Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 103

(ĐC sưu tầm trên NET)

Cuộc đời bi thảm của Thiên tài Quân sự Liên Xô. Vào Ngày 12/6/1937, nguyên soái Liên xô Mikhail Tukhachevsky, nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng các lượng vũ trang hồng quân liên xô, cùng 7 tướng lĩnh cao cấp khác của quân đội Hồng quân Liên Xô đã bị xử bắn sau cáo buộc với tội danh phản bội tổ quốc

Bi kịch cuộc đời của một nguyên soái Liên Xô

Ngày 12/6/1937, nguyên soái Liên xô Mikhail Tukhachevsky, nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng cùng 7 tướng lĩnh cao cấp khác của Hồng quân Liên Xô đã bị xử bắn sau cáo buộc tội phản quốc.

untitled-2-1348709028_480x0.jpg
Nguyên soái M.Tukhachevsky.
Hai mươi năm sau, Tukhachevsky cùng những đồng đội của ông đã được Liên Xô tuyên bố vô tội và công bố rằng đó là kết quả của một âm mưu hòng làm suy yếu Hồng quân Liên Xô trước Thế chiến thứ II của cơ quan gián điệp phát xít Đức. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bí ẩn về cái chết của nhà chỉ huy quân sự tài ba một thời của quân đội Xô-viết trước đây.
Tukhachevsky sinh năm 1893 trong một gia đình quý tộc gốc Ba Lan tại Smolensk (phía tây Matxcơva). Ông đã tốt nghiệp Học viện quân sự Aleksandrovskye (1914) và tham gia chiến tranh thế giới thứ I với tư cách là trung úy cận vệ của lực lượng Semyenovsky. Trong khi tham chiến, Tukhachevsky đã bị quân Đức bắt sống và phải trải qua 4 lần vượt ngục mới trốn thoát khỏi ngục tù của quân đội Đức. Trong khi ở nhà tù Ingolstadt, Tukhachevsky đã gặp một nhân vật sau này đã trở thành người có tên tuổi đi vào lịch sử nước Pháp, đó là Charles de Gaulle.
Sau cách mạng tháng Mười Nga, Tukhachevsky gia nhập đảng Cộng sản Bôn-sê-vích, tham gia Hồng quân và nhanh chóng trở thành một vị chỉ huy quân sự đầy tài năng lúc bấy giờ. Trong cuộc nội chiến Nga, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng bảo vệ Matxcơva. Năm 1919, lực lượng Hồng quân dưới sự chỉ huy tài tình của ông đã chiếm lại toàn bộ vùng Sibera từ quân Bạch vệ, góp phần đánh bại tướng Anton Denikin ở Crimea và dẹp tan các cuộc nổi loạn do Kronstadt và Tambov cầm đầu.
Trong giai đoạn 1925-1928, Mikhail Tukhachevsky được giao giữ chức Tổng tham mưu trưởng kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô. Trong những năm tháng này, ông đã đề xuất tiến hành một cuộc cách mạng về quân sự trong lực lượng Hồng quân, đưa lực lượng quân đội Xô-viết trở thành một lực lượng có kỹ năng chiến đấu hoàn thiện lúc bấy giờ.
Tukhachevsky đã viết nhiều tài liệu tham khảo về chiến tranh hiện đại và trở thành nhà cải cách quân sự hàng đầu của quân đội Xô viết. Trong thời gian này, Tukhachevsky đã đưa ra học thuyết quân sự "Chiến thuật chọc sâu" nêu rõ vai trò của lực lượng không quân đối với việc phá hủy các cơ sở hậu cần của đối phương.
Khi đó, học thuyết kể trên đã không được Stalin, Vorshilov và Budyonny hoan nghênh. Tuy nhiên, học thuyết này đã là nền tảng cho việc ra đời của bản Quy tắc chiến trường (1929) và được phát triển thành bản Cẩm nang về chiến dịch chọc sâu (1935). Học thuyết này của Tukhachevsky, dưới nhiều tên gọi khác nhau, đã được Hồng quân Liên Xô vận dụng một cách rất hiệu quả và đem đến những thành công vang dội trên một số chiến trường trong cuộc chiến tranh vệ quốc như trận KhalhinGol, nơi Nguyên soái G.Zuhkop đã vận dụng để đánh bại quân Nhật hoặc góp phần đưa đến những chiến thắng vang dội của Hồng quân tại chiến trường Kursk và Bagration. Có điều, những chiến thắng này của Hồng quân Liên Xô chỉ đến sau khi người đề xuất ra học thuyết quân sự nổi tiếng này đã bị tử hình vì bị buộc tội phản cách mạng trước đó nhiều năm.
Với phát xít Đức, kẻ thù của Liên Xô thì Tukhachevsky chính là một "Napoleone" của nước Nga. Đây cũng chính là điều đã khiến cho Đức quyết tâm loại trừ Tukhachevsky bằng được trước khi xâm lược Liên Xô.
Năm 1935, do những công lao đóng góp với chế độ Xôviết, Tukhachevsky đã được phong hàm Nguyên soái. Khi đó, ông mới 42 tuổi.
(Theo Thanh Niên)

Bi kịch cuộc đời một nguyên soái Liên Xô (phần 2)

Năm 1920 - 1930, Liên Xô phải liên minh với Đức để phát triển quân sự. Tướng Tukhachevsky, với tư cách là một trong những nhà lãnh đạo của quân đội Xôviết cùng một số tướng lĩnh khác đã thường xuyên có những cuộc gặp gỡ với phía Đức để trao đổi về tiến trình hợp tác hai bên.

Stalin (trái) và Vorosilov hồi tháng 12/1935.
Stalin (trái) và Vorosilov hồi tháng 12/1935.
Đến năm 1933, J.Stalin đột ngột tuyên bố đơn phương cắt đứt quan hệ này với Đức vì cho rằng người Đức đã bí mật chia sẻ các thông tin về bí mật quân sự Xô - Đức với Pháp.
Tuy nhiên, Tukhachevsky và một số tướng lĩnh cao cấp khác kiến nghị rằng cần tiếp tục duy trì mối quan hệ này với Đức vì Liên Xô nên học tập và chuyển giao các công nghệ quân sự tiên tiến hơn từ Đức. Một số tướng lĩnh Đức cũng muốn duy trì quan hệ này vì họ không muốn phải đối phó quân sự với Liên Xô trong trường hợp xảy ra chiến tranh giữa Đức với Tiệp Khắc. Trong khi đó, Tiệp Khắc cũng không muốn Liên Xô và Đức duy trì hiệp ước quân sự trên vì điều này sẽ khiến Liên Xô không bảo vệ được Tiệp Khắc khi họ bị Đức tấn công.
Sau khi Đức và Liên Xô cắt đứt hiệp ước quân sự, đã có những dấu hiệu cho thấy Đức đang có ý định nhòm ngó, chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Theo một số tài liệu công khai và đặc biệt là cuốn Một thời là điệp viên của Stalin xuất bản năm 1939 của Krivitsty, một nhân viên KGB phản bội đã chạy sang phương Tây, thì Nguyên soái Tukhachevsky chẳng qua chỉ là kết cục của một mưu đồ nhằm tiêu diệt ông và một số tướng lĩnh cao cấp của quân đội Xôviết trước khi Đức mở cuộc tấn công.
Liên Xô và Stalin, do vội vàng "nuốt" phải tin giả này, nên đã "sập bẫy" và loại bỏ đi vị nguyên soái lừng danh của quân đội Xôviết bấy giờ. Theo các tài liệu này, Đức đã nhận được nguồn tin từ một sĩ quan Bạch vệ Nga lưu vong tại Pháp phản ánh rằng tại Liên Xô đang có một âm mưu của một số tướng lĩnh cấp cao trong quân đội Xôviết nhằm lật đổ Stalin và người đứng đầu âm mưu đó là Nguyên soái Tukhachevsky.
Sau khi xác minh hết sức cẩn thận, tình báo Đức đã khẳng định rằng tin trên chỉ là tin "vịt" mà thôi. Dù chưa biết được ý đồ của việc đưa tin này từ phía Liên Xô, phát xít Đức vẫn vạch ra một kế hoạch phản gián mà họ cho là "tương kế tựu kế" để loại Tukhachevsky - nhà quân sự Xôviết mà Đức đánh giá sẽ là trở ngại lớn khi Đức tấn công Liên Xô.
Theo kế hoạch kể trên, các nhân viên Đức đã tạo dựng ra một bộ hồ sơ siêu giả với nội dung thể hiện rằng Nguyên soái Tukhachevsky đã lợi dụng những chuyến đi thăm Đức theo hiệp định quân sự hai bên trước đây để cộng tác cộng tác bí mật với Đức tạo phản để lật đổ Stalin một ngày gần đây. Tin này qua nhiều nguồn "tin cậy" đã được tung vào đại sứ quán Tiệp Khắc tại Đức để tới tổng thống Tiệp Khắc Eduard Benes. Sau đó, bộ hồ sơ giả mạo này được viên thư ký của Benes bán cho Trưởng đại điện cơ quan tình báo Liên Xô tại Berlin với giá chỉ có 3 triệu ruble.
Theo đánh giá, tính toán của các nhân viên Đức thì Joseph Stalin là một nhân vật vĩ đại nhưng vô cùng cực đoan, mà càng vĩ đại và cực đoan thì càng nghi ngờ khi chiếc ghế quyền lực có dấu hiệu bị lung lay. Trên thực tế, Stalin có nghi ngờ Tukhachevsky có âm mưu "tạo phản" hay không, người ta vẫn chưa có kết luận chính thức được, nhưng có một kết cục đã đến đúng theo mong đợi của người Đức: ngày 22/5/1937, Nguyên soái Tukhachevsky cùng một số tướng lĩnh khác của quân đội Liên Xô đã bị bắt và bị đưa ngay ra tòa án binh. Ngày 11/6/1937, Tukhachevsky bị tước quân hàm nguyên soái và bị đưa ra trường bắn cùng một số tướng lĩnh "phản bội" sau đó một ngày.
Joseph Stalin đã rơi vào bẫy của người Đức?
Ngày 31/1/1957, Chính phủ Liên Xô chính thức tuyên bố Tukhachevsky và một số đồng đội của ông đã bị xử bắn oan bởi kế hoạch làm suy yếu Hồng quân Liên Xô của cơ quan gián điệp Đức. Sau đó, cho dù muộn màng nhưng Nhà nước Liên Xô cũng đã khôi phục lại mọi quyền lợi của Tukhachevsky và những sĩ quan khác đã bị sát hại trong vụ Tukhachevsky.
Vụ án Tukhachevsky đã được một số cơ quan tình báo, phản gián nước ngoài nhìn nhận như là một thành công của cơ quan Nazi Đức và là một thất bại lịch sử của Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô (KGB) lúc bấy giờ. Tuy nhiên, trong cuốn hồi ký mới nhất gần đây của tướng tình báo Liên Xô Pavel Xudoplatov có tên Những chiến dịch đặc biệt khi nói về vụ Tukhachevsky, ông chỉ đồng ý rằng cơ quan phản gián Đức đã góp phần trong việc đưa đến cái chết của Tukhachevsky và hàng nghìn sĩ quân Hồng quân khác nhưng không cho rằng Stalin đã "ăn" phải "quả lừa" từ phía người Đức.
Tướng Xudoplatov cho rằng những điều mà tên phản bội Krivitsty đưa ra trong cuốn Một thời là điệp viên của Stalin là một sự bịa đặt và vụ án Tukhachevsky chẳng qua chỉ là sự bố trí của Stalin và Vorosilov để loại trừ những đối thủ đang đe dọa đến quyền lực của họ lúc đó.
Nhận định của nhà tình báo kỳ cựu này đã khiến người ta nhớ đến quan hệ giữa Stalin, Vorosilov với Tukhachevsky: Từ năm 1920, họ đã có mâu thuẫn từ cuộc chiến tranh Nga - Ba Lan. Khi đó, Tukhachevsky được giao trách nhiệm chỉ huy lực lượng Hồng quân tấn công Warsaw, tuy nhiên, lực lượng Hồng quân đã bị đánh bại ngay tại cửa ngõ thành phố này.
Sau trận này, Tukhachevsky đã bị Stalin chỉ trích là một vị chỉ huy bất tài, ngược lại, Tukhachevsky cho rằng nguyên nhân thất bại của Hồng quân trong trận này là do Stalin và Vorosilov vì họ đã không đưa kỵ binh đến hỗ trợ lực lượng tấn công theo yêu cầu của ông. Mâu thuẫn này đã không bao giờ được giải quyết trong khi quan hệ Stalin - Vorosilov lại càng ngày càng gắn bó hơn.
Đến những năm 1930, Tukhachevsky còn dám đề nghị với Stalin là nên thay thế bộ trưởng Quốc phòng Vorosilov vì không có đủ năng lực cần thiết để đảm đương công việc. Tukhachevsky và một số tướng lĩnh cao cấp đã đưa ra các đề án về việc phát triển ngành công nghiệp chế tạo xe tăng, hàng không dân dụng nhằm đáp ứng được các yêu cầu của đất nước khi có chiến tranh và phát triển kinh tế Liên Xô. Tuy nhiên, Stalin và Vorosilov tỏ ra không mặn mà với những kế hoạch thiết thực này.
Điều khiến người ta ngạc nhiên là trong thời gian sau đó, Stalin lại có vẻ quan tâm đến các kế hoạch cải cách quân đội của Tukhachevsky: ông được trình bày trực tiếp và thẳng thắn với Stalin quan điểm của mình về việc thay đổi nhân sự trong quân đội, được Stalin khuyến khích và cho rằng đó là những đóng góp tích cực với tinh thần xây dựng. Do vậy, Tukhachevsky đã công khai đưa vấn đề này ra bên ngoài những cuộc trao đổi giữa ông với Stalin về việc thay đổi vị trí của một số tướng lĩnh quân đội, trong đó có cả việc ông tin rằng Stalin sẽ loại Vorosilov khỏi chức Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô.
Tại thời điểm đó, vấn đề này đã tạo ra một tin đồn về khả năng thay đổi nhân sự trong Bộ Quốc phòng. Điều này đã dẫn đến cảnh "tình ngay lý gian" khi các công tố viên quân sự cáo buộc rằng có một "âm mưu lật đổ" do Tukhachevsky chủ mưu đang được gấp rút chuẩn bị ở Matxcơva, trong đó có việc ông đang chuẩn bị cho lực lượng nhân sự mới sau khi lật đổ Stalin.
Trong phiên tòa đặc biệt xét xử Tukhachevsky, người ta thấy xuất hiện một nhân vật trong số các thành viên đặc biệt của phiên tòa đã bỏ phiếu tử hình Tukhachevsky - đó là Saposnikov - người không "đội trời chung" với Tukhachevsky vì ông đã chiếm mất ghế Tổng tham mưu trưởng trước kia của Saposnikov. Sau này, khi Stalin kết thúc các cuộc thanh trừng, tại Bộ Tổng tham mưu chỉ có 3 nhân vật thoát chết, đó là Saposnikov, Budyonny và Ulric, vị chánh án phiên tòa này.
Tuy còn có rất nhiều vấn đề cần làm rõ hơn để có kết luận xác đáng về cái chết oan uổng của nhà chỉ huy quân sự tài ba một thời này của quân đội Xô viết, nhưng có một điều thuộc về lịch sử và sẽ không bao giờ có thể thay đổi được là việc xử bắn Tukhachevsky và một số sĩ quan Hồng quân khác đã chính thức mở màn cho một cuộc thanh trừng đẫm máu nhất trong lịch sử quân đội Xôviết.
Ngay sau khi bắn Tukhachevsky, bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô K.Vorosilov đã phát động một chiến dịch thanh trừng nội bộ và đưa đến một tổn thất vô cùng khủng khiếp cho Hồng quân Liên Xô: 5.000 tướng lĩnh, sĩ quan quân đội Xôviết bị xử bắn vì bị buộc tội liên quan đến Tukhachevsky; khoảng 30 nghìn sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu bị tử hình qua các vụ thanh trừng, chiếm khoảng 80% tổng số sĩ quan của quân đội Xôviết lúc đó.
Các cuộc thanh trừng kể trên đã sát hại hầu hết các tinh tú của quân đội Xôviết, gồm 3 trong số 5 nguyên soái, 13 trong số 15 tư lệnh tập đoàn quân, 57 trong số 85 tư lệnh phương diện quân, 110 trong số 195 sư đoàn trưởng, 220 trong số 406 lữ đoàn trưởng và tư lệnh các quân khu. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến thất bại của quân đội Xôviết trong những ngày đầu Chiến tranh thế giới thứ II khi quân đội Đức tấn công Liên Xô, mặc dù phía Liên Xô không hề bất ngờ, bị động trước cuộc tấn công này.
Kể từ khi Tukhachevsky được minh oan đến nay, Liên Xô cũng như Nga không hề đưa ra thêm một tuyên bố nào về vụ án nguyên soái Tukhachevsky và lịch sử coi như đã chính thức khép lại với số phận đầy bi kịch của một thiên tài quân sự.
(Theo Thanh Niên)
Vụ án Tukhachevsky (bổ sung tư liệu).
(Lưu ý bài dài, đồng chí nào không quen nên copy về word mà đọc cho thoải mái )
Như trong các bài viết trước đây, tôi có miêu tả với các bạn đọc về bối cảnh cuộc đấu tranh nội bộ to lớn trong Đảng Bolsheviks vào thập niên 30 : https://www.facebook.com/hongquanlienxotl98/photos/a.1111897538883368.1073741846.898718953534562/1173273216079133/?type=3&theater và tôi cũng đã viết một bài trước đó về vụ án của vị nguyên soái Tukhachevsky này rồi : https://www.facebook.com/hongquanlienxotl98/photos/a.1111897538883368.1073741846.898718953534562/1180808898658898/?type=3&theater . Vì thế trong bài viết này tôi xin đề cập thẳng vào những vấn đề chính mà tôi muốn cung cấp đến cho các bạn trong bài viết này.
Trước hết tôi xin trình bày đến quá trình hoạt động của Tukhachevsky. Thứ Nhất , đó là về thời kỳ chiến tranh Nga – Ba Lan 1920.
