Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2017

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 41

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                   Tiểu sử hay nhất - Trương Phi

               Trương Phi đại chiến Mã Siêu, "chong đuốc đánh ban đêm, ngựa mệt lừ " bất phân thắng bại

                                       Trương Phi - Cái chết oan nghiệt của một vị anh hùng

Tức giận là bản năng, kìm nén cơn giận lại là bản lĩnh: sống như Hàn Tín hay chết tựa Trương Phi?



Cái chết của Trương Phi, nghĩ lại cũng thật bứt rứt: ông không phải chết một cách oanh oanh liệt liệt nơi chiến trường, mà là bị cảm xúc của mình hại chết.
Hay tin người anh kết nghĩa Quan Vũ tử nạn, thoạt tiên ông không nén nổi đau thương, huyết lệ tuôn trào. Sau đó say xỉn đánh đập binh sĩ, bức ép họ ngày đêm chế tạo binh khí gấp để sớm báo thù cho người anh kết nghĩa. Cuối cùng bộ hạ dưới trướng của ông là Phạm Cương và Trương Đạt không thể chịu đựng thêm nữa, đành phải nhân lúc Trương Phi lại say rượu mà thích sát ông ngay trong quân doanh.

truong-phi
Trương Phi uống rượu đánh quân của mình

Trương Phi rất có bản sự, đây là điều không ai có thể phủ nhận được. Vậy mà người có năng lực lớn như vậy, cuối cùng lại không có được một kết cục lý tưởng. Những người không kiểm soát được cảm xúc của mình, kỳ thật dù năng lực của họ có lớn hơn nữa cũng không giúp ích được gì.
Hàn Tín chịu nhục chui háng
Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng, có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng (trôn) y. Tín chấp nhận chui qua háng, mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười.

Hàn Tín chiu nhục chui háng thể hiện tâm đại Nhẫn
Hàn Tín chiu nhục chui háng thể hiện tâm đại Nhẫn

Về sau ông trở thành danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là “Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu.”, thời Hán Sở tranh hùng, cùng với Trương LươngTiêu Hà là một trong “tam kiệt nhà Hán” có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
Dẫu không thể khống chế nổi cảm xúc thì cũng phải học cách kìm nén
Trong thời gian Abraham Lincoln còn làm Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng lục quân phàn nàn với ông về việc bản thân mình bị một thiếu tướng dưới quyền sỉ nhục. Lincoln đề nghị đối phương hãy viết một lá thư nguyền rủa với những lời lẽ cay nghiệt nhất để đáp trả lại.
Thư đã viết xong, khi Bộ trưởng muốn gửi lá thư đi, Lincoln hỏi: “Ông đang định làm gì đấy?”.
“Đương nhiên là gửi thư cho hắn ta”. Bộ trưởng không hiểu trả lời.
Ông bị điên rồi hả, hãy mau mau đốt bỏ lá thư đó đi”. Linlcon vội nói: “Những lúc tôi bực tức cũng là làm như vậy, viết thư chính là vì để trút giận mà thôi. Nếu như ông vẫn còn chưa nguôi giận, thế thì hãy viết thêm nữa, viết cho đến khi nào trong tâm cảm thấy thoải mái mới thôi!”.

Abraham Lincoln Abraham Lincoln
Abraham Lincoln Abraham Lincoln

Trong tâm sản sinh cảm xúc phụ diện, cần phải khai thông giải tỏa, giống như Lincoln đã dùng cách viết thư vậy.
Không có người nào trời sinh ra đã biết cách kiềm nén tâm trạng. Người giỏi khống chế tâm trạng thật sự, là bởi họ thường xuyên chú ý không muốn để bản thân rơi bị điều khiến bởi những cảm xúc tệ hại này.
Năng lực cần giữ chắc nhất chính là kiềm chế bản thân mình
Trong bộ phim “Bố già” (The Godfather) có một câu thoại nổi tiếng: “Đừng bao giờ để cho người ngoài gia tộc hiểu được suy nghĩ của anh”Không có người nào trời sinh ra là đã biết kiềm nén tâm trạng. Người giỏi kiềm nén tâm trạng thật sự, là bởi họ thường xuyên lưu ý không muốn để bản thân rơi vào cảm xúc tệ hại. Con người ưu tú thật sự, lấy công tác làm chủ, đặt cảm xúc ảnh hưởng đến đại cục sang một bên. Kiềm chế được cảm xúc, năng lực mới có thể có được thành tựu lớn nhất. .
Mỗi khi cơn giận kéo đến, phúc khí đều sẽ rời đi, tức giận là bản năng của con người, còn kìm nén cơn giận lại là bản lĩnh của chính bạn
Hàn Tín có thể chịu nhục chui háng, vậy nên đã thành tựu được đại nghiệp sau này, còn Trương Phi nhất thời không nén được cơn giận, để rồi dẫn đến cái họa sát thân, thật khiến người đời không khỏi tiếc than.
Mỗi một người đều có cảm xúc, nếu như khi gặp phải những chuyện không thuận tâm liền buông lơi cảm xúc, chỉ sẽ khiến cho vấn đề càng trở nên rối rắm phức tạp, tâm trạng suy sụp cũng giống như chiếc xe đang lao nhanh xuống dốc, nếu không biết đạp thắng cho xe dừng lại ngay lúc đó, chiếc xe có thể sẽ lao xuống khe núi, xe hỏng người chết cũng là điều khó tránh khỏi.
Thiện Sinh (biên dịch)

Vị tướng quân có tâm đại nhẫn nổi tiếng nhất 

lịch sử Trung Hoa, chịu nhục chui háng, ôm 

chí lớn



Hàn Tín là một chiến lược gia xuất chúng, đã lập nên một tượng đài cho hậu thế về lòng trung thành và đức hạnh của mình.

1604111936482669-300x410
Hàn Tín (sinh năm 231, mất năm 196 trước CN), là một vị tướng lỗi lạc của Trung Quốc cổ đại

Hàn Tín (231 – 196 TCN), là một trong những vị tướng lỗi lạc của Trung Quốc cổ đại, người đã có công lớn trong việc thiết lập triều đại nhà Hán (206 TCN – 202 SCN). Ông được người đời công nhận là một chiến lược gia quân sự tài ba, bất khả chiến bại, được xem là một trong “Tam kiệt” của nhà Hán cùng với Tiêu Hà và Trương Lương.
Hàn Tín mồ côi cha mẹ từ nhỏ, gia cảnh nghèo nàn, thường phải đi xin ăn, hoặc ra sông bắt cá đổi lấy lương thực. Hồi niên thiếu ông thường phải chịu cảnh bị khinh rẻ và nhục mạ. Tuy nhiên cũng có những người đối xử với ông rất tốt. Chuyện kể rằng có một thiếu phụ giặt áo ven sông thường cho cơm Hàn Tín. Hàn Tín rất cảm kích, tự hứa có ngày sẽ đền ơn thiếu phụ. Sau này, khi vinh quy bái tổ, Hàn Tín đã tặng thiếu phụ 1000 lạng vàng đền ơn cho cơm năm nào.

Chữ Nhẫn phi thường của Hàn Tín

Dù nghèo khó, Hàn Tín vẫn cố công chăm chỉ học tập chiến lược quân sự và ôm nhiều hoài bão lớn. Đồng thời ông cũng tỏ ra có nhiều tố chất khác người ngay từ thủa thiếu thời. Có một điển tích về việc Hàn Tín chịu nhục chui háng vẫn được truyền tụng muôn đời.
Hàn Tín rất giỏi võ và thường mang theo gươm bên mình. Một ngày, có một kẻ vô lại chặn đường ông trên phố và bảo ông “Trông ngươi giống một tên hèn nhát. Nếu không sợ chết, hãy lấy gươm của ngươi giết ta. Nếu sợ, thì hãy chui háng ta”. Hàn Tín biết mình có thể hạ gục tên vô lại nhưng cũng biết mình sẽ phải trả giá bằng mạng sống nếu giết hắn. Vì vậy cuối cùng thay vì chứng tỏ tài nghệ của mình, ông quyết định chui háng tên vô lại bất chấp mọi người xung quanh cười nhạo.

Điển cố về chuyện khả năng đại nhẫn phi thường của Hàn Tín. Kẻ vô lại tay chống nạnh và nói: ‘Không dám giết ta, vậy ngươi chui háng ta!’

Sau này, Hàn Tín thường dùng sự việc này để nhắc nhở mình, làm động lực thực hiện hoài bão. Câu chuyện này đã trở thành điển cố “Hàn Tín chịu nhục chui háng”, nói lên tâm đại nhẫn của bậc đại trí. Đó là một tính cách quan trọng của bậc trượng phu nếu muốn dựng nghiệp lớn trong đời. Sau này khi vinh quy bái tổ, Hàn Tín cũng không báo thù kẻ ấy, ngược lại còn cho anh ta vào làm lính trong quân của mình.

Hoàn thành hoài bão

800px-Hán_Xìn
Năm 209 TCN, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp Trung Quốc chống lại nhà Tần, khiến Trung Quốc rơi vào cảnh hỗn loạn. Khi Nhà Tần sụp đổ vào năm 206 TCN, tướng quân Hạng Vũ đã tự phong mình làm Tây Sở Bá vương, thống trị một vùng đất rộng lớn. Hàn Tín vào phục vụ cho quân đội của Hạng Vũ nhưng không được trọng dụng, chỉ làm lính canh. Vì vậy, Hàn Tín đã bỏ theo nhà Hán, về dưới trướng Lưu Bang, lúc này vẫn còn chưa lớn mạnh.
Tiêu Hà lúc bấy giờ là tể tướng của nhà Hán đã sớm nhận ra tài cầm quân của Hàn Tín. Ông đã tiến cử Hàn Tín lên Lưu Bang nhưng Lưu Bang không trọng dụng Hàn Tín, chỉ trao cho ông chức quản kho. Quá thất vọng nên Hàn Tín quyết định bỏ nhà Hán. Tiêu Hà nghe được vội vàng đuổi theo và thuyết phục Hàn Tín quay trở lại. Tiêu Hà nói với Lưu Bang “Hàn Tín là nhân tài hiếm có. Nếu ngài muốn duy trì giang sơn của mình như hiện nay thì không cần tới Hàn Tín. Nhưng nếu ngài muốn thống trị toàn bộ Trung Nguyên, chỉ Hàn Tín mới giúp ngài thực hiện được mộng bá vương này thôi”. Cuối cùng Lưu Bang cũng nghe theo lời khuyên của Tiêu Hà, bổ nhiệm Hàn Tướng làm đại nguyên soái.

Xây dựng triều đại mới

Trong vòng 4 năm từ năm 206 – 202 TCN, Hàn Tín đã sử dụng những chiến lược quân sự tinh vi giành được nhiều chiến thắng vang dội, chinh phạt rất nhiều quốc gia. Một lần, Hàn Tín đã dùng mưu cử nhiều lính tới sửa đường để đánh nước Ứng. Lúc đó nước Ứng tin rằng sẽ không có cuộc tấn công nào cho tới khi đường sửa xong, nhưng Hàn Tín đã tập kích đột ngột khiến nước này không kịp trở tay.
Cuối cùng là trận quyết định giữa nhà Hán và Sở. Năm 202 trước CN, Hạng Vũ thống lãnh 10 vạn quân Sở tấn công nhà Hán. Hàn Tín đã lập tức ra lệnh cho trung quân tạm rút lui, sau đó bí mật chia làm hai ngả tấn công từ bên sườn. Tiếp đó ông ra lệnh cho trung quân tiến lên, hoàn toàn khép chặt gọng kìm bao vây quân Sở.
Đến đêm, Hàn Tín lại ra lệnh cho quân từ các ngả hát các bài hát từ thời nhà Sở còn hưng thịnh khiến đội quân nhà Sở mất tinh thần chiến đấu, nhanh chóng bị tiêu diệt. Hạng Vũ thua trận phải tự vẫn, kết thúc cuộc chiến kéo dài 5 năm giữa nhà Sở và nhà Hán, cùng với đó là việc Lưu Bang thống trị toàn Trung Quốc.
Hàn Tín quả thực đã chứng minh được mình là nhà chiến lược quân sự thiên tài như Tiêu Hà dự đoán. Các nguyên tắc dùng quân của ông được các chiến lược gia sau này tán thưởng. Lịch sử ghi lại rằng Hàn Tín có viết 3 chương về nghệ thuật quân sự trong thời chiến nhưng đều đã bị thất lạc.
Lưu Bang phong Hàn Tín danh vị vua nước Sở, còn tự phong mình là hoàng đế nhà Hán, trở thành vị vua lập quốc của nhà Hán, gọi là Hán Cao Tổ.

Lòng trung thành của Hàn Tín


Hàn Tín được người đời sau ngưỡng mộ về sự thông tuệ, tính cách và những thành tựu ông đạt được trong đời. Ông còn được người đời tán tụng vì chữ nhẫn, lòng trung thành, can đảm và khoan dung.
Lòng trung thành của Hàn Tín thể hiện qua việc ông từ chối xưng vương một vùng, mà tận tâm phục vụ Lưu Bang. Ông từng thẳng thẳn bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm của mình tới Hoàng đế nhà Hán vì Hán cao tổ là người đã trọng dụng ông, cho ông cơm ăn áo mặc khi bần cùng khốn khó.
Trong thế giới quan của ông, vì sự tín nhiệm của người khác dành cho mình, thì phải cùng chia sẻ khó khăn hoạn nạn với họ. Vì cơm ơn áo mặc họ cho mình, phải lo cùng nỗi lo với họ và trung thành với họ cho tới chết. Ông sẽ không bao giờ vì danh vọng cá nhân mà phản bội lại quan niệm đạo đức của chính mình.

Bị vu oan tạo phản và bức tử

1604111936512669-300x576
Hàn Tín có niềm tin mãnh liệt vào Thần và thiên thượng, đó cũng là cơ sở của sự trung thành của ông với đế chế. Lưu Bang, sau khi trở thành Hán hoàng đế, một ngày hỏi Hàn Tín:
“Nếu ta cầm quân, ông nghĩ ta sẽ lãnh đạo được bao nhiêu vạn quân?”
Hàn Tín trả lời là 1 vạn. “Thế còn nếu là ông?”, Lưu Bang hỏi tiếp. Hàn Tín đáp lời “Càng nhiều càng tốt”. Lưu Bang bèn nói: “Nếu vậy, sao ông lại chịu phục tùng ta?”. Hàn Tín giải thích: “Vì ngài làm vua là ý của Thiên thượng và ngài có tài cầm tướng, không phải cầm quân“.
Tuy nhiên, Lưu Bang ngày càng trở nên ghen tị với tài năng và trí tuệ của Hàn Tín. Khi đã chinh phạt, thống nhất thiên hạ xong, Lưu Bang tước quyền cầm quân của Hàn Tín và giáng chức ông. Hàn Tín còn chịu kết cục bi thảm hơn thế khi tể tướng Hán triều, người đã nhận ra tài năng và tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang, đã thông đồng với Lữ hậu, vợ Lưu Bang vu oan Hàn Tín tạo phản. Họ lừa Hàn Tín vào cung, rồi bức tử, đồng thời còn tru di cả gia tộc ông.
Lê Anh (biên dịch từ Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh

Nhân quả báo ứng sau khi Trương Lương chết


Trương Lương khuyên nhủ Lưu Bang (Ảnh: Catherine Chang/Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh)

Sau khi Trương Lương chết được gần 10 năm, con trai Trương Lương liền bị tước chức vị, đến tận đời sau, gia tộc Trương Lương cũng không còn có nền nếp, gia phong.
Trương Lương và Trần Bình đều là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán, hai người đều thông minh và nhạy bén, giỏi về bày mưu tính kế, đều có công lao hiển hách trong việc dựng lập Tây Hán. Nhưng họ luôn hành động quá tuyệt tình, kết quả khiến cho con cháu bị rơi vào quả báo của ông trời.(Tây Hán, từ năm 206 TCN  đến năm 25 sau CN, kinh đô ở Tràng An (Tây An ngày nay))
Trần Bình từng thẳng thắn nói: “Ta là người giảo hoạt lắm mưu nhiều kế, điều này là không phù hợp với tư tưởng vô vi của Đạo gia”. Nhưng ông ta luôn giả bộ mình là người hiểu chuyện, bên trong lời nói thường xuyên biểu lộ ra một chút bi ai: “Con cháu ta sau này không có phúc phận rồi, bởi vì cả đời ta đã làm không ít việc xấu”. Quả nhiên, đến đời cháu đã rơi vào cảnh bị tịch thu hết tài sản, thật là ứng với chính lời tiên đoán của ông ta.
So với Trần Bình mà nói, khí phách tiết tháo của Trương Lương có phần tốt hơn một chút, dựa vào các mối quan hệ mà nói, ông không có quá nhiều tính toán với người khác, chỉ là Hán Cao Tổ Lưu Bang ngẫu nhiên mà tiếp thu sáng kiến mưu lược của ông ta, khiến cho tính sát thương có cơ hội được vùng vẫy mà thôi.
Trương Lương tính cách kiên cường khí khái, khi còn trẻ, vì để báo thù giết cha, ông cùng với đại lực sĩ đem theo chiếc trùy nặng 120 kg đến bãi cát Bác Lãng hành thích Tần Thủy Hoàng. Chiếc trùy này của Trương Lương thực sự đã được lưu truyền đến ngàn đời sau. Để đạt được mục đích giết Tần Thủy Hoàng, ông đã nương nhờ vào Lưu Bang, tận tâm tận lực bày mưu tính kế.
Lưu Bang trên đường tiến quân vào Hàn Dương, tại Nao Quan (nay thuộc huyện Thiểm Tây) gặp quân Tần ngoan cố chống cự. Trương Lương đề xuất ý kiến với Lưu Bang: “Khí thế của quân Tần đang hừng hực, không thể tiến công bằng sức mạnh, tạm thời không nên xuất đầu lộ diện nhằm làm tiêu hao đối phương”, về sau quân Tần lâu không tấn công, khí thế tan rã, lương thực thiếu thốn, đành phái người hướng về phía Lưu Bang mà cầu hòa, tình nguyện đầu hàng quân Hán, Trương Lương bày tỏ phản đối. Ông nói với Lưu Bang: “Người hàng nhưng tâm không hàng, tương lai tất thành hậu họa, chi bằng thừa thắng xông lên, chém tận giết tuyệt”.
Lưu Bang tiếp thu ý kiến của Trương Lương, tung binh kích Tần, quân Tần thất bại thảm hại, xác chết ngổn ngang, ngay cả tù nhân và thương binh cũng không được tha. Từ điểm này mà nhìn, Trương Lương quả thực hoàn toàn không nên làm việc quá mức như vậy. Việc này Hán Cao Tổ Lưu Bang nhất định có một phần trách nhiệm, nhưng Trương Lương cũng phải gánh vác phần lớn trách nhiệm.
Nước Sở và nước Hán tranh chấp, đôi bên đều cảm thấy mệt mỏi, Hạng Võ đề xuất, tự mình dẫn quân lính quay trở lại Giang Đông, cùng vua Hán chia đều Thiên hạ. Trương Lương lại khuyên bảo vua Hán: “Phóng thích Hạng Võ không khác gì thả hổ về rừng, Đại Vương hãy thừa thắng xông lên, lại có thể trừ bỏ được mầm mống tai họa”. Theo lý thuyết, Trương Lương vì Lưu Bang mà đề xuất một số chủ ý thì cũng không có gì đáng trách, nhưng mà tâm thái Trương Lương biểu hiện ra là tuyệt ác.
Sau khi Trương Lương chết gần mười năm, con trai của Trương Lương liền bị tước phong vị. Đến tận đời con cháu sau này, dòng họ Trương Lương cũng không đạt được gia phong. Số mệnh của đời con cháu Trương Lương và Trần Bình có chỗ giống nhau đến kinh người.
kinh_nhan_qua_59
Trần Bình và Trương Lương đã làm những việc quá ác, gây đại nạn và tai họa cho đời con cháu, người đời sau cũng nên lấy đó làm bài học cho mình mà tránh làm điều ác.
Mai Trà biên dịch

Từ một khai quốc công thần, vì sao Tiêu Hà 

phải nhận kết cục nghiệt ngã cuối đời?



Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.  
Tiêu Hà là thừa tướng khai quốc của nhà Hán. Ngày nay, sau hơn 2.000 năm, cái tên Tiêu Hà vẫn được người người biết tới. Có một câu nói rất nổi tiếng liên quan đến ông: “Thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà”. Xuất xứ của câu nói ấy thực ra là một câu chuyện dài… 
Cuộc đời Tiêu Hà được ghi chép lại trong “Sử ký” và lưu truyền ở “Hán thư”. Năm 202 TCN, sau khi chiến thắng Hạng Vũ, thiên hạ bắt đầu an định, Lưu Bang đại phong công thần. Khi ấy, ở Nam Cung Lạc Dương xảy ra một cuộc bàn cãi tranh công.
Kết quả, nói về công lao, Tiêu Hà đứng đầu. Xếp thứ bậc quan tước, lại là Tiêu Hà số một. Cuối cùng, Tiêu Hà không chỉ được phong làm Tán hầu, thực ấp 8 nghìn hộ, còn được hưởng vinh dự cực đỉnh là đeo kiếm lên điện, đường hoàng vào triều.
Tiêu Hà xuất thân văn lại, không chút công lao chiến trường, Lưu Bang lại khăng khăng đem Tiêu Hà xếp trên các võ tướng mặc giáp cầm binh, vào sinh ra tử. Quan nội hầu Ngạc Quân thấy các tướng không phục, bèn đứng lên nói rằng Tiêu Hà là công lao vạn thế, mà các võ tướng chỉ là công lao một ngày. Lời nói này tuy có chút khoa trương, cũng không có gì không hợp với ý của Lưu Bang, nhưng luận về công lao khai cơ dựng nên nhà Hán, Tiêu Hà thực sự công quả không phai mờ.
Chế định luật pháp 9 chương cho nhà Hán
Sử chép, Tiêu Hà sinh ra do cảm ứng Mão tinh. Mão tinh, chủ về chuyện ngục sự. Sao Mão tinh sáng thì thiên hạ tố tụng, ngục tù công bằng. Sao Mão tinh tối thì thiên hạ hình phạt lạm dụng bừa bãi. Thời Tần, Tiêu Hà làm Đao bút lại, thời Hán làm Thừa tướng. Ông căn cứ theo luật nhà Tần, đặt ra luật pháp 9 chương cho nhà Hán, giải quyết các sự việc tố tụng, ngục tù trong thiên hạ, thực sự ứng với điềm báo của sao Mão tinh.
Năm 209 TCN, Lưu Bang khởi binh ở huyện Bái, Tiêu Hà dốc sức giúp Lưu Bang làm Bái Công. Tiêu Hà đi theo Lưu Bang cũng chẳng phải đơn thương độc mã, mà đem theo mấy chục người họ hàng thân quyến. Sau này hai quân Hán Sở đối đầu, lúc quân Hán nguy cấp, Tiêu Hà huy động tất cả con cháu, anh em mình, hễ ai có thể tòng quân được đều đưa ra tiền tuyến, có thể nói lòng trung sáng soi.
Tháng 10 năm 207 TCN, Lưu Bang đánh vào Hàm Dương. Tần vương Tử Anh xin hàng. Các tướng vào đến cung Hàm Dương, nhao nhao chạy đến các phủ khố cất giữ tài sản, vàng lụa, bận rộn cướp đồ quý báu trong cung Tần. Tiêu Hà lại vội vàng vận chuyển luật lệnh, bản đồ, sách ở phủ Thừa tướng và Ngự sử nước Tần. 
Sau khi Hạng Vũ vào quan, Lưu Bang đem hết các báu vật trong cung Tần kê biên niêm phong lại, để lại hết cho Hạng Vũ. Nhưng ông lại đem hết thư tịch, bản đồ mà Tiêu Hà thu được về Hán Trung, trong đó không chỉ có luật pháp nước Tần còn có sách của Bách gia, “Kinh thi”, “Thượng thư” vốn đã bị đốt sạch ở dân gian. Ngoài ra còn có nhiều tư liệu quan trọng liên quan đến địa hình, quan ải, quận huyện, hộ khẩu, dân sinh, kinh tế trong thiên hạ. Đó chính là nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng để sau này quân Hán tiến về phía đông tranh thiên hạ cùng quân Sở. 
Sau khi quân Hán bình định Tam Tần, Lưu Bang và chư hầu tiến về phía đông đánh Sở. Tiêu Hà ở lại giữ Quan Trung, phò tá Thái tử, cai quản Lịch Dương. Ông dựng tông miếu xã tắc, đặt ra luật pháp điều lệnh, xây dựng cung thất, quản lý huyện ấp, vỗ yên bách tính, ổn định hậu phương. Điều ấy khiến cho quân Hán tuy ở trong thời gian dài ở yếu thế nhưng quân lương không đứt, nguồn binh sĩ không gián đoạn. Cuối cùng, lại nhờ tài năng trác tuyệt của Hàn Tín ở tiền tuyến, quân Hán lấy yếu thắng mạnh, giành được thắng lợi cuối cùng trước một Hạng Vũ thiên hạ vô địch.
Những việc ấy có thể nói lao khổ công cao nhưng sở dĩ nói “Thành cũng Tiêu Hà” chính là bởi Tiêu Hà đã vì triều Hán mà tiến cử Hàn Tín, danh tướng kiệt xuất, người duy nhất khi ấy có thể đánh bại Hạng Vũ, giành về thiên hạ cho Lưu Bang. 

Tiêu Hà dưới trăng đuổi theo Hàn Tín.

Tiến cử quốc sĩ, dưới trăng đuổi Hàn Tín 
Năm 206 TCN, Lưu Bang được phong làm Hán vương, dẫn mấy vạn quân Hán, theo đường Tử Ngưu vào Hán Trung. Trong quân Hán phần nhiều có người đất Sở. Quân sĩ nửa đường đào ngũ bỏ trốn rất đông. Đại quân đến Nam Trịnh, có người đến báo cho Tiêu Hà, Trị túc đô úy Hàn Tín cũng đã tự bỏ đi. Tiêu Hà nghe báo, không kịp hỏi ý kiến Lưu Bang, vội vàng đuổi theo.
Hàn Tín vốn có chí lớn, mưu cao mà Lưu Bang không nhìn ra. Điểm này cũng không trách Lưu Bang được. Nó giống như lấy tầm nhìn của chim yến, chim sẻ vốn chỉ ở trong bụi rậm mà đo chí chim hồng, chim hộc tung cánh giữa trời cao vậy. Do đó, tuy ban đầu đã có Đằng Công, sau lại có Tiêu Hà dốc sức tiến cử, Lưu Bang vẫn chỉ cho Hàn Tín làm Trị túc đô úy, hỗ trợ Tiêu Hà xử lý việc quân lương. Hàn Tín tự thấy ở lại trong quân Hán thì không thể thi triển chí mình, nên mới quyết định bỏ đi.
Tiêu Hà đuổi kịp mời Hàn Tín quay trở lại, lập tức đi gặp Lưu Bang. Lưu Bang lúc đó tuy không thể nhìn ra hùng tài của Hàn Tín nhưng lại coi Tiêu Hà là cánh tay của mình, không thể rời xa một khắc. Thế là đối với can gián của Tiêu Hà, nói là nghe theo. Tiêu Hà nói Hàn Tín là bậc quốc sĩ vô song, Lưu Bang lập tức tỏ ý bái Hàn Tín làm tướng. Tiêu Hà nói, bái làm tướng thì quá nhỏ, muốn bái thì phải bái làm Đại tướng, Lưu Bang lập tức tìm Hàn Tín bái làm Đại tướng.
Tiêu Hà nói, bái Đại tướng không phải trò trẻ con, cần lập đàn, trai giới, chọn ngày, làm lễ. Lưu Bang vốn rất ghét sự phiền nhiễu của lễ nghi phép tắc, lại bất ngờ cười to đáp ứng. Cho đến ngày bái tướng, Hàn Tín đem sách lược lớn lên phía bắc bình định Tam Tần, tiến sang đông tranh thiên hạ đưa ra, Lưu Bang mới hết sức mừng rỡ và hối hận. Mừng rỡ vì có được bậc quốc sĩ vô song này, hối hận vì suýt mất một Đại tướng hùng tài.
Do đó nhìn lại nửa đời trước của Tiêu Hà, thực sự đã lập công lao hiển hách cho triều Hán, cuối cùng địa vị cao tột đỉnh của kẻ bề tôi, danh thành công toại. Chỉ đáng tiếc, Tiêu Hà không giữ được “Thành” cho đến trọn đời, mà lại để “Bại cũng Tiêu Hà” trở thành chân dung cuối đời của mình.

Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang. Ảnh dẫn theo lishixinjie.com

Cúi đầu trước Lã Hậu, lừa Hàn Tín vào cung
Năm 196 TCN, Triệu tướng quốc Trần Hy khởi binh tạo phản ở đất Đại, Lưu Bang đi chinh phạt. Một hôm, Lã Hậu triệu Tiêu Hà vào cung, nói với ông ta rằng Hàn Tín và gia thần âm mưu, làm nội ứng cho Trần Hy, mưu hại Lã Hậu và Thái tử. Đoạn, lệnh cho Tiêu Hà lừa Hàn Tín vào cung Trường Lạc  để giết. 
Tiêu Hà nghe lệnh, cảm thấy thật khó xử. Ông vốn biết Hàn Tín, cái ơn một bát cơm còn đem nghìn vàng báo đáp, cái nhục chui háng còn lấy đức báo. Làm người như vậy tất không có lòng làm phản. Lùi một bước mà luận, Hàn Tín lúc đó giữ binh đất Tề, quyền thiên hạ trong tay, nếu nói mưu phản, thì dễ như trở bàn tay.
Nhưng Hàn Tín lại kiên trì cho rằng, bội tín sẽ mang lại điềm xấu, nên không nghe theo lời can gián của Vũ Thiệp, Khoái Triệt, không mưu đồ tam phân thiên hạ. Cớ sao sau khi Lưu Bang nhất thống giang sơn, thiên hạ đại định, lại có thể làm phản cơ chứ? Lại lùi thêm một bước mà xét, đầu thời Hán, Hàn Tín được phong làm Sở Vương, ở đất Sở quê nhà, chính là hùm thiêng ở chốn sơn lâm.
Nếu làm phản, sao không nhân lúc đó liên kết với Hoài Nam vương Anh Bố, Lương vương Bành Việt mà mưu sự. Cớ gì Hàn Tín lại phải đợi đến lúc ở Trường An, bị giam lỏng, cáo bệnh không vào triều đã 6 năm để mưu phản đây? Chưa kể, kẻ ngoại ứng khi ấy chỉ là một viên tướng xoàng ở mãi đất Đại xa xôi, trong ứng ngoài hợp làm sao nổi? Do đó lời nói của Lã Hậu, cả về tình, về lý đều không thông. 
Nhưng lúc này, Tiêu Hà lại không thể nói giúp cho Hàn Tín một câu. Tiêu Hà biết rõ cái họa của Hàn Tín thực sự là do công cao mà bị Lưu Bang, Lã Hậu nghi kỵ. Ngay từ 6 năm trước, Lưu Bang theo kế Trần Bình, khi giả du ngoạn Vân Mộng đã nảy ý giết Hàn Tín. Cuối cùng việc không thành là do Lưu Bang sợ uy vọng của Hàn Tín lớn, do dự mãi không quyết.
Nhưng Lã Hậu độc đoán chuyên chế, so với Lưu Bang thì nham hiểm vượt xa nhiều. Tiêu Hà tự liệu rằng, nếu không nghe lệnh bà ta e sẽ có mối lo về tính mạng. Cuối cùng, Thừa tướng nhà Hán uy thế lẫy lừng đã phải chịu khuất phục trước cái uy, cái độc ác của Lã Hậu, cắn răng mà lừa Hàn Tín vào cung.
Tiêu Hà vờ nói Trần Hy đã bị tiêu diệt, Lưu Bang khải hoàn, muốn Hàn Tín dù mang bệnh cũng vào chúc mừng. Hàn Tín tuy giỏi binh thiện chiến, nhưng lòng dạ quang minh lỗi lạc, không nghĩ đến Tiêu Hà sẽ lừa dối mình. Nhưng sau khi Hàn Tín vào trong nhà chuông ở cung Trường Lạc thì đã không còn trở ra nữa. Lã Hậu không chỉ giết Hàn Tín, mà còn tàn độc tột bậc, chu di tam tộc ông. 
Tiêu Hà bị Lã Hậu cho vào tròng, đã mưa hại Hàn Tín, người mà Lưu Bang ngày đêm “sợ tài năng của hắn”. Nhưng Tiêu Hà tuy có hiền năng tiến cử nhân tài, có cơ trí nhận biết thời cuộc, tuy có tài năng trị quốc nhưng lần này lại không thể dự tính chu toàn được. Cái chết của Hàn Tín cũng là bước ngoặt cuộc đời ông. 

Tiêu Hà bị Lã Hậu cho vào tròng, đã lừa Hàn Tín vào cung khiến cho Lã Hậu hại chết Hàn Tín. Ảnh dẫn theo Ydvn.net

Bị Lưu Bang nghi kỵ
Lưu Bang nhanh chóng biết tin. Khi ấy vẫn chưa kết thúc chiến sự đất Đại, liền sai người biểu dương công lớn Tiêu Hà, không chỉ gia phong thêm 5 nghìn hộ, còn bái làm Tướng quốc và phái 1 đô úy cùng 500 binh sĩ ngày đêm bảo vệ phủ Tướng quốc. Đúng lúc Tiêu Hà đang ở phủ mở đại yến đãi khách, thì Triệu Bình một mình đến thăm viếng. 
Triệu Bình là Đông Lăng hầu của nước Tần. Tần vong, Bình lưu lạc thành kẻ áo vải, ở phía đông thành Trường An trồng dưa sinh sống. Triệu Bình nói với Tiêu Hà đại họa sẽ bắt đầu từ đây. Phong thưởng của vua không phải là ân sủng, mà là vỗ yên. Nha binh phái thêm, không phải là bảo vệ, thực tế là giám sát.
Cái chết của Hoài Âm hầu Hàn Tín, không làm cho Tiêu Hà được Lưu Bang tin tưởng hơn mà càng gây thêm sự nghi kỵ cho Lưu Bang. Cái đạo tránh họa bây giờ, chỉ có khước từ phong thưởng, đồng thời hiến hết tải sản cá nhân trong nhà, tất cả đều đem cho quân sử dụng. Tiêu Hà y theo kế hành sự, tuy gia tài tiêu tán hết những đã bảo được cái mạng nhất thời yên ổn.
Nhưng không bao lâu sau, tháng 7 năm đó, Hoài Nam vương Anh Bố khởi binh. Lưu Bang lại xuất binh thảo phạt. Trong thời gian đó mấy lầm sai người nghe ngóng Tướng quốc Tiêu Hà đang làm gì. Có mưu sĩ nói với Tiêu Hà rằng: “E là không lâu nữa ngài sẽ phải chịu cái họa diệt tộc. Địa vị ngài làm đến Tướng quốc, đã là tột bậc của kẻ bề tôi, không thể tăng thêm nữa. Mà ngài thay vua xử lý việc quốc gia, mười mấy năm đến nay, rất được lòng dân.
Ngày nay vua đã nhiều lần nghe ngóng tình hình của ngài, là lo lắng ngài ra lệnh một tiếng, sẽ nghiêng ngả Quan Trung, mà thiên hạ sẽ không còn của họ Lưu nữa. Kế sách hiện nay, ngài chỉ có tự làm ô uế thanh danh, cưỡng ép mua rẻ ruộng bách tính, Hoàng đế mới có thể yên tâm. Tiêu Hà y theo kế hành sự, Lưu Bang quả nhiên mừng lắm, cho là Tiêu Hà không đáng lo nữa”. 

Tiêu hà tự làm ô uế thanh danh, Lưu Bang cảm thấy Tiêu Hà không còn đáng lo nữa. Ảnh dẫn theo roll.sohu.com

Rất mau chóng, Lưu Bang tiêu diệt phản quân của Anh Bố, trở lại Trường An. Quả nhiên thấy bách tính đầy đường kêu oan, tố cáo Tướng quốc cưỡng ép mua rẻ ruộng của bách tính. Sau khi Lưu Bang hồi cung, đem tất cả các tố cáo ném cho Tiêu Hà để ông tự giải thích với bách tính, mà trong lòng Lưu Bang lại thấy dễ chịu kỳ lạ.
Điều này không qua được mắt Tiêu Hà. Tiêu Hà biết Lưu Bang thấy uy vọng của ông đã mất, trong lòng sẽ vô cùng vui vẻ, Mà bản thân Tiêu Hà cũng thở phào nhẹ nhõm, thoạt nghĩ nên nhân lúc Lưu Bang trong lòng vui vẻ nên nói mấy lời. Thế là Tiêu Hà bước đến gần Lưu Bang nói, lấy đất trống ở Thượng lâm uyển chia cho một số bách tính làm đất ruộng. 
Nhưng lời nói chưa dứt, họa từ miệng mà ra. Lưu Bang nghe thấy Tiêu Hà lại xin cho dân, nghi kỵ bỗng nảy sinh. Ông cho rằng Tiêu Hà lại muốn dùng đất của Hoàng gia để giành lòng dân. Lưu Bang mắng Tiêu Hà tại sao nhận hối lộ của thương nhân, muốn lấy đất ở vườn thượng uyển của Hoàng gia để mưu lợi cá nhân. Đoạn giao Tiêu Hà cho Đình úy, đeo gông cùm, nhốt trong đại lao.
Sau đó, trong triều có người khuyên gián Lưu Bang nói, Tiêu Hà nhiều năm trấn thủ Quan Trung, bệ hạ nhiều năm chinh chiến bên ngoài. Tiêu Hà nếu làm phản thì Quan Tây đã không phải của bệ hạ từ lâu rồi! Lưu Bang nghe lời đó, tuy trong lòng không vui, cuối cùng thấy giam Tiêu Hà trong đại lao có phần không thuyết phục, thế là lại phóng thích Tiêu Hà. 
Lúc đó Tiêu Hà đã ở tuổi hoa giáp (60 tuổi). Tuy đại nạn không chết nhưng lòng còn run sợ. Từ đó về sau, Tiêu Hà tuy vẫn tiếp tục ở trong triều làm Thừa tướng nhưng lặng lẽ ít nói, chỉ còn biết cung kính cẩn thận tự bảo vệ mình, run rẩy lẩy bẩy, không còn phách lực năm xưa. Không lâu sau, Lưu Bang chết.
Hơn một năm sau, Tiêu Hà cũng hấp hối trên giường bệnh. Hiếu Huệ Đế đến hỏi Tiêu Hà sau khi trăm tuổi thì ai có thể làm Thừa tướng mà Tiêu Hà dường như vẫn còn run sợ, không dám nói nhiều. Cho đến khi Hiếu Huệ Đế tự nói ra tên Tào Tham, Tiêu Hà mới gật đầu tỏ ý tán đồng. 
Kinh thi có câu: “Mị bất hữu sơ, tiển khắc hữu chung” (Ban đầu không tốt, hiếm mà có hậu). Cổ nhân cho rằng người và vật đều cần phải có thủy, có chung, khởi đầu tốt mà kết thúc cũng phải có hậu, trước sau như một. Nhưng con người sống trên đời có mấy ai trải qua hết phong ba bão táp mà vẫn kiên trì giữ được thiện tín trong lòng đây, mà không biến đổi đây?
Ví như Tiêu Hà, công lớn như thế, dựng mở cơ nghiệp giúp đế mệnh, lo cho quốc gia phụng sự việc công, mà lại tỏ ra u tối trong mỗi lần đứng trước khúc rẽ đường đời. Ông thực đã khiến bản thân gần tới điểm cuối cuộc đời viên mãn bỗng quay ngoắt rơi thẳng xuống vực sâu ân hận. Tiêu Hà trong những năm tàn sau kiếp nạn, vác gánh nặng này, cũng làm cho bản thân mình trở thành kẻ câm điếc. “Thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà” chính là một lời than thở ngàn năm, đến nay truyền miệng ngàn đời, có sức cảnh tỉnh con người.
Có bài thơ rằng:
Thành cũng Tiêu Hà
Bại cũng Tiêu Hà
Dẫn đường chỉ lối
Khai quốc công thần
Giỏi dụng hiền tài
Cung đình hoàn thiện
Đặt luật chín chương
Hậu thế noi gương
Tiếc thay Mão tinh
Nhất thời mê muội
Nhầm giúp Lã Hậu
Hại chết lương tài
Bảo trọng chưa xong
Lại gây họa mới
Tán tài từ phong
Ô danh tự rớt
Giả dối chốn đâu
Như ngồi vạc dầu
Đạo nghĩa chẳng giữ
Sao gọi hiền minh?
Chẳng như ban đầu
Khó mà có hậu
Thành cũng Tiêu Hà
Bại cũng Tiêu Hà
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Nam Phương biên dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét