Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 112/34 (Ngàn năm công tội)

(ĐC sưu tầm trên NET)
                                          Trung Quốc Nghiền Nát Dân Chủ Ở Hồng Kông

Mao Trạch Đông Ngàn năm Công Tội

mtd cong toi
Nguyên tác của: Tân Tử Lăng(Xin Ziling)
Nhan đề: Mao Trạch Đông Thiên Thu Công Tội
xuất bản tại Hongkong năm 2007
Bản dịch Việt ngữ: Tủ Sách Tiếng Quê Hương

---------------------
(Tiếp theo) 



Khì công bố “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” chính là đêm trước phái hiến chương Anh quốc chuẩn bị phát động khởi nghĩa tại London, hình thế đấu tranh giai cấp sắp đến lúc bùng nổ, sự đồng tình với công nhân và căm phẫn nhà tư bản khiến hai ông mang theo màu sắc đạo đức, tình cảm khi hoàn chỉnh bản thảo, sai lầm ghép chủ nghĩa tư bản vào tội tử hình, đòi tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, chấm dứt phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, hơn nữa nhất thiết phải dùng bạo lực. Do đó, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăng-ghen đề xướng trở thành một phong trào xã hội chủ nghĩa bạo lực trương ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân để phá huỷ lực lượng sản xuất tiên tiến. Sự khác biệt giữa hai ông với những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ 19 như Saint-Simen, Owe là: các nhà không tưởng lớn thuyết phục nhà vua và chính phủ tiếp nhận và thực thi phương án xã hội lý tưởng của họ; Mác và Ăng-ghen phát hiện giai cấp vô sản ngày càng đông có thể là đới thể vật chất của phong trào xã hội chủ nghĩa trong tương lai, cho rằng thông qua đấu tranh giai cấp, vũ trang giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính vô sản, là cớ thể cải tạo xã hội. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác khiến chủ nghĩa xã hội từ một ảo tưởng của nhà tư tưởng biến thành đòi hỏi chính trị và thực tiễn xã hội của hàng ngàn triệu người, cuối cùng trở thành một phong trào xã hội lớn mạnh. Ăng-ghen tuyên bố chủ nghĩa xã hội đã từ không tưởng biến thành “khoa học”, và đã viết một cuốn sách với đầu đề như vậy. Nhưng cái gọi là “khoa học” là tính hữu hiệu của biện pháp, chứ không phải tính hiện thực của mục tiêu, phần không tưởng trong mục tiêu của nó không có gì thay đổi “chủ nghĩa xã hội khoa học” trở thành “chủ nghĩa xã hội bạo lực”, khiến mấy thế hệ những người cộng sản bao gồm Lenin, Stalin Mao Trạch Đông lầm đường lạc lối. Sai lầm của những tín đồ vĩ đại này là họ đã lẫn lộn tính hiệu quả của biện pháp với tính hiện thực của mục tiêu, coi biện pháp là mục tiêu, coi hình thức là bản chất, mà không biết rằng giành được chính quyền, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là đã sáng tạo nên năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Họ giương cao ngọn cờ “chủ nghĩa xã hội khoa học”, tịch thu công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ kinh tế tiểu nông, tự cho rằng đang vận dụng lý luận mác xít giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, đấu tranh nhằm xây dựng một chế độ xã hội mới cao hơn, trên thực tế họ đang cản trở và phá hoại lực lượng sản xuất, xoá bỏ cơ sở kinh tế để xây dựng xã hội cao hơn. Giai cấp tư sản bị tiêu diệt (tính hữu hiệu của biện pháp được thực hiện rồi), lực lượng sản xuất tiên tiến cũng theo đó tiêu vong (tính hiện thực của mục tiêu bị tiêu tan). Cái chế độ công hữu và kinh tế kế hoạch mang lại cho xã hội là mãi mãi nghèo nàn lạc hậu, mãi mãi là nền kinh tế tem phiếu. Đó là con đường chung của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa thế kỷ 20.
Từ 1945 đến 1991 là 45 năm nhân dân các nước khôi phục và phát triển. Trừ Mỹ ra, tất cả các nước bất kể xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đều đứng lên từ đống đổ nát của chiến tranh. Đây là 45 năm chạy đua hoà bình giữa hai loại chế độ. Trong 45 năm ấy, ai hơn, ai kém? Ai đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, ai cản trở lực lượng này phát triển? Ai đem lại cho dân thường lợi ích vật chất nhìn thấy rõ, có thể nắm lấy và hưởng thụ, ai dùng những lời lẽ phét lác và trống rỗng lừa bịp dân chúng? Nhân dân đã rút ra kết luận, lịch sử cũng đã có kết luận.
Đông Đức và Tây Đức được coi là tiền tiêu đối đầu giữa phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Con cháu cụ Mác đã so sánh kỹ lưỡng, sâu xa và lâu dài chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc quan trọng hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa là tịch thu xí nghiệp tư nhân, thực hiện chế độ công hữu và kinh tế kế hoạch. Từ năm 1945, các chủ xí nghiệp (tức các nhà tư bản ở Đông Đức) bắt đầu chạy sang Tây Đức. Đảng Xã hội Thống nhất (Đảng cộng sản) Đức lúc đầu cho rằng để những phần tử tư sản này bỏ đi hết là việc tốt, có thể làm trong sạch xã hội, giảm phe phản đối, có lợi cho sự thống trị của Đảng, nên chẳng những không ngăn cản, mà còn cấp giấy thông hành cho họ sang Tây Đức. Đến năm 1961 đã có trên 2,7 triệu người bỏ đi. Về sau phát hiện, không chỉ các nhà tư bản, mà cả những người trí thức như nhà khoa học, giáo sư, bác sĩ và công nhân kỹ thuật đều chạy sang Tây Đức. Làn sóng lưu vong này ngày càng dữ dội, trực tiếp de doạ sự tồn tại của Đông Đức, thế là xây “bức tường Berlin”.
Trước ngày nước Đức thống nhất, thu nhập bình quân đầu người ở Tây Đức gấp 4 lần Đông Đức.
Giá trị sản phẩm của Tây Đức chiếm 93% toàn bộ giá trị sản phẩm của hai nước Đức, Đông Đức chỉ chiếm 7%. Sau ngày thống nhất, Cộng hoà Liên bang Đức với tư cách Chính phủ trung ương toàn nước Đức đã dành một khoản lớn chi viện đồng bào miền Đông, có vai trò quyết định trong việc giúp đỡ nhân dân miền Đông khắc phục khó khăn kinh tế, đẩy nhanh cải cách cơ cấu kinh tế. Sau khi Đảng Xã hội Thống nhất Đức sụp đồ, Shabovski, nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác tư tưởng trong thời gian dài của đăng này đã nghiền ngẫm sâu sắc thất bại của đảng mình. Với nỗi đau nước mất, đảng tan, ông nêu lên hai chân lý khiến những người cộng sản rơi lệ:
Một là chế độ quốc doanh không bằng chế độ tư hữu. Trong “khuôn khổ chế độ quốc doanh”, sự phát triển của kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa không bao giờ theo kịp các nước tư bản chủ nghĩa, nói “chủ nghĩa xã hội là một hình thức năng suất lao động xã hội cao hơn” là dối trá. Tính ưu việt của chế độ quốc doanh là hư ảo, do các nhà lý luận nặn ra, chẳng hạn họ rất thích thao thao bất tuyệt rao giảng: “công nhân làm việc trong xí nghiệp quốc doanh là người chủ, làm việc cho mình; làm việc trong xí nghiệp tư nhân là nô lệ của nhà tư bản, bị áp bức, bóc lột”. Thể nghiệm thực tế của công nhân Đức là: “lâm chủ” trong nhà máy quốc doanh ở Đông Đức, mỗi tháng được 500 mác, sang xí nghiệp tư nhân Tây Đức “chịu áp bức, bóc lột”, mỗi tháng được 2.000 mác. Những người công nhân “bỏ phiếu bằng chân”, chạy sang Tây Đức, thà chịu “áp bức bóc lột” để được 2.000 mác, chứ không ở lại Đông Đức “làm chủ”.
Hai là xã hội không thể thiếu các nhà tư bản. Chân lý “khiến người ta rơi nước mất” này là điều những người cộng sản không muốn tiếp nhận nhất, nhưng lại buộc phải chấp nhận, chừng nào họ không muốn bị nhân dân và lịch sử vứt bỏ như Đảng Xã hội Thống nhất Đức. Nhà tư bản là ai? Là tầng lớp quản lý đời sống kinh tế xã hội. Nixon cho rằng: “45 năm hoà bình ở Đông Âu, chủ nghĩa cộng sản chà đạp tầng lớp quản lý còn nghiêm trọng hơn 5 năm chiến tranh ở Tây Âu (thế chiến 2). Các nước Đông Âu thiếu các giám đốc cấp cao, kế toán trưởng và các nhân tài chuyên môn khác làm cho đòn bẩy tư bản chủ nghĩa phát huy tác dụng”.
Phỉ báng các nhà tư bản, coi họ như yêu ma, đẩy họ sang phương Tây, khiến Đông Đức khi phát triển kinh tế không còn chỗ dựa, không có người dẫn đầu lực lượng sản xuất tiên tiến. Đây là sự suy ngẫm lại đầy đau khổ. So với Tây Đức, Đông Đức thừa gánh nặng ý thức hệ và thiếu một tầng lớp quản lý. Một thừa một thiếu này là cội nguồn khiến kinh tế Đông Đức không phát triển lên được, là cội nguồn khiến Đông Đức mất đảng, mất nước, Chúng ta vẫn có một thiên kiến tự cho là đúng đắn: tiêu diệt chế độ tư hữu, tước đoạt tài sản của giai cấp tư sản là vì lợi ích của giai cấp công nhân. Sự thật thế nào? Trong 20 năm sau khi xoá bỏ chế độ tư hữu (1957 -1978), do quản lý kém, các xí nghiệp sở hữu toàn dân của Trung Quốc thua lỗ năm này qua năm khác, lương công nhân chẳng những không được nâng cao, mà còn giảm 5,7%. Lương bình quân hàng năm của công nhân từ 582 NDT năm 1957, giảm xuống còn 549 NDT năm 1978. Nhật Bản là nước tư bản chủ nghĩa bị chúng ta coi là chế độ lạc hậu, họ không tước đoạt tài sản của giai cấp tư sản, duy trì chế độ tư hữu, từ 1955 đến 1973, tiền lương của công nhân viên các xí nghiệp 30 người trở lên nâng cao gấp gần 3 lần, năng suất lao động nâng cao gấp 9 lần. Kết quả, tỉ lệ giá trị thặng dư từ 314% năm 1955 nâng lên 443% năm 1970. Kết cực là nhà tư bản và công nhân đều có lợi.
Nếu thật sự đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, trong 20 năm nâng lương công nhân lên gấp 3 lần, thì phải đoàn kết giai cấp tư sản, bảo hộ chế độ tư hữu; chế độ tư hữu chẳng những liên quan đến lợi ích của giai cấp tư sản, mà cũng gắn bó sống còn với lợi ích của giai cấp công nhân.
Là một học thuyết cứu thế, chủ nghĩa xã hội bạo lực tuy được truyền bá đã hơn 100 năm, dọc ngang nửa thế kỷ, nhưng cuối cùng chẳng cải tạo được một ngóc ngách nào trên thế giới, và đã biến khỏi vũ đài lịch sử cùng với sự tan rã của Liên Xô: Một cuộc cách mạng với chung cục tiêu diệt chế độ tư hữu, một chế độ xã hội với đặc trưng loại bỏ lực lượng sản xuất tiên tiến đều không có tương lai, dù dưới danh nghĩa đàng hoàng đến mấy. Giai cấp tư sản đại diện lực lượng sản xuất tiên tiến và chế độ tư hữu dù bị hiểu lầm đến đâu, bị coi là yêu quái đến mức nào, cuối cùng đều được loài người chấp nhận. Loài người đã bất chấp những lời hò hét bình đẳng và chính nghĩa, thoát khỏi xã hội cộng sản nguyên thuỷ, từng bước đi tới vãn minh như vậy đấy.
Giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, là một giai cấp không tiêu diệt nổi. “Tiêu diệt” rồi, lại phải mời họ quay trở lại. Đó là bài học căn bản mà thất bại của Phong trào cộng sản quốc tế để lại cho đời sau.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ: Sự lựa chọn của loài người trong thế kỷ 20 Từ năm 1836 đến năm 1852, nước Đức có đồng minh những người cộng sản, một tổ chức công nhân bí mật chuẩn bị khởi nghĩa. Lãnh lụ tư tưởng của tổ chức này “trong túi sẵn cầm nang c6 thể xây dựng thiên đường trên trái đất”. Đó là đốm lứa của chủ nghĩa cộng sản. Do lý luận không hoàn chỉnh, họ yêu cầu các nhà trí thức Mác và Ăng-ghen giúp đỡ, thế là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sán” ra đời.
Sau khi được công bố năm 1848. “Tuyên ngôn tổng Cộng sản” tuy đã làm chấn động tầng lớp thống trị các nước châu Âu, nhưng không được quần chúng nhân dân tiếp nhận rộng rãi. Sau này ôn lại tình hình lúc ấy, Ăng-ghen nói: “Tuyên ngôn, tuy được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp và nhiều thứ tiếng, nhưng nó không ảnh hưởng gì tới các dân tộc khác”. “Từ năm 1852 khi người cộng sản Koren bị kết án đã kết thúc giai đoạn đầu của phong trào công nhân độc lập Đức” . Từ đó đã đánh dấu chấm hết giai đoạn đầu của phong trào công nhân Đức dưới ngọn cờ chủ nghĩa cộng sản.
Sau thất bại của cách mạng châu Âu năm 1849, Chủ nghĩa xã hội ở Đức chỉ có thể tồn tại bí mật. Đến năm 1862, học trò của Mác là Lassall, mới nêu ngọn cờ xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã thấy. Chủ nghĩa xã hội của Lassall rất ôn hoà. Nhưng sự xuất hiện của nó trên vũ đài lại đánh dấu khởi điểm phát triển chủ nghĩa xã hội Đức giai đoạn 2. (Mai Lâm: “Truyện Các Mác”, trang 396)
Để thay đổi tình trạng lý luận cao siêu ít người theo kịp, ngày 17-11-1852. Mác và Ăng-ghen đã giải tán Đồng minh những người cộng sản, hai ông không thành lập Đảng Cộng sản, mà chuyển sang ủng hộ phong trào xã hội chủ nghĩa ôn hoà của Lassall. Đây là chuyển biến lớn của Mác và Ăng-ghen về chính trị, từ người cộng sản sang người dân chủ xã hội. Dưới sự chỉ đạo của hai ông, tháng 8-1869, Đảng Dân chủ Xã hội Đức - chính đảng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - ra đời. Đây là giai đoạn 2 của phong trào công nhân Đức, giai đoạn chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Vì sao gọi là chủ nghĩa xã hội dân chủ? Người sáng lập Đảng Dân chủ Xã hội Đức Liebknecht giải thích:
“Chủ nghĩa xã hội không có dân chủ là chủ nghĩa xã hội tưởng tượng chủ quan, cũng như dân chủ không có chủ nghĩa xã hội là dân chủ giả dối. Nhà nước dân chủ là hình thức xã hội duy nhất có thể được tổ chức theo nguyên tác của chủ nghĩa xã hội. Chính vì chúng ta đã làm rõ mối quan hệ không thể tách rời giữa chủ nghĩa xã hội và dân chủ, chúng ta mới gọi mình là những người dân chủ xã hội. Tên gọi nảy bao gồm cương lĩnh của chúng ta”. (Toàn tập Mác-Ăng-ghen, quyển 21, trang 241)
Từ đó, các chính đảng công nhân mới thành lập ở các nước châu Âu đều gọi là Đảng Dân chủ Xã hội (cá biệt gọi là Công đảng), chứ không gọi là Đảng cộng sản.
Trong thư gửi nhà lãnh đạo Đảng Xã hội Lao động Ytaly Tarati ngày 26-1-1894, Ăng-ghen đã trích dẫn câu chữ trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, và đã sửa đổi quan trọng bản tuyên ngôn này.
Nguyên văn là:
“Trong các giai đoạn phát triển mà cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trải qua, những người cộng sản luôn luôn đại diện cho lợi ích của toàn bộ phong trào… Những người cộng sản phấn đấu vi mục đích và lợi ích gần nhất của giai cấp công nhân, nhưng trong cuộc vận động hiện nay, họ còn đồng thời kiên trì tương lai của phong trào ”.
Câu chữ sau khi sửa đổi:
“Trong các giai đoạn phát triển mà cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trải qua, những người xã hội chủ nghĩa luôn đại diện cho lợi ích của toàn bộ phong trào… Họ đấu tranh vì mục đích và lợi ích gần nhất của giai cấp công nhân, nhưng trong cuộc vận động hiện nay, họ còn đồng thời đại diện cho tương lai của phong trào”.
Sửa đổi quan trọng này chứng tỏ Ăng-ghen cho rằng “những người xã hội” mới thật sự đại diện cho lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của giai cấp vô sản, “những người cộng sản” không được phong trào công nhân châu Âu chấp nhận, nên rút khỏi vũ đài lịch sử.
Từ khi thành lập Hiệp hội công nhân quốc tế 1864, trong các văn kiện do Mác khởi thảo, khái niệm “chủ nghĩa cộng sản” đã bị thay thế bởi từ “chủ nghĩa xã hội”. Mác không còn cố chấp về cách mạng bạo lực, ông đề ra hai con đường cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa:
Tổ chức của công nhân không thể hoàn toàn giống nhau về mọi chi tiết, ở Newburgh cũng như Barcelona, London cũng như Berlin. Chẳng hạn ở nước Anh, con đường biểu hiện sức mạnh chính trị của mình đã mở ra trước giai cấp công nhân. Phàm những nơi lợi dụng tuyên truyền hoà bình có thể đạt mục đích trên nhanh hơn, đáng tin cậy hơn, tổ chức khôi nghĩa là không sáng suốt. Ở Pháp, những pháp lệnh bức hại nhiều không kể xiết và cuộc đối kháng một mất một còn giữa các giai cấp xem ra sẽ khiến cuộc chiến tranh xã hội tức kết cục bạo lực là không tránh khỏi. Nhưng việc đạt kết cục đó bằng phương thức gì phái do giai cấp công nhân nước đó quyết định. Quốc tế sẽ không ra bất cứ mệnh lệnh nào, thậm chí chưa chắc đã đưa ra kiến nghị nào về vấn đề này. (Phát biểu của Mác với phóng viên báo “Le Monde“ ngày 3-7-1871) Sau cuộc huyết chiến giữa Công xã Paris và Chính phủ tư sản Pháp năm 1871, giai cấp tư sản châu Âu nói chung thực hiện chính sách nhượng bộ đối với giai cấp công nhân, khiến Mác và Ăng-ghen thấy rõ hơn khả năng quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội, thế là hai ông nhiều lần nói về quá độ hoà bình, khiến học thuyết của họ toàn diện hơn, càng phản ánh được đời sống thực tế trong các nước châu Âu. Phát biểu trước cuộc mít tinh quần chúng ở Amsterdam ngày 8-9-1872, Mác đã nói với công nhân và những người ủng hộ Chi bộ Hà Lan thuộc Hiệp hội công nhân quốc tế:
“Chúng tôi hiểu phải tính tới chế độ, phong tục và truyền thống của các nước; chúng tôi cũng không phủ nhận ở một số nước như Mỹ, Anh - và nếu như tôi hiểu rõ hơn chế độ của các bạn, có lẽ có thể cộng thêm Hà Lan - công nhân có thể đạt được mục đích của mình bằng biện pháp hoà bình ”. (Tuyển tập Mác-Ăng-ghen quyển 18, trang 179)
Năm 1866, bùng nổ khủng hoảng kinh tế thế giới. Sau khi khủng hoảng qua đi, tập trung tư bản có sự phát triển kinh người. Các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư qui mô lớn ra đời đã làm thay đổi cơ cấu xã hội của chủ nghĩa tư bản. Cùng với sự xuất hiện của thể chế ngân hàng mới, tích luỹ tư bản không còn dựa vào các chủ xí nghiệp tự tập hợp vốn qua tiết kiệm và dự trữ, mà dựa vào dự trữ của toàn xã hội. Thu hút vốn của xã hội để xây dựng xí nghiệp, thế là các công ty cổ phần ra đời. Trên lục địa châu Âu, ngành này tiếp theo ngành kia biến thành các xí nghiệp cổ phần, trước hết là công nghiệp gang thép, tiếp đó là công nghiệp hoá chất, ngành chế tạo máy và ngành dệt. Mác rất quan tâm đến thay đổi này. Ông cho rằng các công ty cổ phần “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở bản thân hệ thống tư bản chủ nghĩa”, “đây là sự từ bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong phạm vi bản thân phương thức này, do đó là một mâu thuẫn tự từ bỏ, rõ ràng đây chỉ là một điểm quá độ để chuyển sang một hình thức sản xuất mới”. (Tư bản luận quyển 3, trang 504, Nhà xuất bản Nhân dân, bản in năm 1966). Nhà tư bản không còn xí nghiệp tư nhân, mà chỉ có tài sản tư nhân, phần tài sản tư nhân này là một bộ phận tài sản xí nghiệp được lượng hoá bằng tiền. Họ không còn là chủ xí nghiệp nữa, mà chỉ là cổ đông của xí nghiệp, là chủ nợ hợp pháp của một phần nhất định trong lợi nhuận của công ty. Công ty cổ phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giám đốc và xưởng trưởng tổ chức và chỉ huy sản xuất, tách quyền sở hữu và quyền quản lý xí nghiệp. Đội ngũ quản lý nắm quyền kinh doanh xí nghiệp, ảo hoá quyền thống trị của giai cấp tư sản. Việc tách quyền sở hữu và quyền quản lý là một cuộc “cách mạng” hoà bình, tạo khả năng quá độ hoà bình sang một chế độ mới.

(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------------

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 112/33 (Ngàn năm công tội)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét