CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 9

(ĐC sưu tầm trên NET)
25- Descartes
1596-1650
Pháp
Toán Học
Descartes_1547.jpg
Thời đại Triết học thế kỷ XVII
Lĩnh vực Triết học phương Tây
Trường phái Chủ nghĩa Descartes,
Chủ nghĩa duy lý lục địa
Sở thích Siêu hình học, Nhận thức luận,
Khoa học tự nhiên, Toán học
Ý tưởng nổi trội Tôi tư duy, nên tôi tồn tại,
Phương pháp nghi ngờ,
Hệ tọa độ Descartes,
Thuyết nhị nguyên Descartes,
Luận cứ bản thể học về sự tồn tại của Chúa trời;
Được xem là người đặt nền móng cho Triết học hiện đại
 


SỰ NGHI NGỜ HAY HOÀI NGHI CỦA DESCARTES

SỰ NGHI NGỜ HAY HOÀI NGHI CỦA DESCARTES
SUSPICION OR SKEPTICISM OF DESCARTES
TÓM TẮT
Con đường đi vào khai phá nền văn minh nhân loại không thể bỏ qua những thành tựu của triết học. Trong lịch sử phát triển của mình, con người đã để lại những tên tuổi nỗi tiếng với những học thuyết có giá trị đích thực. Descartes đã góp phần mở ra một cuộc cách mạng trong nền triết học Tây Âu cận đại. Với sự nghi ngờ hay hoài nghi của mình, ông đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề lý luận đặt ra. Qua đó đã khẳng định vai trò của lý tính, tính chân thật của Cogito đối với những thành tựu khoa học cũng như đối với những nhận thức về hoạt động của con người trong thế giới của chính mình và trong tự nhiên vô cùng tận.

ABSTRACT
The road to explore the human civilization can not ignore the achievements of philosophy. In its history, people have to leave the celebrities with the doctrine of the true value. Descartes has helped usher in a revolution in the modern Western philosophy. With doubt or suspicion, he has helped solve many theoretical problems posed. Which confirms the role of reason, the veracity of the cogito of scientific achievements as well as for the perception of human activity in their own world and naturally endless.

1. Mở đầu.
Người nỗi tiếng là triết gia sẵn sàng nghi ngờ tất cả, kể cả sự tồn tại của thân xác chính mình. Cogito ergo Sum – Tôi tư duy nên tôi tồn tại, câu nói nỗi tiếng ấy đã đưa nhà bách khoa vĩ đại người Pháp, Rene Descartes đi vào sử sách các triết gia vĩ đại của thế giới. Cùng với Francis Bacon, Descartes đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học Tây Âu cận đại, đã góp phần phê phán mạnh mẽ những tư tưởng của giáo hội và kinh viện, mong muốn xây dựng một hệ thống triết học và khoa học mới.
Để kiểm chứng sự chân thực và chắc chắn của tri thức khoa học, sự tồn tại của các sự vật quanh chúng ta. Descartes đã đề xuất phương pháp nghi ngờ độc đáo và vô cùng sinh động. Nghi ngờ ngay cả sự tồn tại hữu hình của thân thể, các giác quan chỉ là sự lừa dối bản thân, lý tính mới chân thật nhưng lại cũng không chắc chắn như vậy, mọi thứ đều đáng nghi ngờ. Chỉ có một điều duy nhất không thể nghi ngờ và là điểm mấu chốt của triết học Descartes là chúng ta không thể nghi ngờ rằng chúng ta đang nghi ngờ.
2. Vài nét về chủ nghĩa hoài nghi.
Thế giới vô tận đã khiến cho con người ngày càng tò mò tìm kiếm các quy luật, các nguyên lý chắc chắn và chân thực. Những thành tựu tìm được cho đến ngày nay vẫn chỉ là hạt bụi trong vũ trụ sâu thẳm và vô tận. Không ít người trở nên bực tức và chuyển sự bực mình ấy đến tất cả những người xung quanh, họ được gọi là những nhà hoài nghi, những người luôn tin rằng họ không thể biết được một điều gì chắc chắn cả. 500 năm Trc CN Heraclitus đã công nhận rằng thế giới là không thể nhận biết được vì nó luôn biến dịch. “Đó là lý do bạn không bao giờ có thể bước hai lần xuống cùng một dòng sông
Đới với Cratylus (400 Trc CN) thì cho rằng:
“Không phải, bạn thậm chí không thể bước xuống cùng một dòng sông trong một lần nào hết! Cả nó lẫn bạn đều biến dịch, khiến cho những từ như  cùng một bạn không hề có ý nghĩa đúng thật”. Ông đã đi đến nghi ngờ cả những lời nói được phát ra từ chính miệng của mình, lời nói ấy đã thay đổi ngay khi rời khỏi miệng và đến tai người khác, thay vì nói ông đã dùng ngón tay ve vẫy để biểu đạt những ý mình muốn nói.
Đối với trường phái Pyrrho thì sự nhận thức đúng đắn sẽ không bao giờ đạt được, có được. Mọi hiện tượng chỉ là sự lừa dối, do vậy, nó chỉ có tính tương đối vì mỗi con vật sẽ có những cách nhìn về thế giới là khác nhau, chắc gì con người nhìn về thế giới là đúng đắn! Con người nhìn một chiếc tàu ở khơi xa, nếu một người đứng trên bờ biển anh ta sẽ cho rằng con tàu thật to lớn nhưng một người đứng trên mõm đá cao thì anh ta lại bảo con tàu chỉ nhỏ bé mà thôi. Vậy thực chất con tàu kia lớn hay nhỏ? Làm cách nào để ta biết được ai đã đúng? Là những người dạy học ở Viện Hàn Lâm của Plato do vậy họ đều có những tư tưởng gần với Plato: Tất cả những gì ta thực sự biết được là ta không biết gì hết!
Nhưng ngược lại nếu ta đồng ý với một tri thức nào đó là chân thực và đúng đắn thì cần phải có một chứng cứ nào đó cũng cần sự chân thực và đúng đắn để chứng minh điều đó. Nhưng bản thân chứng cứ đó lại cần một chứng cứ khác đễ chứng minh độ chân thực của chính nó, và cứ như thế đến tận mãi vô cùng, vô cực và “cái chuỗi đảm bảo vô tận một cách phi lý” này cho thấy con người sẽ không bao giờ có thể sở hữu được tri thức đảm bảo hay chắc chắn cả.
Tuy nhiên, trường phái này lại không hề hoài nghi sự tồn tại của thế giới vật lý, họ đồng ý “Nhận thức của con người là hết sức bị giới hạn. Chỉ có sự mặc khải thần linh từ Thượng đế mới có thể khai mở chân lý của chúng ta.  Đối với Thánh Augustine, “Con người phải khiêm tốn và phải có ý thức về những hạn chế ngẹt nghèo đối với những gì họ có thể biết được.
David Hume (1711- 1776) đã đưa ra luận cứ về lý do tại sao con người chúng ta lại muốn đặt câu hỏi về sự đáng tin cậy  của tri giác. Theo ông, chúng ta không thể biết điều gì về thế giới bên ngoài. Để biết được điều đó trừ khi chúng ta biết được những dữ liệu cảm giác của chính chúng ta vế thế giới bên ngoài. Nhưng thật sự chúng ta không có một cách nào để chứng minh mối liên quan giữa dữ liệu cảm giác của ta và thế giới bên ngoài. Do đó, ta không có cách nào để chứng minh rằng dữ liệu cảm giác của ta đại diện cho thế giới bên ngoài và "điều đó" có nghĩa rằng ta không có cách nào để chứng minh tri giác là đáng tin cậy.
3. Sự hoài nghi của Descartes.
Kế tiếp những nghi ngờ trong đầu các bậc tiền bối của mình. Descartes (1596 - 1650) đi tìm tính chân lý của sự chân thực đúng đắn qua một phương pháp mang tính riệng biệt tạo thành một phương pháp hoài nghi Descartes.
Descartes đã thể hiện sự triệt để trong sự hoài nghi của bản thân mình. Trong “Những suy niệm siêu hình học,1641, ông đã sử dụng sự nghi ngờ quyết liệt hơn và đặt ra hàng loạt những câu hỏi tàn nhẫn về mọi sự vật hiện tượng, và ngay cả đối với sự vững chắc của toán học…đi đến khẳng định: “Chỉ có một sự đặc biệt không thể nghi ngờ - tức là điều mà con người bao giờ cũng có thể biết với sự chắc chắn tuyệt đối. Sự nghi ngờ ấy đã trở nên giống như một phương pháp được dùng phổ biến được gọi là phương pháp nghi ngờ của Descartes.
Trong bức thư gửi cho bạn mình Descartes đã giải thích phương pháp nghi ngờ bằng một ví dụ sống động. Bạn hãy tưởng tượng rằng bạn có cả một đống những quả táo cần phải cất giữ cẩn thật. Nếu bạn là người khôn ngoan thì bạn sẽ biết rằng tất cả các quả táo bạn định cất giữ phải thật sự tốt, vì nếu có một quả bị hỏng, bị thối thì nó sẽ “lây nhiễm” sang những quả còn lại. Vì vậy, bạn phải thẳng tay bỏ đi một cách không thương tiếc dù nó chỉ là một sự trầy xướt nhỏ, nó đã không còn thích hợp.Từ đó ông đi đến luận điểm: “Bạn hãy khảo sát mọi nhận thức của con người để xem nó có thể bị nghi ngờ không. Nếu là nó đáng  ngờ, tức là bị lây nhiễm thì vứt bỏ ngay không thương tiếc vì đã hỏng. Quả táo còn lại thật sự trong cái giỏ mà Descartes lựa chọn phải là quả táo thật đặc biệt, nó thật hoàn hảo, là nhận thức mà không thể nghi ngờ. Nếu như vậy thì không tài nào có thể nghi ngờ được hết tất cả sự nhận thức của con người, mọi thành quả của khoa học sẽ tốn quá nhiều thời gian để xem xét lại. Để tránh được vấn đề khó khăn ấy, ông bắt đầu tìm đến câu hỏi: “Mọi nhận thức của con người là từ đâu đến? Tôi thấy có hai nguồn gốc của nhận thức: Các giác quan của ta và lý trí của ta. Sự nhận thức về thế giới, về cuộc sống xung quanh sẽ đến từ năm giác quan, còn nhận thức về toán học, logic học sẽ đến từ lý trí. Nhưng liệu bản thân hai nguồn nhận thức này có đáng nghi ngờ hay không?  Ông bắt đầu nghi ngờ những giác quan của mình, các giác quan của chúng ta không thể nào tin cậy được, nó đã bị “con quỷ vô hình khống chế, đánh lừa, không thể tin cậy như nguồn gốc của nhận thức đúng đắn được. Chúng ta không thể chấp nhận trong sương mờ của buổi sáng sớm, trước mặt ta là hình tượng một con người, ta cố gọi họ đợi ta đi cùng nhưng thật sự không phải như vậy, nó chỉ là một tảng đá khi ta đến gần và nhận ra điều đó! Thật sự đôi mắt đã lừa dối chính bản thân chúng ta, ngay cả bây giờ ta vẫn không thể tin rằng trước mặt ta là một tảng đá! Không có cách nào đáng tin cậy để biết chắc rằng cái nào là chân thực, đúng sự thật và cái nào là giả dối cả.
Nhưng chính ông cũng bao biện một điều là không phải bao giờ các giác quan của chúng ta cũng sai lầm, nó đã lừa dối nhưng cũng chính nó đã cho chúng ta biết đó là tảng đá chứ không phải là con người như chúng ta nghĩ, nếu nó bao giờ cũng luôn không chân thực và đúng đắn thì bấy lâu người ta không thể tồn tại. Nhưng các thông tin đến từ giác quan thật đáng nghi ngờ cần phải loại bỏ ra khỏi “giỏ táo. Làm sao mà chúng ta có thể dể dàng tin rằng trên tay bạn đang cầm một cây bút mà không phải là một cái thước hay chỉ là một cái chổi? nếu thật đúng như vậy bạn lấy gì để chứng minh điều đó? Descartes đã cảnh báo rằng bạn sẽ không bao giờ có thể chững minh được điều đó trong “luận cứ nằm mơ của mình. Nhận thức thật sự đáng tin cậy phải đến từ lý tính, từ suy nghĩ chứ không phải đến từ các giác quan đáng nghi ngờ của mình, cũng chính điều này đã giúp ông trở thành một nhà triết học duy lý.
Plato đã đồng ý với ý kiến này. Từ 2000 năm trước ông đã cho rằng chỉ có nhận thức do lý tính tạo ra mới thật sự ổn định và đáng tin cậy. “Con người chúng ta vẫn luôn có thể chắc chắn về toán học, hình học và logic học. Nhận thức như thế là thuần túy và tất yếu. Hai cộng hai sẽ và sẽ mãi mãi bằng bốn, điều này không thể nghi ngờ, nó là sự “miễn nhiễm so với luận điểm của Descartes.
Descartes vẫn nghi ngờ sự chân thực ấy, ông  không đồng ý điều mà Platon đã đưa ra. Tất cả đối với Descartes đều phải nghi ngờ, cho dù đó là toán học hay là logic học. Tại sao nhiều lúc ta vẫn phạm những sai lầm khi 9 x 9 = 72 hay một kết quả nào khác mà không phải là 81? Thế thì làm sao chúng ta biết được chúng ta sẽ không mắc những sai lầm trong mọi lúc! “Có thể rằng trong lịch sử chúng ta đã làm toán học một cách sai lầm. Nếu 2+2 thực ra bằng 5 hay bằng 3 mà không phải bằng 4, như vậy sao gọi nó là toán học được, “thậm chí ta không thể đảm bảo rằng ta có cơ thể nếu đó là toán học “ta chỉ đảm bảo là ta chỉ có tinh thần. Cuối cùng Descartes nghi ngờ cả trong mọi nhận thức “thuần túy nhận thức bằng lý tính của mình. Sự nghi ngờ đã ở chính sự lý giải, phân tích thông tin mà thị giác chúng ta mang lại. Thị giác đã không lừa dối chúng ta mà chính sự lý giải sai lệch ấy đã làm cho chúng ta vội gọi một tảng đá chứ không phải là con người.
Cứ mãi trong sự hoài nghi đầy rối ren và luẩn quẩn Descartes đã phát hiện ra một điều rất lạ thường làm nên triết học của mình. Luôn luôn có một điều ông không thể nghi ngờ được, đó chính là việc ông đang nghi ngờ. Sự nghi ngờ ấy không thể diễn ra, xảy ra trong một khoảng không nào cả mà phải có một ý thức tinh thần làm điều đó. Vì thế ông không thể nghi ngờ rằng ông đang tồn tại.
“Cogito ergo Sum - Tôi tư duy nên tôi tồn tại
“Trong khi tôi có thể cho rằng tôi không có thân thể và thế giới cũng không có nốt… thì tôi lại không thể cho rằng tôi không tồn tại. Tôi đã nhìn ra điều này từ sự kiện đơn giản là tôi đang nghi ngờ sự thật của những sự vật khác. Dó đó, chúng ta càng nghi ngờ bao nhiêu thì thực chất bạn lại xác nhận bấy nhiêu. Đó là một sự thật, một chân lý đã không hề phụ thuộc vào các giác quan của chúng ta, nó đã tránh được sự nhẫm lẫm của một con quỹ vô hình. “Ngay cả con quỹ ấy cũng không thể làm ta nghi ngờ về sự nghi ngờ. Nghi ngờ là một sự tư duy hết sức đặc biệt”. Descartes đã có một quả táo hết sức hoàn hảo, không thể nào nghi ngờ được sự chân thật của nó để đặt vào giỏ. “Rút cuộc tôi nghĩ rằng  nó là một chân lý tất yếu phi thời gian, nhưng do sự sử dụng có tính hạn chế của Cogito, nó mang tính cá nhân, riêng tư. Descartes đã không thấy hài lòng về chính điều đó, ông muốn tham vọng nhiều hơn. Cogito phải có tính công cộng, để mọi người có thể đọc được nó, tìm thấy nó một cách phổ biến. Descartes cảm thấy rằng nếu đã phát hiện một điều gì đó về Cogito làm cho nó chắc chắn đến như vậy thì cũng có thể phát hiện quy tắc phổ quát, nó sẽ mang lại sự đảm bảo tương tự về tính vững chắc cho các loại nhận thức khác.
“Tôi tồn tại là điều không thể nghi ngờ. Tôi tri giác một cách rõ ràng và sáng sủa rằng tôi tồn tại là đúng. Vậy, bất cứ điều gì được tôi tri giác rõ ràng và sáng sủa là đúng.
Trong “Những suy niệm siêu hình ông đã tin chính điều này sẽ giúp ông thoát ra khỏi sự chắc chắn cá nhân, vươn tới sự chắc chắn rộng lớn hơn, sinh động hơn về nhiều loại nhận thức khác nữa. Sự luẩn quẩn lại làm Descartes thấy sự phí lý, “không thể sai lầm theo cách ấy được. Rõ ràng và sáng sủa chỉ là các khái niệm tương đối, rõ ràng và sáng sủa có thể đến với bạn nhưng đối với tôi thì nó lại tối tù mù. Không có điều gì có thể ngăn cản được con quỷ vô hình “cài những ý tưởng cực kỳ rõ ràng vào trong đầu óc để lừa phỉnh chúng ta.
Đó chính là lý do giải thích tại sao Descartes phải cầu viện đến Thượng đế. Phải tiêu diệt con quỷ vô hình, phải dựa vào vị Thượng đế không bao giờ lừa phỉnh ta và luôn đảm bảo rằng bất kỳ Cogito nào đi vào đầu óc chúng ta sẽ đều chân thực và đúng đắn. Từ đó Descartes đã đi đến chứng minh sự tồn tại của thượng đế: “Trong đầu óc của tôi ý niệm về một sự tồn tại hoàn thiện. Một tồn tại không hoàn thiện như tôi không thể nghĩ đến một ý niệm của một tồn tại hoàn thiện. Vì thế ý niệm về một tồn tại hoàn thiện phải xuất phát từ chính tồn tại hoàn thiện đó. Một tồn tại hoàn thiện sẽ không hoàn thiện nếu nó không tồn tại. Vậy, một tồn tại hoàn thiện (Thượng đế) phải tồn tại.

Descartes đã có sự sai lầm khi chững minh sự tồn tại của con người thông qua tư duy, cũng như sự tồn tại của các sự vật chỉ thông qua ý niệm của con người, mọi người luôn có ý niệm về lửa, ai cũng có một ý tưởng nào đó về nó nên lửa chắc chắn tồn tại. Tuy nhiên, với sự nghi ngờ của mình đã trở thành phương pháp cũng đem lại nhiều yếu tố tích cực.
Sự hoài nghi của Descartes đã góp phần phê phán mạnh mẽ các tư tưởng giáo hội kinh viện, mọi tri thức mà con người đã đạt được từ trước tới giờ đều dưới sự phê phán của lý tính. Lý tính, trí tuệ con người sẽ là một tòa án thẩm định và đánh giá mọi tri thức. Nghi ngờ để tìm ra chân lý, nghi ngờ để tìm đến sự hoàn thiện và chắc chắn chân thực. Chính sự nghi ngờ của mình Descartes đã xây dựng một hệ thống triết học mới mà điểm xuất phát từ sự phê phán các bậc tiền bối của mình.
Cogito được xem là chuẩn mực để đánh giá những suy nghĩ cũng như mọi hoạt động của con người. Nó là sự cổ vũ mạnh mẽ đối với sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên. Nó mãi là một phát hiện quan trọng nhất của triết học Phương Tây, đánh dấu sự ra đời của triết học hiện đại cùng với sự cáo chung của triết học kinh viện tồn tại lâu đời. Mở đầu một ngành triết học mới – Triết học tinh thần.

4. Kết luận.
Descarter: “Tôi mang ra ánh sáng sự phong phú đích thực của tâm hồn chúng ta, mở ra cho mỗi người phương tiện để có thể tìm thấy ngay trong bản than ta mọi nhận thức cần thiết nhằm hướng dẫn cuộc sống, cũng như những phương cách sử dụng nó để có được mọi nhận thức mà trí tuệ con người có thể chiếm hữu được…. Sự nghi ngờ đã tạo nên một phương pháp để đi đến xem xét chân lý và khoa học, lý tính là điểu kiện then chốt để đánh giá mọi tri thức. Cogito sẽ luôn là đích đến của triết học cần tiếp tục khám phá, con người không thể tách Cogito ra khỏi bản thân mình, nếu như vậy con người sẽ mất đi “chữ người theo đúng nghĩa của nó. Sự hoài nghi đã thể hiện sự trăn trở của nhà triết học với mong muốn xây dựng một hệ thống triết học và khoa học thực sự trong bối cảnh của sự ảnh hưởng của thế lục tôn giáo cào rất mạnh. Nó đã đặt ra hang loạt những vấn đề lý luận đối với sự phát triển của triết học và khoa học nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Descarter,(1970),Các nguyên lý của triết học,Văn tuyển triết học thế giới, Matxcova.
2. Nguyễn Tiến Dũng, (2006), Lịch sử triết học Phương Tây, Nxb TP Hồ Chí Minh.
3. Trần Thái Đỉnh,(2005),Triết học Descartes,Nxb Văn học.
4. PGS TS Lê Hữu Ái, PGS TS Nguyễn Tấn Hùng, (2010), Triết học, Nxb Đà Nẵng.
5. Nguyễn Hữu Vui, (1999), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

René Descartes: Làm sao bạn biết không phải mình đang nằm mơ?

Khi đọc bài viết này, hẳn bạn tin rằng mình đang tỉnh táo chứ không phải đang mơ. Nhưng liệu bạn có thể chứng minh được không? Đa số sẽ nói rằng các giác quan cho thấy họ đang tỉnh giấc, nhưng liệu chúng ta có thể tin tưởng các giác quan?
René Descartes
René Descartes
René Descartes (“Rơ-nê Đề-các”, 1596–1650) là triết gia, nhà khoa học, nhà toán học người Pháp, được một số người xem là cha đẻ của triết học hiện đại. Ông nói rằng thông tin từ các giác quan không nhất thiết là chính xác. Theo luận điểm về giấc mơ của ông, không có dấu hiệu chắc chắn để phân định trải nghiệm trong mơ và trải nghiệm khi đang tỉnh.

Luận điểm của Descartes

“Cho tới nay, bất cứ điều gì tôi thừa nhận gần như là đúng, đều đến qua giác quan của tôi. Nhưng tôi cũng thường thấy chúng đã lừa dối tôi, và thật dại khờ khi tin tưởng hoàn toàn vào kẻ đã lừa dối chúng ta dù chỉ một lần,” René Descartes từng nói.
Ông từng viết trong tác phẩm Meditations on First Philosophy (Suy ngẫm về Triết học Tiên khởi):
“Giả sử tôi không phải là một người đi ngủ vào ban đêm, và thường có cùng trải nghiệm khi ngủ cũng như một kẻ điên khi tỉnh táo, quả thực đôi khi là những việc thật khó xảy ra. Nhiều lần làm sao, khi đang ngủ ban đêm, tôi tin vào những sự việc quen thuộc rằng tôi đang mặc chiếc áo thụng và ngồi bên lò sưởi, trong khi thực ra tôi đang cởi trần nằm trên giường! Nhưng trong lúc đó, mắt tôi chắc chắn vẫn đang mở to khi tôi nhìn vào mẩu giấy này; tôi lắc đầu và không phải là đang ngủ; tôi duỗi người ra và cảm nhận bàn tay mình đang tuân theo mệnh lệnh, và tôi biết mình đang làm gì.
Tất cả những điều này sẽ không xảy ra rõ ràng đến vậy với một người đang ngủ. Quả là vậy! Như thể tôi không nhớ những lần khác, tôi cũng bị lừa bởi chính những suy nghĩ tương tự khi đang ngủ! Khi suy nghĩ kĩ hơn về điều này, tôi thấy đơn giản là chưa từng có dấu hiệu chắc chắn phân biệt giữa trạng thái thức và ngủ. Kết quả là tôi bắt đầu cảm thấy rối rắm, chính cảm giác này lại nhấn mạnh thêm quan điểm rằng tôi có thể đang ngủ.”

Một câu hỏi lớn…

Làm sao bạn biết không phải mình đang nằm mơ?...
Làm sao bạn biết không phải mình đang nằm mơ?…
Một số triết gia đã từng cố gắng phủ nhận luận điểm của Descartes bằng cách nói rằng bạn không thể trải nghiệm cơn đau trong mơ. Tuy nhiên, các nghiên cứu khoa học cho thấy những cơn đau vẫn xảy ra trong khi chúng ta mơ.
Có một điểm cần nói rõ là, câu hỏi ở đây không phải “làm sao để tỉnh lại khi bạn đang mơ” bởi vì một số người khi nằm mơ vẫn có thể nhận biết và thậm chí lèo lái giấc mơ đó (thuật ngữ gọi là lucid dream). Câu hỏi ở đây là: làm sao biết chắc được cái thực tại cuộc sống mỗi ngày mà chúng ta trải nghiệm qua các giác quan không phải là một giấc mơ dài?
Đây thực ra là một câu hỏi triết học đã được thảo luận từ nhiều thế kỉ qua, Plato và Aristotle cũng đã từng nói về nó.
Ở phương Đông, câu nói “Đời người như một giấc mộng” cũng rất phổ biến. Nổi tiếng nhất là câu chuyện “Trang Chu mộng hồ điệp” trong sách Trang Tử:
Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu. Trang Chu với bướm tất có chỗ khác nhau. Cái đó gọi là “vật hoá”.
einstein-horizontal3-1024x664
Qua nhiều năm, chỉ có một điều rõ ràng, đó là luận điểm của Descartes vẫn còn nằm trong tranh luận và diễn giải, câu hỏi vẫn nằm đó: Làm sao bạn biết không phải mình đang nằm mơ?
Bạn có thể băn khoăn: “Nhưng có gì khác nhau chứ?” Vấn đề nằm ở chỗ, mọi thứ sẽ ra sao khi bạn tỉnh dậy?
Sơn Vũ tổng hợp

26-Niels Bohr
1885-1962
Đan Mạch
Vật Lý

Niels_Bohr_608.jpg
Sinh Niels Henrik David Bohr
7 tháng 10, 1885
Copenhagen, Đan Mạch
Mất 18 tháng 11, 1962 (77 tuổi)
Copenhagen, Đan Mạch
Ngành Vật lý học
Nơi công tác
  • Đại học Copenhagen
  • Đại học Cambridge
  • Đại học Manchester
Alma mater Đại học Copenhagen

Nổi tiếng vì
  • Cách giải thích Copenhagen
  • Nguyên lý bổ sung
  • Mô hình Bohr
  • Lượng tử hóa Bohr–Sommerfeld
  • Định lý Bohr–van Leeuwen
  • Thuyết Sommerfeld–Bohr
  • Lý thuyết BKS
  • Tranh luận Bohr–Einstein
  • Bohr magneton
  • Obitan Bohr
  • Bán kính Bohr
  • Hafnium
 

Chữ ký

Niels Bohr và thuyết nguyên tử

Niels Bohr là một trong những nhà khoa học lỗi lạc nhất của vật lí hiện đại, ông nổi tiếng với những đóng góp quan trọng của ông cho thuyết lượng tử và nghiên cứu giành giải thưởng Nobel của ông về cấu trúc của các nguyên tử.
Sinh ra ở Copenhagen vào năm 1885 trong một gia đình có học thức, Bohr đã yêu thích vật lí học lúc còn nhỏ. Ông học vật lí trong nhiều năm và lấy bằng tiến sĩ vật lí năm 1911 từ trường Đại học Copenhagen.
Chính trong khi đang thực hiện nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của ông về thuyết electron của các kim loại Bohr đã đến với thuyết lượng tử buổi đầu của Max Planck, lí thuyết mô tả năng lượng dưới dạng những hạt nhỏ xíu, hay các lượng tử.
Niels Bohr
Trái: Niels Bohr vào năm 1922. Phải: Một con tem Đan Mạch năm 1963 in hình Bohr nhân dịp kỉ niệm 50 năm lí thuyết nguyên tử của ông.
Vào năm 1912, Bohr đang làm việc cho nhà khoa học đoạt giải Nobel J.J. Thompson ở Anh khi ông được giới thiệu với Ernest Rutherford, người khám phá ra hạt nhân nguyên tử và đã phát triển một mô hình nguyên tử giành về cho ông giải Nobel Hóa học năm 1908. Dưới trướng của Rutherford, Bohr bắt đầu nghiên cứu các tính chất của các nguyên tử.
Kết hợp mô tả hạt nhân của Rutherford và thuyết lượng tử của Planck, Bohr đã giải thích cái xảy ra bên trong một nguyên tử và phát triển một bức tranh của cấu trúc nguyên tử. Công trình này mang về cho ông giải thưởng Nobel vật lí năm 1922.
Cũng trong năm ông bắt đầu nghiên cứu với Rutherford, Bohr lấy bà Margaret Nørlund, rồi họ có sáu người con. Về sau này, ông là chủ tịch của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Đan Mạch, đồng thời là viện sĩ của nhiều viện hàn lâm trên khắp thế giới.
Mô hình nguyên tử
Đóng góp lớn nhất của Bohr cho vật lí hiện đại là mô hình nguyên tử. Mô hình Bohr xem nguyên tử là một hạt nhân nhỏ, tích điện dương với các electron quay xung quanh.
Bohr là người đầu tiên phát hiện ra rằng các electron chuyển động trong những quỹ đạo khác nhau xung quanh hạt nhân và rằng số electron trong quỹ đạo ngoài cùng xác định các tính chất của một nguyên tố.
Nguyên tố hóa học bohrium (Bh), số 107 trong bảng tuần hoàn hóa học, được đặt theo tên của ông.
Mô hình nguyên tử Bohr
Một biểu diễn cách điệu hóa của một nguyên tử lithitum minh họa cho mô hình nguyên tử của Niels Bohr.
Lí thuyết giọt chất lỏng
Nghiên cứu lí thuyết của Bohr đóng góp đáng kể cho sự hiểu biết của các nhà khoa học về sự phân hạch hạt nhân. Theo lí thuyết giọt chất lỏng của ông, một giọt chất lỏng mang lại một hiện thân chính xác của một hạt nhân nguyên tử.
Lí thuyết này là công cụ nghiên cứu trong những nỗ lực đầu tiên nhằm phân tách các nguyên tử uranium hồi thập niên 1930, một bước quan trọng trong sự phát triển bom nguyên tử.
Bất chấp những đóng góp của ông cho Dự án Năng lượng Nguyên tử Mĩ trong Thế chiến thứ hai, Bohr là người ủng hộ mạnh mẽ sự ứng dụng hòa bình của vật lí nguyên tử.
Thuyết lượng tử
Nguyên lí bổ sung của Bohr, cái ông đã viết trong một số bài luận từ năm 1933 đến 1962, phát biểu rằng một electron có thể được xét theo hai cách, hoặc là một hạt hoặc là một sóng, nhưng không bao giờ là cả hai đồng thời.
Nguyên lí này, cái tạo nên nền tảng của thuyết lượng tử buổi đầu, còn giải thích rằng cho dù người ta xem electron như thế nào, mọi hiểu biết về những tính chất của nó phải có gốc rễ ở những phép đo theo lối kinh nghiệm. Lí thuyết của Bohr nhấn mạnh quan điểm rằng các kết quả của một thí nghiệm bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những công cụ đo dùng để xác định chúng.
Những đóng góp của Bohr cho lĩnh vực nghiên cứu cơ học lượng tử mãi mãi được ghi nhớ tại Viện Vật lí Lí thuyết tại trường Đại học Copenhagen, nơi ông đã hỗ trợ sáng lập hồi năm 1920 và lãnh đạo cho đến khi ông qua đời vào năm 1962. Kể từ đó, viện được đổi tên là Viện Niels Bohr để tôn vinh ông.
Nguồn: LiveScience.com
Vui lòng ghi rõ "Nguồn Thuvienvatly.com" khi đăng lại bài từ CTV của chúng tôi.

Câu chuyện về nhà vật lý Niels Bohr

Một giảng viên Đại học ở Anh đã nhờ nhà bác học Ernest Rutherford (1781 – 1937 – Giám đốc Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia, giải Nobel Hóa học năm 1908) đứng ra làm trọng tài cho một việc. Người giảng viên này định cho một sinh viên của mình điểm thấp về môn vật lý nhưng cậu sinh viên khẳng định rằng câu trả lời xứng đáng đạt điểm cao nhất. Cả hai người – thầy và trò – nhất trí mời trọng tài làm chứng. Người được mời là Rutherford.
Câu hỏi thi như sau: “Anh (chị) hãy giải thích, bằng cách nào có thể đo được chiều cao của ngôi nhà, sử dụng khí áp kế?”

Câu trả lời của sinh viên như sau: “Cần đem khí áp kế lên mái nhà, buộc khí áp kế vào một sợi dây dài thả xuống đất, sau đó kéo lên đo độ dài sợi dây thì sẽ biết chính xác độ cao của ngôi nhà”.

Trường hợp này quả là phức tạp, vì rằng câu trả lời hoàn toàn chính xác. Mặt khác, đây là câu hỏi thi môn vật lý nhưng câu trả lời không hề sử dụng kiến thức của vật lý.

Rutherford đề nghị cậu sinh viên trả lời một lần nữa. Nhà bác học cho 6 phút chuẩn bị và báo trước rằng, câu trả lời cần sử dụng kiến thức của môn vật lý. Năm phút trôi qua nhưng cậu sinh viên không viết gì lên tờ giấy chuẩn bị cả. Rutherford hỏi liệu có trả thi được không thì cậu sinh viên trả lời rằng có nhiều cách giải đề thi này nhưng chỉ đơn giản là cậu đã chọn cách tốt nhất.

Thế là nhà bác học đề nghị sinh viên trả lời, không đợi hết thời gian chuẩn bị. Câu trả lời mới như sau: “Cầm khí áp kế trèo lên mái nhà, ném khí áp kế xuống đất, đo thời gian rơi, sau đó dùng công thức tính ra độ cao ngôi nhà”.

Rutherford hỏi người đồng nghiệp giảng viên có hài lòng với câu trả lời như vậy không. Người này trả lời: được. Tuy vậy, cậu sinh viên nói rằng còn nhiều cách giải khác, và họ đề nghị sinh viên trả lời tiếp.

– Có nhiều cách để đo độ cao một ngôi nhà dùng khí áp kế – cậu sinh viên trả lời – Thí dụ, ta có thể chọn ngày trời nắng đo độ cao của khí áp kế và bóng của nó, đo độ dài bóng của ngôi nhà. Sau đó tìm tỉ lệ, xác định ra chiều cao của ngôi nhà.

– Tốt – Rutherford nói – còn cách nào nữa không?

– Có một cách rất đơn giản, em tin là các thầy sẽ thích. Ta trèo lên theo thang, áp khí áp kế vào tường và đánh dấu. Sau đó đếm số dấu, nhân với độ dài của khí áp kế sẽ có độ cao của ngôi nhà.

– Một cách khác phức tạp hơn – cậu sinh viên tiếp tục – ta buộc vào khí áp kế một sợi dây rồi lắc như quả lắc, xác định sức hút ở dưới móng ngôi nhà và ở trên mái nhà. Từ sự khác nhau về độ lớn của sức hút có thể tính được độ cao của ngôi nhà.

– Trong số vô vàn những phương pháp để giải quyết vấn đề trên – cậu sinh viên kết luận – theo em, có một cách đơn giản nhất: ta đem theo khí áp kế, tìm người quản lý ngôi nhà và nói với người này: “Thưa ông, tôi có một khí áp kế rất tuyệt. Tôi xin tặng nó cho ông nếu ông làm ơn nói cho tôi biết độ cao của ngôi nhà này”.

Nhà bác học Rutherford hỏi cậu sinh viên rằng quả thực có phải cậu không biết cách giải phổ biến của câu hỏi này. Cậu sinh viên thú thực rằng biết nhưng mà đã chán đến tận cổ cái cảnh ở trường nào thầy giáo cũng gán cho sinh viên cách tư duy của mình.

Cậu sinh viên trên là Niels Henrik David Bohr (1885 – 1962) – nhà vật lý Đan Mạch, giải Nobel Vật lý năm 1922.

Lời bình: Câu chuyện trên có thể có thật mà cũng có thể chỉ là do người ta hư cấu nên, nhưng đúng là suy nghĩ của người càng phức tạp thì càng khó để tìm ra cái gọi là "chân lý" nhỉ.
Nguồn: http://phanminhchanh*info
Đây là câu hỏi trong một kỳ thi vật lý tại đại học Copenhagen: "Hãy mô tả cách xác định chiều cao của một tòa nhà trọc trời bằng một cái phong vũ biểu*" [Source: http://www.peer.ca/bohr.html] *Ghi chú: phong vũ biểu là dụng cụ đo áp suất khí.



Một sinh viên trả lời rằng: “Bạn buộc một đầu của một sợi dây dài vào cổ của chiếc phong vũ biểu, sau đó thả dần từ tầng thượng xuống tới mặt đất. Độ dài của sợi dây cộng với chiều dài của chiếc phong vũ biểu sẽ là chiều cao của tòa nhà."

Câu trả lời sáng tạo này đã làm người chấm thi nổi giận và đánh trượt anh sinh viên này. Tuy nhiên anh ta đã ngay lập tức phân trần rằng câu trả lời của anh ta là hoàn toàn chính xác.

Nhà trường đã cử một trọng tài trung lập để quyết định tình huống này.

Trọng tài cho rằng câu trả lời của anh ta thực ra là đúng, nhưng chưa biểu hiện được kiến thức vật lý đáng chú ý nào. Và họ quyết định gọi người sinh viên vào và cho anh ta sáu phút để đưa ra câu trả lời vấn đáp thể hiện ít nhất một nguyên lý vật lý tối thiểu.

Trong 5 phút đầu người sinh viên ngồi im lặng và nhăn trán suy nghĩ. Khi trọng tài nhắc rằng thời gian đã gần hết, anh ta liền nói rằng có một vài câu trả lời cực kỳ thích hợp, nhưng anh ta đã không nghĩ ra.

Trong lúc bị nhắc nhở phải nhanh chóng trả lời: "Cách thứ nhất, ông có thể mang cái phong vũ biểu lên trên tầng thượng, thả nó và tính thời gian để nó rơi chạm đất. Chiều cao của tòa nha khi đó có thể tính ra được theo công thúc mà tôi đã ghi ở tờ giấy này."

Sau đó anh ta nói thêm. "Nhưng thưa ông, tôi khuyên không nên làm cách này. Thật tồi tệ cho cái phong vũ biểu."

"Có một cách khác" anh sinh viên nói, "thế này nhé: Nếu đang có nắng, ông có thể đo chiều cao của cái phong vũ biểu sau đó đặt thẳng đứng và đo bóng của nó. Sau đó ông đo chiều dài của bóng của tòa nhà, và khi đó thì chỉ là vấn đề tỉ lệ hình học đơn giản để tìm ra chiều cao của tòa nhà. Công thức cũng được ghi trên tờ giấy."

"Nhưng, thưa ông, nếu ông muốn một cách thực sự khoa học, ông có thể buộc một sợi dây ngắn vào cái phong vũ biểu và đu đưa nó giống như con lắc, trước hết ở mặt đất và sau đó ở trên mái tầng thượng. Chiều cao được tính ra bằng sự khác nhau của trọng lượng mà tôi đã xác định được trong trang giấy này với các tính toán dài và phức tạp."

"Ồ, thưa ông, đây là một cách khác, và không phải là cách tồi. Nếu như ngôi nhà có một cái cầu thang thoát hiểm ở bên ngoài, sẽ rất dễ để đánh dấu chiều cao của ngôi nhà theo chiều dài của chiếc phong vũ biểu sau đó cộng tất cả chúng lại."

"Nhưng nếu ông chỉ đơn thuần muốn một cách tẻ nhạt và chính thống về câu trả lời mà ông đang chờ đợi, tất nhiên ông có thể dùng cái phong vũ biểu để đo áp suất khí tại nóc nhà và tại mặt đất, và sau đó chuyển hiệu của chúng từ milibar sang feet để đưa ra chiều cao của tòa nhà."

"Nhưng vì chúng ta luôn mệt mỏi với nhũng những tính toán và áp dụng các phương pháp khoa học, không nghi ngờ gì nữa, cách tốt nhất là gõ cửa người gác nhà và nói với ông ta rằng "Nếu ông muốn một cái phong vũ biểu đẹp, tôi sẽ cho ông nếu ông nói cho tôi biết chiều cao của tòa nhà này.""

Chàng sinh viên đó chính là Niels Bohr, người Đan Mạch duy nhất nhận giải Nobel Vật lý.


Neils Henrik David Bohr (1885-1962)


Nhà vật lý người Đan Mạch và là một trong những người đi đầu trong ngành vật lý hiện đại. Ông là giáo sư vật lý lý thuyết tại trường đại học Copenhagen và sau đó là giám đốc Viện Vật lý Lý thuyết của trường mà ông đã thành lập. Ông được trao giải Nobel năm 1922 cho nghiên cứu về cấu trúc nguyên tử và nguyên tử Hydrogen.  Lý thuyết cổ điển đã không thể giải thích được sự  bền vững của mô hình hạt nhân của nguyên tử, nhưng Bohr đã giải quyết được vấn đề bằng cách đưa ra tiên đề rằng các electron di chuyển trong các quỹ  đạo giới hạn xung quanh hạt nhân nguyên tử và giải thích tại sao nguyên tử phát và hấp thụ năng lượng. Ông đã kết hợp lý thuyết lượng tử với khái niệm về cấu trúc nguyên tử. Niels Bohr cũng được biết đến cho những cuộc tranh luận kịch liệt, thường là hài hước với Albert Einstein.


Read more:http://phanminhchanh.info/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1703#ixzz2Uh7Dhl9L
Phan Minh Chánh-THPT Chơn Thành-Bình Phước

Hồ sơ "tội trạng" của Niels Bohr

17/08/2006 14:53 -
Khi Bohr sang Mỹ để cố vấn cho Chương trình Manhattan, người ta đã bắt ông phải dùng một bí danh là Nicholas Baker. Trong một chuyến đến thăm Washington, Bohr ở trong thang máy với một phụ nữ.
Lộ bí danh
 
Ông đã nhận ra người này, đó là vợ của một nhà vật lý hạt nhân (tiến sỹ Halban) đã từng đến Đan Mạch. "Rất hân hạnh được gặp lại ngài, Giáo sư Bohr," người phụ nữ lên tiếng. "Xin lỗi" Bohr luống cuống trả lời, "bà đã nhầm tôi với ai rồi. Tên tôi là Nicholas Baker, nhưng... tôi nhận ra bà rồi, bà Halban." Không", người phụ nữ phản ứng, "Bây giờ tôi là bà Placzek." 
 
Tội bắt cóc trẻ em


Nhớ lại hồi Bohr phải lặn lội sang tận Đức, đến Đại học Gottingen để mời bằng được cậu bé Werner Heisenberg tài năng về Copenhagen làm việc với mình. Nhưng mọi việc không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Đúng vào lúc Bohr vừa "dụ dỗ" được Heisenberg thì bỗng có hai người Đức mặc đồng phục cảnh sát tóm chặt vai ông và quát lớn: "Đứng yên! Ông đã bị bắt vì tội bắt cóc trẻ em!"
Tội cướp ngân hàng và sự thiếu tính chuyên nghiệp

"Niels Bohr, Frau Bohr, Casimir và tôi được Oscar Klein mời đi ăn tối nhân dịp ông ấy nhận chức giáo sư," George Gamow có lần nhớ lại. "Chúng tôi trở về khi đã khá muộn, đường phố vắng tanh. Chúng tôi đi qua một ngân hàng được xây với những bức tường bê tông đồ sộ. Khi nhìn thấy ở góc tường có những khe hở, Casimir - vốn là một người leo núi cừ khôi đã bám vào những khe hở trèo lên tận tầng ba. Sau khi Casimir trèo xuống, Bohr - vốn chẳng có chút kinh nghiệm leo núi nào cũng muốn thử. Mò mẫm thế nào mà Bohr cũng trèo được lên tầng hai nhưng đang rất loay hoay không biết xuống thế nào cả. Trong lúc mọi người vô cùng lo âu và sốt ruột thì bỗng có hai cảnh sát Đan Mạch đeo súng xuất hiện. Họ nhìn lên rồi quay sang nói với nhau: "Ồ, kiểu này thì chỉ có thể là Giáo sư Bohr thôi!", và họ lặng lẽ bỏ đi, có lẽ họ cần săn lùng những tên cướp ngân hàng nguy hiểm hơn".
 
Tội chứa chấp
Niels Bohr có thói quen là thường nhắc đi nhắc lại những từ ngữ có liên quan đến lĩnh vực mà mình đang theo đuổi. Một buổi chiều, khi đang làm việc với nhà vật lý Abraham Pais ở Viện Nghiên cứu Cấp cao Princeton, Bohr bắt đầu chuyển sang trạng thái mê mẩn, ông cứ đi quanh phòng và lẩm bẩm: "Einstein... Einstein...".
Đột nhiên, chẳng biết trời xui đất khiến thế nào mà Einstein bỗng xuất hiện trong phòng làm Bohr vô cùng sửng sốt. Thì ra ông bạn già tinh nghịch này đã lẻn vào phòng từ lúc nào. Bohr chưa kịp hỏi gì thì Einstein đã giải thích: "Khổ ghê cơ, bác sỹ của tôi yêu cầu tôi không được mua thuốc lá nữa, và tôi đã trót hứa sẽ làm theo lời ông ấy. Tuy nhiên, hi hi, tôi chưa bao giờ hứa là sẽ không ăn trộm thuốc lá cả". Dứt lời, ông lôi ra một hộp thuốc lá và bắt đầu phì phèo. Cả buổi chiều hôm ấy, Bohr đã vui vẻ cho Einstein trốn trong phòng mình để "tiêu thụ đồ ăn trộm". 
 
Bán độ?
Hồi trước, Niels Bohr đã từng làm thủ môn bóng đá, và ông có thể sẽ được làm thủ môn cho đội tuyển Đan Mạch dài dài nếu như không xảy ra câu chuyện như sau. Một lần, đội Đan Mạch gặp phải đối thủ quá yếu, bóng chỉ tập trung bên phần sân  đội bạn, thủ môn Bohr đã tranh thủ đứng ôm lấy cột gôn và hí hoáy viết những công thức lên đó, ông mải mê đến mức khi một đường bóng xa bay đến khung thành đội Đan Mạch, các cổ động viên đã phải hò hét rầm trời mới làm ông sực tỉnh để chạy ra bắt bóng. Không biết có ai nghi ngờ Bohr bán độ hay không nhưng có lẽ sau vụ ấy, người ta đã không mời ông làm thủ môn nữa.

P.V
 
27-Max Born
1882-1970
Đức
Vật Lý

Max_Born_614.jpg
Max Born
Sinh 11 tháng 12 năm 1882
Breslau, Đức
Mất 5 tháng 1, 1970 (87 tuổi)
Göttingen, Đức
Tôn giáo Lutheran
Ngành Vật lý
   
Nổi tiếng vì Đặt nền tảng cho cơ học lượng tử
Giải thưởng Nobel prize medal.svg Giải thưởng Nobel về Vật lý (1954)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH