Nghiên cứu tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ
Nghiên cứu tình báo của Bộ Ngoại giao Mỹ thời chiến tranh Việt Nam
được tiến hành từ Phòng nghiên cứu tình báo (INR) thuộc cơ quan này. Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ bắt đầu khảo sát chi tiết tình hình Việt Nam vào năm
1968, dưới chỉ đạo của Thomas L. Hughes, lúc đó là giám đốc INR.
Bản nghiên cứu đề tựa
A Review of Judgments in INR Reports
(Khảo sát đánh giá các báo cáo INR) hoàn thành năm 1969 và vẫn là tài
liệu tuyệt mật trong nhiều thập niên cho đến cách đây vài năm.
Phần quan trọng nhất trong tài liệu là báo cáo tổng kết quan điểm Bộ
Ngoại giao Mỹ về các chủ đề tình báo khác nhau suốt thập niên 1960, được
trình bày bởi W. Dean Howells và Dorothy R. Avery (hai viên chức INR
đặc trách Đông Nam Á). Cần nhấn mạnh, Bộ Ngoại giao là một trong những
cơ quan quan trọng hàng đầu Nội các Hoa Kỳ, nơi đóng vai trò hoạch định
chính sách cũng như chiến lược đối ngoại.
|
Nhóm sĩ quan quân báo Mỹ thuộc lực lượng 245th PSYOP tại Pleiku đầu năm 1967. |
Trong các động thái đối với tình hình Việt Nam thời thập niên 1960,
nhiệm vụ đầu tàu trong chiến lược đối sách của Bộ Ngoại giao Mỹ càng
được tô đậm. Sau khi nhậm chức tổng thống, John F. Kennedy chỉ định
Roger A. Hilsman làm giám đốc INR.
Chủ trương biến INR thành bộ máy hoạch định chính sách, Hilsman kích
hoạt loạt thay đổi trong Bộ Ngoại giao. Kennedy tin cậy Hilsman đến mức
thường tham khảo ý kiến nhân vật này hơn cả Ngoại trưởng Dean Rusk. Khi
vụ khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra năm 1962, Hilsman đóng vai trò quan
trọng trong điều phối tình báo cũng như tổ chức loạt cuộc họp giữa
Kennedy và EXCOM (Ủy ban điều hành thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa
Kỳ).
Từng là cựu binh Thế chiến thứ hai tại Myanmar (khi làm việc cho OSS -
tiền thân CIA), Hilsman rành rẽ các thủ thuật của chiến tranh bất qui
ước, phù hợp với quan điểm Kennedy về chiến tranh chống du kích tại Việt
Nam.
Hilsman thậm chí còn soạn cẩm nang đầu tiên về phương pháp chống
chiến tranh du kích được phân phát cho quân đội Mỹ, trong đó ghi rõ cách
thức đối phó cuộc chiến tranh nhân dân chống Tổng thống Ngô Đình Diệm
tại Nam Việt Nam. Nói cách khác, Hilsman đã đặt nền tảng cho cuộc chiến
tình báo của Bộ ngoại giao Mỹ tại Việt Nam.
INR chỉ khoảng 350 nhân viên, được phân thành hai nhóm chính - nhóm
liên lạc và nhóm phân tích thông tin tình báo. Nhóm liên lạc có nhiệm vụ
điều phối và hợp tác với các cơ quan liên quan tình báo khác, giúp
ngoại trưởng quyết định chính sách như thế nào đối với các đề nghị từ
CIA cho những chiến dịch đặc biệt.
Trong khi đó, nhóm phân tích làm việc chặt chẽ với các tuyến tình báo
mặt trận (chẳng hạn Phòng nghiên cứu Liên Xô, nơi thu thập thông tin
tình báo liên quan Xô Viết và hệ thống vệ tinh do thám Đông Âu). Với
cuộc chiến Việt Nam, nhóm phân tích INR làm việc cùng Phòng Viễn Đông
(RFE), nơi có các chuyên gia phân tích tình báo lão luyện.
Từ năm 1962-1966, RFE nằm dưới sự chỉ đạo của Allen S. Whiting, một
tay gạo cội trong làng phân tích tình báo, từng nổi tiếng với công trình
nghiên cứu
China Crosses the Yalu (viết về những thất bại nghiêm trọng trong chính sách và tình báo thời chiến tranh Triều Tiên).
|
Roger A. Hilsman. |
Khi được Hilsman cất nhắc ở vị trí sếp RFE, Whiting tuyển dụng (cô)
Evelyn Colbert làm trưởng chi nhánh văn phòng Viễn Đông. Là một bản sao
của Hilsman, Colbert, 43 tuổi đã trở thành thế hệ phân tích gia (về tình
báo) đầu tiên tại cuộc chiến Việt Nam.
Trong khi Colbert đặc trách thông tin tình báo Nam Việt Nam, một nữ
nhân viên RFE khác - Dorothy Avery - được giao nhiệm vụ nghiên cứu thông
tin tình báo Bắc Việt. Dorothy Avery có bằng thạc sĩ Đông Á học tại Đại
học Harvard, từng được CIA thuê thực hiện các công trình phân tích về
cộng sản Trung Quốc. Ngoài ra, RFE còn có Louis G. Sarris, được giao
nhiệm vụ khảo sát Việt Nam không lâu sau chuyến công lý sang Mỹ của tổng
thống Ngô Đình Diệm.
INR làm gì?
Trong năm đầu tiên Kennedy ở ghế tổng thống, INR đóng vai trò quan
trọng trong phác họa chính sách và tiếp tục khẳng định rằng Nam Việt Nam
còn có một số gương mặt khác có thể thay tổng thống Diệm; rằng vấn đề
khó khăn của Mỹ ở Nam Việt Nam xuất phát chủ yếu từ chương trình viện
trợ vô bổ của Washington; rằng sức mạnh của Mặt trận giải phóng miền Nam
khởi nguồn từ các làng quê Nam Việt Nam chứ không phải do sự trà trộn
của bộ đội miền Bắc.
Sau chuyến thị sát thực tế của tướng Maxwell D. Taylor và phó cố vấn
an ninh quốc gia Walt W. Rostow, INR tung ra báo cáo, ghi: "
Điểm yếu
cơ bản trong kế sách chống chiến tranh du kích (của Mỹ) là quan điểm
phổ biến (từ Washington) rằng cuộc khủng hoảng Việt Nam có thể giải
quyết thuần túy bằng viện trợ ào ạt".
Tháng 1-1962, Kennedy yêu cầu Hilsman sang Nam Việt Nam. Viên giám
đốc INR nhận thấy nỗ lực chống chiến tranh du kích bằng biện pháp quân
sự là không đủ; đồng thời ủng hộ ý tưởng ấp chiến lược (sau chuyến đi,
Hilsman đệ trình Kennedy báo cáo
A Strategic Concept for South Vietnam).
Mùa xuân 1963, Kennedy bổ nhiệm Hilsman làm trợ lý ngoại trưởng đặc
trách các vấn đề Viễn Đông. Ghế giám đốc INR được giao cho Thomas L.
Hughes.
Ngày 22-10-1963, INR tung ra báo cáo
Statistics on the War Effort in South Vietnam Show Unfavorable Trends (Thống
kê về nỗ lực chiến tranh tại Nam Việt Nam cho thấy những khuynh hướng
bất lợi). Báo cáo đã gây làn sóng chống đối dữ dội tại nhiều cơ quan
chính phủ Mỹ.
|
Trụ sở Bộ tham mưu quân đội Hoa Kỳ tại Sài Gòn. |
Ban tham mưu Lầu Năm Góc chỉ trích mạnh báo cáo, cho rằng chuyên gia
INR không đủ kinh nghiệm để bàn về cuộc chiến "đang thắng lợi" tại Nam
Việt Nam của Mỹ. Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara chỉ trích báo
cáo của INR không tiếc lời.
Ngoại trưởng Dean Rusk buộc phải gọi sếp INR Thomas L. Hughes vào văn
phòng và đề nghị không tiếp tục làm nản lòng Lầu Năm Góc về viễn cảnh
chiến thắng tại Nam Việt Nam (bản thân Rusk ủng hộ chính sách mạnh tay
trong cuộc chiến chống cộng tại Đông Nam Á).
Đến thời Tổng thống Lyndon B. Johnson, tình hình Việt Nam diễn biến
ngày càng phức tạp. INR đã sai khi đánh giá thấp Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Cho đến sự kiện Vịnh Bắc bộ vào tháng 8-1964, không có bất kỳ nhận
định tình báo nào của Mỹ cho thấy Hà Nội sẽ đưa quân vào miền Nam.
Tình báo Mỹ tin rằng Bắc Việt không dám đụng độ trực tiếp với quân
đội Mỹ (mà thay vào đó chỉ ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam) và
Washington cũng không dám mạnh tay với Hà Nội do e ngại Bắc Kinh và
Moscow vào cuộc (trong khi sếp CIA, John McCone liên tục yêu cầu Lyndon
B. Johnson dội bom Hà Nội, INR cũng liên tiếp cảnh báo khả năng Trung
Quốc chính thức đưa quân sang ủng hộ Bắc Việt Nam).
Trong một hội thảo năm 1991, nguyên giám đốc INR, Thomas L. Hughes đã
nhắc lại mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng tình báo Mỹ về các phân tích
tình hình chiến trường Việt Nam. Năm 1966, tình báo Mỹ vẫn không nắm
chính xác tỉ lệ quân đội Bắc Việt tại Nam Việt Nam cũng như lực lượng vũ
trang Mặt trận giải phóng miền Nam.
Cựu viên chức INR Louis Sarris cho biết cơ quan mình thường xuyên bị
"đe dọa" từ Lầu Năm Góc, đặc biệt xung đột với các ý kiến xung quanh
đánh giá thực lực nội các Sài Gòn.
Cụ thể một trường hợp: trong khi Ban cố vấn quân sự Hoa Kỳ (MACV) tin
tưởng Thủ tướng VNCH Nguyễn Cao Kỳ, báo cáo INR cho biết ông Kỳ đã dùng
lực lượng Cảnh sát Quốc gia - nằm dưới chỉ huy của đồng minh Nguyễn
Ngọc Loan, theo cách như Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng đảng Cần Lao -
cốt để củng cố chiến thắng trong cuộc bầu cử 1966.
Và có lần trong khi tư lệnh trưởng MACV William C. Westmoreland có
mặt tại Washington giục Nhà Trắng đổ thêm bom vào Việt Nam, Louis Sarris
trong chuyến kinh lý Sài Gòn đã được tướng Fred Weyand tâm sự: "Tôi
chẳng thể hiểu cái mà ông Westmoreland nói về ánh sáng cuối đường hầm là
cái quái gì. Chúng tôi có thể bị tấn công bất cứ lúc nào và chúng tôi
không bao giờ biết kẻ thù xuất hiện từ đâu".
Điều này cuối cùng đã xảy ra vào Tết Mậu Thân 1968. Như tất cả cơ
quan tình báo Mỹ, INR hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện "Việt Cộng" tấn
công Sài Gòn. INR đã rơi vào bẫy khi tin rằng Bắc Việt chỉ đột kích căn
cứ quân sự Mỹ tại Khe Sanh.
10 ngày trước sự kiện Mậu Thân, INR thật ra đã phân tích một thông
tin tình báo cho thấy loạt tấn công nhỏ của Bắc Việt nhằm lôi kéo sự chú
ý và giãn độ tập trung của quân đội Mỹ tại các thành phố lớn…
|
Tiểu đoàn tín hiệu 69th quân đội Hoa Kỳ tại Sài Gòn (nơi xử lý hơn 26.000 cuộc gọi mỗi ngày). |
Các chiến dịch quân báo
Trong phiên họp Hội đồng An ninh quốc gia ngày 29-4-1961, Tổng thống
John F. Kennedy chuẩn y việc Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) hỗ
trợ lực lượng quân báo Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Thời điểm đó, sự chia
sẻ thông tin tình báo với nước ngoài còn là điều bất thường đối với
ngành an ninh-tình báo Mỹ.
Phó đô đốc Lawrence H. Frost - giám đốc NSA - đã ra lệnh Cục an ninh
quân đội (ASA) lập tức triển khai kế hoạch. Vài tuần sau, Đơn vị chiến
dịch đặc biệt ASA lên đường sang Nam Việt Nam.
Ngày 13-5-1961, những đôi giày bóng lộn của 93 sĩ quan quân báo Mỹ đã
bước ra khỏi chiếc C-130 đỗ tại phi trường Tân Sơn Nhất. Xác định vị
trí tình nghi đóng quân của du kích Việt Nam là một trong những nhiệm vụ
của Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA.
Ngoài ra, còn có chiến dịch White Birch gồm nghe lén; và chiến dịch
thứ ba - Sabertooth - gồm huấn luyện quân báo VNCH kỹ thuật gián điệp
hậu tuyến cũng như giải mã. Căn cứ Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA (còn
gọi là Đơn vị nghiên cứu vô tuyến thứ ba) nằm trong một nhà chứa máy
bay cũ tại Tân Sơn Nhất, nóng hầm hập và ngột ngạt (trong khi đó, sếp
Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA được "bố trí" ở tại khách sạn Majestic).
Trong 7 tháng, lực lượng quân báo Mỹ tại Nam Việt Nam tăng hơn gấp
đôi. Đến tháng 12-1961, lực lượng này đã lên đến 236 người, nằm rải rác
tại 18 vị trí nghe lén, trong đó có điểm nghe lén và bắt tín hiệu quân
báo Bắc Việt Nam đặt tại Phú Bài, gần khu vực phi quân sự (DMZ).
Công việc của quân báo Mỹ nguy hiểm không kém lính tác chiến, đặc
biệt tại một chiến trường mà lính Mỹ "bị đột kích nhiều hơn mặt đối mặt
kẻ thù" - như miêu tả của chính John F. Kennedy.
Trong số sĩ quan quân báo thuộc Đơn vị chiến dịch đặc biệt ASA, có
James T. Davis. Nhóm Davis được phân công truy tìm du kích tại vùng ven
Sài Gòn. Muốn như vậy, James T. Davis phải ra sát khu vực tình nghi để
bắt sóng liên lạc du kích. Ngày kia, cùng toán lính VNCH, James T. Davis
mang theo thiết bị PRC-10 để bắt tín hiệu sóng ngắn.
Ba ngày trước Giáng sinh 1961, James T. Davis lại lên chiếc jeep cùng
toán lính bảo vệ VNCH phóng về phía Tây Sài Gòn. Khi cách căn cứ khoảng
15km, nhóm James T. Davis bị tấn công.
Cầm khẩu carbine M-1, James T. Davis bóp cò. Tuy nhiên, họ đã bị vây
kín. Sau vài phút, 9 tay súng VNCH bị thiệt mạng. Một viên AK-47 bắn
trúng đầu Davis từ phía sau. Davis đổ gục, trở thành sĩ quan quân báo Mỹ
đầu tiên chết tại chiến trường Việt Nam (hai tuần sau, Đơn vị nghiên
cứu vô tuyến thứ ba đổi tên thành Trạm Davis và thậm chí một doanh trại
NSA tại Mỹ cũng lấy tên này).
Tại Washington, Kennedy quyết định Mỹ hóa cuộc chiến Việt Nam, yêu
cầu CIA tăng cường chiến dịch đột nhập phía bên kia DMZ. Một đêm tối,
quân báo VNCH nhảy dù vào chiến tuyến thuộc kiểm soát Bắc Việt và được
đón chào bằng loạt súng liên thanh. Cuối cùng, cho đến khi từ giã Nhà
Trắng đột ngột bởi bị ám sát, John F. Kennedy vẫn không hài lòng kết quả
cụ thể nào của quân báo Mỹ tại chiến trường Việt Nam…
Giữa năm 1964, đã có 16.000 lính Mỹ tại Việt Nam và cuộc chiến bắt
đầu ngốn 1,5 triệu USD/ngày. Hủy bỏ kế hoạch trà trộn vào Bắc Việt của
CIA, tân Tổng thống Lyndon B. Johnson yêu cầu bộ tổng tham mưu Mỹ phác
thảo chiến dịch nặng tay hơn, đủ mạnh để buộc Bắc Việt ngưng cuộc chiến
du kích tại miền Nam.
Chiến dịch OPLAN 34A ra đời, một kịch bản phối hợp giữa CIA và Lầu
Năm Góc, một kế hoạch "hoàn toàn vô giá trị" - như thú nhận của (nguyên)
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara sau này. Trong khi đó, hoạt
động quân báo Mỹ vẫn triển khai.
Đầu năm 1964, số lính-sĩ quan quân báo Mỹ tại Việt Nam đã lên đến
1.747 người, trong đó 300 người đóng ở Tân Sơn Nhất. Ngoài ra, còn có
nhóm quân báo thủy quân lục chiến đóng ở Pleiku và quân báo không quân
đóng ở Đà Nẵng.
Một mạng kết nối các điểm nghe lén được thiết lập bí mật ở Nha Trang,
Cần Thơ, Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng và Ban Mê Thuột - tất cả đều được
đấu liên lạc trực tiếp với tổng hành dinh NSA tại Mỹ qua một sợi cáp
ngầm dưới biển kéo từ Nam Việt Nam đến Philippines. Mật danh Wetwash,
sợi cáp này còn truyền về bộ chỉ huy NSA các thông điệp phức tạp vượt
quá khả năng giải mã của quân báo Mỹ tại Sài Gòn…
Theo tác giả James Bamford trong
Body of Secrets, một báo cáo tuyệt mật NSA từng ghi:
"Một
bức tranh rõ ràng và thậm chí mang tính đe dọa về sự thành công của
quân báo Việt Cộng chống lại kỹ thuật quân báo phe đồng minh (ở đây hiểu
là Mỹ) đã dần xuất hiện".
|
Phòng xử lý thông tin dữ liệu SpectrumData đặt tại Núi Đất (Mộc Hóa) đầu thập niên 1970. |
Cuối thập niên 1960, một số vị trí nghe lén của quân báo Việt Nam bị phát hiện.
"Đánh
giá thiết bị tịch thu được đã cho thấy đơn vị quân báo kẻ thù có thể
nghe hầu như tất cả liên lạc Morse của Mỹ và đồng minh. Tài liệu cho
thấy đối phương đã rất am hiểu kỹ thuật quân báo…".
Tình báo Mỹ đánh giá rằng Bắc Việt có khoảng 5.000 chuyên viên bắt tín hiệu và
"kẻ thù đang thực hiện một chiến dịch quân báo cực kỳ phức tạp nhắm trực tiếp vào Mỹ và lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam". Hậu quả của lỗ hỗng quân báo Mỹ và kỹ thuật quân báo Bắc Việt đã trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Tướng Charles R. Myers (sĩ quan quân báo từng làm việc tại Việt Nam) kể rằng
"kẻ
thù thường biến mất khỏi vị trí nào đó trước khi một kế hoạch chiến
dịch oanh tạc định sẵn của Mỹ tiến hành" và "B-52 thường xuyên dội bom
xuống các địa điểm không người mà trước đó quân báo Mỹ từng cung cấp
thông tin về sự tập trung đông của Việt Cộng".
Theo vài phân tích mật của NSA thời điểm đó, một trong những nguyên
nhân khiến quân báo Mỹ thất bại là sự rò rỉ từ quân báo VNCH. Đó là chưa
kể việc quân báo Việt Cộng học được cách giải mã từ chính những thiết
bị quân báo Mỹ mà họ tịch thu được, đặc biệt thiết bị TPHZ-3 - có thể
nghe 30 line điện thoại cùng một lúc.
Năm 1967, từ thiết bị này, quân báo Mỹ đã nghe được 6.606.539 cuộc
điện đàm vô tuyến và hơn 500.000 điện đàm điện thoại. Trong một lần,
TPHZ-3 đã cứu được mạng tướng Creighton W. Abrams (phó tư lệnh quân đội
Mỹ tại Việt Nam). Khi Abrams chuẩn bị lên trực thăng từ Sài Gòn ra Phú
Bài, quân báo Việt Cộng đã lập tức truyền tín hiệu báo cáo trung tâm về
lịch trình của Abrams. Tuy nhiên, lần này, TPHZ-3 đã bắt được tín hiệu
liên lạc trên; nếu không, Abrams đã thiệt mạng.
Quân báo Việt Cộng còn tung tin giả bằng cách ngụy tạo thông điệp và
"sơ hở" gửi truyền; đồng thời dụ quân báo Mỹ truyền thông tin nhạy cảm
để họ bắt được! NSA gọi đây là kỹ thuật "sự lừa phỉnh viễn thông mô
phỏng" (ICD). Bằng ICD, Việt Cộng đã bắn ít nhất 8 trực thăng Mỹ trong
một chiến dịch. ICD cũng được thể hiện ở hình thức khác.
Trong một vụ đánh ở căn cứ không quân Mỹ tại Đà Nẵng, du kích Việt
Cộng đầu tiên giết chết lính canh Mỹ rồi dùng điện thoại "báo động" rằng
góc mé xa căn cứ "đang bị cộng quân tấn công". Toán lính canh Mỹ lập
tức được điều động đến khu vực "đang giao tranh".
Hậu quả, an ninh căn cứ bị bỏ lỏng và căn cứ bị bộ đội tấn công bất
ngờ. Lần đó, trị giá số máy bay Mỹ bị phá hỏng lên đến 15 triệu USD. Lần
khác, Việt Cộng dùng tần số liên lạc trực thăng để giả giọng trung tâm
chỉ huy, yêu cầu trực thăng chuyển hướng bay và cuối cùng nó bị bắn
cháy.
Theo cùng cách, "
có vô số lần mà máy bay Mỹ bị "hướng dẫn" dội
bom vào chính đồng đội họ; và nhiều lần khác, du kích có thể ngăn được
cuộc tấn công của Mỹ bằng cách tạo ra mệnh lệnh ngừng bắn giả" - James Bamford viết.
Mạnh Kim
Trong cuộc
chiến tranh ở Việt Nam,
ngoài đưa lực lượng vào can thiệp, tập kích đường biển, đường không, Mỹ
còn sử dụng một loại chiến tranh khác có tên gọi Chiến tranh "không quy
ước". Lực lượng thực hiện là Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) và sau đó
được chuyển cho (SOG).
©
AP Photo/ Carolyn Kaster
Vậy
diễn biến của loài hình chiến tranh này là thế nào? Báo Kiến Thức xin
giới thiệu tới độc giả loạt bài hồ sơ cuộc chiến tranh "không quy ước"
mà CIA trực tiếp tiến hành chống phá Việt Nam:
Nền tảng ban đầu
Trước khi Mỹ sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và
Người nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho Việt Nam
cộng hòa thực hiện những phi vụ bí mật của "chiến tranh không quy ước"
thì từ năm 1957 họ đã huấn luyện cho Sài Gòn lực lượng làm nhiệm vụ đặc
biệt.
Năm 1957, chính quyền Eisenhower tài trợ cho quân đội Sài Gòn chương
trình bí mật. Theo đó, Trung ương tình báo CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ phối
hợp để thành lập cho quân đội Sài Gòn một đơn vị biệt kích lấy tên là
Liên đoàn quan sát số 1. Đơn vị này có nhiệm vụ bí mật xâm nhập vào hàng
ngũ quân đối phương nắm tin, chống phá. Để giữ bí mật, Liên đoàn quan
sát số 1 do Ban Nghiên cứu điều hành (thuộc ngành tình báo của Bộ Quốc
phòng quản lý), về sau đổi tên là Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống, đặt
dưới sự theo dõi trực tiếp của Tổng thống Ngô Đình Diệm, do Trung tá đặc
vụ Lê Quang Tung làm trưởng phòng.
Tổng thống Ngô Đình Diệm hội đàm với sĩ quan CIA
Năm 1958, cơ quan CIA tại Sài Gòn thành lập Ban Ngoại vụ do Russell
Miller, núp dưới bóng một nhà ngoại giao làm trưởng ban. Russell lệnh
cho Trung tá Tung chọn lực lượng. Ít lâu sau, 12 sĩ quan trẻ cấp bậc từ
thiếu úy đến trung úy được điều về và đặt dưới quyền chỉ huy của Đại úy
Ngô Thế Linh. Tháng 11/1958, cả 12 sĩ quan trẻ đều được đưa sang Saipan
để huấn luyện. Ở đó, họ được CIA huấn luyện hai tháng về nghiệp vụ tình
báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo. Cuối
1958, Đại úy Ngô Thế Linh trở về Sài Gòn và được bổ nhiệm làm Trưởng
phòng Bắc Việt (mật danh là Phòng 45), trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ
Tổng thống, quân số chỉ có hơn chục người. Trong những tháng còn lại của
năm 1958, Phòng 45 chuyên lo việc huấn luyện cho nhân viên mới.
Đến giữa năm 1959, một nhóm 5 sĩ quan khác được đưa sang Saipan huấn
luyện 6 tuần. Sau đó ít lâu, CIA cử nhân viên đến Sài Gòn huấn luyện hai
khóa trong năm, mỗi khóa huấn luyện kéo dài 12 tuần. Lần này, chương
trình huấn luyện nhắm vào những sĩ quan trẻ miền Bắc, có gốc là dân tộc
thiểu số. Khóa huấn luyện kéo dài đến cuối năm 1959.
Con cưng của "chiến tranh không quy ước"
Thời gian sau, Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) nhận lệnh
phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một
người thích hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một Đảng viên biến chất, quê ở
tỉnh Quảng Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam. Thoạt đầu
Phạm Chuyên từ chối, dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo dõi,
dụ dỗ suốt nửa năm trời. Cuối cùng, sau 6 tháng cộng tác với Edward
Reagan, nhân viên của CIA, họ đã thuyết phục Chuyên.
Điệp viên CIA Phạm Chuyên
Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và
Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc. Theo
kế hoạch, Chuyên sẽ nằm vùng dài hạn ở tỉnh Quảng Ninh, một tỉnh ven
biển Bắc Bộ, nơi Chuyên rất quen thuộc. CIA cho rằng, việc phái Chuyên
xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý. Với niềm hứng khởi ấy,
hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa điểm xuất phát. Họ thuê
một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật cứ.
Trước khi Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch
ngắn hạn: Thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo vĩ tuyến 17 để
thăm dò. Nhân vật được chọn là Vũ Công Hồng (mật danh là Hirondelle).
Hồng được huấn luyện cấp tốc và đưa ra sống tại căn nhà được bảo vệ
rất nghiêm mật ở Huế. Thiếu tá Trần Khắc Kính có mật danh là Atlantic,
người của Phòng Liên lạc Phủ Tổng Thống chỉ đạo mọi hoạt động xuất phát
từ Huế. Sau khi thả qua sông Bến Hải, vài tuần sau, Vũ Công Hồng trở về
căn cứ. Hắn cung cấp một ít thông tin về đường đi, nước bước của hệ
thống an ninh Bắc Việt, đủ làm cho những nhân viên của Phòng 45 hứng
khởi.
Hai tháng sau, Phạm Chuyên (mật danh Ares) được cử trở về miền Bắc
thu thập tin tức tình báo, tuyển mộ thêm điệp viên, chuẩn bị tinh thần
lót ổ nằm vùng dài hạn. Chuyên sẽ đóng vai một người đánh cá ở một làng
nhỏ ở Cẩm Phả, ngay gần vịnh Hạ Long, quê hương của Chuyên trước năm
1958. CIA tính toán, sự trở về của Chuyên có thể không an toàn, nhưng bù
lại Chuyên còn có gia đình, người thân, hy vọng sẽ được che chở. Đầu
tháng 4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình
hai ngày về phía Bắc, nhưng do thời tiết xấu nên phải quay trở vể nơi
xuất phát. Vài hôm sau, khi thời tiết đẹp, Chuyên mới lên đường.
Sau
khi vào vùng biển Quảng Ninh, Chuyên chèo chiếc thuyền nhỏ, đổ bộ lên
một địa điểm gần Cẩm Phả. Chuyên đem đồ đạc, trang bị lên bờ rồi giấu
ngay hai máy truyền tin. Sau khi sum họp với gia đình, Chuyên đã cố
thuyết phục người em trai là Phạm Độ làm việc cho mình. Chuyên đã nhờ
người em trai quay máy truyền tin để gửi đi bức mật điện đầu tiên. Để
tránh cho làn sóng bị giao thoa, Phạm Chuyên đánh tín hiệu từ bờ biển
miền Bắc Việt Nam, vượt đại dương đến trạm Bugs, với mật mã do CIA đặt
cho trạm viễn thông tại căn cứ quân sự ở cảng Subic, Philippin. Từ đó,
bức mật điện sẽ được chuyển tiếp đến cơ quan CIA tại Sài Gòn với tên là
trụ sở hãng IBM; ct N.C.). Sau này, Chuyên còn gửi thêm 22 bản báo cáo
nữa trong một thời gian rất ngắn.
"Nhấn ga", phát triển chiến tranh "không quy ước"
Sáng 28/1/1961, Tổng thống John F. Kenedy đã chủ trì họp Hội đồng an
ninh quốc gia, thảo luận về tình hình Việt Nam. Tại đây, các đại biểu đã
được nghe Lansdale, người giàu kinh nghiệm các hoạt động bí mật của
Cục tình báo Trung ương (CIA) báo
cáo về tình hình Nam Việt Nam với những vấn đề hết sức bi đát. Đây
chính là cơ sở để đầu tháng 3/1961, John F. Kenedy yêu cầu có báo cáo về
các hoạt động ngầm chống Bắc Việt Nam của CIA. Tiếp đó, Kenedy ra Chỉ
thị số 28, yêu cầu CIA phải nỗ lực tiến hành hoạt động du kích ở lãnh
thổ Bắc Việt Nam. Điều chú ý là, Điều 25 của chỉ thị này, cho phép cơ
quan CIA sử dụng quân biệt kích "Mũ nồi xanh" (Special Forces) và Người
nhái Hải quân (Navy Seals) để huấn luyện, làm cố vấn cho quân đội Việt
Nam thực hiện những phi vụ bí mật.
Ngay sau đó, CIA thực hiện hàng loạt các hoạt động ngầm: Tuyên
truyền; chiến tranh kinh tế; hành động phòng ngừa trực tiếp như phá
hoại, chống phá hoại, huỷ hoại và sơ tán và hoạt động lật đổ chống lại
các quốc gia thù địch, trong đó có việc trợ giúp cho phong trào kháng
chiến ngầm, du kích và các nhóm tị nạn, và hỗ trợ các phần tử chống cộng
tại chỗ.
Như vậy, CIA đã trở thành công cụ qua đó Hoa Kỳ có thể tiến hành các
hoạt động chiến tranh không quy ước, chống các nước có tư tưởng, chế độ
chính trị đối lập, đồng minh và là giải pháp thay thế trong tình huống
chưa đến mức "xung đột vũ trang do lực lượng quân sự thông thường tiến
hành".
Nguồn: Kiến Thức
Những thất bại bẽ bàng của tình báo Mỹ (I)
Thứ ba, 17/01/2012 | 21:43 GMT+7
<>Vào ấn bản
tháng 1-2/2011 của tờ Chính sách Đối ngoại, cựu quan chức CIA PaulPillar
đã đưa ra nhận định về mức độ quan trọng của thông tin tình báo - kể
cảtin tốt lẫn tin xấu - có thể ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định của
tổngthống, sửa đổi chính sách đối ngoại của Mỹ, ngăn chặn các bất ngờ.
Cho
dù hạn chế của cộng đồng tình báo Mỹ là gì, họ vẫn phải đối mặt với
cácchỉ trích vì những thiếu sót trong thông tin tiếp nhận, mà gần đây
nhất là việchọ không thể dự báo trước được phong trào Mùa xuân Ả Rập và
hoàn toàn không haybiết gì về thông tin lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il
qua đời.
<>Dưới đây là các thất bại tệ hại nhất trong lịch sử tình báo Mỹ
<>Vụ tấn công Trân Châu Cảng
|
Trong hình là tàu USS Arizona bị cháy trong đợt không kích của Nhật vào Trân Châu Cảng hôm 7/12/1941. |
Trong
buổi mình minh ngày 7/12/1941, quân Nhật đã ném bom phủ đầu lên Hạm
độiThái Bình Dương của Mỹ ở Trân Châu Cảng, Hawaii, buộc Mỹ phải tham
chiến trongChiến tranh Thế giới II. Căn cứ hải quân hoàn toàn không hay
biết gì về cuộc tấncông này, thậm chí Hoa Kỳ lúc đó đã cố gắng giải mã
ngoại giao của Nhật trongmột diễn biến dẫn tới vụ không kích và một tùy
viên quân sự tại Java đã cảnh báoWashington về việc Nhật lên kế hoạch
tấn công Hawaii, Philippines và Thái Lantrước đó 1 tuần. "Chưa bao giờ
chúng tôi có được một bức tranh tình báo đầy đủtới như vậy về kẻ thù" -
Roberta Wholstetter viết trong tác phẩm "Trân ChâuCảng: Cảnh báo và
Quyết định".
Tuy nhiên, bức tranh đó lại
không bao giờ được xem xét một cách đầy đủ bởi sựchia sẻ không thích
đáng giữa các cơ quan của chính phủ, các nhận định chủ quancủa phía Mỹ
cho rằng Nhật sẽ không dám thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoángnhư
vậy, và sự cạnh tranh đối địch trong chính cộng đồng tình báo của Mỹ.
CIA
được thành lập năm 1947, trực thuộc Cơ quan Hành động An ninh Quốc
giasau đó đã lưu ý rằng cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng đã nhấn
mạnh vàonhu cầu phân biệt giữa "các dấu hiệu" và hiện tượng "nhiễu" và
thành lập một tổchức tình báo tập trung.
<>Cuộc đổ bộ vào Vịnh Con Lợn
|
Trong
ảnh là các lính gác giám sát các thành viên của "Lữ đoàn Tấn công 2506"
sau khi bị tóm gọn tại Vịnh Con Lợn vào tháng 4/1961. |
Vào
tháng 4/1961, CIA đã lên kế hoạch lật đổ chính quyền của Cuba và
địnhthay thế bằng một chính quyền khác cùng với sự giúp đỡ của những
người Cuba lưuvong. Nỗ lực này đã thất bại khi một trận không kích nhằm
vào không quân Cuba đãkhông thành, và "Lữ đoàn tấn công 2506" gồm 1400
người đã bị quân đội Cuba tấncông ngay khi đáp vào duyên hải phía nam
của đất nước. Cuộc đổ bộ vụng về này đãphá hỏng quan hệ Mỹ - Cuba.
Các
tài liệu của CIA sau đó công bố cơ quan này cho rằng Tổng thống John
F.Kennedy từng nói có thể sẽ ủy thác cho quân đội Mỹ tấn công nếu như
tất cả cácphương án khác thất bại, tổng thống cũng không bao giờ đưa ra
một nhận định nàobày tỏ nghi ngờ liệu rằng chiến dịch này có thể thành
công mà không cần tới sựhỗ trợ của quân đội Mỹ -- Kennedy tất nhiên là
không bao giờ có ý định đưa ra hỗtrợ này.
(Sử gia Piero Gleijeses đã ví
CIA và Kennedy như những con thuyền mất húttrong đêm). CIA cũng không có
bất kỳ sự trợ giúp nào trong một năm sau đó vìnghĩ rằng Liên Xô có vẻ
như không hề thiết lập bất kỳ hệ thống tên lửa tấn côngnào tại Cuba
trong một báo cáo phát hành một tháng trước Cuộc khủng hoảng tênlửa ở
Cuba, dù cho sau đó cơ quan này đã bù lấp một chút bằng tấm ảnh chụp
vộivề các khu vực tên lửa của Cuba.
<>Chiến dịch Tết Mậu Thân
|
Trong hình là quân đội miền Bắc trên đường vào Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. |
Vào
ngày 31/1/1968, trong suốt dịp Tết Âm lịch năm Mậu Thân, lực lượng
quânđội miền Bắc Việt Nam khiến cho quân đội Mỹ choáng váng với một
chiến dịch tấncông quy mô vào miền Nam. Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân
được cho là trận đánhcó tính chất quyết định nhất của Việt Nam. Mỹ hoàn
toàn vỡ mộng với cuộc chiếntại đây, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ
đã phải chuyển hướng và tập trungvào việc giảm dần quân Mỹ tại Việt
Nam.
Một cuộc điều tra ngay sau đó đã kết
luận: các quan chức quân đội Mỹ và ViệtNam Cộng hòa cùng với các nhà
phân tích thông tin tình báo đã thất bại trongviệc dự đoán về "cuộc tấn
công dữ dội, có sự phối hợp, và đúng lúc" của quân độimiền Bắc - bất
chấp nhiều dấu hiệu cảnh báo trước đó.
Người quản lý thư
viện Hải quân Glenn E. Helm lưu ý rằng các nguyên nhân nhưviệc coi
thường thu thập thông tin tình báo, các rào cản ngôn ngữ, và không
nắmđược chiến lược của đối phương đã đóng các vai trò quan trọng trong
thất bạitình báo này.
<>Cách mạng Iran
|
Trên
hình là những người biểu tình Iran đang giơ cao hình ảnh của Ayatollah
Khomeini vào ngày 1/1/1979 trong cuộc tuần hành ở Tehran nhằm
chống lại nhà vua. |
Trong tháng 8/1978 - 6 tháng trước khi Shah Mohammed Reza
Pahlavi
- một nhân vật được Mỹ hậu thuẫn - bỏ trốn khỏi Iran, CIA đã đưa ra
mộttuyên bố ít người biết, rằng "Iran hiện giờ không ở trong tình trạng
của mộtcuộc cách mạng, hay thậm chí là tiền khởi nghĩa". Còn giờ như
chúng ta đều biết,Ayatollah Ruhollah Khomeini đã lên nắm quyền trong
cuộc Cách mạng Hồi giáo năm1979, mở ra một mối bất hòa giữa Iran và Mỹ
và kéo dài cho tới tận ngày nay.
Theo
Gary Sick - một thành viên trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổngthống
Jimmy Carter, Mỹ đã thu hẹp lại thông tin tình báo thu thập được bên
trongIran trước khi khởi nghĩa nổ ra để thể hiện sự tôn kính với Vua
Iran. Điều nàykhiến cho các quan chức Mỹ coi nhẹ sự oán hận dân cao của
người dân Iran đối vớinhà vua và với Mỹ, đồng thời đánh giá không đúng
tầm thực lực của phe đối lậpkhi lật đổ nhà vua.
Bên
cạnh đó, một báo cáo của Đại học Georgetown hồi năm 2004 đã chỉ ra
rằngmạng lưới tình báo Mỹ từng cảnh báo về quyền lực ngày càng suy yếu
của nhà vuaIran và lực lược tôn giáo đối lập đang mạnh lên, và rằng đấu
tranh chính trị vàviệc chính quyền Carter dính líu vào các cuộc đàm phán
hòa bình với Ai Cập -Israel đã thổi bùng thêm sự căm ghét của Iran đối
với Mỹ.
<>Liên Xô đổ bộ vào Afghanistan
|
Trong
ảnh là các trẻ em Afghanistan vẫy cờ Afghanistan và cờ Liên Xô ở gần
thủ đô Kabul vào ngày 15/5/1988 khi quân đội Nga bắt đầu rút
khỏi Afghanistan. |
Mỹ hoàn toàn
bất ngờ với việc Liên Xô tiến quân vào Afghanistan hồi tháng12/1979.
Mạng lưới thông tin tình báo của Mỹ đã cho rằng điều này khó có thể
xảyra vì việc này sẽ tiêu tốn rất nhiều tiền của Liên Xô, nhưng không
ngờ thực tếdiễn biến ngược lại với cách họ vẫn nghĩ.
Cựu
quan chức tình báo CIA Douglas MacEachin nhớ lại chỉ vài ngày sau cuộc
đổbộ, có một câu đùa mỉa mai sai lầm này lan truyền khắp cơ quan tình
báo rằng:"các nhà phân tích đã hiểu đúng, chỉ có Liên Xô đã nhầm".
Trong
cuốn sách "CIA và Văn hóa Sai lầm", John Diamond thừa nhận rằng cơ
quannày đã không thể dự đoán được cuộc đổ bộ mãi cho tới sát lúc sự việc
diễn ra.
Nguồn : VietnamNet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét