CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 40

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                  Tiểu Sử Khổng Minh Gia Cát Lượng

Tức giận là bản năng, kìm nén cơn giận lại là bản lĩnh: sống như Hàn Tín hay chết tựa Trương Phi?




Cái chết của Trương Phi, nghĩ lại cũng thật bứt rứt: ông không phải chết một cách oanh oanh liệt liệt nơi chiến trường, mà là bị cảm xúc của mình hại chết.
Hay tin người anh kết nghĩa Quan Vũ tử nạn, thoạt tiên ông không nén nổi đau thương, huyết lệ tuôn trào. Sau đó say xỉn đánh đập binh sĩ, bức ép họ ngày đêm chế tạo binh khí gấp để sớm báo thù cho người anh kết nghĩa. Cuối cùng bộ hạ dưới trướng của ông là Phạm Cương và Trương Đạt không thể chịu đựng thêm nữa, đành phải nhân lúc Trương Phi lại say rượu mà thích sát ông ngay trong quân doanh.


truong-phi
Trương Phi uống rượu đánh quân của mình

Trương Phi rất có bản sự, đây là điều không ai có thể phủ nhận được. Vậy mà người có năng lực lớn như vậy, cuối cùng lại không có được một kết cục lý tưởng. Những người không kiểm soát được cảm xúc của mình, kỳ thật dù năng lực của họ có lớn hơn nữa cũng không giúp ích được gì.
Hàn Tín chịu nhục chui háng
Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng, có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng (trôn) y. Tín chấp nhận chui qua háng, mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười.


Hàn Tín chiu nhục chui háng thể hiện tâm đại Nhẫn
Hàn Tín chiu nhục chui háng thể hiện tâm đại Nhẫn

Về sau ông trở thành danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là “Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu.”, thời Hán Sở tranh hùng, cùng với Trương LươngTiêu Hà là một trong “tam kiệt nhà Hán” có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
Dẫu không thể khống chế nổi cảm xúc thì cũng phải học cách kìm nén
Trong thời gian Abraham Lincoln còn làm Tổng thống Mỹ, Bộ trưởng lục quân phàn nàn với ông về việc bản thân mình bị một thiếu tướng dưới quyền sỉ nhục. Lincoln đề nghị đối phương hãy viết một lá thư nguyền rủa với những lời lẽ cay nghiệt nhất để đáp trả lại.
Thư đã viết xong, khi Bộ trưởng muốn gửi lá thư đi, Lincoln hỏi: “Ông đang định làm gì đấy?”.
“Đương nhiên là gửi thư cho hắn ta”. Bộ trưởng không hiểu trả lời.
Ông bị điên rồi hả, hãy mau mau đốt bỏ lá thư đó đi”. Linlcon vội nói: “Những lúc tôi bực tức cũng là làm như vậy, viết thư chính là vì để trút giận mà thôi. Nếu như ông vẫn còn chưa nguôi giận, thế thì hãy viết thêm nữa, viết cho đến khi nào trong tâm cảm thấy thoải mái mới thôi!”.


Abraham Lincoln Abraham Lincoln
Abraham Lincoln Abraham Lincoln

Trong tâm sản sinh cảm xúc phụ diện, cần phải khai thông giải tỏa, giống như Lincoln đã dùng cách viết thư vậy.
Không có người nào trời sinh ra đã biết cách kiềm nén tâm trạng. Người giỏi khống chế tâm trạng thật sự, là bởi họ thường xuyên chú ý không muốn để bản thân rơi bị điều khiến bởi những cảm xúc tệ hại này.
Năng lực cần giữ chắc nhất chính là kiềm chế bản thân mình
Trong bộ phim “Bố già” (The Godfather) có một câu thoại nổi tiếng: “Đừng bao giờ để cho người ngoài gia tộc hiểu được suy nghĩ của anh”Không có người nào trời sinh ra là đã biết kiềm nén tâm trạng. Người giỏi kiềm nén tâm trạng thật sự, là bởi họ thường xuyên lưu ý không muốn để bản thân rơi vào cảm xúc tệ hại. Con người ưu tú thật sự, lấy công tác làm chủ, đặt cảm xúc ảnh hưởng đến đại cục sang một bên. Kiềm chế được cảm xúc, năng lực mới có thể có được thành tựu lớn nhất. .
Mỗi khi cơn giận kéo đến, phúc khí đều sẽ rời đi, tức giận là bản năng của con người, còn kìm nén cơn giận lại là bản lĩnh của chính bạn
Hàn Tín có thể chịu nhục chui háng, vậy nên đã thành tựu được đại nghiệp sau này, còn Trương Phi nhất thời không nén được cơn giận, để rồi dẫn đến cái họa sát thân, thật khiến người đời không khỏi tiếc than.
Mỗi một người đều có cảm xúc, nếu như khi gặp phải những chuyện không thuận tâm liền buông lơi cảm xúc, chỉ sẽ khiến cho vấn đề càng trở nên rối rắm phức tạp, tâm trạng suy sụp cũng giống như chiếc xe đang lao nhanh xuống dốc, nếu không biết đạp thắng cho xe dừng lại ngay lúc đó, chiếc xe có thể sẽ lao xuống khe núi, xe hỏng người chết cũng là điều khó tránh khỏi.
Thiện Sinh (biên dịch)

Nhân quả báo ứng sau khi Trương Lương chết



Trương Lương khuyên nhủ Lưu Bang (Ảnh: Catherine Chang/Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh)

Sau khi Trương Lương chết được gần 10 năm, con trai Trương Lương liền bị tước chức vị, đến tận đời sau, gia tộc Trương Lương cũng không còn có nền nếp, gia phong.
Trương Lương và Trần Bình đều là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán, hai người đều thông minh và nhạy bén, giỏi về bày mưu tính kế, đều có công lao hiển hách trong việc dựng lập Tây Hán. Nhưng họ luôn hành động quá tuyệt tình, kết quả khiến cho con cháu bị rơi vào quả báo của ông trời.(Tây Hán, từ năm 206 TCN  đến năm 25 sau CN, kinh đô ở Tràng An (Tây An ngày nay))
Trần Bình từng thẳng thắn nói: “Ta là người giảo hoạt lắm mưu nhiều kế, điều này là không phù hợp với tư tưởng vô vi của Đạo gia”. Nhưng ông ta luôn giả bộ mình là người hiểu chuyện, bên trong lời nói thường xuyên biểu lộ ra một chút bi ai: “Con cháu ta sau này không có phúc phận rồi, bởi vì cả đời ta đã làm không ít việc xấu”. Quả nhiên, đến đời cháu đã rơi vào cảnh bị tịch thu hết tài sản, thật là ứng với chính lời tiên đoán của ông ta.
So với Trần Bình mà nói, khí phách tiết tháo của Trương Lương có phần tốt hơn một chút, dựa vào các mối quan hệ mà nói, ông không có quá nhiều tính toán với người khác, chỉ là Hán Cao Tổ Lưu Bang ngẫu nhiên mà tiếp thu sáng kiến mưu lược của ông ta, khiến cho tính sát thương có cơ hội được vùng vẫy mà thôi.
Trương Lương tính cách kiên cường khí khái, khi còn trẻ, vì để báo thù giết cha, ông cùng với đại lực sĩ đem theo chiếc trùy nặng 120 kg đến bãi cát Bác Lãng hành thích Tần Thủy Hoàng. Chiếc trùy này của Trương Lương thực sự đã được lưu truyền đến ngàn đời sau. Để đạt được mục đích giết Tần Thủy Hoàng, ông đã nương nhờ vào Lưu Bang, tận tâm tận lực bày mưu tính kế.
Lưu Bang trên đường tiến quân vào Hàn Dương, tại Nao Quan (nay thuộc huyện Thiểm Tây) gặp quân Tần ngoan cố chống cự. Trương Lương đề xuất ý kiến với Lưu Bang: “Khí thế của quân Tần đang hừng hực, không thể tiến công bằng sức mạnh, tạm thời không nên xuất đầu lộ diện nhằm làm tiêu hao đối phương”, về sau quân Tần lâu không tấn công, khí thế tan rã, lương thực thiếu thốn, đành phái người hướng về phía Lưu Bang mà cầu hòa, tình nguyện đầu hàng quân Hán, Trương Lương bày tỏ phản đối. Ông nói với Lưu Bang: “Người hàng nhưng tâm không hàng, tương lai tất thành hậu họa, chi bằng thừa thắng xông lên, chém tận giết tuyệt”.
Lưu Bang tiếp thu ý kiến của Trương Lương, tung binh kích Tần, quân Tần thất bại thảm hại, xác chết ngổn ngang, ngay cả tù nhân và thương binh cũng không được tha. Từ điểm này mà nhìn, Trương Lương quả thực hoàn toàn không nên làm việc quá mức như vậy. Việc này Hán Cao Tổ Lưu Bang nhất định có một phần trách nhiệm, nhưng Trương Lương cũng phải gánh vác phần lớn trách nhiệm.
Nước Sở và nước Hán tranh chấp, đôi bên đều cảm thấy mệt mỏi, Hạng Võ đề xuất, tự mình dẫn quân lính quay trở lại Giang Đông, cùng vua Hán chia đều Thiên hạ. Trương Lương lại khuyên bảo vua Hán: “Phóng thích Hạng Võ không khác gì thả hổ về rừng, Đại Vương hãy thừa thắng xông lên, lại có thể trừ bỏ được mầm mống tai họa”. Theo lý thuyết, Trương Lương vì Lưu Bang mà đề xuất một số chủ ý thì cũng không có gì đáng trách, nhưng mà tâm thái Trương Lương biểu hiện ra là tuyệt ác.
Sau khi Trương Lương chết gần mười năm, con trai của Trương Lương liền bị tước phong vị. Đến tận đời con cháu sau này, dòng họ Trương Lương cũng không đạt được gia phong. Số mệnh của đời con cháu Trương Lương và Trần Bình có chỗ giống nhau đến kinh người.
kinh_nhan_qua_59
Trần Bình và Trương Lương đã làm những việc quá ác, gây đại nạn và tai họa cho đời con cháu, người đời sau cũng nên lấy đó làm bài học cho mình mà tránh làm điều ác.
Mai Trà biên dịch

Nhẫn nhất quyết không phải là nhu nhược! Người xưa nhẫn như thế nào?

Lận Tương Như vì suy nghĩ cho xã tắc, nhiều lần nhượng bộ, không tranh giành, làm cảm động Liêm Pha (Ảnh: Internet)
“Bậc Đế Vương vì nhẫn mà được thiên hạ, tướng lĩnh vì nhẫn mà được lâu dài, thương nhân vì nhẫn mà được giàu sang phú quý, người thường vì nhẫn mà có được tri kỷ”. Nhẫn nhịn luôn là một đức tính truyền thống tốt đẹp từ xưa đến nay của con người. Nhìn lại lịch sử Trung Hoa, có nhiều câu chuyện mang đậm chữ “nhẫn” trong nội hàm ý nghĩa.
Nhẫn là khoan dung, tha thứ
Trong “Thượng thư”, Chu Thành Vương khuyên bảo quân rằng: “Tất hữu nhẫn, kỳ nãi hữu tể; hữu dung, đức nãi đại.” (Tạm dịch: Nhất định phải nhẫn nhịn mới có thể thành công, có thể khoan dung với người thì đạo đức tu dưỡng mới có thể nâng cao lên). Khổng Tử nói: “tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Tạm dịch: Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hỏng chuyện đại sự) “quân tử vô sở tranh” (Tạm dịch: Người quân tử không tranh gì cả)…
Nhẫn là bài học tất yếu của mỗi người, có thể tinh lọc nhân tâm, hóa giải xung đột. Khoan dung, độ lượng trong cuộc sống là một loại biểu hiện của “Nhẫn”. Có thể nhẫn mới có thể thành tựu việc lớn, hóa giải sự thù hận.
Trong sử ký “Liêm Pha Lận Tương Như liệt truyện” có ghi lại câu chuyện “Chịu đòn nhận tội”. Lận Tương Như bởi vì có công “đem ngọc trả lại vua Triệu “ mà được phong làm Thượng Khanh. Địa vị của Lận Tương Như đột nhiên cao hơn của Liêm Pha (một vị tướng giỏi của nhà Triệu). Liêm Pha không phục liền tuyên bố rằng, chỉ cần gặp mặt Tương Như sẽ làm nhục ông. Sau khi Lận Tương Như biết được, ông đã cố gắng né tránh để không phát sinh xung đột với Liêm Pha. Mỗi lần đến lúc vào triều, Lận Tương Như thường cáo ốm vì không muốn tranh giành chức vị với Liêm Pha. Không lâu sau, lúc Tương Như ở thành Hàm Đan, khi đoàn xe của ông từ xa xa đã nhìn thấy đoàn xe của Liêm Pha, ông đã ra lệnh cho đoàn xe của mình rẽ vào một con hẻm để cho đoàn xe của Liêm Pha đi trước, tránh hai bên xảy ra xung đột.
Lận Tương Như vì suy nghĩ cho xã tắc, nhiều lần nhượng bộ, không tranh giành, làm cảm động Liêm Pha (Ảnh: Internet)
Lận Tương Như vì suy nghĩ cho xã tắc, nhiều lần nhượng bộ, không tranh giành, làm cảm động Liêm Pha (Ảnh: Internet)
Môn khách của Lận Tương Như thấy ông xử sự như vậy, liền cho rằng ông sợ, nên đã nói: “Chúng tôi rời bỏ người thân gia đình đến hầu hạ ngài là vì ngưỡng mộ tiết nghĩa cao thượng của ngài. Bây giờ chức vị của ngài cũng tương đương với của Liêm Pha tướng quân. Tướng quân Liêm Pha mở miệng ra là nói lời ác, vậy mà ngài lại trốn tránh ông ta. Ngài quá sợ ông ta. Dù là người thường gặp phải cũng cảm thấy bị sỉ nhục, huống hồ là tướng quân như ngài! Chúng tôi, những người không có tiền đồ, xin ngài cho chúng tôi được cáo từ!”.
Lận Tương Như kiên quyết giữ họ lại và nói: “Các vị thử nghĩ xem, Liêm tướng quân và Tần Vương ai lợi hại hơn?” Mọi người trả lời: “Liêm Tướng Quân không bằng được Tần Vương” Tương Như lại nói: “Với uy thế của Tần Vương, mà ta còn dám nói lý, quát mắng ông ta ngay trước triều thần nước Tần. Ta, Lận Tương Như mặc dù tài hèn, nhưng lẽ nào lại sợ Liêm Pha? Điều ta nghĩ đến là nước Tần lớn mạnh sở dĩ không dám xâm lược nước Triệu chúng ta, là bởi vì nước Triệu có ta và Liêm tướng quân! Hiện giờ nếu hai hổ đấu nhau, tất không thể cùng sinh tồn. Cho nên, ta nhẫn nhịn Liêm tướng quân như vậy, là vì luôn đặt sự an nguy quốc gia làm đầu mà để chuyện cá nhân ở phía sau!”
Khi những lời này của Lận Tương Như được truyền đến tai Liêm Pha tướng quân, bấy giờ Liêm Pha tướng quân mới bình tâm suy nghĩ cảm thấy mình vì tranh giành địa vị cá nhân mà không nghĩ đến quốc gia đại sự, thật là không phải. Thế là, Liêm tướng quân liền cởi áo bào, mang theo một cành mật gai đến gặp Lận Tương Như để chịu tội. Lận Tương Như thấy Liêm Tướng quân đến xin chịu tội, vội vàng đi ra nghênh đón. Từ đó, hai người trở thành bạn tốt và đồng tâm hiệp lực bảo vệ nước Triệu.
Đại nhẫn là ở “Tâm”
Nhẫn không chỉ là thể hiện ở sự nhượng bộ, mà còn thể hiện ở chỗ khi bị lăng nhục vẫn có thể chịu nhận mà không động tâm. Chỉ riêng chữ Nhẫn (忍) đã biểu đạt được điều này. Bên trên của Nhẫn (忍) là chữ đao (刀) và còn thêm một điểm để biểu thị sự sắc bén của vết đao, bên dưới của Nhẫn (忍) lã chữ Tâm (心).
Ý tứ ở đây chỉ việc dùng một đao sắc bén đâm vào trái tim thì đương nhiên là đau. Người bình thường bị như vậy phải đau đớn quằn quại lăn qua lăn lại trên mặt đất. Nhưng chữ Tâm ở bên dưới chữ Nhẫn kia vẫn đứng vững yên tĩnh. Biểu hiện không động tâm này chính là hình ảnh lột tả được nội hàm của Nhẫn.
Chữ Nhẫn (Ảnh: internet)
Chữ Nhẫn (Ảnh: internet)
Câu chuyện về hòa thượng Đại Hưng
Hòa thượng Đại Hưng là một người độ lượng và từ bi. Cuộc đời của ông, đã trải qua nhiều gian khổ tủi nhục nhưng rất thành tâm trong tu Phật. Câu chuyện sau đây nói đến cái nhẫn phi thường của ông.
Tại chân núi Cửu Hoa, có một gia đình rất giàu có. Họ có một người con gái tên Tiểu Hội, cô có hôn ước với người con trai của một gia đình giàu có khác.
Ba năm trước khi chọn ngày hôn lễ, Tiểu Hội đã sinh một bé trai. Gia đình cô ta điên đảo lo sợ và thất vọng. Họ bắt cô phải khai ra sự thật. Cuối cùng Tiểu Hội đã nói với gia đình cô ta “Có một lần tôi đi chùa cúng phật tại Núi Cửu Hoa và bị hòa thượng Đại Hưng hãm hiếp. Sau đó tôi mang thai bé trai này.” Cha cô ta tức giận. Ông đem gia nhân của ông đến núi Cửu Hoa làm náo động cả ngôi chùa. Ông và gia nhân đánh đập, chửi bới nguyền rủa hòa thượng Đại Hưng về những tội ác đã làm kể trên. Cuối cùng ông ném thằng bé này cho hòa thượng Đại Hưng và bắt phải nuôi dưỡng nó. Hòa thượng Đại Hưng lặng lẽ nhận đứa bé và nói khẽ “A Di Đà Phật!”
Từ đó danh tiếng của hòa thượng sụp đổ hoàn toàn. Ông đã từng là một vị hòa thượng rất được kính nể, nhưng bây giờ đã bị nguyền rủa là một hòa thượng hiếp dâm phụ nữ. Nơi nào ông đến, đều bị thiên hạ khinh khi cười cợt, phỉ báng. Nhưng, ông không để ý đến. Hằng ngày ông xuống núi xin bố thí để mua sữa nuôi đứa bé. Được sự dưỡng dục chu đáo của ông, đứa trẻ trông rất khỏe mạnh và thông minh.
Ba năm trôi qua rất nhanh.
Tuy rằng cô bị hãm hiếp, những ngày lẽ cưới không thay đổi. Trong đêm tân hôn, người chồng muốn biết sự thật xuất xứ của đứa bé đó, cô ta vừa khóc vừa nói với ông tất cả. Ngay sáng hôm sau, người chồng nói sự thật với gia đình của anh ta là hai người đã lén lút gặp nhau và đó cũng là lý do tạ sao Tiểu Hội đã mang thai và sinh đứa bé ba năm qua. Đó cũng là lý do tại sao anh ta khăng khăng muốn đám cuới với Tiểu Hội dù rằng cô không còn trong trắng. Vì muốn giữ danh tiếng của chồng tương lai của cô, Tiểu Hội đã đổ tội cho hòa thượng Đại Hưng.
Ba ngày sau hôn lễ, Tiểu Hội về thăm gia đình của mình theo phong tục của người Trung Hoa. Cô đã nói với gia đình cha mẹ cô về sự thật đó. Gia đình cô vô cùng kinh ngạc, nhất là đứa bé con của cô ta. Họ rất hối hận là đã làm điều sai trái đối với vị hòa thượng và đã bỏ bê cháu của họ trong ba năm qua.
Hai gia đình gấp rút tới chùa. Họ quỳ trước mặt hòa thượng Đại Hưng, và thành tâm xin lỗi và mong được xin lại đứa cháu. Hòa thượng đã nuôi được một đứa bé khỏe mạnh, và luôn có nụ cười trên môi, Hòa Thượng với dáng bình yên thanh thản như chưa từng xảy ra chuyện gì, ông bế đứa bé trả lại cho Tiểu Hội một cách trang trọng, và nói với họ “Đem đứa bé này về! A di dà Phật!” Ông chấp hai tay trước ngực để ra dấu tạm biệt họ, và thản nhiên trở vào phòng thiền định.
Kể từ đó trở đi, tất cả hòa thượng trong chùa và mọi người càng kính trọng hòa thượng Đại Hưng hơn nữa.
(Ảnh: Internet)
(Ảnh: Internet)
“Nhẫn” quyết không phải là nhu nhược

Nhẫn là một loại tu dưỡng và cảnh giới, tuyệt đối không phải là nhu nhược.

Thuở thiếu niên, Hàn Tín thân thể cường tráng, võ nghệ cao cường, vì là người luyện võ nên thường khoác bảo kiếm đi trên đường. Một hôm, có một kẻ vô lại hỏi Hàn Tín: “Ngươi khoác bảo kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Có can đảm thì giết ta đi!”
Hàn Tín thầm nghĩ: “Ta giết hắn là việc quá dễ dàng, nhưng sát nhân là phải đền mạng, hơn nữa cũng là việc không đáng.” Người kia liền cười to và nói: “Ngươi không dám giết ta, vậy ngươi phải chui háng ta đi nếu không đừng hòng đi qua!” Trong tiếng cười nhạo của cả đám đông bọn họ, Hàn Tín đã thực sự chui qua háng của kẻ vô lại.
Điển tích Hàn Tín chịu nhục chui háng (Ảnh: internet)
Điển tích Hàn Tín chịu nhục chui háng (Ảnh: internet)
Hàn Tín làm như vậy, không những không có người cho rằng ông nhu nhược mà nhiều người còn cho rằng ông có năng lực nhẫn nại và khả năng kiềm chế cao.
Trong “Lưu Hầu luận”, Tô Thức cho rằng: Thời xưa, người được xưng là dũng sĩ nhất định có tiết tháo hơn người, có thể độ lượng với cả những việc người thường không thể chịu đựng được. Người “hữu dũng vô mưu” khi bị vũ nhục, nhất định sẽ rút kiếm, đây không thể được gọi là dũng sĩ. Dũng sĩ thực sự trong thiên hạ, khi gặp những sự tình bất ngờ đều không bị kinh hoảng, khi vô cớ bị người khác vũ nhục, cũng thấy bình thường, không phẫn nộ. Đây thường là bởi vì họ có ý chí, khát vọng vô cùng lớn, chí hướng cao xa phi thường.
Không có “Dục vọng” chính là “Nhẫn”
Cốt lõi của nho gia là “Nhân”, “Nhân” với “Nhẫn” là cùng âm. Vậy thì, cái gì là Nhân? Khổng Tử nói: “khắc kỷ phục lễ vi nhân” (Tạm dịch: Có thể theo “Lễ” thì là Nhân). Một người nếu muốn trở thành người hành xử theo “lễ” phải thường xuyên kiềm chế bản thân, ước thúc lời nói và hành vi của mình, khiến cho lời nói và hành vi của mình đều phù hợp với yêu cầu của “Lễ”.

Đây là một việc rất khó, kỳ thực trên đời này chiến thắng khó khăn nhất là chiến thắng bản thân mình chứ không phải chiến thắng người khác.

Con người đều có thất tình lục dục. Thất tình theo Nho gia là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ác, dục. Thất tình theo Phật giáo là: hỉ, nộ, ưu, cụ, ái, tăng, dục. Thất tình theo Trung y là:  hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh.
Con người khi chìm đắm trong tình và dục, vì mình, trước đủ loại hấp dẫn, trong lợi ích trước mặt, thì có thể nhẫn được không? Rất nhiều người khi mất đi “danh, lợi, tình” sẽ sản sinh ra một loại cảm giác thống khổ, cảm thấy khó có thể chịu đựng được. Kỳ thực, chỉ cần có thể bỏ đi dục vọng, thì sẽ không có loại cảm giác thống khổ này, Nhẫn lúc đó cũng đã thăng hoa.
Câu Tiễn nằm gai nếm mật (Ảnh: internet)
Câu Tiễn nằm gai nếm mật (Ảnh: internet)
Theo NTDTV chanhkien.org
Mai Trà biên dịch

Bị nguy khốn, đói khát, vì sao Khổng Tử vẫn đàn hát ung dung?

Khi Khổng Tử đi chu du liệt quốc, đến vùng đất giáp ranh giữa nước Trần và nước Thái thì gặp cảnh khó khăn không còn lương thực. Mấy thầy trò bị bỏ đói, chỉ có thể húp nước cháo cầm hơi. Thế nhưng ông vẫn điềm nhiên ngồi trước nhà gảy đàn ca hát.
Học trò của ông là Tử Lộ thấy vậy mới thưa: “Lúc này phu tử vẫn có thể ca hát, lẽ nào đây cũng là yêu cầu của lễ hay sao?”. Khổng Tử nghe vậy không trả lời ngay mà đợi sau khi chơi hết bản nhạc mới đáp: “Tử Lộ à! Trong tình cảnh này người quân tử gảy đàn chơi nhạc là để khiến cho tâm mình không kiêu ngạo phóng túng, còn tiểu nhân chơi nhạc là che giấu nỗi sợ hãi của mình. Con đi theo ta lẽ nào lại còn không hiểu tình cảnh của ta sao?”. Tử Lộ nghe nói xong mới bắt đầu bình tâm xuống.
Tử Cống nói: “Đạo của phu tử đã đạt tới cảnh giới vô cùng cao thâm cho nên không dễ dàng để người trong thiên hạ có thể dung nạp. Phu tử có thể giảm bớt tiêu chuẩn xuống một ít không?”. Khổng Tử trả lời: “Tử Cống à! Một người nông dân giỏi trồng cây không có nhất định là có được thu hoạch tốt. Một người thợ tay nghề điêu luyện không nhất định được mọi người thích. Người quân tử thực thi và tuyên dương đạo nghĩa, đó là hi vọng người thiên hạ có thể tuân theo quy tắc đạo nghĩa mà đối nhân xử thế quay về với thiên lý. Làm sao có thể hạ thấp chuẩn mực đạo nghĩa để phù hợp với con người thế tục? Như hôm nay con không tu chính đạo của con mà đi suy nghĩ làm sao để thiên hạ dung nạp, đây là vì chí hướng của con không đủ lớn”.

Tranh minh họa Khổng Tử gảy đàn. Ảnh qua: vinhblog.info

Nhan Hồi nói: “Đạo của phu tử đạt tới cảnh giới vô cùng cao thâm cho nên có một số người không thể dung nạp, nhưng cho dù có như vậy thì phu tử vẫn tận tâm tận lực đi thực thi, lấy tâm nhân đức đi cứu độ bách tính trong lửa nước. Tuy gặp phải sự ghen ghét, đố kỵ nhưng không phải vì những người đó không dung nạp, không thấu hiểu mà đạo của phu tử bị tổn hại. Đây càng chứng minh sự trân quý của đạo phải không? Trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn kiên trì giữ vững chính đạo không lay động, đây chính là phẩm chất của người quân tử và chỉ có người quân tử mới làm được. Không tu dưỡng chính đạo chính là sự hổ thẹn của chúng ta. Chúng ta truyền chính đạo rồi nhưng không được những người này dung nạp thì đây chính là sự hổ thẹn của họ”. Khổng Tử nghe xong vui mừng nói: “Kiến thức của Nhan Hồi thật tốt”
Vừa đúng lúc này gió nhè nhẹ đưa đến hương thơm thoang thoảng, Khổng Tử theo hướng hương thơm truyền lại mà đi, tới một thung lũng nhỏ nơi thâm sâu tịch cốc phát hiện một nhành lan rừng đang nở, hương thơm dịu mát, lặng lẽ lan toả khắp nơi. Khổng Tử nói với các học trò của mình: “Hoa lan trong tịch cốc, không phải vì không có người mà nó không đơm hoa toả hương, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không thay đổi bản chất của mình. Giống như người quân tử thanh tao, chính trực, kiên cường, họ là quân tử chân chính!”.
Sau đó, Khổng Tử viết bản nhạc “Ỷ Lan Thao”. Các học trò của ông đều nhận được động lực khích lệ rất lớn. Khổng Tử tiếp tục nói: “Đạo nghĩa được nội hàm trong hoàn cảnh khó khăn cũng giống như từ băng giá lạnh buốt chuyển sang ấm áp. Sau khi trải qua cái giá lạnh của mùa đông rồi mới đến sự ấm áp mát mẻ của mùa xuân. Những điều này chỉ có bậc thánh nhân mới có thể thấu hiểu”.
Tử Cống hỏi: “Tại sao lại có người không hiểu được?” Khổng Tử đáp: “Người không có đại trí nhìn xa trông rộng, chỉ nhìn những thứ trước mắt, đối với những thứ bản thân không thấy thì không tin. Đối với người có đạo đức tu dưỡng và trọng trách lớn mà nói, thường họ sẽ không bị cảnh giới bên ngoài khống chế, ảnh hưởng. Bởi vì trong tâm trí họ có đạo cho nên có thể nhìn cao trông rộng, trí huệ tinh thâm, có thể biến nghịch cảnh trở nên thuận trí”. Các học trò của ông nghe xong đều lấy lại được tinh thần, sang ngày thứ hai thì giải quyết được khó khăn.
Cả đời khổng Tử bất luận làm việc gì đều kiên trì nguyên tắc trước sau như một, tuyên dương đạo đức và thiên lý nhân nghĩa tuần hoàn, lắng nghe thiên mệnh. Người quân tử cần kiên trì theo đuổi theo tín ngưỡng của mình, tuân thủ đạo đức nhân nghĩa, ý chí không lay động. Bởi lý tưởng và ý chí của người quân tử cao thâm, nhìn xa trông rộng, có trọng trách, sứ mệnh duy trì và phát triển chân lý chính nghĩa trong xã hội, có lòng bác ái, cảnh tỉnh mọi người quy về chính đạo.
Cuộc sống cần phải biết chờ đợi
Ví như khi phấn chấn bước vào trong một quán ăn, gặp người phục vụ đưa thức ăn lên chậm trễ, ta chỉ có thể bình tâm mà chờ đợi. Khi lái xe qua một thị trấn đông đúc, hay khi gặp đèn đỏ chúng ta chỉ có cách chờ đợi. Ví như đi mua đồ trong siêu thị, khi thanh toán cũng cần xếp hàng chờ đến lượt, có vội cũng chẳng được, có gào thét cũng chẳng ích lợi gì.

Khi cần xếp hàng hãy cứ bình tâm chờ đợi. (Ảnh qua tiin.vn)

Chờ đợi luôn khiến người ta bực tức, khó chịu. Sự bực tức này sẽ khiến chúng ta khởi tâm oán trách người khác. Nhiều người cho rằng không phải chờ đợi thì có thể đi nhanh hơn, không phải lãng phí thời gian. Tuy nhiên nó cũng chỉ là xoa dịu tâm lý sốt ruột của chúng ta mà thôi. Thực tế, nó không hề giúp chúng ta sớm đạt được mục đích, nhiều khi trái lại còn tạo nên chướng ngại. 
Trước đây, có chàng trai hẹn hò với một cô gái. Vì đến chỗ hẹn sớm hơn nhưng lại không thích chờ đợi, chàng trai than ngắn thở dài sốt ruột. Lúc ấy có một thiên sứ xuất hiện. Vị thiên sứ đưa cho chàng trai một chiếc hộp, chỉ cần ấn chiếc nút trên chiếc hộp thì có thể bỏ qua khoảng thời gian chờ đợi đó.
Chàng trai rất thích thú ấn một cái, cô gái lập tức xuất hiện. Chàng trai lại nghĩ, bây giờ mà có thể kết hôn với người mình yêu thì tốt biết mấy, vậy là chàng trai ấn tiếp chiếc hộp lần nữa, lập tức thấy mình xuất hiện trong hôi trường hôn lễ. Hai người bước đi trên thảm đỏ tráng lệ trong tiếng vỗ tay chúc phúc của mọi người. Thật là tốt quá, mơ ước của chàng trai được thực hiện!
Những nguyện vọng của chàng trai không ngừng được nhảy qua các giai đoạn mong muốn, có vợ, có con, có nhà, có sự nghiệp, tất cả đều diễn ra vô cùng nhanh chóng, chỉ bằng một cái ấn tay. Rất nhiều sự việc còn chưa được cảm nhận và hưởng thụ thì đã qua đi. Lúc này chàng trai mới nhận ra một điều, tất cả mọi việc trong đời đều có ý nghĩa của nó, cho dù là chờ đợi cũng có rất nhiều hàm nghĩa thâm sâu…
Theo soundofhope
Minh Vũ biên dịch
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH