NỖI NIỀM OAN KHUẤT 19 (Nguyên soái Hạ Long)
-Từ
ngày cách mạng vô sản nổ ra và "thành công vang dội", bao nhiêu chiến
sĩ cộng sản ưu tú lâm vào cái chết oan ức, bi kịch vì bị đồng chí mình thanh trừng, mấy
ai được sống trọn vẹn một cuộc đời trong an lành, hạnh phúc?
-Hết nạn đày đọa thanh trừng thì đến nạn thoái hóa, biến chất! Ngày nay, còn bao nhiêu người cộng sản vẫn hoạt động quên mình vì chủ nghĩa cộng sản, vì nhân dân phục vụ?
-Danh lợi, khi hết thơm rồi thì thối quá chừng!
-Ôi, khai quốc công thần! Ôi, đấu tranh giai cấp! Ôi, chuyên chính vô sản! Ôi, "định hướng XHCN"!
-Im lặng trước tà ác, chính là ủng hộ cho nó. Có một câu danh ngôn của Napoleon: “Thế giới chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”!
-Bắt chước Putin: "Ai mãi đi theo CNCS, người đó không có trí não, ai khước từ lòng tốt của nó, người đó không có trái tim!".
----------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trong 10 năm diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa (1966-1976) bè
lũ phản động Lâm Bưu - Giang Thanh đã gây ra vô vàn cái chết oan thê
thảm không những chỉ với dân thường, mà còn đối với rất nhiều các vị
tướng soái uy danh lừng lẫy của Trung Quốc. Một trong số đó là Nguyên
soái Hạ Long.
Nguyên
soái Hạ Long, nguyên tên là Văn Thường, tự Vân Khanh sinh năm 1896 tại
Tang Thực (Hồ Nam). Năm 1914, gia nhập Trung Hoa Cách mạng đảng của Tôn
Trung Sơn. Năm 1926, tham gia Bắc phạt với chức danh Sư trưởng Sư đoàn
Đệ cửu quân thuộc quân đội Quốc dân.
Tháng 8/1927 là Tổng chỉ huy quân khởi nghĩa trong cuộc khởi nghĩa Nam Xương nhằm chống lại sự phản bội của Tưởng Giới Thạch. Cùng năm đó Hạ Long gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Trong cuộc nội chiến lần thứ nhất (1927-1936) từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban Cách mạng kiêm Tư lệnh Quân khu Tương Ngạc Xuyên Kiềm (tức 4 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên và Quý Châu), Tổng chỉ huy Phương diện quân số 2 của Hồng quân.
Năm 1935, Hạ Long tham gia Vạn lý Trường chinh (tức cuộc chuyển quân chính quy của Hồng quân từ Giang Tây lên Thiểm Tây để tránh bị quân Tưởng vây đánh và để chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Nhật).
Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai (1937-1946) để cùng nhau chống Nhật, Hạ Long là Sư trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 120 của Bát Lộ quân (tức Hồng quân đổi tên). Năm 1942, được điều về Diên An làm Tư lệnh Liên quân Biên khu Thiểm Cam Ninh. Sau khi Nhật đầu hàng, Hạ Long từng giữ các chức: Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Thành phố Tây An.
Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa thành lập, Hạ Long trở thành Phó chủ tịch Quân ủy TW, Phó thủ tướng Chính phủ, Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao TW (TDTTTW). Tới tháng 9/1955, được phong hàm Nguyên soái. Tại Hội nghị TW lần thứ 8 (1956) ông trở thành Ủy viên Bộ Chính trị.
Từ năm 1959 là Phó chủ tịch thường trực Quân ủy TW, Chủ nhiệm Ủy ban Công nghiệp quốc phòng. Dưới sự chỉ đạo của Hạ Long, quân đội TQ đã có những bước tiến rất to lớn trên con đường chính quy hiện đại. Ban Chấp hành ĐCS Trung Quốc, Chính phủ nước CHND Trung Hoa và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã hết lời ca ngợi công lao của Hạ Long.
Âm mưu điên cuồng hãm hại Hạ Long của bè lũ Lâm - Giang
Theo kết luận của Cơ quan điều tra TQ công bố vào năm 1980 thì âm mưu hãm hại Hạ Long của Lâm Bưu đã hình thành từ năm 1942. Năm đó Hạ Long được điều động về Diên An (nơi đóng đại bản doanh của ĐCS TQ) làm Tư lệnh Biên khu Thiểm Cam Ninh. Trong một lần nói chuyện với Hạ Long, Mao Trạch Đông đánh giá Lâm Bưu là kẻ thực hành thủ đoạn “lá mặt lá trái”: bên ngoài thì ủng hộ nhưng sau lưng thì luôn tỏ thái độ bất mãn, thậm chí chửi bới và nhục mạ sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông.
Biểu hiện rõ nhất là vào năm 1938, Lâm Bưu đã công khai phản đối kế hoạch tập trung binh lực của Mao Trạch Đông nhằm bảo vệ biên khu Thiểm Cam Ninh, chống lại sự tấn công của Nhật. Trong thời gian kháng Nhật, Lâm Bưu đã muốn câu kết với Tưởng, gọi Tưởng là “sư phụ”, và tự xưng là “học trò” v.v...
Nội dung cuộc nói chuyện này sau đó đã tới tai Lâm Bưu, khiến Lâm đứng ngồi không yên. Thêm nữa, vào năm 1937 sau khi tham gia Hội nghị Lạc Dương, trên đường trở về Sơn Tây, Lâm đã tự tay viết cho Hạ Long một bức thư ca ngợi Tưởng Giới Thạch “là người có lòng quyết tâm kháng Nhật đến cùng”, đồng thời đề nghị Hạ Long khi về tới đơn vị của mình “hãy nói cho mọi người biết về điều này”. (Đáng tiếc là bức thư này sau đó, do người lính cần vụ đã không để ý khi giặt áo cho Hạ Long làm nát mất).
Tất cả những điều đó khiến Lâm Bưu lo sợ, vì vậy Lâm đã âm thầm tìm mọi cách hãm hại Hạ Long để “giết người diệt khẩu”... Lâm cho rằng “Hạ uy hiếp trực tiếp tới sự an toàn và địa vị”, “là vật cản lớn nhất trên con đường đoạt quyền” của Lâm.
Thời cơ bắt đầu đến khi Lâm trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng TQ vào năm 1959. Ngay sau khi có quyền trong tay, Lâm tiến hành cài cắm hàng loạt những tay chân thân tín của mình vào nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các binh chủng Hải, Lục, Không quân, đồng thời thực thi các cuộc thanh trừng nhằm vào những người không ăn cánh. Khi Cách mạng văn hóa bùng nổ vào cuối năm 1965 đầu năm 1966 thì tay chân của Lâm đã nắm giữ hầu hết các cương vị chủ chốt trong quân đội TQ, đặc biệt là binh chủng Không quân do Ngô Pháp Hiến làm Tư lệnh và Hải quân do Lý Tác Bằng làm Tư lệnh, đây là hai tay chân “thân tín nhất” của Lâm (bọn này đã bị Pháp viện tối cao TQ tuyên án tử hình vào năm 1981).
Đòn đầu tiên Lâm Bưu nhằm vào Hạ Long là chỉ đạo hai tên Ngô, Lý tạo ra vô số những tài liệu giả, vu cho Hạ Long đứng đầu cái gọi là “tiểu tập đoàn phản Đảng”, “phần tử xét lại tay chân La Thụy Khanh” bao gồm rất nhiều những cán bộ cao cấp trong quân đội TQ không theo Lâm. Nhưng âm mưu này của Lâm và phe cánh đã không thành. Ngày 7/7/1966, Quân ủy TW dưới sự chủ trì của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đã ra nghị quyết nhấn mạnh “Những hoạt động bè phái, gây chia rẽ của Lý Tác Bằng, Ngô Pháp Hiến và những người khác phải bị lên án”.
Biết không thể địch được Hạ Long, Lâm Bưu đã sai vợ là Diệp Quần chạy tới chỗ Giang Thanh “nhờ đồng chí Giang chỉ bảo và giúp đỡ”. Lúc này Giang là thành viên Tiểu tổ Cách mạng văn hóa Trung ương, uy thế ngất trời. Trong thâm tâm Giang cũng vốn có mối hận thù với “các khai quốc công thần”, những người đã quá hiểu Giang là ai ngay từ khi Giang tới Diên An vào năm 1937. Khi Giang lấy Mao Trạch Đông thì rất nhiều cán bộ cao cấp, trong đó có Hạ Long, phản đối cuộc hôn nhân này. Sau đó dù đành nhượng bộ, nhưng “chính các vị này” đã có hẳn một nghị quyết “cấm Giang không được nắm giữ bất kỳ chức vụ gì của Đảng và Nhà nước”.
Với Giang, Cách mạng văn hóa là cơ hội trời cho để thanh toán các mối hận bấy lâu nay, trước hết là dẹp tan “các vị khai quốc công thần” nhằm dọn đường cho Giang leo lên những địa vị cao. Vì thế khi được Diệp Quần nói lại những mong muốn của Lâm Bưu, Giang mừng như bắt được vàng và hứa hẹn “sẽ cùng Lâm Nguyên soái đánh đổ hết bọn xét lại, bọn ngưu quỷ xà thần yêu ma quỷ quái”.
Nhận được sự đảm bảo từ Giang, Lâm Bưu điên cuồng đẩy nhanh những hoạt động nhằm hãm hại Hạ Long. Lâm hạ lệnh cho tay chân của y ở Tổng cục Hậu cần, Binh chủng Thiết giáp, Học viện Chính trị, Ủy ban TDTTTW v.v... tạo ra vô số tài liệu và chứng cứ giả, hình thành một chiến dịch rầm rộ vu cáo Hạ Long. Tuy nhiên, Lâm Bưu biết rằng muốn “đánh đổ” được Hạ Long thì những điều trên là chưa đủ, mà cần phải có “cái gì đó” để ly gián mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông với Hạ Long.
Và cách mà Lâm Bưu lựa chọn là tìm cách ghép Hạ phạm vào “điều đại kiêng kị” , đó là “âm mưu hãm hại Mao Chủ tịch nhằm đoạt quyền”. Một lần nữa Lâm Bưu lại trao việc này cho Diệp Quần.
Chẳng khó khăn gì Diệp Quần cũng tìm ra được người thực hiện âm mưu thâm độc của chồng, đó là Ngô Trị Quốc. Quốc nguyên là Trưởng đội cảnh vệ trực thuộc Văn phòng Quân ủy, kẻ đã nhiều lần bị Hạ Long nhắc nhở về tác phong và tinh thần làm việc, sau đó đã bị chuyển sang bộ phận khác. Diệp Quần xúi Quốc viết đơn tố cáo Hạ Long là: “Đã tự ý chiếm làm của riêng một khẩu súng ngắn rất hiện đại nhập khẩu từ nước ngoài, buổi tối khi đi ngủ thì giấu ngay dưới gối, ban ngày thì luôn mang theo người.
Hai tháng gần đây Hạ Long đã giấu khẩu súng này dưới gối của con gái của Đổng Tất Võ ở trong Trung Nam Hải với âm mưu dùng nó để ám sát Mao Chủ tịch khi có cơ hội”.
Sau khi được biết điều này, Đổng Tất Võ đã lập tức có cuộc nói chuyện nghiêm khắc với con gái, khiến cô con gái hết sức kinh ngạc: “Thưa cha, chuyện kỳ quặc này ở đâu ra vậy? Khẩu súng này không phải do Hạ Tư lệnh để ở trong phòng của con. Nguyên do là cách đây đã rất lâu có lần con và một số bạn đến chơi với Hạ Hiểu Minh (con gái Hạ Long), Hạ Tư lệnh đã cho con khẩu súng này để chơi, vì nó đã không thể sử dụng được nữa. Con nhớ là việc này xảy ra từ năm 1957, chứ đâu phải cách đây 2 tháng”.
Sau đó cô con gái của Đổng Tất Võ lấy khẩu súng để trong tủ của mình suốt hơn 10 năm cho bố để bố chuyển tới cơ quan chuyên môn. Tiến hành kiểm tra, người ta phát hiện ra rằng súng không hề có đạn, các bộ phận như quy lát, cò súng đều đã bị han gỉ, không thể hoạt động. Các nhân viên kiểm tra đã phải cười to: “Khẩu súng này chỉ là đồ chơi của trẻ con, không thể sử dụng được”.
Tuy nhiên, Lâm Bưu vẫn bám chặt vào việc này và lớn tiếng “đây đúng là âm mưu muốn làm phản của Hạ Long” và đã trình lên cho Mao Trạch Đông những “bản báo cáo mật” do Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng viết để “chứng minh âm mưu muốn ám sát Chủ tịch Mao của Hạ Long là có thật”.
Buổi sáng ngày 5/9/1966, tại phòng nghỉ của bể bơi trong Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đã đưa “bản báo cáo” của Ngô và Lý cho Hạ Long xem. Sau khi xem xong, Hạ Long hỏi Mao Trạch Đông: “Tôi có cần gặp Ngô, Lý để nói cho ra nhẽ không?”, thì Mao Trạch Đông đã nói: “Có gì cần phải nói với họ cơ chứ. Đồng chí không cần phải bận tâm với bọn họ làm gì, tôi chính là “phái bảo hoàng” của đồng chí” (ý muốn nói “Tôi luôn là người đứng về phía đồng chí”). Sau đó hai người đã nói chuyện với nhau về sự nghiệp cách mạng, về lòng yêu nước của Tôn Trung Sơn cũng như nhiều chuyện khác. Cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu và thân mật.
Nhưng Hạ Long không ngờ rằng, đó là lần nói chuyện cuối cùng giữa hai người, bởi chỉ 3 ngày sau đó do tác động của Giang Thanh, Hạ Long đã buộc phải “gặp Lâm Bưu để nói chuyện”. Khi gặp Lâm Bưu, Hạ Long đã nói rõ nguyên nhân tại sao có cuộc gặp này, thì Lâm Bưu trả lời: “Với Hạ lão tổng, tôi không hề có ý kiến gì”, nhưng sau đó Lâm nói thêm: “Vấn đề của Hạ lão tổng có thể là lớn, cũng có thể là nhỏ, nhưng quy lại chỉ có một vấn đề, đó là từ nay về sau nên ủng hộ ai, phản đối ai”.
Hạ Long nghe xong thì cười to, rồi trả lời: “Lâm lão tổng, tôi tham gia cách mạng đã bao năm nay, ủng hộ ai, phản đối ai chẳng lẽ Lâm lão tổng còn chưa biết hay sao?”. Rồi Hạ Long nói lời từ biệt và nhanh chóng rời khỏi tư dinh của Lâm Bưu.
Thực hiện âm mưu đã được bàn soạn, cuối năm 1966, Lâm Bưu và Giang Thanh đã xúi giục và cổ vũ cho “phái tạo phản” ở Ủy ban TDTTTW phải “tập trung đánh đổ Hạ Long”.
Vẫn sử dụng chiêu thức như đã từng áp dụng với rất nhiều người khác, chúng cho các “tiểu tướng Hồng vệ binh” tới bao vây nơi ở của gia đình Hạ Long, thay nhau suốt ngày đêm hô khẩu hiệu, đánh thanh la trống mõ, khiến Hạ Long và những người trong gia đình không lúc nào được yên.
Trước tình hình đó, ngày 26/12/1966 Chu Ân Lai đã nói với Hạ Long: “Sức khỏe của đồng chí đang có vấn đề, bây giờ bọn tạo phản lại suốt ngày gây chuyện ầm ĩ, nếu cứ kéo dài như thế này thì rất nguy hiểm. Ban Tổ chức TW đã quyết định đồng chí hãy tạm chuyển tới Tân Lục sở. Mọi chuyện khác trong nhà đã có tôi lo”.
Nhưng sau khi Hạ Long và vợ là Tiết Minh chuyển tới Tân Lục sở không lâu thì “phái tạo phản” của Học viện Chính trị lại kéo tới bao vây nơi ở mới và đòi “lôi Hạ Long ra phê đấu”. Thấy bọn tạo phản quá hung hăng, Tiết Minh đã 3 lần viết thư báo cáo tình hình với Thủ tướng Chu Ân Lai. Tuy nhiên tất cả các thư này đều không có hồi âm (sau này người ta được biết nó đã không đến được tay Thủ tướng Chu Ân Lai).
Tháng 3/1968, do tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, Hạ Long được chuyển đến một bệnh viện quân đội ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, thay vì được cứu chữa kịp thời, ông còn bị vu cáo tội danh "giả bệnh" và bị y tá mắng nhiếc.
Quá tức giận, ông đòi xuất viện và được điều trị ngoài. Cuối năm 1968, để che mắt, nhóm Giang - Lâm đã cắt cử y tá đến chăm sóc nhưng thực tế nhằm khống chế và tiếp tục bức hại Hạ Long.
Do đó, có thời gian mặc dù mắc bệnh nặng nhưng tất cả số thuốc được cấp phát trước đó đều được lệnh mang đi không để lại một viên, thậm chí thuốc thử bệnh tiểu đường cũng bị thu hồi.
ảnh minh họa
1. Vào ngày 6/12/1965, Hạ Long đột ngột nhận được thông báo: Lập tức tới Thượng Hải để tham gia hội nghị. Trong những lần trước, thông báo triệu tập hội nghị thường nói rõ nội dung, tuy nhiên lần này thì không. Cho tới khi đặt chân tới Thượng Hải, Hạ Long mới biết rằng, hội nghị lần này là để giải quyết vấn đề của La Thụy Khanh. Hạ Long và La Thụy Khanh, một người là phó chủ tịch phụ trách thường vụ quân ủy, một người là trưởng thư ký quân ủy, tổng tham mưu trưởng quân giải phóng Trung Quốc, công việc có mối liên hệ mật thiết, chắn chắn mối quan hệ cá nhân cũng không hề hời hợt.
Vì vậy, Hạ Long tuyệt đối không thể tin rằng một người trung thành
như La Thụy Khanh lại có mưu đồ chống lại Đảng. Bằng cảm giác thính
nhạy của mình, Hạ Long cảm thấy hội nghị lần này liên lụy tới cả mình.
Ở Thượng Hải, Hạ Long được sắp xếp ở một căn phòng nằm trên đường số 1 phố Hưng Quốc, cách không xa nơi ở của Lưu Thiếu Kỳ. Buổi tối đầu tiên của hội nghị, Lưu Thiếu Kỳ và vợ chồng Vương Quang tìm tới thăm. Lưu Thiếu Kỳ hỏi Hạ Long: “Sự việc có một chút đột ngột. Ông Hạ, ông là thường vụ quân ủy, việc này ông có biết trước không?”. Hạ Long nói: “Tôi cũng vừa mới biết”. Lưu Thiếu Kỳ lại hỏi Lý Tỉnh Tuyền - người đang ngồi ở phòng Hạ Long: “Còn ông, ông có biết việc này không?”. Lý Tỉnh Tuyền nói: “Tôi cũng không biết”. Lưu Thiếu Kỳ trầm lặng một lúc rồi nói: “Nếu nói như vậy, chúng ta không hề biết trước việc này rồi!”.
Ngày hội nghị thứ, chỉ có Diệp Quần - vợ của Lâm Bưu - và một số người khác do Lâm sắp xếp phát biểu. Khi từ hội nghị trở về, Hạ Long nói với vợ mình là Tiết Minh: “Hôm nay, một mình Diệp Quần nói luôn mấy tiếng đồng hồ. Bà ta nói bao nhiều điều xấu xa về La Thụy Khanh, nhiều chuyện nghe rõ là phi lý. Cậu xem những gì mà Diệp Quần nói, La Thụy Khanh có thể làm được không? Không, không thể nào. Tôi xem những gì Diệp Quần nói không tin được”.
Cho tới ngày thứ tư, Diệp Quần tới tìm Hạ Long. Diệp nói, Lâm Bưu rất quan tâm đến phó thủ tướng Hạ, nên bà ta thay mặt Lâm Bưu tới thăm. Hai ngày sau đó, Tiết Minh tới thăm Diệp Quần, Diệp nói lâu nay không dám qua chơi nhà họ Hạ là vì không biết tính tình của Hạ Long ra sao, rồi nói những chuyện trước đây Tiết Minh “nói xấu” mình, bà ta sẵn sàng bỏ qua, chỉ cần từ này về sau không nhắc tới nữa.
Tiết Minh nói: “Chuyện trước đây ra sao, cả tôi và chị đều hiểu rõ”. Diệp Quần vốn tên là Diệp Nghi Kính, còn gọi là Diệp Cẩn. Năm 1937, Diệp Cần từng làm phát thanh viên trong đài phát thanh của Quốc dân đảng, từng tham gia các cuộc diễn thuyết do đoàn Tam thanh của Quốc dân đảng tổ chức.
Vì vậy, vào năm 1942, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành đợt chỉnh đốn tác phong đảng viên, Tiết Minh từng khuyên Diệp Quần khai rõ với tổ chức những sự việc này. Tuy nhiên, Diệp Quần từ sau khi kết hôn với Lâm Bưu thì trở nên ngang ngược, không coi những lời của Tiết Minh ra gì. Tiết Minh không còn cách nào khác, đành đem mọi chuyện lên ban tổ chức của Trung ương để giải quyết. Cũng từ đó, Lâm Bưu và Diệp Quần luôn khắc cốt ghi tâm “mối hận” này. Diệp Quần nói những chuyện Tiết Minh trước kia “nói xấu” mình cũng là ám chỉ sự việc này.
Hai ngày sau đó, Diệp Quần lại nói với Tiết Minh: “Tôi cảnh báo với chị một vấn đề. Em trai của Lâm Nguyệt Cầm (vợ của nguyên soái La Vinh Hằng) là một đặc vụ Quốc dân đảng. Anh chị quan hệ với họ rất thân, lại còn đưa những văn kiện tối mật cho họ xem, giờ nói là anh chị thông đồng với Quốc dân đảng, e là khó mà nói cho rõ được”. Tiết Minh giải thích đó là một giấy tờ bình thường do một vị trong Bộ Chính trị nhờ đưa cho Lâm Nguyệt Cầm xem. Tuy nhiên, Diệp Quần không tin, coi đó là một sự ngụy biện.
Tiết Minh đem câu chuyện Diệp Quần nói với mình nói lại với chồng, Hạ Long nói: “Không thể xem thường những cuộc thăm viếng của Diệp Quần. Diệp Quần nói bà ta không nhớ gì đến chuyện trước đây, vậy thì sao lại cứ nhắc mãi tới chuyện đó?”. Tiếp đó, Hạ Long thở dài nói: “Có lẽ lần hội nghị này không hề đơn giản như thế, mục đích của họ có thể lớn hơn nhiều!”.
Hội nghị ở Thượng Hải diễn ra từ ngày 8 - 15/12, trong vòng 7 ngày, ngoài những lời buộc tội vô căn cứ, không đưa ra được bằng chứng xác thực nào về sự phản bội của nguyên soái La Thụy Khanh. Tuy nhiên, tại hội nghị ủy ban thường vụ quân ủy tổ chức ngay sau hội nghị này, đã quyết định bãi miễn chức vụ của La Thụy Khanh. Hạ Long cũng không còn được đảm nhiệm vai trò của một phó chủ tịch thường vụ quân ủy nữa.
2. Sau khi hội nghị ở Thượng Hải kết thúc, Hạ Long và Đổng Tất Vũ cùng tới Quảng Châu nghỉ ngơi. Tháng 3/1966, theo kế hoạch từ trước, Hạ Long tới Thành Đô thị sát khu công nghiệp gang thép Cây hoa gạo. Đây vốn là nhiệm vụ Mao Trạch Đông giao cho Hạ Long. Trong quá trình thị sát, Hạ Long cùng với các cán bộ công nhân nghiên cứu kế hoạch, thảo luận, giải quyết các vấn đề vướng mắc của công trình. Sau khi công việc thị sát hoàn tất, Hạ Long trở về tới Bắc Kinh thì đã là 9/4/1966.
Không lâu sau đó, một cuộc động loạn được gọi là “Đại cách mạng văn hóa” bắt đầu. Từ 4 - 26/5, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, phê phán những hành vi “phản đảng” của Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Quang Côn,… và đưa ra văn bản mang tính chỉ đạo cho cuộc động loạn kéo dài suốt 10 năm sau đó mang tên “Bản thông tri ngày 16/5”.
Sau đó, từ ngày 1 - 12/8, bắt đầu tổ chức hội nghị 11 khóa 8. Tại hội nghị, Mao Trạch Đông bóng gió phê phán Lưu Thiếu Kỳ “đứng trên lập trường tư sản phản động, thực hiện chuyên chính giai cấp tư sản”. Đồng thời, Mao Trạch Đông cũng viết thư cho Hồng vệ binh của Đại học Thanh Hoa, “nhiệt liệt ủng hộ” hành động của họ. Cuộc động loạn từ Bắc Kinh bắt đầu lan rộng ra toàn quốc.
Hạ Long là một người cực kỳ trung thành với Đảng Cộng sản và với Mao
Trạch Đông. Chỉ cần là quyết định của Trung ương, là chỉ thị của Mao
Trạch Đông thì bất kể hoàn cảnh nào, Hạ Long cũng nhất định chấp hành.
Tuy nhiên, Hạ Long làm cách nào cũng không thể lý giải nổi lý do vì sao
Mao Trạch Đông lại phát động cái gọi là “Đại cách mạng văn hóa” này.
Những cán bộ cách mạng cả đời hy sinh cho sự nghiệp của Đảng sau một đêm
bỗng trở thành những kẻ tư sản, những tướng quân hiển hách bỗng chốc
trở thành “phản đồ”, “đặc vụ”. Sự đảo lộn tới không ngờ của lịch sử
khiến Hạ Long không thể nào hiểu được.
Sau hội nghị lần thứ 11, Bộ Chính trị và Ban Bí thư trung ương liên tục mở các hội nghị sinh hoạt Đảng để giải quyết “vấn đề” của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Trước tình hình đó, Hạ Long cảm thấy vô lý và rất khó chịu. Một lần, Mao Trạch Đông hỏi Hạ Long: “Cậu đã phát biểu chưa?”, Hạ Long đáp: “Vẫn chưa phát biểu”.
Mao Trạch Đông lại hỏi: “Sao không nói?”, Hạ Long thật thà đáp: “Báo cáo chủ tịch, tôi vẫn chưa nâng nổi quan điểm!”. Không lâu sau đó, các hội nghị sinh hoạt Đảng không mở nữa. Hạ Long vui mừng thông báo cho những bạn bè tới thăm mình. Có người hỏi: “Sao lại không mở nữa?”. Hạ Long đáp rằng: “Tiếp tục mở hội nghị còn không được, huống hồ là nâng quan điểm”.
Trong thời gian này, Hạ Long bàn với Tiêu Hoa về Cách mạng văn hóa và làm cách nào để giải quyết vấn đề các cán bộ lão thành của Đảng. Hạ Long nói: “Cách mạng văn hóa rốt cuộc là cái gì? Theo như cách làm hiện nay thì giống như là một cuộc thanh trừ giai cấp trong nội bộ. Những cán bộ lão thành công tác hàng mấy chục năm, nhiều người xém chút còn bị địch giết. Họ thuộc giai cấp nào, chẳng lẽ Đảng không hiểu hay sao?”.
Trung tuần tháng 9, một cán bộ lãnh đạo bị quy là “phản đồ”, “tư sản” đã mang biên bản kiểm tra của họ tới cho Hạ Long xem. Ở cuối các bản kiểm tra đều có đề cập tới “đại bác tấn công Bộ Tư lệnh”. Hạ Long xem xong hỏi: “Vì sao lại đề xuất việc đại bác tấn công Bộ Tư lệnh? Lẽ nào anh thừa nhận mình là giai cấp tư sản trong Bộ Tư lệnh?”.
Hạ Long trước sau vẫn không tin rằng trong nội bộ Đảng lại tồn tại cái gọi là “Bộ Tư lệnh giai cấp tư sản”, cũng không tin rằng ở tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Đảng lại có người “đứng trên lập trường của giai cấp tư sản”, “thực hiện chuyên chính tư sản”. Ông càng không tin rằng có nhiều cán bộ lãnh đạo lại “đi theo con đường tư bản” đến như vậy. Có một hôm, Khang Sinh gặp Hạ Long, hỏi: “Anh có biết Dương Trực Lâm không?”.
Hạ Long đáp: “Tôi biết”. Khang Sinh nói: “Ông ta làm việc cho ngụy quân, là một phản đồ”. Hạ Long giật nảy mình, đáp: “Anh ấy không phản bội, là tổ chức cử anh ta đi”. Năm 1986, nhớ lại sự việc này, Dương Trực Lâm nói: “Thực sự, khi đó Chủ tịch Hạ Long đã lâm vào tình cảnh rất nguy hiểm, thế mà vẫn rất khẳng khái bảo vệ cho tôi”.
Tháng 10/1966, lại triệu tập hội nghị công tác. Sau khi hội nghị kết thúc, bắt đầu triển khai cuộc vận động “quét mọi trở ngại”, phê phán con đường phản động của giai cấp tư sản. Các trường quân đội cũng bắt đầu loạn lên. Một số lượng lớn các sỹ quan lẫn sinh viên trong các trường quân sự kéo về Bắc Kinh. Họ kết hợp với lực lượng “tạo phản” ở địa phương tấn công các căn cứ quân sự, cướp các tài liệu mật của quốc gia khiến các cơ quan quân sự gần như tê liệt. Ngày 13/11, tiểu tổ cách mạng văn hóa của quân ủy trung ương quyết định mở một hội nghị tại sân vận động công nhân ở Bắc Kinh, mời các vị nguyên soái có uy tín xuất hiện để dẹp yên tình hình.
Trong số những nguyên soái được mời tới, có Hạ Long. Thế nhưng đây cũng là lần cuối cùng Hạ Long được nói trước quần chúng và cũng là lần duy nhất, Hạ Long đăng đàn nói về cách làm thế nào để tham gia “Cách mạng văn hóa”. Từ khi cuộc Cách mạng văn hóa bắt đầu tới lần diễn thuyết này, Hạ Long vẫn không tin rằng trong nội bộ Đảng lại có hai “Bộ Tư lệnh”.
Hạ Long bảo vệ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, phản đối việc “làm phản một cách hợp lý”. Đương nhiên, việc Hạ Long và các vị nguyên soái diễn giảng về cách tham gia “Cách mạng văn hóa” đối ngược hoàn toàn với lập trường của bọn Lâm Bưu và Giang Thanh, cũng là phê phán âm mưu đoạt quyền trong động loạn của chúng, vì vậy, bọn chúng bắt đầu căm ghét và phản đối ông. Tuy nhiên, đây chưa phải là lý do duy nhất khiến Lâm Bưu tìm mọi cách bức hại Hạ Long cho tới chết.
3. Việc Lâm Bưu muốn đánh đổ Hạ Long vẫn còn một nguyên nhân rất sâu xa mà ít người được biết tới.
Mùa xuân năm 1942, Hạ Long tới Diên An nhận chức Tư lệnh Liên quân Biên khu Thiểm Cam Ninh. Một lần, Mao Trạch Đông và Hạ Long nói chuyện, bàn tới Lâm Bưu và nhắc tới hội nghị Tôn Nghĩa, nói Lâm Bưu ngoài mặt thì thừa nhận vị trí lãnh đạo của Mao Trạch Đông, tuy nhiên phía sau lưng thì bất mãn, thậm chí còn chửi mẹ chửi cha. Năm 1938, trong hội nghị Lạc Xuyên, Lâm Bưu không màng đến đại cục, không hề quan tâm tới kiến nghị để quân lại phòng ngự ở Biên khu Thiểm Cam Ninh của Mao Trạch Đông.
Trong thời kỳ kháng chiến, Lâm Bưu từng nói, đàm phán với Tưởng Giới
Thạch thì nên nói một vài lời dễ nghe… Cuộc trò chuyện giữa Mao Trạch
Đông và Hạ Long lần ấy sau này đã bị Lâm Bưu biết. Lại thêm năm 1937,
sau khi tham gia hội nghị Lạc Dương, khi trên đường trở về Sơn Tây, Lâm
Bưu từng viết cho Hạ Long một mẩu giấy nói, Tưởng Giới Thạch có ý định
chiến tranh tới cùng, khi trở về chúng ta có thể tiết lộ bí mật này. Tờ
giấy này sau đó bị một cảnh vệ của Hạ Long làm hỏng do mang đồ của Hạ
Long đi giặt.
Những việc này khiến Lâm Bưu hình thành một mối lo Hạ Long sẽ nói ra mọi chuyện. Sau khi Trung Quốc thống nhất, Hạ Long chiếu theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Trong suốt thời gian Hạ Long đảm nhiệm vai trò chủ tịch thường trực Quân ủy Trung ương, quân đội đạt được rất nhiều thành tích trên nhiều lĩnh vực.
Điều này khiến Lâm Bưu vô cùng bất mãn, sợ rằng nếu như Mao Trạch Đông cứ tiếp tục trọng dụng Hạ Long như vậy sẽ đe dọa địa vị của mình. Và Hạ Long sẽ trở thành một vật cản cực kỳ khó khăn đối với âm mưu đoạt quyền của Lâm Bưu. Trong một lần hội nghị, chính Lâm Bưu đã tiết lộ nguyên nhân thầm kín này. Lâm nói, y muốn đánh đổ Hạ Long là vì tính đến việc “sau khi Mao Chủ tịch qua đời”, sợ rằng Hạ Long sẽ “bắn pháo hô hào làm loạn”.
Năm 1959, sau khi Lâm Bưu đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhanh chóng cài cắm thân tín của mình vào các cơ quan hải quân, không quân rồi hãm hại những cán bộ bất đồng ý kiến với mình. Sau khi “Các mạng văn hóa” nổ ra, những thân tín của Lâm Bưu tại hai đơn vị này đã thừa cơ đoạt quyền.
Ngày 28/8, Lâm Bưu cho gọi Ngô Pháp Hiến tới nói: “Hạ Long có dã tâm, khắp nơi chọc tay vào, từ Bộ Tổng tham mưu tới hải quân, không quân rồi các học viện chính trị, đâu đâu cũng thấy mặt lão. Không quân là miếng thịt béo, ai chẳng muốn ăn, anh phải cẩn thận không lão cướp quyền của anh”. Sau đó, Lâm Bưu ra lệnh cho Ngô trở về viết báo cáo tình hình Hạ Long “tham gia” vào công việc của không quân ra sao.
Tới ngày 2/9, Lâm Bưu gọi điện cho Lý Tác Bằng nói: “Anh phải chú ý Hạ Long, Hạ Long thực tế là kẻ đứng phía sau La Thụy Khanh. Hắn kéo một đống người chống lại ta. Quân ủy sẽ nhanh chóng triển khai hội nghị giải quyết vấn đề của hắn. Anh mau mau viết tài liệu báo cáo về vấn đề này”.
Trước thời điểm này, một số nhân viên của Ban ngoại vụ của Bộ Tổng tham mưu đề nghị tạm thời không cho phép các cán bộ lãnh đạo tham gia các hoạt động ngoại vụ. Kiến nghị của họ bị Tham mưu đảng ủy phản đối tuy nhiên, Trung ương lại đồng ý. Vì vậy, họ vui mừng đến Tham mưu đảng ủy để “báo tin mừng”. Bộ Tham mưu tác chiến phân cán bộ viết báo chữ to để biểu thị ủng hộ. Vương Thượng Vinh - Bộ trưởng tham mưu tác chiến - cũng bị buộc phải ký tên.
Lâm Bưu biết vậy liền chớp ngay cơ hội này vu cáo đây là hành động cướp quyền. Sau đó, vì Vương Thượng Vinh từng có thời gian làm việc dưới quyền của Hạ Long nên Lâm Bưu lại vu cáo nói rằng, Vương Thượng Vinh nhận chỉ thị của Hạ Long. Đây là chứng cứ Lâm Bưu dùng để chỉ ra rằng Hạ Long đang âm mưu đoạt quyền và yêu cầu thân tín của mình “nhanh chóng viết báo cáo”. Không chỉ có vậy, tại khắp các binh chủng khác, Lâm Bưu đều tìm mọi cách để làm những bằng chứng giả vu cáo Hạ Long.
4. Tuy nhiên, Lâm Bưu biết rằng, muốn đánh đổ Hạ Long thì cần phải tạo nên một bằng cớ ngay tại vấn đề được coi là “kị húy” nhất. Vì vậy, Diệp Quần đã chỉ đạo cho trưởng ban bảo vệ văn phòng Quân ủy Trung ương Tống Trị Quốc viết một báo cáo vu khống Hạ Long.
Báo cáo viết: “Hạ Long có một khẩu súng ngắn được chế tạo rất tinh vi. Buổi tối ngủ thường để súng dưới gối, khi ra ngoài thì thường mang theo. Tuy nhiên, hai tháng gần đây, súng của Hạ Long không còn đặt dưới gối mà ra đường cũng không mang theo nữa. Sau đó, có người mật báo rằng, cây súng của Hạ Long từ khi Cách mạng văn hóa bắt đầu đều để ở chỗ con gái của Đổng Tất Vũ, đang sống ở Trung Nam Hải để tiện cho Hạ Long khi có hội nghị ở Hoài Nhân Đường thì dùng để ám sát Mao Chủ tịch”.
Lời vu cáo trắng trợn này nhanh chóng được lan truyền. Đổng Tất Vũ đã vì những lời vu cáo này quát mắng con gái mình. Con gái Đổng kinh ngạc nói: “Những lời hoang đường này cha nghe được từ đâu? Cây súng đó không phải là bác Hạ Long để ở chỗ con mà là khi con và một số bạn nam khác tới nhà bác ấy chơi, thì bác ấy đưa cho con để làm đồ chơi. Nhưng đó là chuyện từ năm 1957”.
Để nói rõ việc này, con gái của Đổng Tất Vũ đã vội vàng tìm trong rương của mình khẩu súng cũ giao cho các cơ quan hữu quan. Những người kiểm tra súng phát hiện cò súng không kéo được, dùng hết sức bóp thì mới dịch được một chút. Những người kiểm tra súng đều nói: “Súng này có thể dùng để ám sát người được không?”.
Tuy nhiên, Lâm Bưu vẫn đem những bức thư vu cáo này đưa cho Lý Tác Bằng và Ngô Pháp Hiến để viết báo cáo gửi cho Mao Trạch Đông. Buổi trưa ngày 5/9, trong phòng nghỉ của bể bơi ở Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đem bức thư vu cáo của Ngô Pháp Hiến đưa cho Hạ Long. Hạ Long xem xong hỏi: “Tôi có cần tìm Ngô Pháp Hiến nói chuyện không?”.
Mao Trạch Đông nói: “Có việc gì mà nói? Anh không lo, tôi sẽ làm phái bảo hoàng cho anh”. Hạ Long không ngờ, sau cuộc nói chuyện với Mao Trạch Đông chỉ ba ngày, trong một cuộc hội nghị, Lâm Bưu đã đề nghị mọi người phải đề cao cảnh giác với âm mưu đoạt quyền của Hạ Long.
Tối ngày 9/9, Mao Trạch Đông đã cho bí thư của mình là Từ Diệp Phu gọi điện cho Hạ Long, nói: “Sau khi Lâm Bưu và một số đồng chí làm việc, sự việc đã kết thúc. Anh có thể đi thăm và xin ý kiến của một số đồng chí có liên quan”. Nửa đời người lăn lộn súng đạn, Hạ Long coi khinh nhất là loại người lén lút sắp đặt âm mưu phía sau, vì vậy nhận được điện thoại, tức giận nói: “Có gì thì đặt lên bàn nói! Cứ lén lén lút lút phía sau lưng như thế thì còn ra gì!”. Tuy nhiên, Hạ Long vẫn nghe theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, tìm tới gặp Lâm Bưu để xin ý kiến.
Khi tới gặp Lâm Bưu, Lâm nói: “Đồng chí Hạ, tôi không có ý kiến gì về anh”. Hạ Long nói: “Không, Lâm phó chủ tịch chắc là có một chút ý kiến chứ”. Lâm Bưu ngừng một lát rồi nói: “Nếu như nói, chỉ có một điểm này thôi. Đó là vấn đề của anh lớn hay nhỏ phụ thuộc vào việc anh ủng hộ ai, phản đối ai”.
Hạ Long nghe Lâm Bưu uy hiếp thì cười nói: “Phó chủ tịch Lâm, đồng chí cũng biết tôi lăn lộn gần một đời, tôi ủng hộ ai, phản đối ai, chẳng lẽ không rõ!”. Hai người ngay câu đầu tiên đã không hợp nhau, nên Hạ Long đành đứng dậy ra về. Sau lần nói chuyện này, Lâm Bưu biết rằng kế hoạch vu cáo mà y dày công sắp đặt không thể đạt được mục đích là “khống chế” Hạ Long. Vì vậy, một âm mưu mới tàn độc và thâm hiểm hơn lại được bè lũ của Lâm Bưu bắt đầu sắp đặt để hãm hại vị nguyên soái trung thành Hạ Long.
đăng bởi: phunutoday
-Hết nạn đày đọa thanh trừng thì đến nạn thoái hóa, biến chất! Ngày nay, còn bao nhiêu người cộng sản vẫn hoạt động quên mình vì chủ nghĩa cộng sản, vì nhân dân phục vụ?
-Danh lợi, khi hết thơm rồi thì thối quá chừng!
-Ôi, khai quốc công thần! Ôi, đấu tranh giai cấp! Ôi, chuyên chính vô sản! Ôi, "định hướng XHCN"!
-Im lặng trước tà ác, chính là ủng hộ cho nó. Có một câu danh ngôn của Napoleon: “Thế giới chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của kẻ xấu mà là vì sự im lặng của những người tốt”!
-Bắt chước Putin: "Ai mãi đi theo CNCS, người đó không có trí não, ai khước từ lòng tốt của nó, người đó không có trái tim!".
----------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những ngày tháng bi thương cuối cùng của Nguyên soái Hạ Long
16:15 18/07/2008
Trong 10 năm diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa (1966-1976) bè
lũ phản động Lâm Bưu - Giang Thanh đã gây ra vô vàn cái chết oan thê
thảm không những chỉ với dân thường, mà còn đối với rất nhiều các vị
tướng soái uy danh lừng lẫy của Trung Quốc. Một trong số đó là Nguyên
soái Hạ Long.
Nguyên soái Hạ Long (trái) và Mao Trạch đông. |
Tháng 8/1927 là Tổng chỉ huy quân khởi nghĩa trong cuộc khởi nghĩa Nam Xương nhằm chống lại sự phản bội của Tưởng Giới Thạch. Cùng năm đó Hạ Long gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Trong cuộc nội chiến lần thứ nhất (1927-1936) từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban Cách mạng kiêm Tư lệnh Quân khu Tương Ngạc Xuyên Kiềm (tức 4 tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên và Quý Châu), Tổng chỉ huy Phương diện quân số 2 của Hồng quân.
Năm 1935, Hạ Long tham gia Vạn lý Trường chinh (tức cuộc chuyển quân chính quy của Hồng quân từ Giang Tây lên Thiểm Tây để tránh bị quân Tưởng vây đánh và để chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Nhật).
Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai (1937-1946) để cùng nhau chống Nhật, Hạ Long là Sư trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 120 của Bát Lộ quân (tức Hồng quân đổi tên). Năm 1942, được điều về Diên An làm Tư lệnh Liên quân Biên khu Thiểm Cam Ninh. Sau khi Nhật đầu hàng, Hạ Long từng giữ các chức: Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Thành phố Tây An.
Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa thành lập, Hạ Long trở thành Phó chủ tịch Quân ủy TW, Phó thủ tướng Chính phủ, Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục thể thao TW (TDTTTW). Tới tháng 9/1955, được phong hàm Nguyên soái. Tại Hội nghị TW lần thứ 8 (1956) ông trở thành Ủy viên Bộ Chính trị.
Từ năm 1959 là Phó chủ tịch thường trực Quân ủy TW, Chủ nhiệm Ủy ban Công nghiệp quốc phòng. Dưới sự chỉ đạo của Hạ Long, quân đội TQ đã có những bước tiến rất to lớn trên con đường chính quy hiện đại. Ban Chấp hành ĐCS Trung Quốc, Chính phủ nước CHND Trung Hoa và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã hết lời ca ngợi công lao của Hạ Long.
Gia đình Nguyên soái Hạ Long. |
Theo kết luận của Cơ quan điều tra TQ công bố vào năm 1980 thì âm mưu hãm hại Hạ Long của Lâm Bưu đã hình thành từ năm 1942. Năm đó Hạ Long được điều động về Diên An (nơi đóng đại bản doanh của ĐCS TQ) làm Tư lệnh Biên khu Thiểm Cam Ninh. Trong một lần nói chuyện với Hạ Long, Mao Trạch Đông đánh giá Lâm Bưu là kẻ thực hành thủ đoạn “lá mặt lá trái”: bên ngoài thì ủng hộ nhưng sau lưng thì luôn tỏ thái độ bất mãn, thậm chí chửi bới và nhục mạ sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông.
Biểu hiện rõ nhất là vào năm 1938, Lâm Bưu đã công khai phản đối kế hoạch tập trung binh lực của Mao Trạch Đông nhằm bảo vệ biên khu Thiểm Cam Ninh, chống lại sự tấn công của Nhật. Trong thời gian kháng Nhật, Lâm Bưu đã muốn câu kết với Tưởng, gọi Tưởng là “sư phụ”, và tự xưng là “học trò” v.v...
Nội dung cuộc nói chuyện này sau đó đã tới tai Lâm Bưu, khiến Lâm đứng ngồi không yên. Thêm nữa, vào năm 1937 sau khi tham gia Hội nghị Lạc Dương, trên đường trở về Sơn Tây, Lâm đã tự tay viết cho Hạ Long một bức thư ca ngợi Tưởng Giới Thạch “là người có lòng quyết tâm kháng Nhật đến cùng”, đồng thời đề nghị Hạ Long khi về tới đơn vị của mình “hãy nói cho mọi người biết về điều này”. (Đáng tiếc là bức thư này sau đó, do người lính cần vụ đã không để ý khi giặt áo cho Hạ Long làm nát mất).
Tất cả những điều đó khiến Lâm Bưu lo sợ, vì vậy Lâm đã âm thầm tìm mọi cách hãm hại Hạ Long để “giết người diệt khẩu”... Lâm cho rằng “Hạ uy hiếp trực tiếp tới sự an toàn và địa vị”, “là vật cản lớn nhất trên con đường đoạt quyền” của Lâm.
Thời cơ bắt đầu đến khi Lâm trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng TQ vào năm 1959. Ngay sau khi có quyền trong tay, Lâm tiến hành cài cắm hàng loạt những tay chân thân tín của mình vào nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các binh chủng Hải, Lục, Không quân, đồng thời thực thi các cuộc thanh trừng nhằm vào những người không ăn cánh. Khi Cách mạng văn hóa bùng nổ vào cuối năm 1965 đầu năm 1966 thì tay chân của Lâm đã nắm giữ hầu hết các cương vị chủ chốt trong quân đội TQ, đặc biệt là binh chủng Không quân do Ngô Pháp Hiến làm Tư lệnh và Hải quân do Lý Tác Bằng làm Tư lệnh, đây là hai tay chân “thân tín nhất” của Lâm (bọn này đã bị Pháp viện tối cao TQ tuyên án tử hình vào năm 1981).
Đòn đầu tiên Lâm Bưu nhằm vào Hạ Long là chỉ đạo hai tên Ngô, Lý tạo ra vô số những tài liệu giả, vu cho Hạ Long đứng đầu cái gọi là “tiểu tập đoàn phản Đảng”, “phần tử xét lại tay chân La Thụy Khanh” bao gồm rất nhiều những cán bộ cao cấp trong quân đội TQ không theo Lâm. Nhưng âm mưu này của Lâm và phe cánh đã không thành. Ngày 7/7/1966, Quân ủy TW dưới sự chủ trì của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đã ra nghị quyết nhấn mạnh “Những hoạt động bè phái, gây chia rẽ của Lý Tác Bằng, Ngô Pháp Hiến và những người khác phải bị lên án”.
Biết không thể địch được Hạ Long, Lâm Bưu đã sai vợ là Diệp Quần chạy tới chỗ Giang Thanh “nhờ đồng chí Giang chỉ bảo và giúp đỡ”. Lúc này Giang là thành viên Tiểu tổ Cách mạng văn hóa Trung ương, uy thế ngất trời. Trong thâm tâm Giang cũng vốn có mối hận thù với “các khai quốc công thần”, những người đã quá hiểu Giang là ai ngay từ khi Giang tới Diên An vào năm 1937. Khi Giang lấy Mao Trạch Đông thì rất nhiều cán bộ cao cấp, trong đó có Hạ Long, phản đối cuộc hôn nhân này. Sau đó dù đành nhượng bộ, nhưng “chính các vị này” đã có hẳn một nghị quyết “cấm Giang không được nắm giữ bất kỳ chức vụ gì của Đảng và Nhà nước”.
Với Giang, Cách mạng văn hóa là cơ hội trời cho để thanh toán các mối hận bấy lâu nay, trước hết là dẹp tan “các vị khai quốc công thần” nhằm dọn đường cho Giang leo lên những địa vị cao. Vì thế khi được Diệp Quần nói lại những mong muốn của Lâm Bưu, Giang mừng như bắt được vàng và hứa hẹn “sẽ cùng Lâm Nguyên soái đánh đổ hết bọn xét lại, bọn ngưu quỷ xà thần yêu ma quỷ quái”.
Nhận được sự đảm bảo từ Giang, Lâm Bưu điên cuồng đẩy nhanh những hoạt động nhằm hãm hại Hạ Long. Lâm hạ lệnh cho tay chân của y ở Tổng cục Hậu cần, Binh chủng Thiết giáp, Học viện Chính trị, Ủy ban TDTTTW v.v... tạo ra vô số tài liệu và chứng cứ giả, hình thành một chiến dịch rầm rộ vu cáo Hạ Long. Tuy nhiên, Lâm Bưu biết rằng muốn “đánh đổ” được Hạ Long thì những điều trên là chưa đủ, mà cần phải có “cái gì đó” để ly gián mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông với Hạ Long.
Và cách mà Lâm Bưu lựa chọn là tìm cách ghép Hạ phạm vào “điều đại kiêng kị” , đó là “âm mưu hãm hại Mao Chủ tịch nhằm đoạt quyền”. Một lần nữa Lâm Bưu lại trao việc này cho Diệp Quần.
Chẳng khó khăn gì Diệp Quần cũng tìm ra được người thực hiện âm mưu thâm độc của chồng, đó là Ngô Trị Quốc. Quốc nguyên là Trưởng đội cảnh vệ trực thuộc Văn phòng Quân ủy, kẻ đã nhiều lần bị Hạ Long nhắc nhở về tác phong và tinh thần làm việc, sau đó đã bị chuyển sang bộ phận khác. Diệp Quần xúi Quốc viết đơn tố cáo Hạ Long là: “Đã tự ý chiếm làm của riêng một khẩu súng ngắn rất hiện đại nhập khẩu từ nước ngoài, buổi tối khi đi ngủ thì giấu ngay dưới gối, ban ngày thì luôn mang theo người.
Hai tháng gần đây Hạ Long đã giấu khẩu súng này dưới gối của con gái của Đổng Tất Võ ở trong Trung Nam Hải với âm mưu dùng nó để ám sát Mao Chủ tịch khi có cơ hội”.
Sau khi được biết điều này, Đổng Tất Võ đã lập tức có cuộc nói chuyện nghiêm khắc với con gái, khiến cô con gái hết sức kinh ngạc: “Thưa cha, chuyện kỳ quặc này ở đâu ra vậy? Khẩu súng này không phải do Hạ Tư lệnh để ở trong phòng của con. Nguyên do là cách đây đã rất lâu có lần con và một số bạn đến chơi với Hạ Hiểu Minh (con gái Hạ Long), Hạ Tư lệnh đã cho con khẩu súng này để chơi, vì nó đã không thể sử dụng được nữa. Con nhớ là việc này xảy ra từ năm 1957, chứ đâu phải cách đây 2 tháng”.
Sau đó cô con gái của Đổng Tất Võ lấy khẩu súng để trong tủ của mình suốt hơn 10 năm cho bố để bố chuyển tới cơ quan chuyên môn. Tiến hành kiểm tra, người ta phát hiện ra rằng súng không hề có đạn, các bộ phận như quy lát, cò súng đều đã bị han gỉ, không thể hoạt động. Các nhân viên kiểm tra đã phải cười to: “Khẩu súng này chỉ là đồ chơi của trẻ con, không thể sử dụng được”.
Tuy nhiên, Lâm Bưu vẫn bám chặt vào việc này và lớn tiếng “đây đúng là âm mưu muốn làm phản của Hạ Long” và đã trình lên cho Mao Trạch Đông những “bản báo cáo mật” do Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng viết để “chứng minh âm mưu muốn ám sát Chủ tịch Mao của Hạ Long là có thật”.
Buổi sáng ngày 5/9/1966, tại phòng nghỉ của bể bơi trong Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đã đưa “bản báo cáo” của Ngô và Lý cho Hạ Long xem. Sau khi xem xong, Hạ Long hỏi Mao Trạch Đông: “Tôi có cần gặp Ngô, Lý để nói cho ra nhẽ không?”, thì Mao Trạch Đông đã nói: “Có gì cần phải nói với họ cơ chứ. Đồng chí không cần phải bận tâm với bọn họ làm gì, tôi chính là “phái bảo hoàng” của đồng chí” (ý muốn nói “Tôi luôn là người đứng về phía đồng chí”). Sau đó hai người đã nói chuyện với nhau về sự nghiệp cách mạng, về lòng yêu nước của Tôn Trung Sơn cũng như nhiều chuyện khác. Cuộc nói chuyện kéo dài rất lâu và thân mật.
Nhưng Hạ Long không ngờ rằng, đó là lần nói chuyện cuối cùng giữa hai người, bởi chỉ 3 ngày sau đó do tác động của Giang Thanh, Hạ Long đã buộc phải “gặp Lâm Bưu để nói chuyện”. Khi gặp Lâm Bưu, Hạ Long đã nói rõ nguyên nhân tại sao có cuộc gặp này, thì Lâm Bưu trả lời: “Với Hạ lão tổng, tôi không hề có ý kiến gì”, nhưng sau đó Lâm nói thêm: “Vấn đề của Hạ lão tổng có thể là lớn, cũng có thể là nhỏ, nhưng quy lại chỉ có một vấn đề, đó là từ nay về sau nên ủng hộ ai, phản đối ai”.
Hạ Long nghe xong thì cười to, rồi trả lời: “Lâm lão tổng, tôi tham gia cách mạng đã bao năm nay, ủng hộ ai, phản đối ai chẳng lẽ Lâm lão tổng còn chưa biết hay sao?”. Rồi Hạ Long nói lời từ biệt và nhanh chóng rời khỏi tư dinh của Lâm Bưu.
Thực hiện âm mưu đã được bàn soạn, cuối năm 1966, Lâm Bưu và Giang Thanh đã xúi giục và cổ vũ cho “phái tạo phản” ở Ủy ban TDTTTW phải “tập trung đánh đổ Hạ Long”.
Vẫn sử dụng chiêu thức như đã từng áp dụng với rất nhiều người khác, chúng cho các “tiểu tướng Hồng vệ binh” tới bao vây nơi ở của gia đình Hạ Long, thay nhau suốt ngày đêm hô khẩu hiệu, đánh thanh la trống mõ, khiến Hạ Long và những người trong gia đình không lúc nào được yên.
Trước tình hình đó, ngày 26/12/1966 Chu Ân Lai đã nói với Hạ Long: “Sức khỏe của đồng chí đang có vấn đề, bây giờ bọn tạo phản lại suốt ngày gây chuyện ầm ĩ, nếu cứ kéo dài như thế này thì rất nguy hiểm. Ban Tổ chức TW đã quyết định đồng chí hãy tạm chuyển tới Tân Lục sở. Mọi chuyện khác trong nhà đã có tôi lo”.
Nhưng sau khi Hạ Long và vợ là Tiết Minh chuyển tới Tân Lục sở không lâu thì “phái tạo phản” của Học viện Chính trị lại kéo tới bao vây nơi ở mới và đòi “lôi Hạ Long ra phê đấu”. Thấy bọn tạo phản quá hung hăng, Tiết Minh đã 3 lần viết thư báo cáo tình hình với Thủ tướng Chu Ân Lai. Tuy nhiên tất cả các thư này đều không có hồi âm (sau này người ta được biết nó đã không đến được tay Thủ tướng Chu Ân Lai).
(Xem tiếp ANTG số 773, thứ Tư ra ngày 16/7/2008)
Nguyễn Tiến Cử(Theo Tân Văn ngọ báo)
Được
cả Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai bảo vệ nhưng nguyên soái Hạ Long vẫn
không thoát khỏi "nanh vuốt" nhóm Giang Thanh - Lâm Bưu. Cho tới tận khi
chết, ông vẫn ngậm nỗi hàm oan.
Đầu
năm 1942, Hạ Long được điều về Diên An - cái nôi khởi nghĩa của đảng
cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) - nhậm chức Tư lệnh Biên khu Thiểm Cam Ninh.
Trong
một lần nói chuyện với Hạ Long, Mao Trạch Đông nhận xét Lâm Bưu - trong
thời kỳ cách mạng văn hóa giữ chức Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng - là kẻ hai mặt, bên ngoài thì ủng hộ nhưng sau lưng lại ngấm
ngầm chống đối Mao.
Trước
đó năm 1937, trên đường trở về Sơn Tây từ Hội nghị của Ủy ban thường vụ
trung ương ĐCSTQ ở Hà Nam, Lâm Bưu đã tự tay viết cho Hạ Long một bức
thư yêu cầu Hạ Long kêu gọi đơn vị của mình ủng hộ Tưởng Giới Thạch.
Tuy
nhiên, bức thư này đã bị người cảnh vệ vô tình làm nát khi giặt áo cho
Hạ Long. Những việc trên khiến Lâm Bưu nơm nớp lo sợ Hạ Long sẽ tiết lộ
mọi chuyện.
Đặc
biệt, sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập năm 1949, Hạ Long lại
càng nhận được sự trọng dụng của Mao Trạch Đông. Điều đó khiến Lâm Bưu
bất mãn, lo sợ Hạ uy hiếp trực tiếp tới địa vị của mình.
Đến
năm 1959, ngay khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Lâm
đưa thân tín nắm giữ hàng loạt các cương vị chủ chốt trong quân đội và
tiến hành các cuộc thanh trừng nhằm vào những người không theo phe cánh.
Nguyên soái Hạ Long
Năm
1966, khi cách mạng văn hóa bùng nổ thì người của Lâm đã nắm giữ hầu
hết các cương vị chủ chốt nổi bật là Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến và
Tư lệnh Hải quân Lý Tác Bằng. Hai người này sau đã bị kết án 17 năm tù
vào năm 1981.
Hạ Long (1896 - 1969), tên thật là Hạ Văn Thường, quê ở Hồ Nam.
Ông là một trong những người sáng lập và lãnh đạo chủ chốt của lực lượng quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Hạ Long là một trong 10 đại nguyên soái nổi tiếng Trung Quốc và từng giữ chức Phó thủ tướng Quốc vụ viện giai đoạn 1954 - 1965.
Nguyên soái Hạ Long và vợ - bà Tiết Minh (1916 - 2011)
Nhằm
tiêu diệt "hòn đá cản đường" Hạ Long, Lâm Bưu đã chỉ đạo cho Ngô Pháp
Hiến và Lý Tác Bằng tạo tài liệu giả, vu cáo Hạ Long có dã tâm lớn và có
âm mưu làm phản, tranh quyền đoạt vị.
Tuy nhiên, âm mưu này đã thất bại, Lâm liền bắt tay với Giang Thanh - vợ Mao Trạch Đông hòng tiếp tục lập mưu hãm hại Hạ Long.
Lúc
này Giang là thành viên Tiểu tổ Cách mạng văn hóa. Đây vừa hay là cơ
hội giúp Giang thanh toán các mối hận bấy lâu nay vừa để dọn đường cho
Giang leo lên những địa vị cao.
Lâm
- Giang tạo ra vô số tài liệu và chứng cứ giả, hình thành một chiến
dịch rầm rộ vu cáo Hạ Long. Hai người này cố tình khép Hạ Long vào tội
"âm mưu ám sát Mao Trạch Đông bằng một khẩu súng ngắn được giấu trong
Trung Nam Hải" và gửi bản cáo trạng lên Mao.
Ngày
5/9/1966, tại phòng nghỉ của bể bơi trong Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông
đã đưa bản cáo trạng trên cho Hạ Long xem và bày tỏ sự tin tưởng vào
lòng trung thành của vị nguyên soái.
Nhưng
Hạ Long không ngờ rằng, đó là lần nói chuyện cuối cùng giữa hai người,
bởi chỉ 3 ngày sau đó do tác động của Giang Thanh, Hạ Long đã buộc phải
"gặp Lâm Bưu để nói chuyện". Ngay sau khi Hạ rời đi, Giang - Lâm chính
thức thực hiện bước tiếp theo của kế hoạch.
Hạ Long và Chủ tịch Mao Trạch Đông (1893 - 1976)
Hạ
Long vô cùng tức giận muốn đi gặp nhóm Giang - Lâm nhưng bị cản lại. Vợ
ông - bà Tiết Minh đành phải đi nhờ sự giúp đỡ của Thủ tướng Chu Ân
Lai. Chu đã đưa vợ chồng Hạ đến sống ở nhà mình trong Trung Nam Hải.
Nhưng nhóm Giang - Lâm tiếp tục làm căng khiến Hạ Long bắt buộc phải rời Trung Nam Hải.
Tháng
1/1967, Chu đích thân cử người đưa vợ chồng Hạ Long ra vùng ngoại ô và
bảo vệ nghiêm ngặt. Hai vợ chồng nguyên soái sống ở một căn nhà dưới
chân núi cùng vài người lính cảnh vệ.
Chẳng
được bao lâu, hoạt động đấu tố dưới sự chỉ đạo của nhóm Giang - Lâm
ngày càng phát triển, "tội danh" của Hạ Long cũng vì thế mà không ngừng
"nâng cấp".
Trước sự vu cáo Hạ Long dồn dập của Giang - Lâm, Mao Trạch Đông bắt đầu dao động. Đến
đầu tháng 9/1967, Lâm Bưu chỉ đạo cho vợ mình là Diệp Quần đề cập đến
việc lập chuyên án thẩm tra Hạ Long tại một hội nghị trung ương và nhận
được sự tán thành nhất trí của nhóm Giang Thanh.
Ngày 13/9, Mao Trạch Đông phê chuẩn bản báo cáo thành lập tổ chuyên án thẩm tra Hạ Long.
Ngày
22, nhóm Giang - Lâm bắt đầu tiến hành công kích và vu cáo Hạ Long là
"đao phủ" hoặc "thổ phỉ". Đặc biệt, sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố,
không đứng ra bảo vệ nguyên soái này vì những âm mưu tạo phản, nhóm
Giang - Lâm đã nhân cơ hội bắt giữ và giám sát ông.
Khoảng
cuối năm 1968, nhóm Giang - Lâm đã tăng cường thẩm tra với ý đồ hoành
thành định tội danh đối với nguyên soái, nhằm ngăn chặn ông tham gia Hội
nghị trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc đảng cộng sản Trung Quốc diễn ra
cùng năm.
Tổ
chuyên án muốn tiến hành đấu tranh khai thác trực tiếp Hạ Long nhưng
Giang - Lâm có tật giật mình nên chột dạ. Họ biết ông rất khảng khái,
không chịu cúi đầu nên chuyển qua hình thức đấu tranh khai thác gián
tiếp.
Ngày
18/9/1968, Hạ Long bất ngờ nhận được một bức thư của Văn phòng quân ủy
trung ương, thực chất đây là thư của tổ chuyên án yêu cầu ông giao nộp
chứng cứ phạm tội.
Hạ
Long tức tối quẳng thư xuống mặt bàn, gào lên chửi tục: "Xử bắn hết
chúng cho tôi! Vu cáo, hoàn toàn là vu cáo! Lũ khốn, lũ này việc gì cũng
dám làm hết".
Hạ lúc này giống như một con sư tử bị kích động, cả ngày tức giận, gào thét, đi lại trong phòng.
Mấy
ngày liền cơn giận dường như vẫn chưa nguôi, ông không ngừng đi lại, có
khi đang đi lại đột nhiên ngồi xuống bên bàn, giở nhật ký ra viết hai
chữ "oan uổng".
"Bọn chúng muốn tôi ký tên điểm chỉ thì tôi viết hai chữ này. Muốn bắn chết tôi, tôi sẽ gào lên 'oan uổng'", Hạ lẩm bẩm.
Sau
đó, khi đã bình tĩnh lại, ông dự định sẽ dùng sự thật để lật mặt nhóm
Giang - Lâm. Bà Tiết Minh khi đó đã ghi chép lại tường tận những hồi ức
về cách mạng của ông với hi vọng sẽ trao cuốn sổ này đến tay Mao Trạch
Đông.
Tổ
chuyên án nhìn thấy cuốn sổ ghi chép này đã vô cùng hoảng sợ. Khi báo
cáo lên Mao, họ chỉ làm một bản tóm tắt ngắn với nhận xét: "Hạ Long dối
trá, tự mãn về bản thân".
Tại
Hội nghị toàn thể lần thứ 12 khóa 8 diễn ra vào tháng 10/1968, Mao
Trạch Đông một lần nữa tuyên bố "không tiếp tục bảo vệ Hạ Long nữa".
Sau
hội nghị, tổ chuyên án tiếp tục vu cáo Hạ Long "bắt tay với nhóm Tưởng
Giới Thạch". Tổ này còn đi tìm người thân, chiến hữu của Hạ Long, tra
tấn và ép họ ngụy tạo thông tin phản bội của Hạ.
Hạ Long và thủ tướng Chu Ân Lai
Từ đó, họ tiến hành tăng cường các phương pháp đấu tố khủng khiếp đối với vợ chồng nguyên soái Hạ Long.
Năm
1967, nhóm Giang - Thanh bắt đầu viện cớ có người muốn bắt vợ chồng Hạ
Long nên giam lỏng hai vợ chồng ông trong một căn phòng tối và mang toàn
bộ chăn ga, gối màn ra ngoài khiến vợ chồng ông chỉ có thể ngủ trên
chiếc phản trống trơn và dùng tay làm gối.
Thức
ăn cũng càng ngày càng ít và trộn nhiều cát sỏi. Vợ chồng ông chỉ còn
cách lấy gạo từ nhà bếp về tự nhặt cát sỏi bỏ đi. Ngay cả đến nước, có
khi hơn 40 ngày họ cũng không cho đến một giọt.
Nguyên
soái Hạ Long (thứ 4, từ phải qua) trong hội nghị đấu tố năm 1966.
Đến
mùa hè nóng như thiêu như đốt, trong phòng lại che rèm kín như bưng
khiến vợ chồng Hạ Long đầm đìa mồ hôi nhưng mỗi ngày, họ cũng chỉ cho
hai vợ chồng ông một bình nước nhỏ.
Đặc
biệt, với một người già 71 tuổi và mắc bệnh tiểu đường như Hạ Long,
lượng nước này chẳng đáng là bao. Để tích trữ lượng nước quý giá này, vợ
chồng nguyên soái không dám rửa mặt hay súc miệng mà chỉ khi nào thật
khát họ mới dám uống một ngụm nhỏ.
Do
đó, mỗi ngày hai ông bà chỉ dám mở hé rèm mong trời mưa. Khi trời mưa,
hai ông bà hồ hởi mang hết những vật dụng trong phòng ra hứng nước mưa.
Có lần, vì mưa trơn, Hạ Long đã bị trượt chân ngã nằm liệt giường hơn tháng, dẫn đết kiết lỵ.
Do
không có bác sĩ nên bà Tiết Minh đành ngậm nước xà phòng, thông qua ống
cao su rửa ruột cho ông. Kết quả, miệng bà cũng bị nước xà phòng ăn
mòn.
Đặc
biệt, đến khoảng mùa thu năm 1967, sau khi vợ chồng ông bị công khai
đấu tố và bị cắt đứt mọi quan hệ với Chu Ân Lai, thủ đoạn bức hại của
nhóm Giang - Lâm càng trở nên tàn bạo hơn.
Đầu
tiên, họ bị đổi chỗ ở và tăng cường giám sát. Họ ép ông bà chuyển từ
căn nhà bên chân núi do Thủ tướng Chu Ân Lai sắp xếp trước đó chuyển
sang khu vực khác. Tại đây, nhất cử nhất động của ông bà đều nằm trong
tầm mắt của nhóm Hồng vệ binh.
Đặc biệt, nhóm Giang - Lâm muốn lợi dụng dùng căn bệnh tiểu đường để "giết ông một cách từ từ".
Suất
ăn bị cắt giảm và không đảm bảo chất lượng khiến căn bệnh của Hạ Long
càng thêm trầm trọng, cơ thể suy nhược dẫn đến nằm liệt giường.
"Bọn chúng muốn giày vò chết tôi đây mà, lũ giết người không dao", Hạ Long căm phẫn khi nhận ra âm mưu của nhóm Giang - Lâm.Tháng 3/1968, do tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, Hạ Long được chuyển đến một bệnh viện quân đội ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, thay vì được cứu chữa kịp thời, ông còn bị vu cáo tội danh "giả bệnh" và bị y tá mắng nhiếc.
Quá tức giận, ông đòi xuất viện và được điều trị ngoài. Cuối năm 1968, để che mắt, nhóm Giang - Lâm đã cắt cử y tá đến chăm sóc nhưng thực tế nhằm khống chế và tiếp tục bức hại Hạ Long.
Do đó, có thời gian mặc dù mắc bệnh nặng nhưng tất cả số thuốc được cấp phát trước đó đều được lệnh mang đi không để lại một viên, thậm chí thuốc thử bệnh tiểu đường cũng bị thu hồi.
Gia
đình nguyên soái Hạ Long
Ngày 15/1/1969, tổ chuyên án hạ lệnh "hạn chế cấp phát thuốc và không cần đối tốt với dạng người như Hạ Long".
Đến
tháng 6/1969, triệu chứng bệnh ông ngày càng nặng với nhiều lần hôn mê.
Nhóm Giang - Lâm nhân cơ hội này, đánh tráo kết quả xét nghiệm hòng
khép ông vào tội "sợ tội tự sát".
Ngày
9/6, ông được đưa vào viện trong tình trạng nguy kịch nhưng lại tiếp
tục bị bỏ mặc và không có người thân bên cạnh. Vì thế vào viện chưa đầy
bảy tiếng, vị nguyên soái khai quốc công thần đã trút hơi thở cuối cùng.
Sau khi qua đời, nhóm Giang - Lâm bí mật tổ chức hỏa táng, gia đình ông cũng không hề được thông báo.
Sau khi hỏa táng, nhóm này còn đem tro cốt Hạ Long giấu đi nhằm che mắt dư luận về cái chết của ông.
Phải
đến tháng 12/1973, khi Mao Trạch Đông tự nhận trách nhiệm về cái chết
của Hạ Long thì sau đó, đến năm 1974, nguyên soái Hạ Long mới được phục
hồi danh dự.
theo Trí Thức Trẻ
Vì sao Lâm Bưu vu cáo nguyên soái Hạ Long âm mưu ám sát Mao Trạch Đông?
Thích tắt quảng cáo hãy nhấn nút
Nguyên soái Hạ Long chỉ là một trong số ít những
nguyên soái và cán bộ lão thành mà bè lũ Lâm – Giang hãm hại trong cuộc
Đại cách mạng văn hóa. Tuy nhiên, có lẽ ít người biết rằng, nguyên nhân
sâu xa khiến Lâm Bưu điên cuồng muốn hãm hại vị nguyên soái lẫy lừng này
vẫn còn ẩn chứa nhiều bí mật…
ảnh minh họa
1. Vào ngày 6/12/1965, Hạ Long đột ngột nhận được thông báo: Lập tức tới Thượng Hải để tham gia hội nghị. Trong những lần trước, thông báo triệu tập hội nghị thường nói rõ nội dung, tuy nhiên lần này thì không. Cho tới khi đặt chân tới Thượng Hải, Hạ Long mới biết rằng, hội nghị lần này là để giải quyết vấn đề của La Thụy Khanh. Hạ Long và La Thụy Khanh, một người là phó chủ tịch phụ trách thường vụ quân ủy, một người là trưởng thư ký quân ủy, tổng tham mưu trưởng quân giải phóng Trung Quốc, công việc có mối liên hệ mật thiết, chắn chắn mối quan hệ cá nhân cũng không hề hời hợt.
Hạ Long |
Ở Thượng Hải, Hạ Long được sắp xếp ở một căn phòng nằm trên đường số 1 phố Hưng Quốc, cách không xa nơi ở của Lưu Thiếu Kỳ. Buổi tối đầu tiên của hội nghị, Lưu Thiếu Kỳ và vợ chồng Vương Quang tìm tới thăm. Lưu Thiếu Kỳ hỏi Hạ Long: “Sự việc có một chút đột ngột. Ông Hạ, ông là thường vụ quân ủy, việc này ông có biết trước không?”. Hạ Long nói: “Tôi cũng vừa mới biết”. Lưu Thiếu Kỳ lại hỏi Lý Tỉnh Tuyền - người đang ngồi ở phòng Hạ Long: “Còn ông, ông có biết việc này không?”. Lý Tỉnh Tuyền nói: “Tôi cũng không biết”. Lưu Thiếu Kỳ trầm lặng một lúc rồi nói: “Nếu nói như vậy, chúng ta không hề biết trước việc này rồi!”.
Ngày hội nghị thứ, chỉ có Diệp Quần - vợ của Lâm Bưu - và một số người khác do Lâm sắp xếp phát biểu. Khi từ hội nghị trở về, Hạ Long nói với vợ mình là Tiết Minh: “Hôm nay, một mình Diệp Quần nói luôn mấy tiếng đồng hồ. Bà ta nói bao nhiều điều xấu xa về La Thụy Khanh, nhiều chuyện nghe rõ là phi lý. Cậu xem những gì mà Diệp Quần nói, La Thụy Khanh có thể làm được không? Không, không thể nào. Tôi xem những gì Diệp Quần nói không tin được”.
Cho tới ngày thứ tư, Diệp Quần tới tìm Hạ Long. Diệp nói, Lâm Bưu rất quan tâm đến phó thủ tướng Hạ, nên bà ta thay mặt Lâm Bưu tới thăm. Hai ngày sau đó, Tiết Minh tới thăm Diệp Quần, Diệp nói lâu nay không dám qua chơi nhà họ Hạ là vì không biết tính tình của Hạ Long ra sao, rồi nói những chuyện trước đây Tiết Minh “nói xấu” mình, bà ta sẵn sàng bỏ qua, chỉ cần từ này về sau không nhắc tới nữa.
Tiết Minh nói: “Chuyện trước đây ra sao, cả tôi và chị đều hiểu rõ”. Diệp Quần vốn tên là Diệp Nghi Kính, còn gọi là Diệp Cẩn. Năm 1937, Diệp Cần từng làm phát thanh viên trong đài phát thanh của Quốc dân đảng, từng tham gia các cuộc diễn thuyết do đoàn Tam thanh của Quốc dân đảng tổ chức.
Vì vậy, vào năm 1942, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành đợt chỉnh đốn tác phong đảng viên, Tiết Minh từng khuyên Diệp Quần khai rõ với tổ chức những sự việc này. Tuy nhiên, Diệp Quần từ sau khi kết hôn với Lâm Bưu thì trở nên ngang ngược, không coi những lời của Tiết Minh ra gì. Tiết Minh không còn cách nào khác, đành đem mọi chuyện lên ban tổ chức của Trung ương để giải quyết. Cũng từ đó, Lâm Bưu và Diệp Quần luôn khắc cốt ghi tâm “mối hận” này. Diệp Quần nói những chuyện Tiết Minh trước kia “nói xấu” mình cũng là ám chỉ sự việc này.
Hai ngày sau đó, Diệp Quần lại nói với Tiết Minh: “Tôi cảnh báo với chị một vấn đề. Em trai của Lâm Nguyệt Cầm (vợ của nguyên soái La Vinh Hằng) là một đặc vụ Quốc dân đảng. Anh chị quan hệ với họ rất thân, lại còn đưa những văn kiện tối mật cho họ xem, giờ nói là anh chị thông đồng với Quốc dân đảng, e là khó mà nói cho rõ được”. Tiết Minh giải thích đó là một giấy tờ bình thường do một vị trong Bộ Chính trị nhờ đưa cho Lâm Nguyệt Cầm xem. Tuy nhiên, Diệp Quần không tin, coi đó là một sự ngụy biện.
Tiết Minh đem câu chuyện Diệp Quần nói với mình nói lại với chồng, Hạ Long nói: “Không thể xem thường những cuộc thăm viếng của Diệp Quần. Diệp Quần nói bà ta không nhớ gì đến chuyện trước đây, vậy thì sao lại cứ nhắc mãi tới chuyện đó?”. Tiếp đó, Hạ Long thở dài nói: “Có lẽ lần hội nghị này không hề đơn giản như thế, mục đích của họ có thể lớn hơn nhiều!”.
Hội nghị ở Thượng Hải diễn ra từ ngày 8 - 15/12, trong vòng 7 ngày, ngoài những lời buộc tội vô căn cứ, không đưa ra được bằng chứng xác thực nào về sự phản bội của nguyên soái La Thụy Khanh. Tuy nhiên, tại hội nghị ủy ban thường vụ quân ủy tổ chức ngay sau hội nghị này, đã quyết định bãi miễn chức vụ của La Thụy Khanh. Hạ Long cũng không còn được đảm nhiệm vai trò của một phó chủ tịch thường vụ quân ủy nữa.
2. Sau khi hội nghị ở Thượng Hải kết thúc, Hạ Long và Đổng Tất Vũ cùng tới Quảng Châu nghỉ ngơi. Tháng 3/1966, theo kế hoạch từ trước, Hạ Long tới Thành Đô thị sát khu công nghiệp gang thép Cây hoa gạo. Đây vốn là nhiệm vụ Mao Trạch Đông giao cho Hạ Long. Trong quá trình thị sát, Hạ Long cùng với các cán bộ công nhân nghiên cứu kế hoạch, thảo luận, giải quyết các vấn đề vướng mắc của công trình. Sau khi công việc thị sát hoàn tất, Hạ Long trở về tới Bắc Kinh thì đã là 9/4/1966.
Không lâu sau đó, một cuộc động loạn được gọi là “Đại cách mạng văn hóa” bắt đầu. Từ 4 - 26/5, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, phê phán những hành vi “phản đảng” của Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định Nhất, Dương Quang Côn,… và đưa ra văn bản mang tính chỉ đạo cho cuộc động loạn kéo dài suốt 10 năm sau đó mang tên “Bản thông tri ngày 16/5”.
Sau đó, từ ngày 1 - 12/8, bắt đầu tổ chức hội nghị 11 khóa 8. Tại hội nghị, Mao Trạch Đông bóng gió phê phán Lưu Thiếu Kỳ “đứng trên lập trường tư sản phản động, thực hiện chuyên chính giai cấp tư sản”. Đồng thời, Mao Trạch Đông cũng viết thư cho Hồng vệ binh của Đại học Thanh Hoa, “nhiệt liệt ủng hộ” hành động của họ. Cuộc động loạn từ Bắc Kinh bắt đầu lan rộng ra toàn quốc.
Lâm Bửu |
Sau hội nghị lần thứ 11, Bộ Chính trị và Ban Bí thư trung ương liên tục mở các hội nghị sinh hoạt Đảng để giải quyết “vấn đề” của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Trước tình hình đó, Hạ Long cảm thấy vô lý và rất khó chịu. Một lần, Mao Trạch Đông hỏi Hạ Long: “Cậu đã phát biểu chưa?”, Hạ Long đáp: “Vẫn chưa phát biểu”.
Mao Trạch Đông lại hỏi: “Sao không nói?”, Hạ Long thật thà đáp: “Báo cáo chủ tịch, tôi vẫn chưa nâng nổi quan điểm!”. Không lâu sau đó, các hội nghị sinh hoạt Đảng không mở nữa. Hạ Long vui mừng thông báo cho những bạn bè tới thăm mình. Có người hỏi: “Sao lại không mở nữa?”. Hạ Long đáp rằng: “Tiếp tục mở hội nghị còn không được, huống hồ là nâng quan điểm”.
Trong thời gian này, Hạ Long bàn với Tiêu Hoa về Cách mạng văn hóa và làm cách nào để giải quyết vấn đề các cán bộ lão thành của Đảng. Hạ Long nói: “Cách mạng văn hóa rốt cuộc là cái gì? Theo như cách làm hiện nay thì giống như là một cuộc thanh trừ giai cấp trong nội bộ. Những cán bộ lão thành công tác hàng mấy chục năm, nhiều người xém chút còn bị địch giết. Họ thuộc giai cấp nào, chẳng lẽ Đảng không hiểu hay sao?”.
Trung tuần tháng 9, một cán bộ lãnh đạo bị quy là “phản đồ”, “tư sản” đã mang biên bản kiểm tra của họ tới cho Hạ Long xem. Ở cuối các bản kiểm tra đều có đề cập tới “đại bác tấn công Bộ Tư lệnh”. Hạ Long xem xong hỏi: “Vì sao lại đề xuất việc đại bác tấn công Bộ Tư lệnh? Lẽ nào anh thừa nhận mình là giai cấp tư sản trong Bộ Tư lệnh?”.
Hạ Long trước sau vẫn không tin rằng trong nội bộ Đảng lại tồn tại cái gọi là “Bộ Tư lệnh giai cấp tư sản”, cũng không tin rằng ở tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Đảng lại có người “đứng trên lập trường của giai cấp tư sản”, “thực hiện chuyên chính tư sản”. Ông càng không tin rằng có nhiều cán bộ lãnh đạo lại “đi theo con đường tư bản” đến như vậy. Có một hôm, Khang Sinh gặp Hạ Long, hỏi: “Anh có biết Dương Trực Lâm không?”.
Hạ Long đáp: “Tôi biết”. Khang Sinh nói: “Ông ta làm việc cho ngụy quân, là một phản đồ”. Hạ Long giật nảy mình, đáp: “Anh ấy không phản bội, là tổ chức cử anh ta đi”. Năm 1986, nhớ lại sự việc này, Dương Trực Lâm nói: “Thực sự, khi đó Chủ tịch Hạ Long đã lâm vào tình cảnh rất nguy hiểm, thế mà vẫn rất khẳng khái bảo vệ cho tôi”.
Tháng 10/1966, lại triệu tập hội nghị công tác. Sau khi hội nghị kết thúc, bắt đầu triển khai cuộc vận động “quét mọi trở ngại”, phê phán con đường phản động của giai cấp tư sản. Các trường quân đội cũng bắt đầu loạn lên. Một số lượng lớn các sỹ quan lẫn sinh viên trong các trường quân sự kéo về Bắc Kinh. Họ kết hợp với lực lượng “tạo phản” ở địa phương tấn công các căn cứ quân sự, cướp các tài liệu mật của quốc gia khiến các cơ quan quân sự gần như tê liệt. Ngày 13/11, tiểu tổ cách mạng văn hóa của quân ủy trung ương quyết định mở một hội nghị tại sân vận động công nhân ở Bắc Kinh, mời các vị nguyên soái có uy tín xuất hiện để dẹp yên tình hình.
Trong số những nguyên soái được mời tới, có Hạ Long. Thế nhưng đây cũng là lần cuối cùng Hạ Long được nói trước quần chúng và cũng là lần duy nhất, Hạ Long đăng đàn nói về cách làm thế nào để tham gia “Cách mạng văn hóa”. Từ khi cuộc Cách mạng văn hóa bắt đầu tới lần diễn thuyết này, Hạ Long vẫn không tin rằng trong nội bộ Đảng lại có hai “Bộ Tư lệnh”.
Hạ Long bảo vệ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, phản đối việc “làm phản một cách hợp lý”. Đương nhiên, việc Hạ Long và các vị nguyên soái diễn giảng về cách tham gia “Cách mạng văn hóa” đối ngược hoàn toàn với lập trường của bọn Lâm Bưu và Giang Thanh, cũng là phê phán âm mưu đoạt quyền trong động loạn của chúng, vì vậy, bọn chúng bắt đầu căm ghét và phản đối ông. Tuy nhiên, đây chưa phải là lý do duy nhất khiến Lâm Bưu tìm mọi cách bức hại Hạ Long cho tới chết.
3. Việc Lâm Bưu muốn đánh đổ Hạ Long vẫn còn một nguyên nhân rất sâu xa mà ít người được biết tới.
Mùa xuân năm 1942, Hạ Long tới Diên An nhận chức Tư lệnh Liên quân Biên khu Thiểm Cam Ninh. Một lần, Mao Trạch Đông và Hạ Long nói chuyện, bàn tới Lâm Bưu và nhắc tới hội nghị Tôn Nghĩa, nói Lâm Bưu ngoài mặt thì thừa nhận vị trí lãnh đạo của Mao Trạch Đông, tuy nhiên phía sau lưng thì bất mãn, thậm chí còn chửi mẹ chửi cha. Năm 1938, trong hội nghị Lạc Xuyên, Lâm Bưu không màng đến đại cục, không hề quan tâm tới kiến nghị để quân lại phòng ngự ở Biên khu Thiểm Cam Ninh của Mao Trạch Đông.
Những việc này khiến Lâm Bưu hình thành một mối lo Hạ Long sẽ nói ra mọi chuyện. Sau khi Trung Quốc thống nhất, Hạ Long chiếu theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Trong suốt thời gian Hạ Long đảm nhiệm vai trò chủ tịch thường trực Quân ủy Trung ương, quân đội đạt được rất nhiều thành tích trên nhiều lĩnh vực.
Điều này khiến Lâm Bưu vô cùng bất mãn, sợ rằng nếu như Mao Trạch Đông cứ tiếp tục trọng dụng Hạ Long như vậy sẽ đe dọa địa vị của mình. Và Hạ Long sẽ trở thành một vật cản cực kỳ khó khăn đối với âm mưu đoạt quyền của Lâm Bưu. Trong một lần hội nghị, chính Lâm Bưu đã tiết lộ nguyên nhân thầm kín này. Lâm nói, y muốn đánh đổ Hạ Long là vì tính đến việc “sau khi Mao Chủ tịch qua đời”, sợ rằng Hạ Long sẽ “bắn pháo hô hào làm loạn”.
Năm 1959, sau khi Lâm Bưu đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhanh chóng cài cắm thân tín của mình vào các cơ quan hải quân, không quân rồi hãm hại những cán bộ bất đồng ý kiến với mình. Sau khi “Các mạng văn hóa” nổ ra, những thân tín của Lâm Bưu tại hai đơn vị này đã thừa cơ đoạt quyền.
Ngày 28/8, Lâm Bưu cho gọi Ngô Pháp Hiến tới nói: “Hạ Long có dã tâm, khắp nơi chọc tay vào, từ Bộ Tổng tham mưu tới hải quân, không quân rồi các học viện chính trị, đâu đâu cũng thấy mặt lão. Không quân là miếng thịt béo, ai chẳng muốn ăn, anh phải cẩn thận không lão cướp quyền của anh”. Sau đó, Lâm Bưu ra lệnh cho Ngô trở về viết báo cáo tình hình Hạ Long “tham gia” vào công việc của không quân ra sao.
Tới ngày 2/9, Lâm Bưu gọi điện cho Lý Tác Bằng nói: “Anh phải chú ý Hạ Long, Hạ Long thực tế là kẻ đứng phía sau La Thụy Khanh. Hắn kéo một đống người chống lại ta. Quân ủy sẽ nhanh chóng triển khai hội nghị giải quyết vấn đề của hắn. Anh mau mau viết tài liệu báo cáo về vấn đề này”.
Trước thời điểm này, một số nhân viên của Ban ngoại vụ của Bộ Tổng tham mưu đề nghị tạm thời không cho phép các cán bộ lãnh đạo tham gia các hoạt động ngoại vụ. Kiến nghị của họ bị Tham mưu đảng ủy phản đối tuy nhiên, Trung ương lại đồng ý. Vì vậy, họ vui mừng đến Tham mưu đảng ủy để “báo tin mừng”. Bộ Tham mưu tác chiến phân cán bộ viết báo chữ to để biểu thị ủng hộ. Vương Thượng Vinh - Bộ trưởng tham mưu tác chiến - cũng bị buộc phải ký tên.
Lâm Bưu biết vậy liền chớp ngay cơ hội này vu cáo đây là hành động cướp quyền. Sau đó, vì Vương Thượng Vinh từng có thời gian làm việc dưới quyền của Hạ Long nên Lâm Bưu lại vu cáo nói rằng, Vương Thượng Vinh nhận chỉ thị của Hạ Long. Đây là chứng cứ Lâm Bưu dùng để chỉ ra rằng Hạ Long đang âm mưu đoạt quyền và yêu cầu thân tín của mình “nhanh chóng viết báo cáo”. Không chỉ có vậy, tại khắp các binh chủng khác, Lâm Bưu đều tìm mọi cách để làm những bằng chứng giả vu cáo Hạ Long.
4. Tuy nhiên, Lâm Bưu biết rằng, muốn đánh đổ Hạ Long thì cần phải tạo nên một bằng cớ ngay tại vấn đề được coi là “kị húy” nhất. Vì vậy, Diệp Quần đã chỉ đạo cho trưởng ban bảo vệ văn phòng Quân ủy Trung ương Tống Trị Quốc viết một báo cáo vu khống Hạ Long.
Báo cáo viết: “Hạ Long có một khẩu súng ngắn được chế tạo rất tinh vi. Buổi tối ngủ thường để súng dưới gối, khi ra ngoài thì thường mang theo. Tuy nhiên, hai tháng gần đây, súng của Hạ Long không còn đặt dưới gối mà ra đường cũng không mang theo nữa. Sau đó, có người mật báo rằng, cây súng của Hạ Long từ khi Cách mạng văn hóa bắt đầu đều để ở chỗ con gái của Đổng Tất Vũ, đang sống ở Trung Nam Hải để tiện cho Hạ Long khi có hội nghị ở Hoài Nhân Đường thì dùng để ám sát Mao Chủ tịch”.
Lời vu cáo trắng trợn này nhanh chóng được lan truyền. Đổng Tất Vũ đã vì những lời vu cáo này quát mắng con gái mình. Con gái Đổng kinh ngạc nói: “Những lời hoang đường này cha nghe được từ đâu? Cây súng đó không phải là bác Hạ Long để ở chỗ con mà là khi con và một số bạn nam khác tới nhà bác ấy chơi, thì bác ấy đưa cho con để làm đồ chơi. Nhưng đó là chuyện từ năm 1957”.
Để nói rõ việc này, con gái của Đổng Tất Vũ đã vội vàng tìm trong rương của mình khẩu súng cũ giao cho các cơ quan hữu quan. Những người kiểm tra súng phát hiện cò súng không kéo được, dùng hết sức bóp thì mới dịch được một chút. Những người kiểm tra súng đều nói: “Súng này có thể dùng để ám sát người được không?”.
Tuy nhiên, Lâm Bưu vẫn đem những bức thư vu cáo này đưa cho Lý Tác Bằng và Ngô Pháp Hiến để viết báo cáo gửi cho Mao Trạch Đông. Buổi trưa ngày 5/9, trong phòng nghỉ của bể bơi ở Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đem bức thư vu cáo của Ngô Pháp Hiến đưa cho Hạ Long. Hạ Long xem xong hỏi: “Tôi có cần tìm Ngô Pháp Hiến nói chuyện không?”.
Mao Trạch Đông nói: “Có việc gì mà nói? Anh không lo, tôi sẽ làm phái bảo hoàng cho anh”. Hạ Long không ngờ, sau cuộc nói chuyện với Mao Trạch Đông chỉ ba ngày, trong một cuộc hội nghị, Lâm Bưu đã đề nghị mọi người phải đề cao cảnh giác với âm mưu đoạt quyền của Hạ Long.
Tối ngày 9/9, Mao Trạch Đông đã cho bí thư của mình là Từ Diệp Phu gọi điện cho Hạ Long, nói: “Sau khi Lâm Bưu và một số đồng chí làm việc, sự việc đã kết thúc. Anh có thể đi thăm và xin ý kiến của một số đồng chí có liên quan”. Nửa đời người lăn lộn súng đạn, Hạ Long coi khinh nhất là loại người lén lút sắp đặt âm mưu phía sau, vì vậy nhận được điện thoại, tức giận nói: “Có gì thì đặt lên bàn nói! Cứ lén lén lút lút phía sau lưng như thế thì còn ra gì!”. Tuy nhiên, Hạ Long vẫn nghe theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, tìm tới gặp Lâm Bưu để xin ý kiến.
Khi tới gặp Lâm Bưu, Lâm nói: “Đồng chí Hạ, tôi không có ý kiến gì về anh”. Hạ Long nói: “Không, Lâm phó chủ tịch chắc là có một chút ý kiến chứ”. Lâm Bưu ngừng một lát rồi nói: “Nếu như nói, chỉ có một điểm này thôi. Đó là vấn đề của anh lớn hay nhỏ phụ thuộc vào việc anh ủng hộ ai, phản đối ai”.
Hạ Long nghe Lâm Bưu uy hiếp thì cười nói: “Phó chủ tịch Lâm, đồng chí cũng biết tôi lăn lộn gần một đời, tôi ủng hộ ai, phản đối ai, chẳng lẽ không rõ!”. Hai người ngay câu đầu tiên đã không hợp nhau, nên Hạ Long đành đứng dậy ra về. Sau lần nói chuyện này, Lâm Bưu biết rằng kế hoạch vu cáo mà y dày công sắp đặt không thể đạt được mục đích là “khống chế” Hạ Long. Vì vậy, một âm mưu mới tàn độc và thâm hiểm hơn lại được bè lũ của Lâm Bưu bắt đầu sắp đặt để hãm hại vị nguyên soái trung thành Hạ Long.
đăng bởi: phunutoday
Nhận xét
Đăng nhận xét