Chủ Nhật, 17 tháng 9, 2017

BIGBANG, CÓ HAY KHÔNG?*

(ĐC sưu tầm trên NET)

               Khoa học vũ trụ và khám phá - Những bộ óc thiên tài đưa chúng ta tới vụ nổ bigbang

Vụ nổ Big Bang là gì?

Chuyên mục Giải đáp tuần này sẽ mang đến cho bạn đọc những thông tin về Vụ nổ lớn Big Bang theo cách dễ hiểu và phổ thông nhất.

Bạn đọc ở địa chỉ mail maiha...@gmail.com hỏi:


Tôi đọc báo, thỉnh thoảng nghe thấy nói đến Big Bang, chẳng hạn “Các nhà vật lý đang tái tạo lại vụ nổ Big Bang trên máy gia tốc lớn”. Vậy Big Bang là gì, người”bình thường” như tôi có thể hiểu được không?

Trả lời:

Với câu hỏi này, xin cố gắng giải thích thật dễ hiểu.

Vũ trụ là gì? Một câu hỏi lớn đã từng đặt ra trước nhân loại suốt bao nhiêu thế kỷ. Thời xưa ở Trung Hoa cổ đại, nhà triết học Lão Tử đã cho vũ trụ là một tồn tại “vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận”. Nhưng đến thế kỷ 20, với sự tích luỹ các kiến thức của vật lý vi mô và vật lý thiên văn, cho phép một học thuyết mới ra đời, cho rằng vũ trụ có một điểm khởi đầu để hình thành. Đó là vụ nổ lớn Big Bang.

Như vậy Big Bang là vụ nổ đầu tiên để từ đó đồng thời sinh ra không gian, năng lượng và vật chất để tạo ra vụ trụ như hiện nay. Một thời gian dài, lý thuyết này bị coi là một lý thuyết siêu hình nhưng các thành tựu gần đây của vật lý hạt cơ bản và kết quả quan sát những cấu trúc thiên văn lớn nhất đã cung cấp một kịch bản phù hợp với cấu trúc và sự phức tạp hoá dần dần của vật chất trong lòng vũ trụ nên ngày càng được thừa nhận rộng rãi.

Theo kịch bản này, khởi thuỷ vũ trụ nguyên thuỷ chỉ là một đại dương cực kỳ đặc và nóng (đây vẫn là điều phải thừa nhận). Rồi vụ nổ lớn Big Bang xảy ra, từ đó bắt đầu toàn bộ các biến cố sau này.
Hình ảnh tưởng tượng về vụ nổ Big Bang. Ảnh: The Sun

Vũ trụ nguyên thuỷ chỉ là một thứ “cháo đặc” gồm những hạt quark và electron chuyển động theo một hướng gần với vận tốc của ánh sáng. Tuỳ theo những va chạm không ngừng diễn ra, mà một số hạt huỷ lẫn nhau, một số khác lại sinh ra. Trong pha đầu tiên, thứ “cháo” đó bao gồm các đối tượng lượng tử mang điện tích, quark và phản quark. Rồi thứ “cháo” đó giàu thêm những hạt và phản hạt nhẹ được gọi chung là lepton (electron, nơtron và những phản hạt của chúng).

Một phần triệu giây sau Big Bang, nhiệt độ hạ xuống tới 10.000 tỉ độ Kenvin (thường gọi tắt là độ K. Về giá trị, O độ K bằng -273,16 độ C), lúc này xuất hiện các hạt nặng đầu tiên (proton và nơtron) nhờ các hạt quark kết hợp với nhau. Rồi các lepton sinh sôi nảy nở rất nhanh, đến lượt chúng chiếm hàng đầu trong vũ trụ. Nhưng nở ra nên vũ trụ nguội dần đi. Khi nhiệt độ hạ xuống tới 10 tỷ độ K thì proton và nơtron bắt đầu kết hợp với nhau để tạo thành đơteri. Lúc đó đồng hồ vũ trụ chỉ 1 giây, nhưng năng lượng của các photon vẫn đủ lớn để nhanh chóng phá vỡ hạt nhân đầu tiên đó. Mãi 3 phút sau, khi nhiệt độ hạ xuống tới 1 triệu độ K thì photon mới không còn khả năng phá vỡ các liên kết hạt nhân.

Khi ấy trong vũ trụ đã có hoạt động hạt nhân rất mạnh dẫn tói sự hình thành các hạt nhân nguyên tử nhẹ như đơteri, heli 3, liti 7 và heli 4… 15 phút sau Big Bang, quá trình tổng hợp hạt nhân ban đầu đó mới kết thúc, nhiệt độ hạ xuống quá thấp, không đủ đảm bảo cho phản ứng hạt nhân xảy ra.

300.000 năm sau, vũ trụ nguội đi xuống dưới 3000 độ K và trở nên trong suốt, electron không chuyển động nhanh như trước nữa. Các hạt nhân có thể giữ các electron lại, tạo thành các nguyên tử, tạo ra các “viên gạch xây” của vũ trụ. Do tương tác giữa photon và các nguyên tử rất nhỏ nên chúng có thể lan truyền tự do.

Vật chất, ánh sáng và các loại bức xạ khác tràn xa ngày càng mỏng dần khi vũ trụ giãn nở. Hàng tỉ năm sau, những đám mây khí khổng lồ bắt đầu phân tán. Mỗi đám mây trở thành một thiên hà rồi dưới tác dụng của lực hấp dẫn hình thành các chùm sao, các vì sao trong khi vũ trụ vẫn tiếp tục mở rộng.

Kịch bản “thú vị” về Big Bang sau này được hỗ trợ bởi 3 dẫn chứng của Vật lý thiên văn.

Thứ nhất, năm 1929, Hubble (Mỹ) chứng minh được sự dịch chuyển có hệ thống trong quang phổ của các thiên hà về phía màu đỏ, chỉ ra rằng chúng đang rời xa chúng ta với tốc độ tỷ lệ với khoảng cách tới chúng ta. Đó là dấu hiệu cho thấy rằng vũ trụ đang nở ra và không gian trong đó các thiên hà cùng chuyển động cũng đang nở ra theo thời gian.

Thứ hai, năm 1965, Penzias và Wilson (Mỹ) khám phá : luồng bức xạ vô tuyến thể hiện những tính chất giống nhau trong mọi hướng và tương ứng với bức xạ nhiệt của vật đen ở nhiệt độ khoảng 3 độ K. Điều này phù hợp với giả định về vụ nổ Big Bang: bức xạ đó là thông điệp của ánh sáng cổ nhất đến từ vũ trụ ban đầu. Đó là những photon đầu tiên bắt đầu lan truyền tự do sau khi vũ trụ đã trở nên trong suốt và ánh sáng dịch chuyển về phía những bước sóng lớn.

Thứ ba, từ những năm 1970, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều nguyên tố nhẹ như đơteri, heli 3, heli 4 và liti 7 trong vũ trụ, đặc biệt heli 4 chiếm đến 25% bất kể vùng không gian nào, phù hợp với giả định heli là chất khí sinh ra ở những khoảnh khắc đầu tiên của vụ nổ Big Bang.

Từ những năm 1980, với sự phát triển của Vật lý hạt nhân và Vật lý lý thuyết gắn với nó, người ta giải thích được nốt 2 diều “khó hiểu” còn lại của Big Bang là sự vắng mặt của phản vật chất và không tồn tại sự cong của vũ trụ ở những quy mô lớn.

Tuy nhiên, cái điểm 0, từ đó mọi thứ bắt đầu thì rõ ràng đối với các nhà khoa học vẫn chỉ là một… giấc mơ vì nó cực kỳ khó đưa ra một giả thuyết, thậm chí nhiều người còn cho là “quá sức” của kiến thức nhân loại. Đó là thời khắc mà cái lò lửa ban đầu có nhiệt độ 1032 K (tức 100.000 tỷ tỷ tỷ độ) thì vật chất sẽ diễn biến như thế nào? Theo thang thời gian thì ranh giới cuối cùng của tri thức hiện nay ở vào quãng 10-43 giây sau Vụ nổ lớn. Đó là thời điểm Planck. Chỉ có thể nghiên cứu được điểm đó khi một nhà khoa học thiên tài nào đó đưa ra được lý thuyết về sự hấp dẫn lượng tử.

Cái thời điểm 0 bí hiểm ấy hiện được các nhà khoa học gọi là “điểm kỳ dị ban đầu” để che giấu sự lúng túng của mình. Có lẽ tạm thời người ta đành phải dựa vào niềm tin tôn giáo chăng?

Đây là chuyện học thuật với nội dung chuyên môn hơi sâu. Chỉ có thể giải thích một cách “đơn giản” như thế.

Hy vọng với kiến thức phổ thông, chúng ta vẫn có thể hiểu được Big Bang là gì và những diễn biến sau đó như thế nào để tạo ra vũ trụ của chúng ta.

Song Hà

Vụ nổ Big Bang - khởi nguồn khai sinh của vũ trụ

Việt Anh, Theo 00:00 02/01/2012

Vụ nổ đó diễn ra như thế nào nhỉ?

Con người luôn không ngừng tìm kiếm nguồn gốc ra đời của mình. Những câu hỏi về quá khứ, về sự xuất hiện của vũ trụ, của dải ngân hà đã trở thành nỗi ám ảnh của mọi nhà khoa học. Một trong những giả thuyết được đưa ra để giải thích cho sự hình thành ban đầu ấy chính là thuyết vụ nổ Big Bang. Vậy sao chúng mình không cùng nhau tìm hiểu về nó nhỉ?

Nếu như từ thời xưa, ở Trung Hoa cổ đại, nhà triết học Lão Tử cho rằng vũ trụ là một sự tồn tại “vô thủy, vô chung, vô cùng, vô tận” thì đến thế kỉ 20, với những tiến bộ của khoa học, thuyết Big Bang đã được công nhận là đúng đắn. Điều này thật trùng hợp khi tư tưởng chính của thuyết này đã xuất hiện cách đây 2.500 năm trong kinh Hoa Nghiêm cũng như giáo lý nhà Phật. Cả hai đều cho rằng bên ngoài thế giới này còn có rất nhiều thế giới khác, nó có muôn hình vạn trạng như hình bánh xe, hình hoa nở… Những hình ảnh thật tình cờ đôi khi lại là hình dạng của một số thiên hà khác mà chúng ta quan sát được qua các kính thiên văn gần đây.

Hình ảnh tưởng tượng của vụ nổ Big Bang.

Kịch bản xảy ra của vụ nổ Big Bang như thế nào?

Chúng ta có thể hiểu đơn giản như sau: khởi thủy vũ trụ nguyên thủy là một đại dương cực kỳ đặc và nóng. Thứ “cháo đặc” này gồm những hạt quark (những hạt duy nhất tương tác trong cả 4 lực của vũ trụ) và electron chuyển động theo một hướng, gần bằng với vận tốc của ánh sáng. Tùy theo những va chạm không ngừng diễn ra, một số hạt tiêu hủy lẫn nhau, một số khác lại sinh ra. Trong pha đầu tiên, thứ “cháo” đó bao gồm các đối tượng lượng tử mang điện tích, quark và phản quark; sau đó, “cháo” có thêm những hạt và phản hạt nhẹ được gọi chung là lepton (electron, nơtron và những phản hạt của chúng).



Rồi một tiếng “Bùm” kinh hoàng nổ ra khi mà thứ “cháo đặc” này không chịu ngồi im một chỗ, vụ nổ Big Bang xuất hiện kéo theo những hệ quả khó tưởng tượng sau này. Một phần triệu giây sau vụ nổ, nhiệt độ vũ trụ hạ thấp xuống còn 10.000 tỷ độ Kelvin (kí hiệu là K, 0K = - 273 độ C). Các hạt cơ bản đầu tiên xuất hiện như proton, nơtron, lepton, chiếm đa số trong vũ trụ, chúng nở ra hấp thụ nhiệt nên làm nhiệt độ hạ thấp hơn nữa. Khi đồng hồ vũ trụ điểm 1 giây đầu tiên, nhiệt độ hạ xuống 10 tỷ K, hạt nhân đơteri đầu tiên xuất hiện và ngay lập tức bị năng lượng photon phá hủy. Mãi đến tận phút thứ 3, khi nhiệt độ tiếp tục hạ thấp xuống tới 1 triệu K, đây mới là điều kiện thuận lợi để các phản ứng hạt nhân xảy ra liên tục, với tốc độ lớn, hình thành nên các nguyên tố hóa học như chúng ta biết hiện nay: đơteri, heli 3, liti 7 và heli 4… Quá trình hạt nhân kết thúc ở phút thứ 15 của đồng hồ vũ trụ.


300.000 năm sau, vũ trụ nguội đi, nhiệt độ xuống dưới 3.000K và trở nên trong suốt, electron cũng không chuyển động nhanh như trước nữa. Các hạt nhân có thể giữ các electron lại, tạo thành các nguyên tử, tạo ra các “viên gạch xây” của vũ trụ. Do tương tác giữa photon và các nguyên tử rất nhỏ nên chúng có thể lan truyền tự do. Vật chất, ánh sáng và các loại bức xạ khác tràn xa và ngày càng mỏng dần khi vũ trụ giãn nở. Hàng tỉ năm sau, những đám mây khí khổng lồ bắt đầu phân tán. Mỗi đám mây trở thành một thiên hà, dưới tác động của lực hấp dẫn sẽ hình thành các ngôi sao và chùm sao, trong khi đó, vũ trụ vẫn tiếp tục mở rộng. Vũ trụ đã hình thành như vậy đấy các bạn ạ!



Thoạt nghe có thể thấy lý thuyết này thật viển vông, khó tin nhưng đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn tin rằng đây là giả thuyết hợp lý nhất. Bởi lẽ, họ được hậu thuẫn bằng những dẫn chứng quan trọng trong ngành Vật lý thiên văn.

Thứ nhất, năm 1929, Hubble (Mỹ) chứng minh được sự dịch chuyển có hệ thống trong quang phổ của các thiên hà về phía màu đỏ, chỉ ra rằng chúng đang rời xa chúng ta với tốc độ tỷ lệ với khoảng cách tới chúng ta. Đó là dấu hiệu cho thấy rằng vũ trụ đang nở ra và các thiên hà đang chuyển động cũng nở ra theo thời gian.

Thứ hai, năm 1965, Penzias và Wilson (Mỹ) đã khám phá ra luồng bức xạ vô tuyến thể hiện những tính chất giống nhau trong mọi hướng và tương ứng với bức xạ nhiệt của vật đen, ở nhiệt độ khoảng 3K. Điều này hoàn toàn phù hợp với giả định về vụ nổ Big Bang. Bức xạ này chính là thông điệp cổ nhất của ánh sáng đến từ vũ trụ ban đầu. Đó là những photon đầu tiên bắt đầu lan truyền tự do sau khi vũ trụ đã trở nên trong suốt, ánh sáng bắt đầu dịch chuyển về phía những bước sóng lớn.

Thứ ba, từ những năm 1970, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều nguyên tố nhẹ như đơteri, heli 3, heli 4 và liti 7 trong vũ trụ, đặc biệt heli 4 chiếm đến 25%, bất kể vùng không gian nào, phù hợp với giả định heli là chất khí sinh ra ở những khoảnh khắc đầu tiên của vụ nổ Big Bang.

Từ những năm 1980, với sự phát triển của Vật lý hạt nhân và Vật lý lý thuyết gắn với nó, người ta giải thích được nốt 2 điều “khó hiểu” còn lại của Big Bang là sự vắng mặt của phản vật chất và không tồn tại sự cong của vũ trụ ở những quy mô lớn.

Video tạm dừng

Dù vậy nhưng Big Bang vẫn chỉ là một giả thuyết bởi có một điều mà các nhà khoa học không thể giải thích được. Đó là điểm 0, là điểm bắt đầu của tất cả. Với chúng ta, đến giờ nó vẫn là điều huyền bí, là ẩn số không thể lý giải. Các nhà khoa học gọi nó là “điểm kỳ dị ban đầu” để che giấu sự lúng túng của mình. Có lẽ tạm thời người ta đành phải dựa vào niềm tin tôn giáo chăng?

Đi tìm nguyên nhân gây ra vụ nổ Big Bang

Một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc bắt đầu hành trình tìm lời giải về nguyên nhân gây ra vụ nổ Big Bang.

di-tim-nguyen-nhan-gay-ra-vu-no-big-bang
Các nhà khoa học tiến gần hơn đến nguyên nhân gây nên vụ nổ Big Bang. Ảnh: gremlin/iStock.
Theo International Business Times, phát hiện mới được công bố hôm 22/1 trên Tạp chí Vũ trụ học và Vật lý Hạt thiên thể Physics là kết quả của lý thuyết gây nhiều tranh cãi về sự hình thành vụ nổ Big Bang cách đây 13,8 tỷ năm.
Kể từ lần đầu tiên được đề cập vào những năm 1920, bí ẩn về những gì xảy ra trước vụ nổ Big Bang luôn khiến các nhà khoa học đau đầu. Tuy nhiên, với những kết quả đột phá gần đây, các nhà vật lý tin rằng họ đang tiến gần tới câu trả lời cuối cùng. Khi đó, con người sẽ biết được vũ trụ được sinh ra từ một vụ nổ hay do sự sụp đổ của một vũ trụ khác.
Lời giải thích phổ biến nhất được đưa ra vào năm 1981 cho rằng vũ trụ đột ngột phình to và gia tăng kích thước theo cấp số nhân trong giây đầu tiên tồn tại của nó. Lý thuyết này từng được sử dụng để giải thích thành công nhiều hiện tượng khác trong thiên văn học.
Tuy nhiên, một nhóm nhà khoa học khác kết luận một vũ trụ giống hệt có thể đã tồn tại trước vũ trụ của chúng ta. Theo họ, vũ trụ này bị co lại trước vụ nổ Big Bang. Sự co lại diễn ra đến khi vũ trụ trở thành một điểm duy nhất trong không gian, và sau đó phình ra trong hiện tượng gọi là Big Bounce.
"Mỗi lý thuyết đều để lại những dấu hiệu vật lý thiên văn khác nhau có thể được quan sát thấy ngày nay," Yi Wang, đồng tác giả nghiên cứu nêu trên cho biết. "Một số dấu hiệu xuất hiện ở cả hai kịch bản, nhưng có một số dấu hiệu đặc biệt chỉ có thể xảy ra với một kịch bản duy nhất, đó là cách để chúng ta xác định sự kiện trước vụ nổ Big Bang".
Các nhà vật lý tìm dấu vết của những dấu hiệu đặc biệt gọi là nền vi sóng vũ trụ để nghiên cứu Big Bang xảy ra thế nào. Theo Xingang Chen, nhà vũ trụ học ở Đại học Texas, Mỹ, tác giả chính của nghiên cứu, nhóm của họ có đầy đủ dấu vết nhưng cần sắp xếp chúng theo trật tự để đi đến kết luận cuối cùng.
Nhóm nghiên cứu của Chen phát hiện các hạt nặng có chức năng như những đồng hồ nguyên thủy tồn tại trước Big Bang trong cả hai kịch bản. Các nhà khoa học đang phân tích kho dữ liệu và sắp xếp chúng vào khung thời gian tương tích để tạo ra một bộ phim về quá khứ của Big Bang.
Các nhà khoa học tin rằng họ sẽ sớm có câu trả lời về vụ nổ Big Bang, để kết luận xem nó là kết quả của hiện tượng vũ trụ nở ra hay co lại. Thông tin về nguồn gốc của Big Bang sẽ được công bố trong vòng 10 năm tới.
"Các dấu hiệu đồng hồ chúng tôi đang tìm kiếm là những cấu trúc dao động tinh tế thông qua các phép đo nền vi sóng vũ trụ", Wang nói. "Mỗi kịch bản vũ trụ nguyên thủy chỉ ra một cấu trúc dao động độc nhất."
Thanh Tùng

Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ?

TVD ,    4 năm trước
Bình luận 0

Một câu hỏi của không ít người đam mê thiên văn.

Quay ngược thời gian lại 13,7 tỷ năm trước đây, khi tất cả vũ trụ chưa được hình thành và chỉ tồn tại như một điểm kỳ dị và bắt đầu với vụ nổ Big Bang. Big Bang là lý thuyết được nhiều nhà thiên văn học tin tưởng là nguyên nhân hình thành vũ trụ. Tuy nhiên nếu lý thuyết đó là thật, thì có những gì tồn tại ngay trước khi vụ nổ xảy ra, nguyên nhân của vụ nổ là gì? Một câu hỏi đã khiến không ít các nhà thiên văn học phải đau đầu.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 1
 
Câu hỏi này được đặt ra trước thời kỳ thiên văn học và vũ trụ học hiện đại khoảng 1600 năm. Vào thế kỷ thứ 4, nhà thần học St. Augustine vật lộn nghiên cứu khái niệm bản chất của Chúa trời trước khi tạo dựng nên vũ trụ. Và câu trả lời của ông là không có gì tồn tại trước khi Chúa tạo nên vạn vật. Tuy nhiên câu trả lời này có vẻ không phù hợp với thiên văn học và vũ trụ học hiện đại.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 2
 
Vật lý học thế kỷ 21 đã được trang bị nhiều kiến thức hơn, trong đó phải kể đến thuyết tương đối của Albert Einstein với khái niệm tương quan giữa khối lượng và thời gian đã cho chúng ta cái nhìn mới hơn về vũ trụ thời kỳ tiền Big Bang. Giải thích đơn giản là các hành tinh có khối lượng càng lớn thì chúng ta sẽ cảm nhận thời gian trôi qua chậm hơn khi đứng trên bề mặt, so với các hành tinh có khối lượng nhẹ hơn mặc dù sự chênh lệch là rất nhỏ. Do đó, trước vụ nổ Big Bang, điểm kỳ dị là điểm tập trung tất cả khối lượng của vũ trụ, nên nó khiến thời gian bị bế tắc hay có thể coi như không có khái niệm thời gian và cũng đồng nghĩa với việc không có khái niệm thời kỳ trước Big Bang.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 3
 
Nếu chỉ xét lý thuyết tương đối của Einstein thì khái niệm thời gian chỉ tồn tại khi điểm kỳ dị nguyên thủy mở rộng với kích thước và hình dạng của nó. Tức là không tồn tại khoảng thời gian trước vụ nổ Big Bang, cũng đồng nghĩa với câu hỏi ở tiêu đề là vô nghĩa. Tuy nhiên thuyết tương đối của Einstein vẫn chưa phải là đầy đủ, có rất nhiều hiện tượng mà nó không thể giải thích, lúc này chúng ta mới xét đến lý thuyết vật lý lượng tử. Sự ra đời của vật lý lượng tử cùng hàng loạt lý thuyết mới đã làm thay đổi những suy nghĩ và khái niệm trước đây, đồng thời làm hồi sinh câu hỏi trên 'Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ?'.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 4
 
Vật lý lượng tử đặt ra một giả thuyết rằng vũ trụ của chúng ta có thể chỉ là một vũ trụ con trong một vũ trụ lớn hơn. Lý thuyết này được hình thành từ việc quan sát các bức xạ nền vũ trụ (CMB) cón sót lại sau vụ nổ Big Bang. Các nhà thiên văn học quan sát CMB lần đầu tiên vào năm 1965, và nó nhanh chóng gây ra một vấn đề khúc mắc trong lý thuyết Big Bang. Tuy nhiên đến năm 1981 nó đã được giải thích nhờ lý thuyết lạm phát vũ trụ.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 5
 
Lý thuyết này chỉ ra rằng vũ trụ mở rộng rất nhanh, chỉ trong vài phút vào giai đoạn đầu tiên của thời kỳ tồn tại của vũ trụ. Nó gây ra biến động về nhiệt độ mà mật độ của CMB, tuy nhiên những biến động này phải được thống nhất. Những nỗ lực lập bản đồ vũ trụ gần đây cho thấy rằng vũ trụ có khá nhiều sai lệch, một số khu vực có nhiều biến động hơn các khu vực khác. Một số nhà thiên văn học cho rằng điều này chứng tỏ không phải hình thành từ chính nó, mà nó được hình thành từ một vũ trụ lớn hơn.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 6
 
Một giả thuyết khác đề cập đến lỗ đen khổng lồ trong vũ trụ khác. Lỗ đen giống như một máy ép khổng lồ trong vũ trụ và theo lý thuyết các vật chất sau khi bị hút và nén sẽ được giải thoát ra ngoài qua lỗ trắng. Lỗ trắng là đối lập với lỗ đen, nó giống một van xả vật chất, không những vậy nó còn cung cấp năng lượng cho vật chất. Do đó các nhà thiên văn học giả thuyết rằng vũ trụ của chúng ta đã từng được hình thành trong một lỗ đen khổng lồ, và mỗi lỗ đen trong vũ trụ có thể ẩn chứa những vũ trụ chưa tồn tại và chúng ta chưa biết đến.
 
Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ? 7
 
Các nhà khoa học khác lại tin vào lý thuyết chu kỳ, trong đó sự hình thành của điểm kỳ dị là do chính vũ trụ trước đó tự sụp đổ trong một sự kiện được gọi là Big Crunch. Nó tạo ra điểm kỳ dị một lần nữa, các vật chật bị dồn ép vào điểm kỳ dị và tạo ra một vụ nổ lớn mà chúng ta gọi là Big Bang tái tạo vũ trụ, sau đó quá trình Big Bang và Big Crunch lặp lại theo lý thuyết chu kỳ. Tuy nhiên giả thuyết này lại đặt ra câu hỏi tương tự như trường hợp 'quả trứng có trước hay con gà có trước'.
 
Vậy để trả lời câu hỏi tiêu đề "Những gì tồn tại trước vụ nổ Big Bang ?" ngay cả các nhà khoa học cũng đang đau đầu tìm câu trả lời, có thể trước vũ trụ không tồn tại gì, có thể hình thành từ vũ trụ lớn hơn hay theo lý thuyết chu kỳ. Tuy nhiên cho dù câu trả lời là như thế nào đi nữa, tạo hóa vẫn luôn là bí ẩn lớn nhất mà có lẽ với những kiến thức hiện tại, chúng ta vẫn nên tin vào bàn tay của đấng tối cao đã tạo nên mọi thứ.
 
 
Tham khảo: HowStuffWorks

Lịch sử vũ trụ và thuyết vụ nổ lớn

Trên xưa & nay số 96 (144) tháng 7-2001 có bài viết “thuyết Big Bang” về sự phát sinh vũ trụ. Thiển nghĩ một bức tranh khái quát và chính xác về lịch sử nhận thức vũ trụ cũng cần thiết đối với các nhà sử học. Đó là lý do bài viết này.

Lược sử thuyết vụ nổ lớn

Cho đến đầu thế kỷ 20, bằng chứng thực tiễn duy nhất về nguồn gốc vũ trụ là bầu trời ban đêm tối đen. Nghịch lý Olbers (1823) cho rằng nếu vũ trụ vô tận trong không thời gian thì nó phải có nhiều sao đến mức khi nhìn lên bầu trời, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời, tia mắt ta bao giờ cũng gặp một ngôi sao. Và ta sẽ thấy bầu trời luôn sáng rực như mặt trời, ngay cả vào ban đêm. Nhưng thực tế bầu trời ban đêm lại tối đen. Thật thú vị là trong bài thơ văn xuôi dài Eureka năm 1848, Edgar Poe cho rằng, đó là do các ngôi sao không đủ thời gian để chiếu sáng toàn vũ trụ. Vậy bầu trời đêm tối đen chứng tỏ vũ trụ không tồn tại mãi mãi. Không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian mà giả thuyết còn đóng vài trò quyết định trong việc hình thành lý thuyết Big Bang.
Cơ sở lý luận của Big Bang là thuyết tương đối tổng quát, cho rằng không thời gian là các đại lượng động lực, phụ thuộc vật chất đồng thời chi phối vật chất (lưu ý quan niệm của Engels, cho rằng không thời gian là hình thức tồn tại của vật chất). Điều đó dẫn tới việc không thời gian và do đó vũ trụ có thể có khởi đầu và kết thúc, một ý tưởng mà ban đầu chính Einstein cũng tìm cách chống lại. Để vũ trụ là tĩnh (không tự suy sụp do hấp dẫn), ông đưa ra một hằng số vũ trụ có tác dụng phản hấp dẫn. Năm 1922, Friednam tìm được nghiệm của phương trình Einstein cho một vũ trụ động, gần như đồng thời với giả thuyết nguyên tử nguyên thuỷ của mục sư Lemaitre.
Bằng chứng quyết định là phát hiện vũ trụ giãn nở của Hubble những năm 1920. Cho đến lúc đó, dải Ngân hà của chúng ta được xem là toàn bộ vũ trụ. Với viễn kính 100 inch tại núi Wilson, Hubble thấy Tinh vân Tiên nữ, một thiên hà sáng đôi cách 2 triệu năm ánh sáng, đang tiến lại gần chúng ta (theo ngôn ngữ vật lý dựa trên hiệu ứng Dopler, phổ của nó dịch về phía xanh). Khảo sát các thiên hà khác, ông thấy chúng đang tản ra xa (phổ dịch về phía đỏ). Điều đó có nghĩa vũ trụ gồm hàng tỷ thiên hà đang tản xa nhau. Vũ trụ hiện đang giãn nở và các thiên hà ngày càng xa nhau chứng tở trong quá khứ chúng gần nhau, khi vũ trụ có kích thước nhỏ hơn. Suy diễn ngược thời gian sẽ đi đến thời điểm khai sinh, không toàn vũ trụ tập trung tại một điểm, nới có mật độ, nhiệt độ và độ cong không thời gian vô hạn. Và một vũ trụ bùng nổ 15 tỷ năm trước đã khiến vũ trụ sinh thành. Đó là mô hình Big Bang tiêu chuẩn.
Năm 1946, nhà vật lý Gamow thấy rằng, ngọn lửa sáng thế buổi hồng hoang vẫn để lại “vết lông ngỗng” qua bức xạ tàn dư trải trên toàn vũ trụ, nay lạnh chỉ còn cỡ 3 độ trên độ không tuyệt đối. Năm 1965, hai kỹ sư vô tuyến điện Penzias và Wilson tình cờ phát hiện được bức xạ này khi chế tạo một ăng ten có thể bắt sóng từ vệ tinh. Như từng xẩy ra trong lịch sử, giải Nobel danh giá được trao cho phát kiến tình cờ của hai người ngoại đạo! Năm 1991, vệ tinh Cobe đo được phông bức xạ hoá thạch 2,7 0K này với độ chính xác rất cao. Và Big Bang được thừa nhận rộng rãi.
Khá hài hước là cái tên Big Bang lại do nhà thiên văn Hoyle đặt ra năm 1950 nhằm chế diễu lý thuyết. Ông là người đề xuất thuyết vũ trụ dừng (steady state) năm 1948, theo đó vũ trụ không có khởi đầu và kết thúc. Sau khám phá bức xạ tàn dư, nó đã chêt vẻ vang như hầu hết các lý thuyết khoa học khác.

Thuyết Big Bang lạm phát

Cuối những năm 1970, mô hình Big Bang tiêu chuẩn đối mặt với một số thách thức, trong đó có vấn đề tính đồng nhất của vũ trụ. Tại sao vũ trụ lại tương đối đồng nhất, như bức xạ hoá thạch chứng tỏ? Đó là lý do Guth và Linde giả định một sự giãn nở lạm phát từ 10-35 tới 10-32 giây sau Big Bang. Trong giai đoạn cực ngắn đó, vũ trụ giãn nở nhanh hơn ánh sáng, với bán kính tăng một ngàn tỷ tỷ tỷ lần. Như quả bong bóng phồng lên rất nhanh thì các nếp nhăn ban đầu giãn ra với độ nóng gần như nhau, sự giãn nở đó khiến vũ trụ trở nên đồng nhất. Đó là thuyết Big Bang lạm phát, một lý thuyết giải quyết được nhiều bài toán vũ trụ học.
Big Bang từ đâu xuất hiện? Big Bang sinh ra vũ trụ, vậy cái gì sinh Big Bang? Năm 1951, nhà thờ tuyên bố Big Bang chính là hiện tượng của đấng sáng tạo. Nên giới khoa học đưa ra nhiều giả định nhằm tránh quan điểm đó.
Một giả thuyết là vũ trụ luân hồi của Wheeler, cho rằng lực hấp dẫn sẽ thắng dần sự giãn nở và vũ trụ có về Vụ co lớn (Big Bang Crunch).
Và vụ bùng nổ tiếp theo sẽ khiến vũ trụ hồi sinh từ đống tro tàn. Quá trình cứ lặp lại mãi với các pha co giãn xen kẽ nhau. Đáng tiếc Big Crunch không phải là đối xứng gương hoàn hảo của Big Bang, và các vụ nổ sẽ ngày càng lớn hơn. Vì thế vũ trụ vẫn có thể có điểm khởi đầu tối hậu, một chủ đề thần học ưu thích.
Một vấn đề cũng được giới thần học ưu thích là giá trị của các hằng số vật lý (như khối lượng điện tử hay tốc độ ánh sáng). Người ta rất ngạc nhiên là chỉ cần một trong hàng chục hằng số vũ trụ đó thay đổi giá trị một phần trăm, vũ trụ đã diễn biến khác hẳn và con người không thể xuất hiện để nghiên cứu vũ trụ. Nên một số nhà khoa học cho rằng, vũ trụ đã được hiệu chỉnh cực kì chính xác nhằm tạo ra con người. Vì thế nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận, là một phật tử, đặt niềm tin vào ý chí tối cao. Không đồng ý với niềm tin đó, nhiều nhà khoa học nêu giả thuyết các vũ trụ song song hay đa vũ trụ. Có thể hình dung một cách trực quan qua trò thổi bong bóng xà phòng, mỗi bong bóng là một vũ trụ với hệ qui luật và các giá trị hằng số riêng. Phần lớn các vũ trụ không thích hợp với sự sống. Vũ trụ chúng ta chỉ là một bong bóng may mắn co các hằng số thích hợp để con người xuất hiện. Đây chính là sự tiếp bước Copernicus đến giới hạn tột cùng. Không chỉ tước bỏ vị trí trung tâm của trái đất hay mặt trời, nó còn cho rằng Ngân hà chỉ là một trong vô vàn các thiên hà vũ trụ; thậm chí vũ trụ chúng ta cũng chỉ là một bong bóng mất hút giữa ngút ngàn các bong bóng đa vũ trụ. Và đa vũ trụ này có thể mất hút giữa vô vàn các đa vũ trụ khác.
Tuy nhiên dường như đó chỉ là những suy đoán thuần tuý, vì ta chưa có thuyết hấp dẫn lượng tử để nhìn qua bức tường Planck, hiện được xem là giới hạn của nhận thức (thời gian Planck là 10-43 giây, độ dài Planck là 10-33 cm, nhỏ hơn kích thước nguyên tử 10 triệu tỷ tỷ lần. Nếu khuếch đại nguyên tử lớn bằng vũ trụ nhìn thấy, độ dài Planck sẽ bằng một cái gậy!). Toàn bộ lập luận trên dựa trên thuyết tương đối tổng quát (mô tả cấu trúc vĩ mô) và cơ học lượng tử (mô tả cấu trúc vi mô). Đáng tiếc là hai thuyết không tương thích nhau. Ở qui mô vũ trụ, có thể bỏ qua các thăng giáng lượng tử xuất hiện do nguyên lý bất định Heisenberg. Còn ở các cấu trúc nhỏ cỡ kích thước Blanck, các thăng giáng đó rất mạnh nên giả thuyết không thời gian biến đổi liên tục và nhẵn của thuyết tương đối bị phá vỡ. Người ta nói các quy luật khoa học bị phá vỡ tại các kì dị (là vùng nhỏ hơn độ dài Planck nên mật độ vật chất lớn vô hạn).

Big Bang trong lý thuyết dây

Lý thuyết trường lượng tử xem các hạt cơ bản (như điện tử, quark....) là chất điểm không kích thước. Năm 1984, lý thuyết dây xuất hiện để thống nhất thuyết tương đối và thuyết lượng tử, hai nền tảng của vật lý hiện đại. Theo đó cấu tử cơ bản của vũ trụ là dây một chiều (giống đoạn dây nhìn từ xa nên dường như chỉ có chiều dài), màng hai chiều (giống tờ giấy mỏng vô hạn) hay các thực thể nhiều chiều hơn (đến 10 chiều). Chúng luôn dao động và các kiểu dao động cộng hưởng được xem là các hạt cơ bản mà ta thấy. Khác với không thời gian bốn chiều trong thuyết tương đối, không thời gian trong lý thuyết dây có 11 chiều, với bảy chiều cong lại và nhỏ bằng độ dài Planck. Đó là lý do ta sống trong 11 chiều mà chỉ “thấy” bốn chiều đã trải rộng ra nhờ vụ nổ lớn.
Quá đẹp nên chỉ có thể hoặc đúng hoàn toàn hoặc sai hoàn toàn (phê phán năm 1986 của nhà vật lý hạt cơ bản đoạt giải Nobel Glashow), lý thuyết dây chứng tỏ các qui luật vật lý của thế giới “nhỏ” sau bức tường Planck hoàn toàn đồng nhất thế giới “lớn” trước bức tường. Điều đó cho phép đưa ra kịch bản mới cho Big Bang, theo đó khởi thuỷ không phải là một kì dị, mà là một trạng thái “hấp dẫn lượng tử” kích thước Planck với 11 chiều. Rồi một vụ nổ khiến bốn chiều không thời gian giãn ra tạo nên vũ trụ (lý thuyết dây giải thích được tại sao bảy chiều khác vẫn cong nhỏ như trước). Và nếu co lại, vũ trụ cũng không co về điểm kì dị chung cục Big Crunch (như mô hình Big Bang tiêu chuẩn), mà chỉ co đến kích thước Blanck rồi lại nở ra. Quá trình có thể lặp lại mãi như thế.
Theo lý thuyết dây thì vũ trụ chúng ta cũng có thể là một màng bốn chiều, vốn là biên của một hình cầu năm chiều. Nằm cách ta một khoảng cách vi mô trong chiều thứ năm là một màng khác, được gọi là “màng bóng” (như hình với bóng, nhưng bóng cũng thực như hình). Hai màng hình và bóng chỉ tương tác nhau qua lực hấp dẫn. Khi đó vật chất hay năng lượng tối của màng này chính là vật chất thông thường của màng bên cạnh. Hai màng có thể tự co giãn và va chạm nhau. Đối với chúng ta (đang sống trên một màng), cú và chạm chính là Big Bang. Và có thể có nhiều vụ nổ và co lớn nhỏ nối tiếp hay xen kẽ nhau. Điều đó giúp loại bỏ niềm tin về một ý chí tối cao.

Đa vũ trụ từ đâu xuất hiện?

Vũ trụ chúng ta là một trong những bong bóng mang tên đa vũ trụ. Vậy đa vũ trụ từ đâu xuất hiện và xuất hiện như thế nào? Câu trả lời là đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô do nguyên lý bất định Heisenberg.
Nguyên lý bất định của cơ học lượng tử nói rằng, không thể xác định chính xác đồng thời vị trí và tốc độ của một hạt vi mô. Đó là hệ quả của lưỡng tính sóng hạt. Vì thế giá trị của các trường vật lý phải khác không ngay cả trong chân không, tức giá trị (hay vị trí) và sự biến thiên (hay tốc độ) được xác định chính xác đồng thời (đều bằng không). Đó là điều nguyên lý bất định cấm, nên các trường phải khác không và luôn thăng giáng. Trường là tập hợp các hạt, trường biến thiên có nghĩa các hạt luôn xuất hiện rồi biến mất. Năng lượng của hạt càng lớn thì nó biến mất càng nhanh. Tương tự như thế, một bong bóng năng lượng cũng có thể xuất hiện rồi lại biến mất. Đó là cách để đa vũ trụ xuất hiện từ hư vô.
Cần lưu ý rằng, năng lượng của vật chất là dương, còn năng lượng hấp dẫn là âm, nên nếu đa vũ trụ là “phẳng” trong không thời gian 11 chiều, hai dạng năng lượng có giá trị bằng nhau. Kết quả là năng lượng toàn vũ trụ bằng không, và nguyên lý bất định cho phép nó tồn tại mãi mãi. Đó là ý tưởng độc đáo đến mức, khi được Gamow kể cho nghe tại Viện nghiên cứu tiền phong Princeton (Mỹ) cuối những năm 1940, Einstein đứng sững giữa đường khiến hai người suýt bị xe đâm chết.

Đôi điều suy ngẫm

Chỉ trong vòng một thế kỷ, nhận thức nhân loại về vũ trụ đã trải qua nhiều bước đột phá. Sự thống nhất giữa vi mô và vĩ mô, như thể hiện trong lý thuyết dây, cho phép đưa ra bức tranh tổng thể về nguồn gốc, tiến hoá và kết cục của vũ trụ. Theo đó vũ trụ chúng ta chỉ là một trong vô vàn các bong bóng của một đa vũ trụ mênh mang, huyền bí (theo nghĩa ta không thể giao du). Và đa vũ trụ này có thể xuất hiện một cách tự nhiên từ hư vô với tổng năng lượng bằng không, cho dù năng lượng của từng vũ trụ có thể có giá trị tuỳ ý. Từ không hiện hữu biến thành hiện hữu, đó chính là một bữa tiệc không mất tiền tối hậu.
Vậy tại sao có nguyên lý bất định để vũ trụ có thể sinh thành từ hư vô? Tại sao bộ máy không thời gian lại cho phép tổng năng lượng chính xác bằng không để vũ trụ tồn tại mãi mãi? Vẫn có người xem đó là dấu ấn của một đấng tối thượng. Một số người như Stephen Hawking lừng danh của tác phẩm Lược sử thời gian, 1988, với hơn 10 triệu bản bán trên thế giới – thì dung nguyên lý vị nhân (một giả thuyết mang tính hậu nghiệm, xem vũ trụ phải diễn biến thích hợp để con người xuất hiện) để cho rằng, nếu vũ trụ không như vậy thì làm sao có con người để băn khoăn về vũ trụ. Số khác thì đồng ý với Brian Greene trong cuốn Vũ trụ duyên dáng (đấu giá được hai triệu đô la từ NXB, tái bản ba lần sau một tháng ấn hành năm 1999) rằng, lý thuyết dây có thể là con đường dẫn về La Mã, khi đang được xem phát điểm của một lý thuyết có tính tối hậu cao hơn trong tương lai. Và nhân loại từng bước vươn tới các vì sao.

                                            Vụ nổ Big Bang được hình thành như thế nào ?

  Lịch sử vũ trụ và thuyết vụ nổ lớn  (Read 4693 times)

12 Tháng Tám, 2006, 01:53:21 PM

Trời. Dài quá mà chẳng cho người ta biết thật sự Big Bang nó thế nào cả.

Lí thuyết BIGBANG được đề ra bởi George Gamov vào năm 1948. Đây là một lí thuyết về một vũ trụ đặc và nóng, có điểm khởi đầu. Lí thuyết này cho biết vũ trụ đã khởi đầu bằng một vụ nổ lớn (bigbang) diễn ra cách đây chừng 15 tỷ năm. Hiện nay không có một ngôn ngữ nào giúp chúng ta diễn tả về thời điểm này vì thứ nhất nói một cách đơn giản là có ai biết về lúc đó đâu mà nói và chính xác hơn là nó thuộc phạm vi ngoài những cái ta biết về không gian và thời gian. Tạm thời ta có thể vẽ lại bức tranh tiến hoá của vũ trụ như sau: 


   + t = 0. Vũ trụ ra đời bằng bigbang. không có gì để nói vì thời gian này được giới hạn bởi bức tường Plank

   + t = 10-43s. Thời gian Plank, kích thước vũ trụ là 10-33cm, đây là những giới hạn lượng tử mà vật lí chưa thể vượt qua. Nhiệt độ của vũ trụ lúc này là khoảng 1032K. Tất cả mọi trạng thái của vũ trụ là hết sức hỗn độn.

   + t = 10-35s, nhiệt độ 1027K. Thời kì lạm phát bắt đầu. Kích thước vũ trụ tăng rất nhanh, tăng thêm khoảng 1050so với thời điểm Plank. Gia tốc giãn nở ở thời kì cực đại trong lịch sử phát triển vũ trụ.

   các quark và các lepton hình thành cùng với các phản hạt của chúng. Các barrion tạo thành từ các quark. các cặp quark và phản quark huỷ nhau tạo thành photon.

   + t = 10-6s. Nhiệt độ 1013K. Vũ trụ bước vào thời kì hadron. Nhiều photon và các cặp quark - phản quark bị tập hợp lại với nhau tạo thành các hadron (barion và phản barion). Khi toàn bộ các quark đã mất rrạng thái tự do và lượng photon cân băng để không tiếp tục biến hoá được nữa, thời kì hadron kết thúc.

   + t = 10-3s, các lepton chiếm ưu thế trong vũ trụ và ở trạng thái cân bằng với các photon.

   + t = 1s các photon chiếm ưu thế trong vũ trụ, các dotron đầu tiên hình thành do sự kết hợp của proton và neutron (các dotron này không bền)

   + t = 3 phút: các neutron và proton không còn đủ năng lượng phá vỡ liên kết giữa chúng để thoát khỏi hạt nhân nữa, các hạt nhân H và He hình thành liên tiếp và chiếm ưu thế trong vũ trụ.

   + t = 300000 năm, các electron kết hợp với hạt nhân tạo thành nguyên tử, vật chất bắt đầu được định hình như ngày nay.

   + t = 1 tỷ năm, các thiên hà đầu tiên ra đời cùng các ngôi sao.

   + t = 15 tỷ năm: hiện nay

   Lí thuyết BIGBANG này ngày nay đã được công nhận gần như tuyệt đối do nó có cơ sở dựa trên lí thuyết tương đối rộng, nguyên lí về "vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng" và sự dời xa của các thiên hà theo quan sát của Hubble. Cho đến năm 1965, lí thuyết này có thêm một khẳng định nữa khi bức xạ tàn dư của vũ trụ được Arno Penzias và Robert Wilson phát hiện. Đây là loại bức xạ tràn ngập vũ trụ và hoàn toàn đẳng hướng, có nghĩa là ta đo được nó btừ mọi hướng. Loại bức xạ này hoàn toàn phù hợp với dự đoán của lí thuyết BIGBANG rằng loại bức xạ này phát ra sau BB khoảng 300 000 năm. khi đó nhiệt độ vũ trụ là khoảng 100000K.

   Như vậy là theo thuết BB nói trên, tất cả chúng ta (vũ trụ) đã ra đời cách đây 15 tỷ năm (cũng chưa lâu lắm) bởi một vụ nổ. ta không thể nói gì về nó vì ngoài phạm vi của BB thì không tồn tại vật chất và bức xạ, do đó không tồn tại khái niệm không gian và thời gian, từ duy nhất ta có thể dùng để chỉ nó là "không gì cả" (nothing). Trong một số sách mô tả lại BB, tôi thấy tác giả viết rằng "từ không gì cả, một vụ nổ bất ngờ xảy ra tại một điẻm và vũ trụ hình thành". Đại loại ý là như thế. Tôi thấy thật nực cười vì không gì cả mà lại có khái niệm điểm được, các bạn hãy thử suy nghĩ về việc này sau khi định nghĩa thế nào là một điểm nhé.

   Tất nhiên thuyết BB này đến nay vẫn có nhiều sự phản đối, tôi cũng sẽ nói về vấn đề này ở phần sau. Bây giờ chúng ta hãy thử tìm hiểu vài điều rút ra từ lí thuyết này và lí thuyết tương đối Einstein. 
( Theo thienvanvietnam.com - Bài tổng hợp của Đặng Vũ Tuấn Sơn)

 Các mốc chính trong lịch sử khám phá vũ trụ của loài người:

Thế kỷ 4 TCN, Aristarchus có vẻ như là người đầu tiên hiểu được về hệ thống hành tinh và hệ nhật tâm. Khám phá này đối lập với quan niệm về thế giới của Aristotle. Ông cũng đã tính được khá chính xác khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng.
Thế kỷ 3 TCN, Eratosthenes cũng đã tính được chu vi Trái Đất tại xích đạo chỉ sai khác khoảng 650 km (sai số 1,5%).
Thế kỷ 2 TCN, Hipparchus tính lại khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng, thống kê 1500 ngôi sao, tính gần đúng chu kỳ tuế sai của trục Trái Đất.
Những kiến thức này được người Ả Rập học lại. Khi người Ả Rập mở rộng ảnh hưởng, quyển sách Almagest của Claudius Ptolemaeus với mô hình vũ trụ địa tâm được truyền bá.

Cuộc cách mạng Copernic đã đảo lộn lại quan niệm địa tâm:

Nicolaus Copernicus khám phá lại hệ nhật tâm.
Isaac Newton và Johannes Kepler xác định chuyển động của các hành tinh, dựa vào các định luật Newton và khám phá về lực hấp dẫn, được kiểm chứng bởi quan sát thiên văn.
Giordano Bruno áp dụng mô hình hệ Mặt Trời cho tất cả các ngôi sao khác, mở rộng vũ trụ ra vô cùng.
Các tiến bộ về kỹ thuật quan sát thiên văn trong thế kỷ 20 đã mở ra một loạt khám phá về các vật thể kỳ lạ trong vũ trụ (như các sao trong giai đoạn phát triển khác nhau), về cấu trúc vĩ mô của vũ trụ (gồm các sao tụ tập trong các thiên hà và các nhóm thiên hà), và đặc biệt là xu thế giãn nở của vũ trụ, quan sát bởi Edwin Hubble.

Quan sát về sự giãn nở của vũ trụ là một trong các tiền đề để xây dựng nên mô hình về sự tiến hóa của vũ trụ được công nhận rộng rãi nhất hiện nay, mô hình Vụ Nổ Lớn.

 Từ quan sát dịch chuyển đỏ của các thiên hà chúng ta có bằng chứng rằng vũ trụ đang nở ra, theo định luật Hubble. Quay ngược về quá khứ, ta sẽ gặp đến một điểm kỳ dị hấp dẫn, một khái niệm mang tính chất toán học, có thể không thực sự trùng với sự thật. Đây là cơ sở để hình thành lý thuyết Vụ Nổ Lớn, lý thuyết được công nhận nhiều nhất trong vũ trụ học ngày nay. Lý thuyết này cộng với các tiến bộ trong quan sát (Máy đo dị hướng vi sóng Wilkinson, WMAP, của NASA) đã ước lượng tuổi vũ trụ vào khoảng 13,7 tỷ (13,7 × 109) năm, với sai số cỡ 1% (± 200 triệu năm). Độ chính xác này dựa trên giả thuyết là các lý thuyết dùng trong xử lý kết quả đo đạc là đúng. Nhiều phép đo khác cho những kết quả dao động từ 10 đến 20 tỷ năm.

Các quan sát nền tảng của thuyết Vụ Nổ Lớn gồm có:

Các thiên hà ở càng xa càng chuyển động ra xa nhanh hơn.
Phông vi sóng vũ trụ, có nhiều khả năng là các bức xạ tàn dư từ thời kỳ đầu của Vụ Nổ Lớn, nay đã bị dịch chuyển đỏ đến mức có tần số của chúng nằm trong vùng vi sóng. Nền bức xạ này rất đẳng hướng có thể giải thích bởi lạm phát vũ trụ ngay sau Vụ Nổ Lớn.
Tỷ lệ các nguyên tố nặng tăng dần qua các thế hệ sao nhờ tổng hợp trong các phản ứng năng lượng cao.
Phân bố và tiến hóa về hình dáng và thành phần hóa học của các thế hệ thiên hà.
 

 Vấn đề vũ trụ thực tế là vô tận hay hữu hạn hiện vẫn còn nhiều tranh luận.

Vũ trụ quan sát được, gồm tất cả mọi nơi có thể có tác động đến con người kể từ Vụ Nổ Lớn, chắc chắn là hữu hạn, do tốc độ truyền tương tác không vượt quá tốc độ ánh sáng. Rìa của chân trời vũ trụ cách chúng ta 13,7 tỷ năm ánh sáng. Tuy nhiên những gì ta thấy ở rìa đã diễn ra cách đây 13,7 tỷ năm. Do vũ trụ đã không ngừng nở, tại thời điểm hiện nay, rìa đó đã đi được đến khoảng cách áng chừng khoảng 78 tỷ năm ánh sáng (7.4 × 1023 km), còn gọi là khoảng cách đồng hành của rìa.

Như vậy, thể tích đồng hành của vũ trụ quan sát được là 1.9 × 1033 năm ánh sáng khối (coi như vùng vũ trụ này có hình cầu). Vũ trụ quan sát được chứa khoảng 7 × 1022 ngôi sao, nhóm lại trong khoảng 100 tỷ thiên hà, tập trung thành các nhóm thiên hà và các siêu nhóm thiên hà. Số lượng thiên hà, theo quan sát bởi Hubble Deep Field của Hubble Space Telescope, có thể lớn hơn ước lượng trên.

Đa số các nhà thiên văn dùng từ "vũ trụ" khi nói đến "vũ trụ quan sát được". Lý do là các hiện tượng vật lý nằm ngoài khoảng vũ trụ quan sát được không có tác động gì đến chúng ta và không có giá trị khoa học.

Chúng ta nằm ngay tại tâm của vũ trụ quan sát được. Điều này đi ngược lại nguyên lý Copernic, nói rằng vũ trụ là đồng nhất và không có tâm. Lý do là mọi tương tác đều chuyển động với vận tốc tối đa là vận tốc ánh sáng. Chúng ta nhìn càng xa, thì tức là chúng ta càng nhìn về quá khứ, và giới hạn là tại thời điểm khi Vụ Nổ Lớn mới nổ. Và ánh sáng chuyển động với cùng vận tốc theo mọi hướng đến chúng ta, chúng ta nằm ở tâm của vũ trụ quan sát được.
 (Theo wikipedia)
đọc xong chắc chít lun áh ! Hix lại tăng độ dzồi . Có 1 câu hỏi, nhỏ thui ( so với cái big bang kia )
   Theo được biết thì vụ nổ xuất hiện từ khoảng 15 tr năm trước . Tuy nhiên một số tài liệu đã phát hiện được những ngôi sao cách trái đất ... 44 tỉ năm ánh sáng ( !??) . Giả sử trái đất nằm ở rìa vũ trụ , vụ nổ nằm ở tâm , ngôi sao kia nằm bên kia vũ trụ . Vậy là Trái đất và ngôi sao kia cách tâm vụ nổ ... 22 tỉ năm ánh sáng . Làm sao một thứ gì đó di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng được chứ !? . Hay số liệu 44 tỉ năm kia bị sai

 Chắc chắn số liệu trên là sai. Bigbang có cách đây khoảng 15 tỉ năm, có thể kích cỡ vũ trụ là lớn hơn 15 tỉ năm a.s rất nhiều nhưng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy vũ trụ trong khoảng cách 15 tỉ năm ánh sáng kể từ trái đất.
 Còn vụ có cái gì chuyển động nhanh hơn ánh sáng, thực ra không vật gì chuyển động được với tốc độ lớn hơn hoặc bằng ánh sáng trong không gian, nhưng chính không gian lại có thể dãn nở với vận tốc lớn hơn ánh sáng rất nhiều. VD trong giai đoạn lạm phát:
  "Guth và Linde giả định một sự giãn nở lạm phát từ 10-35 tới 10-32 giây sau Big Bang. Trong giai đoạn cực ngắn đó, vũ trụ giãn nở nhanh hơn ánh sáng, với bán kính tăng một ngàn tỷ tỷ tỷ lần. Như quả bong bóng phồng lên rất nhanh thì các nếp nhăn ban đầu giãn ra với độ nóng gần như nhau, sự giãn nở đó khiến vũ trụ trở nên đồng nhất. Đó là thuyết Big Bang lạm phát, một lý thuyết giải quyết được nhiều bài toán vũ trụ học."
Chúng ta đã biết nhiều về sự hình thành của vũ trụ,nhưng có lẽ một số người chưa biết được trước khi vũ trụ hình thành thì như thế nào?
-Đó là một vùng chân không có chứa năng lượng nhưng không hề yên bình mà đầy biến động,luôn có sự chuyển đổi giữa năng lượng,vật chất và phản vật chất.
-Một điều may mắn cho chúng ta(hoặc có thể không nếu nguyên lý vị nhân là đúng),tự nhiên đã ưu ái cho vật chất hơn,VD:cứ 1 tỷ hạt phản quark được tạo ra thì có 1 tỷ lẻ một hạt quark tạo thành,và khi các hạt và phản hạt đụng nhau lại giải phóng ra năng lượng dưới dạng các hạt photon.
-Chính những hạt quark dôi ra này đã tạo nên các thiên hà,hành tinh,... và cả tên phoe đang lóc cóc rị mọ ngồi gõ này(diễn ra vào thời điểm một phần triệu giây sau Big Bang,cứ ba hạt quark tạo 1 hạt proton,nơtron,và các phản hạt quark taọ hạt phản vật chất tương ứng,rùi mí tên hạt và phản hạt đụng nhau típ->photon,nhưng hạt vật chất nhìu hơn-->...)
-Đã có một giả thuyết cho rằng có các phản thiên hà,phản sao để chứng tỏ sự công bằng tuyệt đối của tự nhiên,nhưng lý thuyết này mau chóng bị bác bỏ,nhờ những thông tin do tia vũ trụ mang tời,đó là những luồng gió tạo bởi các hạt tích điện được giải phóng ra trong cơn hấp hối bùng nổ của các ngôi sao nặng.Chúng tơí traí đất từ biên giới thiên hà của chúng ta và thực tế chỉ chứa các hạt vật chất!!                                                
                      
Vụ co lớn(Big Crunch),ngày tàn của vũ trụ
Trong vũ trụ học, Vụ Co Lớn (tiếng Anh: the Big Crunch) là một giả thuyết về sự quy tụ của vũ trụ trở lại một điểm sau khi nó ngừng nở ra sau Vụ Nổ Lớn.

Nếu lực hấp dẫn của tất cả vật chất trong vòng vũ trụ quan sát được đủ lớn, nó có thể làm chậm dần quá trình nở ra của vũ trụ, đến mức ngừng hẳn rồi sau đó bắt đầu co trở lại. Sau khoảng thời gian gần bằng thời gian giãn nở, vũ trụ co trở về một điểm kỳ dị, tương tự như một hố đen khổng lồ chứa tất cả mọi vật chất. Không thể nói gì được về chuyện gì sẽ xảy ra sau Vụ Co Lớn, vì thời gian ngừng tại điểm kỳ dị này.

Để xảy ra Vụ Co Lớn, mật độ vật chất trong vũ trụ phải đủ lớn để làm độ cong của không-thời gian là dương (tương tự như bề mặt của hình cầu). Nếu mật độ trung bình nhỏ hơn một giá trị, gọi là mật độ tới hạn, độ cong sẽ là âm (tương tự hình yên ngựa) và lực hấp dẫn tuy vẫn làm chậm quá trình giãn nở nhưng sẽ không bao giờ khiến quá trình này ngừng hẳn. Các trường hợp độ cong vũ trụ âm, dương hay bằng 0 tương ứng với 3 mô hình Friedmann. Các mô hình này giả thiết hằng số vũ trụ học bằng 0.

Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm (các quan sát về các siêu tân tinh được lấy làm ngọn nến mốc, hay nền vi sóng vũ trụ) cho thấy sự giãn nở của vũ trụ không bị chậm lại mà còn đang tăng tốc. Đa số các nhà thiên văn đã công nhận kết quả thực nghiệm về vũ trụ nở nhanh dần từ năm 2002.

Theo thuyết tương đối rộng, mô hình đơn giản nhất tương ứng với một vũ trụ đang nở nhanh dần là hằng số vũ trụ học dương, có thể được giải thích là chân không lượng tử đang sinh ra một lực đẩy chống lại lực hút hấp dẫn. Sự tăng tốc của quá trình giãn nở gây ra bởi năng lượng tối và hằng số vũ trụ học có thể biến đổi theo thời gian chứ không là một hằng số vật lý. Trên lý thuyết, điều này tương đương với việc hằng số vu trụ học có thể sẽ không giữ giá trị như hiện nay nữa và trở thành âm một ngày nào đó, để sinh ra Vụ Co Lớn. Lý thuyết tương đối rộng vẫn cho phép xảy ra Vụ Co Lớn, nhưng thời gian diễn ra của một Vụ Co Lớn bị giới hạn.
                                                                          (vi.wikipedia.org)
"...Vũ trụ sẽ kết thúc cuộc đời của mình trong sự tăng đột ngột không thể tưởng tượng nổi của ánh sáng và nhiệt,được tắm trong món súp các quark,electron,notron và các phản hạt của chúng và rải rác có nhiều lỗ đen.Toàn bộ sự sống không thể tồn tại trong lò lửa địa ngục ấy.Vậy phải chăng Vũ trụ sẽ chết trong một mật độ và nhiệt lượng vô hạn?Hay có cơ chế mà ta chưa biết sẽ làm nó tái sinh từ đống tro tàn của nó,như con chim phượng hoàng,và bắt đầu một Big Bang mới?"

                                                           (Nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận)

Giả thuyết mới về nguồn gốc vũ trụ

(TNO) Các chuyên gia Úc vừa giới thiệu một giả thuyết mới về sự hình thành vũ trụ, theo đó vũ trụ được sinh ra không phải do sự kiện Big Bang mà là Big Chill.
Trước nay giới thiên văn học hầu như đều đồng ý với hình ảnh vũ trụ sinh ra từ một vụ nổ khủng khiếp cách đây hơn 13 tỉ năm.
Tuy nhiên, mô hình này đang đối mặt với thách thức mới, sau khi một nhóm chuyên gia cho rằng vũ trụ hình thành sau khi đóng thành đá, gọi là Big Chill.
Các nhà vật lý thuộc Đại học Melbourne và Viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne (Úc) đã đưa ra giả thuyết trên khi nghiên cứu những vết nứt và kẽ hở thường xuất hiện đối với mọi dạng tinh thể, bao gồm đá và băng.
Theo Space Daily, họ cho rằng phép ẩn dụ tốt nhất cho sự khởi đầu của vũ trụ chính là quá trình nước đông lại thành đá. Theo giả thuyết này, vũ trụ ban đầu là chất lỏng. Khi nguội dần, nó đông lại thành 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian như chúng ta đang thấy hiện nay.
Cũng theo giả thuyết mới, không gian được làm từ các khối vô hình, như những nguyên tử nhỏ xíu, không thể thấy được bằng mắt thường.
Các chuyên gia đang tìm cách quan sát những khối vô hình trên để bổ sung luận cứ cho giả thuyết của họ.
Hạo Nhiên

NGUYÊN NHÂN VÔ HÌNH PHÍA SAU VỤ NỔ LỚN

Bài trước đây:
big-2

NGUYÊN NHÂN VÔ HÌNH PHÍA SAU VỤ NỔ LỚN (Loạt Bài: “Vũ Trụ Do Chúa Tạo Thành”) Mục sư Nguyễn Duy Tân – TinLanhLibrary.com
Cô-lô-se 1:16-17 “Vì MUÔN VẬT ĐÃ ĐƯỢC DỰNG NÊN TRONG NGÀI, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả. Ngài có trước muôn vật, và MUÔN VẬT ĐỨNG VỮNG TRONG NGÀI.”
Theo khoa học hiện đại, thì các khoa học gia đều đồng ý rằng vũ trụ nầy thành hình từ một “vụ nổ” đầu tiên được mọi người đồng ý với tên gọi là Big Bang hay Vụ Nổ Lớn.

TRƯỚC VỤ NỔ LỚN CÓ VẬT GÌ CHĂNG?
Theo sự suy nghĩ thông thường, thì một vụ nổ lớn như vậy TRƯỚC TIÊN phải có một cái KHỐI LỚN có thể chất nào đó to lớn bằng hàng tỉ tỉ cái mặt trời gom lại, với độ nóng sôi sục đến mức độ nổ tung tạo ra một sức mạnh lớn lao khủng khiếp khiến cho hàng tỉ tỉ mặt trời VĂNG ĐI TỨ PHÍA với một TỐC LỰC nhanh bằng vận tốc của ánh sáng! Những trường hợp tương tự nhưng nhỏ hơn đã từng xảy ra, được gọi là SUPERNOVA (siêu tân linh), do một ngôi sao (hay mặt trời) bị sụm xuống (collapsed) rồi nổ tung khiến cho những mảnh vụn nặng như sắt, thép, đồng, chì… văng ra và bay đi khắp vũ trụ, những mảnh rơi xuống trái đất của chúng ta được gọi là “sao băng” (meteors).
Nhưng phía trước Vụ Nổ Lớn nầy, ngay từ giây phút đầu tiên, thì không có khối thể chất vĩ đại nào hiện hữu. Dù vậy, Vụ Nổ Lớn nầy đã xảy ra! Phần lớn các khoa học gia đã chấp nhận sự kiện nầy vì có nhiều bằng cớ khoa học hợp lý chứng minh, dù không ai biết rõ từ đâu mà thể chất quá nhiều của vũ trụ nầy lại có thể xuất hiện một cách thình lình từ một cái gì gần như là “vô hình” trước đó.
Vì người ta tin rằng “phải có thể chất mới sinh ra thể chất” nên nhiều người muốn biết rõ có cái gì trước Vụ Nổ Lớn, hoặc là cái gì đã gây nên vụ nổ nầy. Các nhà bác học đều không thể trả lời cách chắc chắn. Nhưng tất cả đều đồng ý là nó bắt đầu bằng một cái gì đó THẬT NHỎ nhưng có một sức mạnh và năng lượng vô cùng vĩ đại. Người thì gọi vật đó là “ĐƠN TRẠNG” (Singularity). Có người thì cho rằng “vật” đó có thể nhỏ bằng trái banh ping pong, có người nói nó có thể nhỏ bằng một nguyên tử (atom) nhỏ hơn 1 con vi khuẩn. Có người nói rằng vật nhỏ đó là “CHẤT TỐI” (DARK MATTER), họ gọi như vậy vì không biết đó là chất gì. Có người thì cho rằng có thể Vụ Nổ Lớn đến từ một cái “HỐ ĐEN” (Black Hole).

HỐ ĐEN VÀ VỤ NỔ LỚN
Chúng ta biết là trong vũ trụ hiện có nhiều “Hố Đen.” Nơi đó không phải như một cái giếng sâu, nhưng chỉ là một TRUNG TÂM ĐIỂM nào đó trong vũ trụ mà người ta không thấy có gì hết trong đó. Có thể ở chính gìữa có một hành tinh với chất tối thật nhỏ, bằng trái banh hoặc nhỏ hơn, hoặc có một “Đơn Trạng” rất nhỏ ở đó, nhưng sức hút của nó vô cùng mạnh mẽ, đến nỗi bất cứ hành tinh nhỏ lớn nào đi ngang gần nó thì sẽ bị rơi vào Hố Đen đó và biến mất. Nếu mặt trời của chúng ta rơi vào đó thì cả thái dương hệ, trong đó có trái đất của chúng ta, cũng mất dạng trong cái Hố Đen đó. Cám ơn Chúa, những Hố Đen hiện có đều ở rải rác rất xa mặt trời của chúng ta.
Khi hiểu về Hố Đen, chúng ta thấy rõ đó là một hiện tượng “đối ngược” với Vụ Nổ Lớn. Với Vụ Nổ Lớn, thì từ cái không có (vô hình) đã bung ra và phát sinh những thứ có thể chất (hàng tỉ hàng tỉ mặt trời và galaxies). Còn đối với “Hố Đen” thì từ những thứ có thể chất gần nó lại trở thành cái không có (vô hình)! Vì cớ đó, trong vũ trụ nầy, việc biến hóa từ cái có thể chất sang cái không có thể chất có thể đổi ngược qua lại như một bài toán algebra. Điển hình là PHƯƠNG TRÌNH danh tiếng của Albert Einstein:

E = mc2
Trong đó E là năng lượng vô hình, m là thể chất hữu hình, c là vận tốc của ánh sáng. Con người ngày nay còn làm được điều đó huống chi là Đức Chúa Trời! Ví dụ, khi một trái bom nguyên tử nổ tung đó là thể chất hữu hình (Uranium) biến thành cái vô hình là phóng xạ (radiations). Khi người ta kích hoạt cho bom nguyên tử nổ, thì từ vài grams Uranium “thoát ra” một năng lượng “vô hình” có sức tàn phá vô cùng vĩ đại! Nếu trong tương lai con người có thể làm được bài toán ngược lại, thì với năng lượng vĩ đại nào đó họ cũng có thể biến năng lượng vô hình đó thành thể chất hữu hình!
CHÍNH NĂNG LỰC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ GÂY NÊN VỤ NỔ LỚN!
Thật ra, một số những nhà khoa học vô thần không muốn nhìn nhận rằng những khám phá của khoa học càng ngày càng chứng mình rằng các Cơ-đốc nhân đã nói đúng, nên họ không muốn xác nhận chính Đức Chúa Trời vô hình là Đấng dùng chính năng lực vô biên của Ngài để PHÁN LÊN MỘT TIẾNG (vô hình) thì Vụ Nổ Lớn đã xảy đến, giống như từ một nguồn “không thể chất” (vô hình) mà sinh ra “thể chất”! Đối với họ, phải có thể chất mới sinh ra thể chất. Thà họ tin vào một lý thuyết hoàn toàn phản vật lý: thể chất của một Đơn Trạng (Singularity) nhỏ như trái banh golf mà sinh ra được hàng tỉ tỉ mặt trời vĩ đại! Để bảo vệ cho thuyết nầy, họ nói rằng trong Đơn Trạng đó, các định luật của vật lý không thể áp dụng được!
Khi được hỏi là trước Vụ Nổ Lớn có cái gì, thì khoa học gia vô thần Stephen Hawkins của trường Oxford phải nhìn nhận là “Nothing!” (không có gì hết). Một số khác không đồng ý nên nói có một vật nhỏ mà họ gọi là “a Singularity” (một “Đơn Trạng”). Bởi vì nếu họ nhìn nhận một nguyên nhân VÔ HÌNH nào đó có năng lượng vĩ đại đã gây ra Vụ Nổ Lớn thì đương nhiên KHÔNG KHÁC NÀO họ nhìn nhận nguyên nhân đó CHÍNH LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI mà Cơ-đốc nhân nói đến! Nan đề là họ không thể giải nghĩa được từ đâu mà VẬT NHỎ hay “Đơn Trạng” đó lại có NĂNG LƯỢNG LỚN LAO để đưa đến sự thành hình của vũ trụ to lớn nầy!

images-3
CHÍNH ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ KIỂM SOÁT SỨC MẠNH CỦA VỤ NỔ LỚN
Ngay sau Vụ Nổ Lớn thì những thể chất xuất hiện. Dù ban đầu phần lớn thể chất chỉ nằm trong dạng hơi (gas), nhất là khinh khí (Hydrogen). Có thể nói Vụ Nổ Lớn là trái BOM KHINH KHÍ đầu tiên do Chúa tạo nên với một lượng phóng xạ nhiều đến đổi cho đến ngày nay các nhà vật lý học vẫn còn đo lường được! Khinh khí và các loại hơi khác tạo nên một sức ép và sức nóng vĩ đại đến đổi đã đẩy đi bất cứ thể chất nào hiện hữu lúc đó bung ra “tứ phía” với tốc lực cực nhanh và tiếp tục di chuyển nhanh như vậy cho đến ngày nay mà không thay đổi: khoảng 300 Km/giây! Để so sánh, vận tốc của ánh sáng là: 300,000 Km/giây, vận tốc của hỏa tiễn: 11 Km/giây và vận tốc của máy bay phản lực hàng không tối tân nhất: 0.25 Km/giây!
Trước khi nói đến tại sao vận tốc di chuyển của các hành tinh và của các dãy ngân hà là vô cùng quan trọng, chúng ta cần biết về HẤP LỰC hay SỰ THU HÚT (GRAVITY OR ATTRACTION) giữa những nhóm hành tinh ở gần nhau.
Ví dụ, trái đất chịu hấp lực của mặt trời nên quay vòng vòng chung quanh mặt trời không thay đổi từ bao đời qua với vận tốc 30 Km/giây. Mặt trăng bị trái đất thu hút nên quay chung quanh trái đất với vận tốc không đổi thay khoảng 1 Km/giây.
Mặt trời của chúng ta cũng như các ngôi sao khác cũng bị trung tâm của dãy ngân hà Milky Way thu hút nên cũng xoay vần chung quanh trung tâm của nó. Ngân hà Milky Way của chúng ta cũng bị một nhóm ngân hà khác to gấp 1 triệu lần có tên là “The Great Attractor” (“Kẻ Thu Hút Vĩ Đại”) thu hút nên đang di chuyển về hướng đó với tốc độ là 600 Km/giây!
Sức thu hút giữa các nhóm thể chất nầy rất nguy hiểm cho sự thành hình của vũ trụ nếu không có sự thiết kế khôn ngoan và TÍNH TOÁN CÁCH CHÍNH XÁC của Đức Chúa Trời. Sau Vụ Nổ Lớn, ngay lúc ban đầu các thể chất xuất hiện gồm có CÁC THỂ HƠI (GASES) cọng với đa số là những MẢNH thể chất nặng lớn nhỏ đủ cỡ. Chúng vừa bay ra xa khỏi trung tâm vì sức mạnh của Vụ Nổ Lớn, nhưng cũng đồng một lúc THU HÚT VỚI NHAU, đến gần nhau như những cục nam châm, gom lại với nhau và dần dần bắt đầu nóng lên, trở thành vô số mặt trời (tức là những ngôi sao nóng có ánh sáng) và những hành tinh nguội nhỏ hơn xoay quanh các mặt trời ấy. Những mặt trời cũng thu hút với nhau để kết hợp thành những ngân hà nhỏ lớn, tạo thành hàng tỉ ngân hà, mỗi ngân hà có hàng trăm triệu mặt trời, và tất cả cứ tiếp tục di chuyển càng ngày càng xa ra vì nhờ cái trớn sẵn có của sức nổ đầu tiên, với tốc lực 300 Km/giây, và mỗi ngày càng xa ra và xa nhau không bao giờ chậm lại.
Các khoa học gia biết chắc rằng, NẾU SỨC ĐẨY của Vụ Nổ Lớn đầu tiên ấy chỉ YẾU HƠN hấp lực “MỘT TÍ XÍU” thôi, thì ngay từ buổi đầu tiên, lúc các thể chất còn ở rất gần nhau, thì sức thu hút (hấp lực) có thể đã khiến cho các thể chất hổn độn đầu tiên ấy KHÔNG BIẾN THÀNH các ngân hà hoặc hành tinh, nhưng lại dính vào với nhau thành một khối khổng lồ khiến cho vũ trụ đầu tiên ấy không có hình thể như hiện tại, nhưng bị “SỤP ĐỖ” (collapsed) chớ không thể tiếp tục trải rộng ra như hiện có! Tôi dùng chữ “MỘT TÍ XÍU” vì các khoa học gia đã cho chúng ta một con số vô cùng là nhỏ, đó là: 1 trên 1,000,000,000,000,000,000! (18 con số 0).
Chính Đức Chúa Trời trong sự khôn ngoan và quyền năng diệu kỳ của Ngài đã TÍNH TRƯỚC CÁCH CHÍNH XÁC theo kế hoạch khéo léo của Ngài đã khiến cho SỨC ĐẨY RA của Vụ Nổ Lớn MẠNH HƠN SỨC HÚT KÉO LẠI chỉ MỘT TÍ XÍU thôi, nhờ đó Ngài đã giữ cho vũ trụ nầy tiếp tục ĐƯỢC BỀN VỮNG, mọi hành tinh, mọi ngân hà, và thái dương hệ của chúng ta mới được TỒN TẠI và HỘI ĐỦ ĐIỀU KIỆN cho SỰ SỐNG khi Chúa tạo dựng loài người và những loài sống khác trên trái đất nầy! Thật, không khác nào Đức Chúa Trời đã tạo dựng cả vũ trụ vĩ đại nầy và bảo tồn nó cách bền vững và tốt đẹp theo ý thánh của Ngài chỉ vì yêu thương chúng ta là loài thọ tạo thật đặc biệt của Ngài!

(Còn tiếp)
++++++++++++++++++++++++++

Thắc Mắc: “Các nhà khoa học chỉ suy đoán theo lý trí phải không thưa Mục sư, vậy họ có tin Chúa không và Kinh thánh để chứng minh nằm ở đâu ạ?”
Giải Đáp: Khoa học gia họ chỉ lo khám phá những bí mật của vũ trụ nầy để mở rộng kiến thức của nhân loại. Chỉ có một số khoa học gia là vô thần thôi chớ không phải vì khoa học mà họ không tin KT. Rất đông khoa học gia có niềm tin nơi Chúa, và họ luôn ngợi khen Ngài mỗi lần có những khám phá mới giúp cho họ thấy được rằng Chúa đã và đang điều khiển mọi sự như Lời Ngài phán trong KT.
Những điều tôi chia sẻ qua các bài viết nầy có mục đích để giúp cho chúng ta chứng minh về sự hiện hữu và quyền năng của Đức Chúa Trời cho người không tin nơi thẩm quyền của Kinh Thánh. Vì nhiều người có học một mớ về khoa học họ tưởng rằng khoa học chống lại KT và KT nói ngược với khoa học, nên chúng ta không thể dùng KT để nói chuyện với họ, nhưng phải dùng khoa học để đưa họ đến gần Chúa. Khi họ bắt đầu đuợc mở mắt ra, lúc đó họ mới chịu nghe nói về Chúa qua Kinh Thánh!
Dù sao, nếu chúng ta không có đủ trình độ để nói về khoa học với họ, thì những kiến thức nầy ít lắm cũng sẽ giúp cho niềm tin của con cái Chúa được vững chắc hơn. Các tôi tớ Chúa ngày nay cần nghiên cứu nhiều hơn về những đề tài nầy để giúp bảo vệ cho đức tin của những bạn trẻ khi vào trường đại học không bị thuyết vô thần phá vỡ.


Đi tìm nguyên nhân gây ra vụ nổ Big Bang

01/02/2016 06:26:29
Một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Trung Quốc bắt đầu hành trình tìm lời giải về nguyên nhân gây ra vụ nổ Big Bang.
Các nhà khoa học tiến gần hơn đến nguyên nhân gây nên vụ nổ Big Bang. Ảnh: gremlin/iStock
Theo International Business Times, phát hiện mới được công bố hôm 22/1 trên Tạp chí Vũ trụ học và Vật lý Hạt thiên thể Physics là kết quả của lý thuyết gây nhiều tranh cãi về sự hình thành vụ nổ Big Bang cách đây 13,8 tỷ năm.
Kể từ lần đầu tiên được đề cập vào những năm 1920, bí ẩn về những gì xảy ra trước vụ nổ Big Bang luôn khiến các nhà khoa học đau đầu. Tuy nhiên, với những kết quả đột phá gần đây, các nhà vật lý tin rằng họ đang tiến gần tới câu trả lời cuối cùng. Khi đó, con người sẽ biết được vũ trụ được sinh ra từ một vụ nổ hay do sự sụp đổ của một vũ trụ khác.
Lời giải thích phổ biến nhất được đưa ra vào năm 1981 cho rằng vũ trụ đột ngột phình to và gia tăng kích thước theo cấp số nhân trong giây đầu tiên tồn tại của nó. Lý thuyết này từng được sử dụng để giải thích thành công nhiều hiện tượng khác trong thiên văn học.
Tuy nhiên, một nhóm nhà khoa học khác kết luận một vũ trụ giống hệt có thể đã tồn tại trước vũ trụ của chúng ta. Theo họ, vũ trụ này bị co lại trước vụ nổ Big Bang. Sự co lại diễn ra đến khi vũ trụ trở thành một điểm duy nhất trong không gian, và sau đó phình ra trong hiện tượng gọi là Big Bounce.
"Mỗi lý thuyết đều để lại những dấu hiệu vật lý thiên văn khác nhau có thể được quan sát thấy ngày nay," Yi Wang, đồng tác giả nghiên cứu nêu trên cho biết. "Một số dấu hiệu xuất hiện ở cả hai kịch bản, nhưng có một số dấu hiệu đặc biệt chỉ có thể xảy ra với một kịch bản duy nhất, đó là cách để chúng ta xác định sự kiện trước vụ nổ Big Bang".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét