CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vì sao có giải NOBEL ?
Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại
Stockholm, Thụy Điển. Cha của ông là một kỹ sư đồng thời cũng là một nhà
phát minh có tài. Không may là việc làm ăn của ông không mấy thuận lợi
và không lâu sau khi Alfred ra đời, ông bị buộc phải thôi việc.
Quyết tâm cứu gia đình mình, ông cùng
vợ và ba người con trai chuyển tới Nga sinh sống bằng việc cung cấp các
trang thiết bị cho quân đội Nga. Công việc trở nên vô cùng thuận lợi và
nhờ đó, cậu bé Alfred được hưởng sự giáo dục tốt nhất từ các gia sư
riêng mà cha mẹ thuê về dạy học.
Thời thơ ấu
Chân dung Nobel
Chân dung Nobel
Khi còn nhỏ, Alfred Nobel học về 3
chuyên ngành là khoa học, văn học và ngoại ngữ. Ông có thể đọc viết
thông thạo nhiều ngôn ngữ như tiếng mẹ đẻ là Thụy Điển, tiếng Nga, Anh,
Pháp, Đức vào năm 17 tuổi. Sau này, cha ông quyết định cho ông theo học
ngành kỹ sư và đã gửi ông sang Pháp, nơi hiện đứng đầu thế giới về lĩnh
vực cơ khí tại thời điểm đó, để theo học.
Ông theo học ngành kỹ sư hóa. Trong
quá trình theo học ông gặp một nhà hóa học trẻ người Ý tên là Ascanio
Sobrero, anh này đã sáng chế ra một loại chất nổ dễ bay hơi tên là
nitroglycerine. Sobrero đã giới thiệu chất này với Nobel, đồng thời giải
thích cho ông hiểu ràng nếu sản xuất được chất này sẽ là một đề tài
nghiên cứu thú vị nhưng đồng thời cũng sẽ là mối nguy lớn nếu sử dụng nó
trong thực tế.
Tuy nhiên, Alfred không nghĩ vậy và
ông bắt đầu tiến hành các thí nghiệm với chất này. Những thí nghiệm của
ông đã dẫn tới việc sáng tạo một loại chất có ảnh hưởng to lớn tới các
ứng dụng quân sự và dân sự sau này: thuốc nổ.
Trở lại Thụy Điển
Sau khi hoàn thành việc học tại Paris,
ông trở lại Nga. Tại đây, ông đã giải thích cho cha mình về chất nổ mà
người bạn Ý đã nghiên cứu. Họ đã cùng nhau làm các thí nghiệm và khám
phá tác dụng của loại chất này với hy vọng chế tạo một thứ gì đó có tính
thương mại cao. Trong quá trình tiến hành các thí nghiệm này, họ đã gặp
phải khá nhiều sự cố nghiêm trọng, đặc biệt là cái chết của người em
trai út, Emil.
Phòng thí nghiệm của Alfred Nobel
Phòng thí nghiệm của Alfred Nobel
Không lâu sau cái chết thương tâm của
em trai, hai người anh cả trong gia đình Nobel ở lại Nga để tiếp tục
việc kinh doanh phát triển. Cha, mẹ và Alfred quay trở lại Thụy Điển
sinh sống.
Chính thức phát minh ra thuốc nổ
Bất chấp những hậu quả từ các thí
nghiệm tại Nga, Alfred tiếp tục thí nghiệm với chất nitroglycerine. Sau
cùng, ông chế tạo thành công một loại chất nổ khó bay hơi và dễ kiểm
soát hơn trong khi vẫn duy trì được hiệu quả như ở dạng ban đầu. Năm
1886, ông công bố các kết quả thí nghiệm và gọi chất này là dynamite
(thuốc nổ). Sau đó ông tiếp tục sáng chế ra kíp nổ để có thể kích nổ từ
xa một cách an toàn.
Học được những kiến thức kinh doanh từ
cha, Alfred Nobel nhanh chóng xin cấp bằng sáng chế cho thuốc nổ và
phát triển một doanh nghiệp chuyên kinh doanh sản phẩm này. Quân đội các
nước rất mong muốn sử dụng loại vũ khí mới này, tuy nhiên họ cũng gặp
phải nhiều bất tiện vì thuốc nổ phải được đặt đúng tại vị trí mong muốn
sau đó mới dùng dây dẫn cháy để cho nổ. May mắn là chỉ vài năm sau,
những cải tiến đã được thực hiện và Alfred nhanh chóng trở thành một
thương nhân giàu có.
Phát minh ra thuốc nổ
Nhu cầu thuốc nổ tăng cao không ngừng.
Nó được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực như khai thác đá, khai quật,
xây dựng đường hầm và phá đá để mở đường cao tốc và đường sắt phục vụ
cho giao thông và vận chuyển hàng hóa nặng cũng như các nhu yếu phẩm
khác.
Việc kinh doanh thuận lợi giúp Alfred
mở tới 90 nhà máy sản xuất thuốc nổ tại 20 quốc gia trên thế giới. Trước
khi ông qua đời tại nhà riêng ở San Remo, phía Bắc Italia, ông đã tích
lũy được một khối tài sản đáng kinh ngạc. Ông không kết hôn và dành cả
cuộc đời mình làm các thí nghiệm hóa học. Ông qua đời trong yên bình vào
ngày 10-12-1896.
Huy chương Nobel
Huy chương Nobel
Trong di chúc của mình ông mong muốn
sẽ có một giải thưởng được trao cho những người có đóng góp quan trọng
trong lĩnh vực Vật lý, Hóa học và Dược phẩm. Thêm vào đó, ông cũng muốn
trao giải thưởng trong lĩnh vực Văn học và Hòa bình cho những cá nhân có
đóng góp trong việc phát triển mối quan hệ hòa bình giữa các quốc gia.
Giải Nobel đầu tiên được trao năm 1901, 5 năm sau ngày Nobel qua đời.
Lễ trao giải Nobel
Lễ trao giải Nobel được diễn ra tại
Thụy Điển vào ngày 10-12 hàng năm, nhân dịp kỷ niệm ngày mất của ông.
Đức vua Thụy Điển sẽ là người trao giải. Những người nhận giải sẽ được
nhận một huy chương có khắc chân dung Alfred Nobel, một bằng chứng nhận
và một khoản tiền tính bằng đồng tiền Kronor của Thụy Điển. Giải Nobel
Hòa bình cũng được trao vào cùng ngày nhưng là tại Oslo, Na-uy.
Lễ trao giải Nobel
Dù không nằm trong danh sách ban đầu
nhưng sau này, giải Nobel về Kinh tế cũng được thêm vào danh sách trao
thưởng. Các giải thưởng chỉ không được trao trong thời kỳ 2 cuộc chiến
tranh thế giới khi mâu thuẫn của các quốc gia lên tới đỉnh điểm. Người
đoạt giải Nobel trẻ nhất là Lawrence Bragg - 25 tuổi khi ông nhận giải
Nobel Vật lý vào năm 1915. Người đoạt giải cao tuổi nhất là Leonid
Hurwicz, được trao giải Nobel Kinh tế năm 2007 ở tuổi 90. Tổng thống Mỹ
Barack Obama cũng giành giải Nobel Hòa bình năm 2009 vì những nỗ lực của
mình để củng cố ngoại giao quốc tế và hợp tác giữa các dân tộc.
Giải Nobel và bí ẩn về 2 chiếc huy chương vàng biến mất!
Gabe |
Vào 1 ngày đẹp trời năm 1940, phát xít Đức đang lùng sục khắp các con phố của Copehagen để tìm 2 chiếc huy chương vàng Nobel. Nhưng thật may, chúng đã biến mất rất đúng lúc!
Hoàn cảnh hiểm nghèo của 2 tấm huy chương vàng
Hai chiếc huy chương vàng giải Nobel thuộc về Max von Laue nhà khoa học đạt giải Nobel vật lý năm 1914 và James Franck, nhà vật lý giành giải Nobel năm 1925. Nhưng thân thế của họ cộng thêm chủ trương không để vàng lọt khỏi Đức của bè lũ phát xít đã khiến câu chuyện trở nên phức tạp hơn.
Một
người thì gốc Do thái, một người thì lại thuộc phe phản đối đảng Quốc
xã, ngặt nghèo là vậy, cho nên họ đã gửi 2 tấm huy chương lại cho người
bạn tại Viện nghiên cứu vật lý lý thuyết, nhà khoa học Niels Bohr
(1885-1963) cất giữ hộ.
Nhưng trớ trêu thay, trước nay Viện nghiên cứu của Bohr luôn bị nghi ngờ là che giấu người Do thái (được coi là kẻ thù không đội trời chung với phát xít), nên chính ông cũng biết rằng sớm muộn gì chỗ làm việc của ông cũng trở thành mục tiêu khám xét.
Nếu
bị phát hiện là bao che cho các nhà khoa học Do thái cũng như có ý định
giấu vàng, Bohr chẳng khác nào phải đối mặt với án tử trong hoàn cảnh
quân phát xít đã nghi ngờ từ lâu và chỉ còn chờ 1 lý do để kết tội ông!
Và thực sự may mắn khi Bohr có 1 người trợ thủ khác vô cùng thông minh, tài giỏi, đó chính là nhà hóa học người Hungary Georgy de Hevesy, người mà sau này cũng đã giành được 1 giải Nobel dành riêng cho mình!
Giải pháp không ai ngờ tới của những cái đầu thông minh
Ngày phát xít Đức chiếm Copehagen, chúng đã lùng sục khắp nơi và đang tiến tới Viện nghiên cứu vật lý lý thuyết của Bohr. Thời gian đã gần hết, mọi nỗ lực bây giờ là làm thế nào để giấu được 2 tấm huy chương đi.
Nhưng nó thực sự là 1 việc quá khó, những chiếc huy chương được làm từ vàng 23 kara, quá nặng để đeo hoặc giấu vào người (phương án này rất nguy hiểm vì chắc chắn quân phát xít sẽ khám người), quá sáng, dễ gây chú ý nếu giấu vào đâu đó.
Sau
này Hevesy chia sẻ rằng, ông từng đề nghị Bohr hãy chôn chúng ở khu
vườn đằng sau, nhưng không được đồng ý vì hiển nhiên rằng quân Đức sẽ
đào từng tấc đất trong Viện nghiên cứu để truy tìm số vàng kia!
Sau nhiều phương án được đưa ra, cuối cùng Hevesy quyết định sẽ hòa tan chúng bằng dung dịch nước cường toan (là dung dịch hỗn hợp axit nitric đậm đặc và axít clohiđric đậm đặc, với tỉ lệ mol 1:3).
Đây rõ ràng không phải là phương án thích hợp do thời gian đã quá eo hẹp mà quá trình hòa tan thì không hề nhanh chút nào, nhưng họ không có lựa chọn nào khả dĩ hơn! Chúng ta vẫn biết rằng vàng là kim loại rất bền vững, không xỉn, không hòa tan trong bất cứ dung dịch gì, ngoại trừ nước cường toan!
Dù
vậy, Hevesy vẫn quyết tâm thực hiện, ông bỏ 2 chiếc huy chương vào 2
chiếc côc thủy tinh lớn chứa đầy dung dịch cường toan và chờ đợi. Quá
trình hòa tan này diễn ra rất chậm, càng chậm hơn đối với những người
trong cuộc như Bohr, Hevesy trong khi đó thì kẻ thù đã gần tới cửa!
Đúng như dự tính từ đầu, khi quân phát xít đến, chúng lật tung cả Viện nghiên cứu, tìm từng trong từng căn phòng, từng chiếc tủ. Nhưng lạ kỳ thay lại không tìm thấy bất cứ thứ gì như đã tin tình báo!
Hevesy bị ép buộc phải tới Stockholm vào năm 1943, sau này khi trở lại đây, 2 chiếc cốc thủy tinh vẫn nằm nguyên vẹn trên kệ trong phòng thí nghiệm! Nửa chặng đường ông đã đi quá, nửa còn lại chính là phải tách vàng từ 2 dung dịch trên để trả lại cho chủ nhân của chúng!
Và tất nhiên Hevesy không làm chúng ta phải thất vọng, tháng 1/1950, ông gửi lại nguyên vẹn số vàng thô tách được cho Viện hàng lâm khoa học Thụy Điển và chúng được đúc lại, giao tận tay cho 2 nhà khoa học Laue và Franck vào năm 1952.
Đây có thể coi là chiến công phi thường của Hevesy, 1 trong những cái đầu thông minh nhất thế giới, Không súng không đạn vẫn có thế chơi phát xít Đức 1 vố đau!
Hai chiếc huy chương vàng giải Nobel thuộc về Max von Laue nhà khoa học đạt giải Nobel vật lý năm 1914 và James Franck, nhà vật lý giành giải Nobel năm 1925. Nhưng thân thế của họ cộng thêm chủ trương không để vàng lọt khỏi Đức của bè lũ phát xít đã khiến câu chuyện trở nên phức tạp hơn.
Ba nhà khoa học.
Nhưng trớ trêu thay, trước nay Viện nghiên cứu của Bohr luôn bị nghi ngờ là che giấu người Do thái (được coi là kẻ thù không đội trời chung với phát xít), nên chính ông cũng biết rằng sớm muộn gì chỗ làm việc của ông cũng trở thành mục tiêu khám xét.
Giải vàng Nobel
Và thực sự may mắn khi Bohr có 1 người trợ thủ khác vô cùng thông minh, tài giỏi, đó chính là nhà hóa học người Hungary Georgy de Hevesy, người mà sau này cũng đã giành được 1 giải Nobel dành riêng cho mình!
Giải pháp không ai ngờ tới của những cái đầu thông minh
Ngày phát xít Đức chiếm Copehagen, chúng đã lùng sục khắp nơi và đang tiến tới Viện nghiên cứu vật lý lý thuyết của Bohr. Thời gian đã gần hết, mọi nỗ lực bây giờ là làm thế nào để giấu được 2 tấm huy chương đi.
Nhưng nó thực sự là 1 việc quá khó, những chiếc huy chương được làm từ vàng 23 kara, quá nặng để đeo hoặc giấu vào người (phương án này rất nguy hiểm vì chắc chắn quân phát xít sẽ khám người), quá sáng, dễ gây chú ý nếu giấu vào đâu đó.
Bohr chụp ảnh cùng Einstein (ngoài cùng bên trái).
Sau nhiều phương án được đưa ra, cuối cùng Hevesy quyết định sẽ hòa tan chúng bằng dung dịch nước cường toan (là dung dịch hỗn hợp axit nitric đậm đặc và axít clohiđric đậm đặc, với tỉ lệ mol 1:3).
Đây rõ ràng không phải là phương án thích hợp do thời gian đã quá eo hẹp mà quá trình hòa tan thì không hề nhanh chút nào, nhưng họ không có lựa chọn nào khả dĩ hơn! Chúng ta vẫn biết rằng vàng là kim loại rất bền vững, không xỉn, không hòa tan trong bất cứ dung dịch gì, ngoại trừ nước cường toan!
Chân dung nhà khoa học tài ba Hevesy.
Đúng như dự tính từ đầu, khi quân phát xít đến, chúng lật tung cả Viện nghiên cứu, tìm từng trong từng căn phòng, từng chiếc tủ. Nhưng lạ kỳ thay lại không tìm thấy bất cứ thứ gì như đã tin tình báo!
Hevesy bị ép buộc phải tới Stockholm vào năm 1943, sau này khi trở lại đây, 2 chiếc cốc thủy tinh vẫn nằm nguyên vẹn trên kệ trong phòng thí nghiệm! Nửa chặng đường ông đã đi quá, nửa còn lại chính là phải tách vàng từ 2 dung dịch trên để trả lại cho chủ nhân của chúng!
Và tất nhiên Hevesy không làm chúng ta phải thất vọng, tháng 1/1950, ông gửi lại nguyên vẹn số vàng thô tách được cho Viện hàng lâm khoa học Thụy Điển và chúng được đúc lại, giao tận tay cho 2 nhà khoa học Laue và Franck vào năm 1952.
Đây có thể coi là chiến công phi thường của Hevesy, 1 trong những cái đầu thông minh nhất thế giới, Không súng không đạn vẫn có thế chơi phát xít Đức 1 vố đau!
Tham khảo nhiều nguồn
theo Trí Thức Trẻ
Bức ảnh chụp các nhà vật lý vĩ đại thế kỷ 20
Đó
là bức ảnh chụp tại Hội nghị Quốc tế Solvay lần thứ 5 về Electron và
Photon, nơi mà các nhà vật lý nổi tiếng nhất thế giới đã gặp nhau để
thảo luận về lý thuyết lượng tử mới được hình thành.
Viện Vật lý và Hóa học Quốc tế Solvay ở
Brussels (Vương quốc Bỉ), được thành lập bởi kỹ nghệ gia người Bỉ Ernest
Solvay năm 1912, một năm sau hội nghị Solvay lần thứ nhất năm 1911,
được xem là một bước ngoặt của thế giới về vật lý.
Tiếp nối thành công ban đầu của hội nghị
năm 1911, hội nghị Solvay (còn gọi là Conseils Solvay) đã tiếp tục tổ
chức cho các vấn đề chuyên sâu của vật lý và hóa học. Lịnh trình thường
xuyên của hội nghị là 3 năm 1 lần.
Có lẽ hội nghị nổi tiếng nhất là Hội
nghị Quốc tế Solvay lần thứ 5 về Electron và Photon, nơi mà các nhà vật
lý nổi tiếng nhất thế giới đã gặp nhau để thảo luận về lý thuyết lượng
tử mới được hình thành. Các nhân vật hàng đầu là Albert Einstein và
Niels Bohr. Einstein, thất vọng với nguyên lý bất định của Heisenberg,
nhận xét "Chúa không chơi trò xúc xắc". Bohr trả lời, "Einstein, đừng
bảo Chúa phải làm gì". 17 trong số 29 người tham dự hội nghị năm đó đã
và sẽ đoạt giải Nobel, bao gồm cả Marie Curie, là người lạc lõng giữa
các nhà vật lý, đã nhận giải Nobel ở một nhánh khoa học khác.
Hội nghị này cũng là đỉnh điểm của cuộc
tranh luận lịch sử giữa một bên là Einstein cùng những nhà hiện thực
khoa học, những người muốn các quy tắc nghiêm ngặt của phương pháp khoa
học như được nêu ra bởi Charles Peirce và Karl Poper, với bên còn lại là
Bohr và những người theo chủ nghĩa công cụ, là những người muốn các quy
tắc lỏng lẻo dựa trên kết quả. Bắt đầu tại điểm này, các chủ nghĩa công
cụ đã thắng, chủ nghĩa công cụ đã trở thành chuẩn mực từ đó, mặc dù
cuộc tranh luận còn tiếp tục bởi những người khác như Alan Musgrave.
Ảnh chụp bởi Benjamin Couprie
- Hàng sau cùng, từ trái qua phải: Auguste Piccard, Émile Henriot, Paul Ehrenfest, Édouard Herzen, Théophile de Donder, Erwin Schrödinger, Jules-Émile Verschaffelt, Wolfgang Pauli, Werner Heisenberg, Ralph Howard Fowler, Léon Brillouin
- Hàng giữa, từ trái qua phải: Peter Debye, Martin Knudsen, William Lawrence Bragg, Hendrik Anthony Kramers, Paul Dirac, Arthur Compton, Louis de Broglie, Max Born, Niels Bohr
- Hàng trước, từ trái qua phải: Irving Langmuir, Max Planck, Marie Sklodowska Curie, Hendrik Lorentz, Albert Einstein, Paul Langevin, Charles Eugène Guye, Charles Thomson Rees Wilson, Owen Willans Richardson
Nguồn: Wikipedia Tiếng Anh
Nhận xét
Đăng nhận xét