Thứ Tư, 4 tháng 3, 2020
LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN, YÊNG HÙNG NGỤY TẶC 7
-Quân tướng VNCH mạo danh là quân tử nhưng thực ra chính danh là ngụy quân tử
-Việt Cộng sinh ra nhằm giải phóng đất nước, thống nhất giang sơn. VNCH do ngoại bang nhào nặn ra nhằm vì danh lợi mà làm tay sai cho chúng, yêu Tổ Quốc bằng cách cam tâm và cả mù quáng "cõng rắn cắn gà nhà", âm mưu chia cắt giang sơn của giống nòi mình, gieo rắc hận thù Dân Tộc cho chính giống nòi mình.
Không nỗi đau nào bằng nỗi đau "nồi da xáo thịt"
Không nỗi buồn nào bằng nỗi buồn chia cắt giang sơn
Yêu Tổ Quốc là phải biết thương tận lòng Tổ Quốc
Thật bụng khen chê, thà ngây như kẻ thất phu.
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
"LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN"
Thành ngữ Việt Nam có câu "lộng giả thành chân” có nghĩa là “bỡn quá hóa thật”. Trước khi tìm hiểu định nghĩa này, tôi và nhiều người thường hiểu câu thành ngữ này nôm na là, biến cái giá thành cái thật, hay lời nói dối được nói đi nói lại nhiều lần lâu ngày ngưòi ta sẽ tin là thật.(...)
Tiểu Sử Trần Thiện Khiêm – Viên Tướng VNCH Xảo Trá, Lừa Thầy Phản Bạn Đã Ra Đi Tức Tưởi Thế Nào
VÉN MÀN BÍ MẬT - HÈN TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM
Hèn tướng Trấn thiện Khiêm
Nắm vai chánh trên sân khấu chính trường Đảo Chánh 1/11/63 .
Sơ lược tiểu sử của Ông Tướng kiêm Thủ Tướng …“Tuần chay nào cũng có nước mắt”:
Ông ta sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong một gia đình điền chủ giàu có. (Nhưng trong một cuộc phỏng vấn của ông nhà báo Giao Chỉ tức cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc với ông…Tượng Đái), Ông Đại Tướng kiêm Thủ Tướng, nickname “Anh Tư mắt kiếng”. Năm nay, năm 2014, ông đã 89 tuổi, cái tuổi… sắp sửa.. đi “cưới ”… chị Sáu Tấm!
Trong buổi phỏng vấn nầy, ông ta ăn mặc rất bình dân, ông nói rằng ông ta quê quán tại Tân An, gia phả từ ông nội của ông trở về trước gốc gác tại Hải Dương/ Bắc Việt. Còn bên ngoại, từ bà ngoại trở về trước của ông là người gốc Quãng Ngãi, Ba Tơ/ Mộ Đức, gián tiếp nhận xằng rằng “đồng hương, đồng khói” với tên…Đồng Vều, Thủ Tướng Bắc Việt Cộng??-
Năm 1946, 21 tuổi, quân đội Pháp đưa ông đi học khóa đào tạo sĩ quan dành cho người Việt tại Đập Đá/ Huế. Ông tốt nghiệp năm 1947 với cấp bậc Chuẩn úy. Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trong quân đội Pháp ( thời điểm nầy, tướng Jean de Lattre de Tassigny, là người chỉ huy cao nhất của lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương giai đoạn 1950-1951)
Tháng 7 năm 1948, ông được chuyển sang lực lượng Vệ Binh Nam Phần làm sĩ quan tập sự, với cấp bậc Thiếu úy.(Một thời gian sau, ngày 11 tháng 5 năm 1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc gia Việt Nam). Khi Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông chuyển ngạch phục vụ và trở thành sĩ quan chính thức với cấp bậc Trung úy trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, ông được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Tại đây, ông làm quen và kết hôn với bà Đinh Thị Yến ( về sau Bà nầy đổi tên lót thành Đinh Thúy Yến, tên gọi ở nhà là “Tư Nết”, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá, bà nầy đã qua đời ngày 17 tháng 11 năm 2004).
Năm 1951, ông được điều đi đồn trú tại Tiểu khu Hưng Yên, Bắc Việt với cấp bậc Đại úy.
Tháng 7 năm 1952, ông được thăng cấp Thiếu tá, Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu (phụ trách Trung phần)
Hai năm sau, tháng 7 năm 1954, ông được thăng Trung tá, Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tháng 8 năm 1955, ông được thăng Đại tá, giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Tháng 8 năm 1957, ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
Năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến. Sư đoàn 4 dã chiến sát nhập với Khu chiến thuật 21 để trở thành Sư đoàn 21 Bộ binh. Ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn, trách nhiệm đồng bằng sông Cữu Long. Tháng 10 năm 1960, khi nổ ra cuộc phản loạn tháng 10 năm 1960 do Đại tá Nguyễn chánh Thi cầm đầu, ông đã chỉ huy Sư đoàn 21 kéo về Sài Gòn để giải vây và “cứu gía” cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Do hành động giải vây và “cứu gía” trên, ông rất được Tổng thống Ngô Đình Diệm tín nhiệm. Tháng 12 năm 1962, ông được thăng cấp Thiếu tướng và giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân.
Tuy vậy, do bản tính phản trắc và xảo trá, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô đình Diệm một năm sau đó, tháng 11 năm 1963. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những hành động tích cực như vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Do công lao này, sau khi đảo chính thành công, ông được Hội đồng tướng lĩnh thăng cấp Trung tướng, giữ chức Ủy viên quân sự trong Hội đồng.
Sau cuộc đảo chính, ông được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3, kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay cho tướng Tôn Thất Đính. Tuy nhiên, chưa bằng lòng với “bổng lộc ”nầy, chỉ một tháng sau, ông cùng tướng Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc "chỉnh lý" chớp nhoáng, cướp quyền của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tháng 7 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tướng. Trong một thời gian ngắn, từ 27 tháng 8 đến 8 tháng 9, ông tham gia Ủy ban lãnh đạo quốc gia cùng Tướng Nguyễn Khánh.
Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nảy sinh với tướng Nguyễn Khánh. Để bảo đảm quyền lực tuyệt đối và cũng e dè với Khiêm, Tướng Khánh cho rằng Khiêm đứng đằng sau cuộc binh biến của tướng Dương Văn Đức ngày 13 tháng 9 năm 1964, ngày 24 tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh tước mọi chức vụ và được "cử" làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, thực chất là một hình thức đẩy đi lưu vong ở nước ngoài.
Mãi đến sau khi Nguyễn Văn Thiệu đã loại trừ được vây cánh của tướng Kỳ, lúc đó là Kỳ là Phó tổng thống, tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng 9 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
Chúng ta cùng nhìn lại vai trò của Tướng Khiêm trong ba biến cố để thấy được chỗ nào tướng Khiêm cũng dự phần, “Tuần chay nào cũng có nước mắt”, chỗ nào có "Lộc" thì cũng có Khiêm dự phần… chia chác (như một câu nói dân gian….“thóc đến đâu.... bồ câu đến đó”!), và chỗ nào Khiêm ….cũng …“Ngậm miệng ăn tiền”, từ cuộc phản loạn 1960 đến…. đảo chính 1963, rồi…“Chỉnh lý” 1964.
Cách hành xử của Trần Thiện Khiêm trong cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm tháng 11/1963 đã thêm một lần cho thấy rõ bản chất thâm hiểm và xảo trá này của Khiêm. Tuy ham hố quyền lực và lợi lộc, nhưng Trần Thiện Khiêm không bao giờ liều lĩnh "chơi xả láng", ngay cả trong những thời điểm dầu sôi lửa bỏng nhất, Khiêm luôn luôn thủ sẵn “phương châm chiến lược” thường có : … “Cỏ đuôi chó” (gío chiều nào ngã theo theo chiều đó), để phòng khi mọi sự không diễn ra theo hướng dự tính sẽ còn vẫn giữ “đường binh – ( thối lui ) ”, trong trường hợp nầy là vẫn được sự tin dùng của Tổng Thống Diệm nếu cuộc đảo chánh thất bại.
Trong số những sĩ quan quân đội Sài Gòn đứng ra tổ chức đảo chính tháng 11/1963, Trần Thiện Khiêm, khi đó đang là thiếu tướng, chỉ đứng ở vị trí thứ ba, sau Trung tướng Dương Văn Minh và Trung tướng Trần Văn Đôn (trong số này còn có Thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Thiếu tướng Nguyễn Khánh, Thiếu tướng Lê Văn Kim, Thiếu tướng Trần Văn Minh, Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu, Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Đại tá Đỗ Mậu, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Đại tá Nguyễn Văn Quan, Đại tá Nguyễn Hữu Có, Đại tá Trần Ngọc Huyến, Đại tá Nguyễn Khương và Đại tá Đỗ Cao Trí).
Các nhân viên CIA ở Sài Gòn đã giật dây và điều khiển những viên sĩ quan phản trắc này một cách chặt chẽ thông qua tướng Khiêm. Khi được CIA dọ ý, chính tướng Khiêm đã gợi ý người Mỹ nên thăm dò ý kiến cả tướng Minh Lớn và tướng Đôn cho chắc ăn. Kế hoạch đảo chính đã được tướng Khiêm soạn thảo dưới sự góp ý và chỉ đạo của Trung tá Lucien Emile Conein và cũng chính Conein đã dùng kế hoạch đó làm lý lẽ để chiêu dụ tướng Đôn và tướng Minh gật đầu tham gia (hai viên trung tướng này chỉ đồng ý cầm đầu đảo chính sau khi biết tướng Khiêm cũng đã đồng ý tham gia).
Không ra mặt nhưng thông qua Conein, tướng Khiêm đã sắp xếp cho tướng Đôn nhận nhiệm vụ phối hợp hành động của các lực lượng tham gia đảo chính, còn tướng Dương văn Minh giữ vai trò lãnh đạo “Hội đồng quân nhân cách mạng”. Mọi sự đều nằm trong những tính toán thâm sâu của Trần Thiện Khiêm: Khi cuộc đảo chính thuận buồm xuôi gío, kiểu gì Khiêm cũng được chia phần hậu hĩnh, còn nếu chẳng may đổ bể thì vẫn có thể đóng vai trò vô can, vì trong con mắt của đại bộ phận chính giới Sài Gòn khi đó, tướng Khiêm được coi là người rất được Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu tin cậy và trọng dụng.
Vợ ông ta, Đinh Thúy Yến, cũng hoạt động rất gần guĩ với "đệ nhất phu nhân" Trần Lệ Xuân trong ban chấp hành Phong trào phụ nữ liên đới trung ương.. Bà Yến đã chết ngày 17/11/2004 ở Virginia.
Cả Tổng Thống Diệm và ông Nhu đều không ngờ rằng họ đã "nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà", và cũng không ngờ rằng Khiêm cũng chính là một “ Lữ Bố thời đại ”, khi hết lòng nâng đỡ và tin cẩn Trần Thiện Khiêm như thế. Bản thân tướng Khiêm trong ngày 1/11/1963 đã chọn cách hành xử cực kỳ kín kẽ, mặc dù chính ông ta chính là người điều hành chủ yếu trong cuộc đảo chính.
Vào khoảng 1:25 trưa ngày 01/11/1963, sau khi các viên sĩ quan cao cấp chủ chốt đã tụ họp với nhau tại Bộ Tổng tham mưu, nội bất xuất, ngoại bất nhập, tướng Khiêm tới văn phòng và 5 phút sau, tin đảo chính bắt đầu loang ra. Rất nhiều viên tướng, kể cả tướng Minh và tướng Đôn, đã phải vào gặp tướng Khiêm tại đó. Cùng ở đó với tướng Khiêm là Trung tá CIA Conein.
Tới 5h sáng 2/11/1963, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của tổng thống. Lúc này, có lẽ Ngô Đình Diệm vẫn nghĩ rằng có thể tin cậy được ở một viên tướng từng chịu nhiều ân sủng và bổng lộc của mình là Trần Thiện Khiêm.
Nên tới 6h45', Ngô Đình Diệm đã gọi điện thoại đến cho tướng Khiêm và thông báo rằng, ông ta đang cùng Ngô Đình Nhu ẩn náu tại nhà thờ cha Tam thuộc khu vực Chợ Lớn và yêu cầu đem xe đến đưa về Bộ Tổng tham mưu gặp tướng Minh Lớn và tướng Đôn, mà ông ta cho là chủ mưu đảo chính để điều đình. Ngô Đình Diệm đã không ngờ rằng, chính Trần Thiện Khiêm theo lệnh từ Washington đã kín đáo ra lệnh cho thuộc hạ hạ sát anh em Diệm - Nhu trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu.
Về sau, không chỉ một lần, tướng Khiêm đổ cho một mình tướng Minh trách nhiệm về vụ hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Tuy nhiên, nhiều nguồn tư liệu lại chứng minh điều ngược lại: Không chỉ tướng Minh mà cả tướng Khiêm đều đã nhận được "sát thủ lệnh" từ Trung tá Conein, lúc đó đang ở trong văn phòng của tướng Khiêm. Các sĩ quan khác, kể cả tướng Đôn, đều đã bị bất ngờ khi thấy xác của anh em Diệm - Nhu được chở về Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn trên chiếc xe M113 lúc 10h ngày 2/11/1963.
Trên người Ngô Đình Diệm vẫn là bộ complet màu xám sậm, còn xác Ngô Đình Nhu ở trong bộ complet màu hơi nâu tím. Cả hai đều bị trói quặt tay ra sau lưng, nằm nghiêng trên sàn xe, máu me dầm dề…
Khám nghiệm ở bệnh xá Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn cho thấy, cả Ngô Đình Diệm lẫn Ngô Đình Nhu đều đã bị bắn từ sau gáy ra trước. Xác Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bắn. Xác Ngô Đình Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu…
[Điều đáng khinh là mặc dù tay đã vấy máu anh em Tổng Thống Ngô đình Diệm, nhưng về sau, Trần Thiện Khiêm vẫn đủ sự trơ trẽn để thanh minh với bạn bè: "Tôi luôn kính trọng và thương mến Tổng thống Diệm. Tình hình cuối năm 1963 biến chuyển quá nhanh chóng; nếu tôi không thay đổi ý ủng hộ nhóm lãnh đạo đảo chính, tôi không còn sống sót tới giờ này" (?!) !!!]
Ngày 3/11/1963, các viên tướng trong cái gọi là Hội đồng quân nhân cách mạng đã ngồi lại cùng nhau "chia lộc". Họ ra quyết nghị tạm ngừng Hiến pháp 26/10/1956 và giải tán Quốc hội. Các ghế chủ chốt trong Hội đồng được chia như sau: Tướng Minh Lớn giữ chức Chủ tịch; tướng Trần Văn Đôn làm Đệ nhất Phó chủ tịch; Trung tướng Tôn Thất Đính làm Đệ nhị Phó chủ tịch. Chức Tổng thư ký kiêm Uỷ viên ngoại giao được giao cho Trung tướng Lê Văn Kim. Tướng Khiêm chỉ được giao cho chức uỷ viên quân sự. Bổng lộc được chia phần kém hơn, điều này hiển nhiên không làm cho tướng Khiêm (vốn thực sự đã là người cầm chịch trong các diễn biến đẫm máu của cuộc đảo chính) hài lòng.
Lúc nầy, các viên tướng trong “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng 01/11/63”, vẫn cảm thấy e ngại tướng Khiêm, nên tới ngày 5/1/1964, nên đã tiến hành một cuộc chia lại quyền lực, đẩy Trần Thiện Khiêm (lúc này đã đeo lon trung tướng), xuống làm Tư lệnh Quân đoàn III. Các vị trí quan trọng đều được giao cho các viên tướng khác: tướng Tôn Thất Đính giữ chức Tổng trưởng nội vụ; tướng Đỗ Mậu làm Tổng trưởng thông tin; tướng Trần Văn Đôn làm Tổng trưởng quốc phòng kiêm Tư lệnh quân đội; tướng Lê Văn Kim là Tổng tham mưu trưởng; tướng Nguyễn Văn Quang làm Giám đốc Nha An ninh quân đội.
Lòng đầy bất mãn, lại được trợ giúp bởi CIA, tướng Khiêm đã xúi tướng Khánh, làm một cuộc chỉnh lý vào ngày 30-1-1964 với lý do Hội đồng quân nhân cách mạng có nhiều gương mặt "chủ trương thân Pháp và trung lập", đã gây nên tình trạng suy sụp trên chính trường Sài Gòn. Khánh làm một cuộc “chỉnh lý”, Dương văn Minh được cho về vườn. Trong chính phủ mới do tướng Khánh lập ra, tướng Khiêm được giao cho chức Tổng trưởng quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn mà người ta cho là cũng hữu danh vô thực.
Tuy nhiên, chính phủ của tướng Khánh đã không thể làm cho chính trường Sài Gòn bớt bất ổn. Tướng Khiêm vẫn tìm mọi cách để làm mọi sự trở nên rối rắm hơn. Cực chẳng đã, ngày 16/8/1964, tướng Khánh đã phải triệu tập một buổi họp các viên tướng tại Vũng Tàu để ban hành cái gọi là Hiến chương Vũng Tàu và theo đó, tướng Khánh nhảy lên làm Chủ tịch nước Việt Nam Cộng hòa. Hội đồng quân nhân cách mạng được đổi thành Hội đồng quân đội cách mạng.
Cũng theo Hiến chương Vũng Tàu, tại Sài Gòn sẽ có một quốc hội lâm thời gồm 100 đại biểu dân sự và 50 đại biểu quân sự. Tuy nhiên, Hiến chương Vũng Tàu cũng chẳng thể đoàn kết được đám tướng lĩnh tay sai ngoại bang và tham lam vô độ. Tình hình trong chính thể Việt Nam Cộng hòa vẫn rối ren.
Bùng nổ hàng loạt cuộc biểu tình của sinh viên, học sinh và các tầng lớp nhân dân khác. Tại nhiều nơi, tín đồ Phật giáo và Thiên Chúa giáo xung đột nhau.
Rốt cuộc, ngày 27/8/1964, cái gọi là Hội đồng quân đội cách mạng sau khi phải ra tuyên cáo thu hồi Hiến chương Vũng Tàu, đã bầu lên một tam đầu chế gồm có tướng Minh, tướng Khánh và tướng Khiêm. Tướng Khiêm lúc này đã mang quân hàm đại tướng. Một Hội đồng lãnh đạo quốc gia đã được lập ra.
Theo “scenario” do người Mỹ đạo diễn, "chỉnh lý" xong sẽ có một chính phủ mới mà trong đó, tướng Khánh sẽ là Quốc trưởng, còn tướng Khiêm là Thủ tướng. Với một chính quyền Sài Gòn như thế, Washington hy vọng sẽ danh chính ngôn thuận hơn trong việc đưa quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam tham chiến. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, tuy cảm thấy tự tin hơn ở mình, tướng Khánh lại bắt đầu nghĩ khác, lo lắng tới hậu họa khi có tướng Khiêm xảo quyệt ở quá gần bên cạnh. Tướng Khánh tìm mọi cách để củng cố quyền lực cá nhân, mặt khác, đã âm thầm loại dần các tay chân thân tín của tướng Khiêm ra khỏi những chức vụ quan trọng. Trong hoàn cảnh này, tướng Khiêm dĩ nhiên không chịu khoanh tay thúc thủ, Tướng Khiêm gợi ý cho tướng Dương Văn Đức và Đại tá Huỳnh Văn Tồn làm loạn ngày 13/9/1964 và xúi giục cho các tín đồ Phật giáo biểu tình nổi lên chống Khánh. Tướng Khánh đã dọa Khiêm "Tôi không bảo đảm cho sinh mạng ông ở đây được, do đó, tôi bổ nhiệm ông vào chức đại sứ ở Hoa Kỳ…". Mặc dù rất tức tối nhưng Trần Thiện Khiêm cũng phải nhận đi làm đại sứ ở Mỹ, sau đó là đại sứ ở Đài Loan như câu nói dân gian lúc bấy giờ ở miền Nam VN : “Được làm vua, thua làm đại sứ”!!
Từ nước ngoài, tướng Khiêm vẫn duy trì liên lạc với Nguyễn Văn Thiệu chặt chẽ. Khi tướng Thiệu với sự trợ giúp của Mỹ hạ bệ được tướng Khánh năm 1965, Trần Thiện Khiêm đã hồi hương để diễn một vai mới hơn trên chính trường Sài Gòn, nơi mà quyền quyết định tối thượng thực ra là nằm trong tay các ông chủ Mỹ.
Người tiết lộ bí mật Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm là người của CIA là cựu đại tá Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Ðại tướng, và cũng theo ông Phạm Bá Hoa thì chính Ðại Tướng Khiêm mới là người chủ chốt cuộc đảo chánh 1.11.1963! Còn ông Nguyễn Văn Ngân, (cựu Bộ Trưởng Kinh Tế Tài Chánh dưới thời TT Nguyễn văn Thiệu) thì cho rằng chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã khẳng định Ðại tướng Trần Thiện Khiêm là tay chân của CIA và là người chủ chốt trong cuộc lật đổ chế độ Ðệ Nhất Cộng Hòa, chịu trách nhiệm cái chết của 2 anh em cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm!
Để tạm kết thúc phần I, của loạt bài viết nầy, tôi xin ghi lại lời của Tổng Thống Johnson trong cuốn băng dài 30 tiếng đồng hồ do thư viện Johson Library ở Austin, Texas, công bố ngày 28 tháng 2 năm 2003, Tổng Thống Johnson đã gọi các tướng miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ thuê mướn đảo chính và giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm là …."a goddam bunch of thugs“ (một bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rũa) - bọn côn đồ - ( thugs) - qủa thật là chính xác vô cùng !!! -
Ctsq Nguyễn văn Sơn/1728
( Chúc mừng hèn tướng CIA Trần thiện Khiêm “enjoys” tuổi gìa bên người vợ mới cưới trẻ măng!)
TRẦN THIỆN KHIÊM VNCH Đã Tẩu Tán Nhục Nhã Ra Sao Khi SG Sụp Đổ, Vạch Trần Bộ Mặt Viên Tướng Xảo Trá
Đại Tướng Trần Thiện Khiêm
Sơ Lược Tiểu Sử Binh Nghiệp Đại Tướng Trần Thiện Khiêm
Tháng 9/19 69 đến tháng 04/1975 Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH.
Năm 1969? đến tháng 09/1969 Phó Thủ Tướng
Tháng 05/1968 đến năm 1969 Tổng Trưởng Nội Vụ.
Tháng 10/1965 đến tháng 05/1968 Đại Sứ VNCH tại Đài Bắc.
Tháng 10/19 64 đến tháng 10/1965 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ.
Tháng 07/1964 Thăng Đại Tướng.
Tháng 01/1964 đến tháng 09/1964 TTQP kiêm TTMT QLVNCH.
Tháng 12/1963 đến tháng 01/1964 Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
Tháng 11/1963 Thăng Trung Tướng.
Tháng 12/1962 Thăng Thiếu Tướng.
Tháng 12/1962 đến tháng 11/1963 Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
Tháng 02/1960 đến tháng 12/1962 Tư Lệnh SĐ21BB kiêm TL QK5.
Năm 1958 đến tháng 02/1960 Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến.
Năm 1957 đến năm 1958 Tu nghiệp khóa CH&TM cao cấp tại Hoa Kỳ.
Tháng 08/1957 Đại Tá Xử Lý thường vụ Tham Mưu Trưởng BTTM.
Tháng 07/1954 Thiếu Tá rồi Trung Tá TM Phó Tiếp Vận BTTM.
Tháng 07/1948 Thiếu Úy SQ tập sự Vệ Binh Nam Phần.
Năm 1946 đến năm 1947 Chuẩn Uý HSQ cao cấp Viễn Đông (Đập Đá)
Năm 1969? đến tháng 09/1969 Phó Thủ Tướng
Tháng 05/1968 đến năm 1969 Tổng Trưởng Nội Vụ.
Tháng 10/1965 đến tháng 05/1968 Đại Sứ VNCH tại Đài Bắc.
Tháng 10/19 64 đến tháng 10/1965 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ.
Tháng 07/1964 Thăng Đại Tướng.
Tháng 01/1964 đến tháng 09/1964 TTQP kiêm TTMT QLVNCH.
Tháng 12/1963 đến tháng 01/1964 Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
Tháng 11/1963 Thăng Trung Tướng.
Tháng 12/1962 Thăng Thiếu Tướng.
Tháng 12/1962 đến tháng 11/1963 Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
Tháng 02/1960 đến tháng 12/1962 Tư Lệnh SĐ21BB kiêm TL QK5.
Năm 1958 đến tháng 02/1960 Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dã Chiến.
Năm 1957 đến năm 1958 Tu nghiệp khóa CH&TM cao cấp tại Hoa Kỳ.
Tháng 08/1957 Đại Tá Xử Lý thường vụ Tham Mưu Trưởng BTTM.
Tháng 07/1954 Thiếu Tá rồi Trung Tá TM Phó Tiếp Vận BTTM.
Tháng 07/1948 Thiếu Úy SQ tập sự Vệ Binh Nam Phần.
Năm 1946 đến năm 1947 Chuẩn Uý HSQ cao cấp Viễn Đông (Đập Đá)
Nhan Hữu Hiệp
——————————-
rần Thiện Khiêm (chữ Hán: 陳善謙; sinh 1925) là một trong 5 quân nhân thụ phong cấp bậc Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, từng là tướng lĩnh giữ vai trò quan trọng trong các cuộc đảo chính quân sự tại Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1963-1964. Ông cũng là một chính khách và là người từng giữ chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu nhất: 6 năm.
Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong một gia đình đại điền chủ giàu có. Do điều kiện gia đình, ông có một nền học vấn cơ bản tốt, đã tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài.
——————————-
rần Thiện Khiêm (chữ Hán: 陳善謙; sinh 1925) là một trong 5 quân nhân thụ phong cấp bậc Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa, từng là tướng lĩnh giữ vai trò quan trọng trong các cuộc đảo chính quân sự tại Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1963-1964. Ông cũng là một chính khách và là người từng giữ chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu nhất: 6 năm.
Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong một gia đình đại điền chủ giàu có. Do điều kiện gia đình, ông có một nền học vấn cơ bản tốt, đã tốt nghiệp trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài.
Năm 1945, ông tham gia phong trào Việt
Minh. Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông cùng các bạn hữu rút vào chiến khu
8, chiến đấu dưới quyền khu trưởng Trần Văn Trà một thời gian ngắn, sau
đó lại trở về thành.
Năm 1946, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông được cho theo học khoá 1 Trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt (còn gọi là khoá Nguyễn Văn Thinh). Thời gian theo học tại đây, ông có quan hệ thân tình với một số học viên trẻ khác như Nguyễn Khánh, Lâm Văn Phát và Trần Đình Lan.
Năm 1946, ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông được cho theo học khoá 1 Trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt (còn gọi là khoá Nguyễn Văn Thinh). Thời gian theo học tại đây, ông có quan hệ thân tình với một số học viên trẻ khác như Nguyễn Khánh, Lâm Văn Phát và Trần Đình Lan.
Giữa năm 1947, ông tốt nghiệp với cấp bậc
Chuẩn úy và tiếp tục trong Quân đội Liên hiệp Pháp tại các đơn vị người
bản xứ. Tháng 7 năm 1948, ông là sĩ quan tập sự trong lực lượng Vệ binh
Nam Phần, phục vụ Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 Việt Nam và đầu tháng 8
ông được thăng cấp Thiếu úy.
Năm 1950, ông được chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Năm 1952, thăng Đại úy, điều đi Tiểu khu Hưng Yên làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền Đệ nhị Cộng hòa.
Năm 1950, ông được chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Năm 1952, thăng Đại úy, điều đi Tiểu khu Hưng Yên làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền Đệ nhị Cộng hòa.
Tháng 9 năm 1953, ông được chuyển sang
phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá
Phạm Văn Đổng làm Chỉ huy trưởng. Tháng 7 năm 1954, ông làm Trưởng phòng
3 Đệ nhị Quân khu, đến cuối năm thì được thăng cấp Thiếu tá, Tham mưu
trưởng Đệ nhị Quân khu. Tháng 8 năm 1955, ông được thăng Trung tá giữ
chức vụ Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt
Nam.
Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp Đại tá giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp Đại tá giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
Sau khi về nước năm 1958, ông được cử làm
Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến (sau đó được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ
binh). Tháng 2 năm 1960, được chuyển sang làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh
kiêm Tư lệnh Quân khu 4, phụ trách vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Khi cuộc đảo chính quân sự 1960 nổ ra, ông
chỉ huy Sư đoàn kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình
Diệm. Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Diệm tín
nhiệm. Tháng 12, ông được thăng cấp Thiếu tướng và giữ chức Tham mưu
trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là tướng Nguyễn Khánh vừa
được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II.
Giữa năm 1963, Tổng tham mưu trưởng Đại
tướng Lê Văn Tỵ sang Hoa Kỳ chữa bệnh. Ông được chỉ định kiêm Xử lý
thường vụ Tổng tham mưu trưởng cho đến tháng 8 thì Trung tướng Trần Văn
Đôn mới được chỉ định làm quyền Tổng tham mưu trưởng.
Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia cuộc Đảo chính. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ông được thăng Trung tướng kiêm chức Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng Dương Văn Minh làm Chủ tịch.
Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia cuộc Đảo chính. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ông được thăng Trung tướng kiêm chức Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng Dương Văn Minh làm Chủ tịch.
Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức
vụ Tư lệnh Quân đoàn III, kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay cho tướng Tôn Thất
Đính. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng
Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc “chỉnh lý” chớp nhoáng, cướp quyền của
Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để
trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng,
kiêm Tổng Tư lệnh Quân lực. Ngày 11 tháng 8, ông được thăng cấp Đại
tướng và trở thành người thứ 2 sau tướng Lê Văn Tỵ thụ phong hàm Đại
tướng của Việt Nam Cộng hòa.
Nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng
lĩnh, giải pháp “Tam đầu chế” ra đời. Trong một thời gian ngắn, từ 27
tháng 8 đến 8 tháng 9, ông tham gia Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia cùng với 2
tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh.
Thắng làm vua, thua làm đại sứ
Thắng làm vua, thua làm đại sứ
Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nảy sinh
với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Để bảo đảm quyền lực tuyệt đối, tướng
Khánh khó mà chấp nhận người bạn đã nhiều lần tổ chức đảo chính và đã
đưa mình lên vị trí quyền lực. Cho rằng tướng Khiêm đứng đằng sau cuộc
binh biến của tướng Dương Văn Đức ngày 13 tháng 9 năm 1964, ngày 24
tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh tước mọi chức vụ và được “cử” làm
Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, thực chất là một hình thức đẩy đi
lưu vong ở nước ngoài.
Sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng Nguyễn
Cao Kỳ và một người bạn cũ của tướng Khiêm là tướng Nguyễn Văn Thiệu
cầm đầu, đã buộc tướng Khánh phải rời khỏi chức vụ để “làm” đại sứ lưu
động, tướng Khiêm đã có hy vọng trở về. Tuy nhiên, tháng 19-1965, nhóm
tướng Kỳ một lần nữa lại đẩy ông làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Đài
Loan (Trung Hoa Dân Quốc).
Trở về nắm quyền
Mãi đến năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó đã là Phó tổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng 8 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
Lưu vong lần thứ hai
Trở về nắm quyền
Mãi đến năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó đã là Phó tổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng 8 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
Lưu vong lần thứ hai
Trần Thiện Khiêm – Bên Trái NVT- Bên phải NCK
Tháng 3 năm 1975, sau khi Quân đội Nhân
dân Việt Nam đã kiểm soát được hầu hết miền Trung và Cao nguyên, trước
áp lực của Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần
chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại
với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu
cầu ông từ chức để mời Nguyễn Bá Cẩn thành lập chính phủ mới. Ngày 5
tháng 4 năm 1975, ông chính thức từ chức rời khỏi chức vụ. Ngày 21 tháng
4, đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho
phó Tổng thống Trần Văn Hương. Đêm ngày 24 tháng 4, ông cùng với cựu
Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại
Hoa Kỳ.
Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên CIA Frank Snepp ghi lại trong quyển “Decent Interval” như sau:
“
“
Khoảng 5giờ chiều 25 tháng 4 năm 1975,
Polgar gọi tôi, Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên khác của sở
đến văn phòng: “Các anh có thể tìm đường quanh Sài Gòn ban đêm?…”.
“Tốt”. “Vì tôi muốn các anh giúp tôi đưa Thiệu và Thủ tướng Khiêm đi Đài
Loan tối nay”. Đại sứ Martin sau này thú nhận với tôi là ông đã tiếc vì
đã nhờ Polgar Giám đốc CIA ở Việt Nam, thay vì nhờ cơ quan DAO và than
phiền Polgar đã không làm được việc giao phó cho đúng. “Tôi đã yêu cầu
ông ấy đánh máy hồ sơ cần thiết cho Thiệu và đem theo với ông ấy khi các
anh vào Tân Sơn Nhất. Nhưng ông ấy không làm được. Ông ấy quên giấy.
Ông ấy bảo là không tìm thấy bàn đánh máy chữ”. Kết quả là Thiệu rời
khỏi xứ trên máy bay Mỹ mà không có giấy tờ chấp thuận của Việt Nam hay
phía Mỹ.
Timmes, hai nhân viên khác và tôi lấy ba
chiếc Limousine từ nhà xe của cơ quan CIA khoảng 8giờ 30 tối và lái xe
đến Bộ Tư lệnh Quân đội miền Nam ngoài Tân Sơn Nhất nơi Khiêm cư ngụ…
Ngay sau 9 giờ tối, Polgar đến nhà Khiêm
với xe riêng và tài xế. Trong khi ông ta uống rượu với Khiêm và Timmes
trong nhà, tất cả chúng tôi ra ngoài sân nghỉ chân….
”
”
Sau khi sang Mỹ, ông cùng gia đình định cư tại Virginia, rồi chuyển sang Houston, Texas.
Gia đình
Gia đình
Ông có 3 người anh trai:
Trần Thiện Khởi, cựu Tổng giám đốc Quan thuế Việt Nam Cộng hòa
Trần Thiện Phương, cựu Giám đốc Thương cảng Gài Gòn
Trần Thiện Ngươn, Đại tá Việt Nam Cộng hòa
Phu nhân: Bà Đinh Thùy Yến (1934-2004), còn gọi là Tư Nết, tên Pháp là Annette, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá. Về sau bà từng trúng cử Dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1959-1963).
Trần Thiện Phương, cựu Giám đốc Thương cảng Gài Gòn
Trần Thiện Ngươn, Đại tá Việt Nam Cộng hòa
Phu nhân: Bà Đinh Thùy Yến (1934-2004), còn gọi là Tư Nết, tên Pháp là Annette, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá. Về sau bà từng trúng cử Dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1959-1963).
Phu Nhân MAI ANH, Vợ NGUYỄN VĂN THIỆU Đã Bí Mật Xách 15 Vali Đi Khỏi Dinh Độc Lập Như Thế Nào
Đinh Thúy Yến, Vợ Tướng VNCH Trần Thiện Khiêm Đã Bám Váy Phu Nhân Mai Anh Kiếm Bộn Tiền Như Thế nào
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét