sau khi Ban Pháp chế chuyển
thành Sở Tư pháp, ông được cử làm Giám đốc. Ông là người có công xây
dựng và củng cố bộ máy tư pháp toàn tỉnh Cần Thơ (hiện giờ là TP Cần
Thơ) .
Những ngày đầu thành lập Sở Tư Pháp, ông
làm việc gấp đôi giờ hành chính. Có lẽ do dồn sức làm việc, cuối năm
1984, trong một lần đi dự hội nghị về pháp chế ở Sóc Trăng, ông đang
phát biểu thì bị đột quỵ. Nhờ được cấp cứu kịp thời, ông thoát khỏi tay
thần chết.
Dù sức khỏe suy giảm nhưng ông vẫn
giữ tốc độ làm việc như trước. Tranh thủ những ngày còn lại với đời, ông
phát triển hệ thống pháp chế - tư pháp ở Cần Thơ. Tiến hành thành lập
các phòng công chứng cho toàn tỉnh. Ông cho lập tại Sở Tư pháp một thư
viện chuyên ngành, lưu giữ toàn bộ các văn bản pháp lý hiện hành, các
nghị định, các sửa đổi pháp luật... để dễ tra cứu và phổ biến rộng.
Bộ
Tư pháp dựa vào thành tích đóng góp, đặc cách công nhận ông là luật sư
và là thành viên của Hội Luật gia Việt Nam. Dù ông chưa từng tốt nghiệp
Đại học luật.
Đến cuối năm 1986, cơn tai biến
mạch máu não lần hai đã quật ông ngã gục nhưng nhờ được cứu chữa kịp
thời ông đã qua khỏi... Ông xin nghỉ hưu.
Ngày 19/8/2008, ông yên lòng về cõi vĩnh hằng ở tuổi 86. Đó cũng là ngày kỷ niệm 63 năm ông tham gia cách mạng.
Khi
nhắc về cha mình, Thạc sĩ toán học Tống Quang Anh - Người con cả của
ông Tống Văn Trinh - nói: "Cha tôi đã trao trọn cuộc đời của ông cho sự
nghiệp cách mạng và bảo vệ Tổ quốc. Những ngày cuối đời, ông luôn tự hào
vì cuộc sống thanh bạch. Ông chưa bao giờ đòi hỏi bất kỳ quyền lợi gì
cho cá nhân, gia đình. Với ông, lịch sử công nhận chiến công là đủ".
Thạc sĩ Tống Quang Anh cho biết, anh đã chấp bút viết một quyển truyện
ký về cha mình. Bản thảo đã hoàn thành, đang chờ nhà xuất bản ấn hành
“Giải mật hồ sơ điệp viên mang bí số N113”: Con đường sang Lào
20:15 27/05/2014
Suốt giai đoạn "9 năm kháng Pháp", trong vai trò tình báo
quân sự, ông Tống Văn Trinh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thu thập
thông tin quân địch, tạo điều kiện cho quân ta thực hiện thành công
nhiều chiến dịch. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và trở thành học trò của
nhà tình báo Trần Hiệu.
Ông Tống Văn Trinh thời làm Giám đốc Sở Tư Pháp Hậu Giang (nay là TP Cần Thơ). |
Trước khi mở chiến dịch Lê Hồng Phong, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Nam Bộ triệu tập Hội nghị quân sự cấp cao. Thành phần gồm ban chỉ huy các tỉnh đội, các đơn vị chủ lực, các binh chủng tham mưu (quân báo, tác chiến, chính trị, binh vận...). Chủ trì là các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Dương Quốc Chính, Nguyễn Bình, Nguyễn Chánh, Hoàng Minh Đạo. Lúc bấy giờ ông Hoàng Minh Đạo là Trưởng ban Quân báo Nam Bộ.
Tống Văn Trinh là Trưởng ban Quân báo chiến dịch tỉnh Cần Thơ, nên được chỉ định báo cáo toàn bộ tình hình địch. Ông đã báo cáo rành rọt, cách bố phòng, các ổ đề kháng... của địch. Nhân đó, đề xuất luôn phương thức đánh địch.
Vào chiến dịch, Tống Văn Trinh được giao nhiệm vụ phụ trách mối liên lạc giữa các chi quân báo, các đơn vị bộ đội liên quan đến chiến dịch. Chủ yếu là quân báo Cần Thơ và Chi 50 - Phòng điệp báo Quân khu 9. Đồng thời, Tống Văn Trinh còn chỉ huy đội hành động đốt cháy toàn bộ kho quân cụ của đội cơ giới Motorisés, phá hủy nhà in An Hà (bên hông Đài Truyền hình Cần Thơ ngày nay), đặt bộc phá làm nổ 6 trạm biến thế, khiến cho thành Cần Thơ phải mất điện trong nhiều ngày.
Năm 1954, Tống Văn Trinh được trên phân công tập kết ra Bắc trong biên chế Sư đoàn 330.
Đầu năm 1957, Tống Văn Trinh đang là trợ lý Ban Quân lực của Sư đoàn 330 thì nhận được lệnh điều động về Bộ Tổng tham mưu. Về đến Bộ Tổng tham mưu, Tống Văn Trinh mới biết mình nhận nhiệm vụ mới tại Cục Tình báo. Lúc này, Cục Tình báo có mật danh là Cục 2, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 15/7/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập một cơ quan mang ẩn danh là Tình báo Chiến lược nhưng hiện danh là Nha Liên lạc trực thuộc Thủ tướng phủ. Giám đốc Nha là nhà tình báo Trần Hiệu. Năm 1957, Nha Liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo thành Cục Tình báo - một cơ quan tình báo chiến lược toàn diện của Đảng và cũng do ông Trần Hiệu trực tiếp chỉ huy.
Tống Văn Trinh cùng một số đồng đội bước vào giai đoạn huấn luyện đặc biệt và bí mật do chính nhà tình báo Trần Hiệu làm chủ nhiệm khóa. Những người tham gia khóa huấn luyện đặc biệt này được dân sự hóa mọi sinh hoạt.
Họ được học lái tất cả các loại xe thông dụng, học nhảy dù, học sử dụng các loại máy chụp hình, tráng phim, rửa hình, học sử dụng điện đài, học võ thuật, học nhiều loại ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Thái và Lào), học cách khai thác kiểm tra thông tin...
Đầu năm 1959, Tống Văn Trinh nhận được lệnh trình diện tại "Trung tâm" (Mật danh của Cục 2 - Tình báo). Buổi trình diện thực ra chỉ là cuộc chuyện trò thân mật giữa hai thầy trò là ông và Cục trưởng Trần Hiệu.
Tại buổi nói chuyện này, ông Trần Hiệu cho biết: "Trung tâm đã chuẩn bị đưa cậu đến một chiến trường hết sức phức tạp và quan trọng vì có quá nhiều loại gián điệp quốc tế tập trung. Địch dùng nơi đây làm bàn đạp xâm nhập chống phá miền Bắc nước ta. Tôi cũng không giấu cậu nữa, cậu sẽ phải hoạt động đơn tuyến tại Lào cho đến khi có lệnh mới. Cậu nên nhớ, nước Lào với nước ta như môi với răng, môi hở thì răng lạnh. Chúng ta giúp bạn cũng là tự giúp mình. Nhiệm vụ đầu tiên của cậu là tạo thế hợp pháp và vỏ bọc vững chắc, thọc sâu, leo cao, lập mạng lưới tình báo để khai thác nhiều nguồn tin khác nhau về quân sự, chính trị và kinh tế từ Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Vientiane. Đảng và Trung tâm tin tưởng cậu".
Bí danh N113 và con đường sang Lào
Sau buổi tiếp xúc với Cục trưởng Trần Hiệu, Tống Văn Trinh bắt đầu một cuộc chiến đấu mới trên đất bạn Lào trong suốt 17 năm với mật hiệu N113. Một ngày đầu xuân, Tống Văn Trinh được một chiếc xe ôtô Volga và một cán bộ lạ đến đón. Chiếc xe lao nhanh về hướng nam.
Sau mấy ngày chạy liên tục, chiếc xe thả ông và người cán bộ lạ ở thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông và người cán bộ hóa trang thành thợ rừng tiếp tục đi về phía thượng nguồn sông Giang. Người cán bộ lạ trở về Hà Nội, ông tiếp tục được một cán bộ giao liên đưa đi bộ cắt rừng suốt 3 tháng. Cả 2 chỉ được ăn cầm hơi bằng lương khô mang theo và nước suối thiên nhiên. Họ đi qua vùng hoạt động của biệt kích Lào thân Mỹ để đến xóm Xiêng Vang (Thà Khẹt). Tại đây Tống Văn Trinh nhận được giấy cư trú "hợp pháp" mang tên Nguyễn Văn Độ - Một Việt kiều ở Thái Lan từ trước năm 1945.
Người giao liên trở về Việt Nam. Ông "Độ" đi tìm người giao liên mới bằng quy ước và mật khẩu. Người giao liên mới tiếp tục đưa ông "Độ" vượt biên sang tỉnh Nakhone Phanom, Thái Lan cư trú tạm trong nhà một Việt kiều. Sau đó, người giao liên mới biến mất.
Theo kế hoạch đã vạch sẵn trước khi rời Hà Nội, ông "Độ" nhờ ông chủ nhà: "Tôi muốn sang Lào làm ăn. Bác chỉ cần giúp đưa tôi đến Nong Khai, tôi sẽ tự sang Lào".
Từ Nong Khai, ông "Độ" được một cơ sở bí mật đưa an toàn vào Lào trong bộ trang phục một doanh nhân Việt kiều cư trú ở Thái Lan. Theo chỉ thị của "Trung tâm", ông "Độ" tìm đến nhà ông Bùi ở đường Nong Bone gần That Phoune xin cư ngụ.
Ông Bùi là thầu khoán của Hãng xây dựng Calavy, Lào. Hãng này luôn tuyển công thợ là người Việt Nam.
Thời đó, cảnh sát phụ trách ngoại kiều của Lào (police d`imigration) quy định xét cấp cho ngoại kiều hai loại giấy phép: Giấy màu vàng, thời hạn 6 tháng cho người mới đến được người bản xứ có thân thế làm giấy bảo đảm, hết hạn thì đến gia hạn thêm, người nhận giấy phép loại này phải đóng thuế cư trú rất cao. Giấy màu đỏ, thời hạn 2 năm, chỉ cấp cho người cư trú lâu năm và mỗi lần gia hạn được 2 năm. Người có giấy đỏ, đóng thuế cư trú ít hơn loại đầu.
Vợ chồng ông Tống Văn Trinh (đứng giữa) trong thời gian ông hoạt động bí mật tại Lào. |
Sau 2 lần lột xác, Tống Văn Trinh trở thành Nguyễn Văn Đan, thư ký cho Hãng Calavy, Lào.
Đã có giấy tờ hợp pháp và lý lịch hoàn hảo, "Nguyễn Văn Đan" được ông Bùi giới thiệu vào làm thư ký Phòng Đăng kiểm xe (Bureau Contrôle d'Auto) thuộc Sở Công chánh Vientiane - Ngạch công chức chính thức của Vương quốc Lào. Nhờ vị trí làm việc này, thầy Nguyễn Văn Đan đã dễ dàng đổi từ thẻ vàng sang giấy phép cư trú dài hạn màu đỏ.
Chỉ một thời gian ngắn, "Nguyễn Văn Đan" chiếm được cảm tình tất cả đồng nghiệp. Năm 1960, "Trung tâm" thu xếp vợ con ông "Đan" từ Việt Nam qua sống chung cùng ông. Tất cả các con ông "Đan" đều được làm hồ sơ mang họ Nguyễn cho phù hợp với vỏ bọc của ông.
Suốt 5 năm đầu, "Nguyễn Văn Đan" chỉ làm mỗi nhiệm vụ là tạo thiện cảm, xây dựng các mối quan hệ thân tình với các gia đình có con em làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tại Lào và chính quyền VNCH.
Năm 1964, "Trung tâm" chỉ thị, phải tạo mọi điều kiện cần thiết để tiếp nhận điệp viên T phụ trách điện đài.
Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, vì ông "Đan" không chỉ lo giấy phép cư trú, mà còn phải tạo nghề nghiệp bình phong cho người phụ trách điện đài và đặc biệt là nơi đặt điện đài, bảo đảm hoạt động an toàn.
Suy tính mãi, ông "Đan" đã tìm ra một giải pháp. Ông vận động bà con Việt kiều góp tiền xây dựng một ngôi trường tư thục mang tên La Fontaine dạy chương trình phổ thông Lào nhưng có kèm thêm tiếng Việt. Sau khi ngôi trường đi vào hoạt động, ông đón điệp viên T sang với vỏ bọc là thầy giáo dạy tiếng Lào.
Năm 1970, ông "Đan" tiếp tục "lót ổ" cho điệp viên Q vào vỏ bọc tổng giám thị của trường La Fontaine.
Học sinh Trường La Fontaine hàng năm thi tuyển lên trung học (lycée) đạt tỷ lệ cao, vì vậy uy tín của trường ngày càng cao. Học trò ngày càng đông, phải mở thêm một sơ sở khác ở xóm Xiêng Khoảng, cũng tại Vientiane.
Chui sâu vào hãng hàng không Lào
Cuối năm 1960, Đại tá Deuang và Đại úy Koong Le cầm đầu một cuộc đảo chính lật đổ phái hữu thân Mỹ tại Lào. Phe đảo chính lập chính phủ trung lập do Hoàng thân Souvanna Phouma làm Thủ tướng. Chính phủ này cũng chỉ tồn tại được vài tháng. Thủ tướng Hoàng thân Souvanna Phouma bị Phoui Sanani Kone lật đổ để thành lập một chính phủ thân Mỹ khác do chính ông ta làm Thủ tướng.
Từ đó, dòng họ Sanani Kone nắm giữ hầu hết các cơ quan quyền lực và một số ngành kinh doanh độc quyền béo bở. Trong đó, có Công ty cổ phần Hàng không nội địa Vương quốc Lào - Societé Véha Akat (SVA). Các dòng họ có thế lực chính trị ở Lào đều có tên trong Hội đồng quản trị. Dòng họ Sanani Kone chiếm đông nhất, gồm Thủ tướng Phoui, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Oudone, Ngoại trưởng Ngôn, cố vấn quân sự Bộ Quốc phòng Oun. Kế đến là các vua Mèo như Touby Lyfoung, Toujeu Lyfoung và Tiao Souk Bouavongs.
Oun Sanani Kone (cố vấn Bộ Quốc phòng) là Chủ tịch hội đồng quản trị SVA, kiêm giám đốc một hãng sửa chữa máy bay. Oun Sanani Kone thuê một chuyên gia người Pháp tên Francois Le Fouasse làm giám đốc điều hành Hãng Hàng không SVA. Ông Francois Le Fouasse có vợ là người Việt tên Trần Kim Hoa. Trần Kim Hoa có quan hệ rất mật thiết với chính quyền Sài Gòn (Giữa Francois Le Fouasse và Ngô Đình Nhu đã có những phi vụ vận chuyển ma túy bí mật sẽ có dịp chúng tôi đề cập đến trong loạt bài khác). Về sau, Trần Kim Hoa làm Giám đốc SVA, được Sứ quán VNCH cử làm hội trưởng Hội Phụ nữ Việt kiều ở Vientiane.
Nhờ có nhiều mối quan hệ trong Sở Công chánh, ông "Đan" nhận thấy SVA là một công ty dễ dàng khai thác tin tình báo. Ông báo cáo về "Trung tâm" và nhận được chỉ thị phải tìm cách xâm nhập vào "lãnh địa" đó. Bằng nhiều mối quan hệ, năm 1963, ông "Đan" trở thành kế toán trưởng của VSA. Một thời gian ngắn, ông "Đan" được Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đặc biệt ưu ái, xem như người nhà.
Chính mối quan hệ thân thiện với Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone (cố vấn Bộ Quốc phòng) đã tạo thêm điều kiện cho thầy Đan giao thiệp rộng rãi với giới thượng lưu Lào. Thầy Đan thường được mời dự các ngày lễ lớn của gia đình họ cũng như các lễ Boun của dòng họ Sanani Kone.
Điều này, không chỉ làm cho những người quen biết mà cả các nhân viên sứ quán của chính quyền Sài Gòn cũng phải nể trọng. Trong đó có viên Trung tá B - Tùy viên quân sự Đại Sứ quán VNCH tại Lào. Thời gian này, mọi tình hình của chính quyền Lào thân Mỹ và VNCH tại Lào đều được báo cáo đầy đủ về "Trung tâm".
Đầu năm 1971, ông "Đan" nhận thấy có điều gì đó bất thường khi một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ và VNCH bất ngờ xuất hiện tại Lào. Qua dòng họ nhà Sanani Kone, ông phát hiện Mỹ và VNCH thỏa thuận với chính quyền Lào thân Mỹ thực hiện một kế hoạch quân sự lớn tại khu vực Đường 9 Hạ Lào. Ngay lập tức, ông và cộng sự báo cáo ngay về "Trung tâm".
Cùng thời điểm đó, một cán bộ tình báo của ta đang trú ẩn trong bộ máy cao cấp của chính quyền VNCH cũng báo cáo về Hà Nội: "Mỹ và VNCH sắp thực hiện một chiến dịch quân sự lớn tại Hạ Lào nhằm cắt đứt đường Trường Sơn". "Trung tâm" chỉ thị cho ông "Đan" tìm cách thu thập thông tin chi tiết về kế hoạch này tại Lào.
Ông "Đan" nhắm đến viên Trung tá B - Tùy viên quân sự Đại sứ quán VNCH tại Lào
Nông Huyền Sơn
Nhận xét
Đăng nhận xét