Mùa hè năm 1920, các đơn vị quân Ba Lan bị thua trận tại Ukraina và Belorussia đã rút về phía Tây. Ngày 20 tháng 6, Kamenev và Trotsky đã ra mệnh lệnh cho mặt trận phía tây do Tukhachevsky làm tư lệnh và mặt trận Tây – Nam , nơi Stalin là Ủy viên Hội đồng quân sự cách mạng tấn công vào Warsaw. Mặt trận Tây- Nam đã chuyển sang phản công, giải phóng Kiev và tiến đến Lwów (nay là Lviv). Còn mặt trận tây của Tukhachevsky đã tiến đến Warsaw, sự kiện này đã trở thành một thảm họa. Hồng quân đã bị quân Ba Lan giáng trả những đòn đau đớn. Sự kiện này trong một khoảng thời gian dài, thời kỳ “phi Stalin hóa”, người ta đã quy hết trách nhiệm cho Stalin.
Trong hồi ký của Trostky có viết : “…Trong khi các đơn vị của Tukhachevsky tiến đến Warsaw, thì mặt trận Tây- Nam, trong đó có Stalin đã tiến về phía Lemberg… Stalin muốn bằng mọi giá phải tiến vào Lwów, trong khi Tukhachevsky tiến vào Warsaw. Khi tình hình ở Warsaw đã rõ ràng, Bộ tổng tư lệnh ra lệnh cho Egôrốp thay đổi hướng tiến công để đánh vào cạnh sườn đội hình quân Ba Lan ở ngoại vi Warsaw và bảo vệ cánh trái của Tukhachevsky. Nhưng Bộ chỉ huy mặt trận Tây-Nam do Stalin chỉ huy vẫn tiếp tục hướng về phía tây…Chỉ sau khi đã lặp lại mệnh lệnh nhiều lần Bộ chỉ huy mặt trận Tây- Nam mới thanh đổi hướng. Lúc đó thì đã quá muộn..”
Vậy thì ai đúng ?
Ba Lan khi đó là bàn đạp cuối cùng để các nước đế quốc can thiệp vào nước Nga. Nhóm Ba Lan theo chủ nghĩa Sovanh đã được các nước đế quốc hứa sẽ cắt đất của Liên Xô cho vào Ba Lan với ý đồ thiết lập “Đại Ba Lan từ biển thông ra biển”. Được sự ủng hộ của các nước đế quốc, Ba Lan thành lập quân đội với 738 ngàn người. Kế hoạch tấn công nước Nga của Ba Lan được viên tướng Pháp Phoosa chỉ huy. Ngày 25 tháng 4 các toán quân Ba Lan bắt đầu tấn công, ngày 26 tháng 4 chiếm được Gifomir, ngày 6 tháng 5 chiếm Kiev và vượt sang tả ngạn sông Dnhép.
Ngày 24 tháng 4 Hồng quân chuyển sang phản công, giải phóng Ukraina và Belorussia rồi tiến vào lãnh thổ Ba Lan. Tuy nhiên, lực lượng đã bị tiêu hao khá lớn và giai cấp vô sản không những không ủng hộ Hồng quân mà còn được vũ trang để chống lại “quân xâm lược Nga”, chiến dịch Warsaw từ thế thắng lợi trở thành một bước đi sai lầm, mà những người lãnh đạo của nó là Trotsky, Kamenev và Tukhachevsky.
Ngày 2 tháng 8 năm 1920, Bộ Chính trị đã quyết định thống nhất toàn bộ các đơn vị trên mặt trận Ba Lan vào mặt trận phía Tây của Tukhachevsky, đồng thời thành lập mặt trận phía Nam do Stalin chỉ huy. Bộ tư lệnh Ba Lan được các nước đế quốc đồng minh ủng hộ về vũ khí và kỹ thuật đã tổng động viên để phản công lại Hồng quân. Mặt trận của Tukhachevsky bị tan vỡ.
Yêu cầu của của Trotsky và Kamenev về việc ra lệnh quân đoàn 12 đến cứu viện từ Lwów đến Warsaw ngay tức khắc là một yêu cầu phi thực tế, vì đoạn đường từ từ Lwów đến Warsaw lên đến 390km. Tất nhiên thật là thiếu sót nếu chúng ta không đi vào chi tiết của trận đánh, những điểm có liên quan mật thiết đối với sự thất bại của toàn chiến dịch. Bắt đầu từ ngày 14 tháng 8 Kamenev ra lệnh quyết định chuyển quân đoàn 12 và quân đoàn kỵ binh số 1 bổ sung cho mặt trận phía Tây. Nhưng trên mặt trận phía Tây tại Warsaw, đến ngày 17 tháng 8 Hồng quân đã giáng đòn nặng nề trên thực tế một bộ phận đã rút lui về tuyến sau. Ngày 18 tháng 8, Tukhachevsky khi ấy đang ở Minsk đã nhận ra tình hình vô cùng tồi tệ và quyết định cho rút quân.
Do những điều kiện liên lạc vô cùng kém, đã dẫn đến tình trạng chồng chéo mệnh lệnh lên nhau, quân đoàn số 1 kỵ binh đã không có quyết định tiến về Warsaw mà theo đó tiếp tục hướng về Lwów cho đến khi nhận những thông tin cụ thể hơn, đến ngày 20 tháng 8 mới tái bố trí về hướng Warsaw (tất nhiên là trễ). Còn quân đoàn số 12, tất nhiên là chẳng thể nào đến kịp từ ngày 14 đến ngày 17 vì thực tế không thể di chuyển gần 400km và đảm bảo sức chiến đấu toàn quân cho đến ngày 17 tháng 8 được, chưa kể tình hình ở Lwów cũng có vấn đề. Tuy nhiên nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của Tukhachevsky không phải nằm ở chỗ thiếu viện binh mà nằm ở kế hoạch, thông tin đã bị bại lộ, các điện tín của Hồng quân đã bị quân đội Ba Lan giải mã, Tukhachevsky đã đưa quân vào một cái bẫy mà tướng Józef Piłsudski. Ngoài ra thông tin liên lạc yếu, hậu cần chưa tốt cùng với sức chiến đấu của binh lính suy giảm đáng kể sau các cuộc tiến công hàng loạt đã dẫn đến tình trạng binh sĩ kiệt quệ, mệt mỏi.
Còn về lý thuyết thì ngay từ đầu trận đánh Warsaw là một sai phạm nghiêm trọng về chiến lược tấn công về phương diện chính trị, chúng ta đều nên nhớ rằng cuộc chiến ở đây là Nội chiến, là chiến tranh Vệ quốc bảo vệ chính quyền Xô viết nhưng cuộc tiến công vào thủ đô Warsaw của Ba Lan đã biến tính chất cuộc chiến sang hướng “xuất khẩu cách mạng”. Trong khi đó các khu vực khác của nước Nga vẫn còn đang bị chiếm đóng bởi các thế lực đế quốc khác và Bạch vệ, vùng Nam Ukraina đang bị các nhóm phỉ quấy phá, việc lựa chọn đánh Warsaw ngay lúc đó có được xem là quyết định đúng đắn hay không, những người lãnh đạo của Bộ dân ủy quốc phòng đã quá hăng say trong chiến thắng mà quên mất rằng tôn chỉ của phong trào cách mạng Bolsheviks.
Còn về mặt trận Tây – Nam, lúc này các đơn vị của Vrangelia tiến ra khỏi Krưm (Crime) và chuẩn bị chiếm Donbass để hợp binh với các đơn vị Kazak đang đóng ở sông Đông và Cuban. Stalin rất chú ý đến mặt trận Krưm, ông rất nhiều lần có mặt trên các điểm của mặt trận chống Vrangelia, kể cả các mặt trận đang diễn ra các trận chiến đấu ác liệt nhất. Ngoài ra, Stalin hết sức ủng hộ việc Egôrốp làm tư lệnh mặt trận Tây-Nam, bất chấp ý định của Trotsky muốn thay thế. Ngày 17 tháng 8 Stalin trở về Moscow và đề nghị cho ông thôi đảm nhiệm các trọng trách về quân sự (bất chấp rằng Hồng quân chiến thắng ở Lwów và đảm bảo vùng phía Nam nước Nga Xô viết). Lãnh tụ Lenin đa không đồng ý và tại Hội nghị lần thứ 9 của TW, mặc dù Lenin tán thành các ý kiến của Ủy ban quân sự TW và Trotsky nhưng lại đánh giá cao uy tín, nghị lực và sự kiên định của Stalin trên mặt trận Ba Lan.
Thứ Hai, là vụ âm mưu bạo loạn thập niên 30.
Vladimir Karpob- người đã trực tiếp gặp gỡ Molotop hỏi về các sự kiện này, ông đã được nhận câu trả lời như sau: “Đối với các vị tướng này, tôi không có một chút phân vân nào, tôi biết họ là người của Trotsky, do Trotsky đưa lên (Thời nội chiến Trotsky rất cân nhắc Tukhachevsky, vì ông là một vị tướng có tài). Trotsky cân nhắc họ lên với ý đồ rất xa để phục vụ khi bản thân mình đã nắm được vị trí lãnh đạo cao nhất. Rất may là trước chiến tranh chúng ta đã phát hiện ra bản chất của họ, nếu không, trong thời gian chiến tranh, không ai biết điều gì sẽ xảy ra, thậm chí tổn thất về người con lớn hơn con số 20 triệu. Tôi luôn biết rằng Tukhachevsky là một một con người bí hiểm…
Tôi đã rất cố gắng để tiếp xúc trực tiếp với các tài liệu lưu trữ của phiên tòa và theo dõi vụ án gọi là “âm mưu bạo loạn của Tukhachevsky”. Điều này quả là không đơn giản, khắp mọi nơi người ta đều từ chối một cách rất lịch sự. Thậm chí cha1h án tòa án tối cao liên Ban Têlêbilốp V.I, người bạn thân thiết của tôi cũng nhiều lần phẩy tay và nói :Hãy để điều đó nằm yên trên giá sách. Tuy vậy, cuối cùng tôi vẫn đạt được mục đích của mình. Tôi vội vàng cất giữ các trang tài liệu một cách cẩn thận”.
Sau đây tôi xin trích dẫn nội dung của biên bản phiên họp đặc biệt này: “Biên bản phiên họp đặc biệt cuả toàn án tối cao Liên Xô về vụ Tukhachevsky, Yakira, Uborevich, Kork , Eidêman, Phendman, Primacov, Putnưi. Phiên tòa ngày 16 tháng 11 năm 1937 lúc 9 giờ sáng, tòa nghe đọc bản án về tội phản bội Tổ quốc, làm gián điệp và chuẩn bị tiến hành các vụ mưu sát… sau đó tòa đọc tên năm bị cáo. Phiên tòa được xử kín.
Chủ tọa phiên tòa là : Chánh án tòa quân sự tối cao Liên Xô – Luật sư quân sự Ulrikh V.V , các thẩm phán khác gồm: Thứ trưởng bộ dân ủy quốc phòng Liên Xô, tư lệnh lực lượng không quân Alkxnhix. Y.A.I , Nguyên soái Liên Xô Budienưi X.M, Nguyên soái Liên Xô Bluikher V.K , Tổng tham mưu trưởng Sapôsnhikốp, Tư lệnh bội đội Belorussia Belov I.P , Tư lệnh quân khu Leningrad Dưbenco P.E , Tư lệnh quân khu Bắc Capcadơ Kasirin N.D và Tư lệnh quân kỵ binh Kazak Goriachép E.I ,…”.
Các thành phần chủ tọa của phiên tòa đối với các bị cáo, họ từng là đồng chí cùng chiến đấu, hiểu biết nhau, thậm chí trong những năm Nội chiến họ từng đã là bạn thân với nhau. Các thành phần chủ tọa đã tiếp xúc với những bức thư của Tukhachevsky, mà trong đó vạch ra kế hoạch bạo loạn , âm mưu lật đổ chính quyền Xô viết. Biên bản đã ghi rõ tất cả các tư liệu, chứng cứ trong quá trình xử án cho đến hiện nay vẫn còn lưu giữ tối mật trực thuộc cơ quan phản gián an ninh. Tuy nhiên trong bộ Hồ sơ đầu đề của vụ án này, còn lưu trữ bức thư nhận tội do chính tay Tukhachevsky viết, lá thư nằm ngay phần đầu của bộ Hồ sơ của vụ án. Sau đây là nội dung nguyên văn bức thư đó.
“Kính gửi ông Yezhov N.I
Bộ trưởng dân ủy Nội vụ.
Sauk hi bị bắt ngày 22 tháng 5, tôi đã được đưa đến Moscow ngày 24 tháng 5, cuộc hỏi cung đầu tiên diễn ra ngày 25 tháng 5 và hôm nay ngày 25 tháng 5 tôi xin thừa nhận đã có âm mưu vụ bạo loạn quân sự chống lại chính quyền Xô viết và rằng chính tôi là người lãnh đạo âm mưu này. Xin tuyên thệ rằng, tự bản thân mình nêu ra các chứng cứ liên quan đến vụ án, không che giấu một ai trong số những người tham gia, không che giấu một chứng cứ hay tài liệu nào.
Âm mưu này được bắt đầu từ năm 1932. Những người tham gia bao gồm: Phendman, Alaphudo, Primacov, Putna và một số người khác mà tôi sẽ bổ sung chi tiết sau.
Tukhachevsky, ngày 26 tháng 5 năm 1937”.
Tiếp sau đó, Tukhachevsky cũng đã viết với nội dung tương tự ở bản khai báo ngày hôm đó (25/5) như sau: “…Tôi bị thẩm vấn lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 5 và hôm nay ngày 25 tháng 5 tôi tuyên bố thừa nhận sự tồn tại âm mưu bạo loạn quân sự của nhóm Trotskyist và rằng tôi chính là người tham gia lãnh đạo vụ đó”.
Usacov – người trực tiếp được giao thẩm vấn Tukhachevsky đã kể lại: “Tôi không hề động đến cái móng tay của ông ta và thật ngạc nhiên là một nhân vật lẫy lừng như vậy lại ngay lập tức thừa nhật tất cả”. Chính Usacov là người bầy ra trước mặt Tukhachevsky tất cả những chứng cứ, tài liệu. Sau đó Tukhachevsky đã cuối đầu nhận tội của mình, và ông yêu cầu mình được đối chứng với Primacov và Phendman, và điều đó được chấp thuận. Nếu như ai hoài nghi về tại sao Tukhachevsky lại dễ dàng nhận tội nhanh vậy hay là do bị ép cung ? Không, cái đó chỉ là sự tuyên truyền dối trá, ngay cả những người lính đơn giản nhất bình dị nhất vẫn kiên cường trong các nhà tù của lũ phát xít Đức, cũng bộc lộ lên những phẩm chất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không bao giờ họ chịu đầu hàng kẻ thù mà phản bội Tổ quốc ; vậy thì đến cả một vị Nguyên soái lại có dễ dàng bị tra tấn mà khai báo như vậy không.
Phendman đã khai vào ngày 16 tháng 5 năm 1937 rằng ông ta tham gia vào nhóm từ hồi 1934 và nhóm này do chính Tukhachevsky lãnh đạo. Cần phải nhớ rằng Phendman là một nhân vật không mấy dễ ưa gì, ngày 14 tháng 1 năm 1937 chính Phdendman đã gửi cho Thứ trưởng BQP Gamaznhik một lá thư trong đó đề cập : đưa ra khái niệm đánh số các đối tượng bị nghi vấn, viết tắt là O.Y (phần tử đặc biệt). Mà theo các phân loại nà hàng chục ngàn cán bộ đã bị đưa ra khỏi quân đội, không phân biệt đảng viên, có kinh nghiệm trong công tác, đã từng tham gia nội chiến hay không.
Trong số người bị sa thải có sư đoàn trưởng Danhilo Xerdich người Sebi, ngườ được Zuhkov đánh giá cao. Trong thời kỳ nội chiến anh ta là một sĩ quan dũng cảm, đã được tặng hai huân chương sao đỏ vậy mà bị sa thải và bị bắt. Với các phân loại này kể cả Rocôxốpki vốn có gốc Ba Lan cũng đã bị bắt. Làm trong sạch Đảng và quân đội là cần thiết và việc đó do chính Stalin đề xuất, tuy nhiên phe đối lập đã lợi dụng chủ trương này của Đảng để tiến hành các cuộc thanh trừng bằng các biện pháp cực đoan, và đàn áp đẫm máu.
Stalin hiểu rằng để bắt một vị Nguyên soái trước hết phải có đủ thủ tục. Đó là nghị quyết của Bộ Chính trị và sự phê chuẩn của thẩm phán tối cao. Mọi việc đã phải diễn ra đúng như vậy, khối có những kẻ có thể suy nghĩ được rằng Stalin chỉ cần phẩy tay thì Tukhachevsky sẽ bị chém khỏi cái ghế của ông, điều đó thật ngu ngốc. Tất nhiên trong những năm tháng này xuất hiện các tình trạng vượt quá giới hạn cho phép, các thế lực đang âm mưu thanh trừng lẫn nhau, từ các đơn vị của Bộ Nội vụ, toàn án, thẩm phán, bộ ba Cheka,… và trong đó ngoài vai trò của Phendman và Gamarnhich , còn có vai trò của cả “Napoleon con –Beria” nữa.
Đối với Stalin đây là một cú sốc thật sự vì những cuộc thanh trừng đẫm máu dưới các cơ quan địa phương, có đến 40 ngàn cán bộ bị thanh trừng trong giai đoạn này, tuy nhiên không phải tất cả đều bị xử bắn như những tuyên truyền dối trá của Phương Tây. Hội nghị toàn thể TW Bolsheviks đã thông qua nghị quyết đặc biệt về vụ 40 ngàn cán bộ bị thanh trừng này. Nghị quyết của Xô viết các dân ỉu và TW Đảng Bolsheviks ác nhận rằng : “Vào thời kỳ 1937 -1938 dưới sự lãnh đạo của Đảng , các cơ quan của Bộ dân ủy nội vụ đã tiến hành một khối lượng công việc lớn để tiêu diệt kẻ thù, vạch trần các vụ gián điệp, khủng bố, tay sai của Trotsky, Bukharin, bọn sĩ quan Bạch vệ (tất nhiên ko phải là toàn thể cựu BV), bọn Kulac, bọn Mensheviks, giai cấp tư sản, tạo thành các nhóm chống đối nguy hiểm, dựa vào sự giúp đỡ của tình báo nước ngoài ở Liên Xô, tức là các tổ chức gián điệp của Nhật, Đức, Ba Lan, Anh và Pháp”.
Các đợt thanh trừng để tiêu diệt bè lũ phản động do các cơ quan Bộ dân ủy nội vụ tiến hành giai đoạn 1937-1938 đã để xảy ra các sai lầm nghiêm trọng trong công tác điều tra và xét xử… Sau đó nghị quyết đã chỉ ra các hình thức vi phạm pháp luật và một trong các nguyên nhân của vụ khủng bố:
“…Những thành phần phạm sai lầm thiếu trách nhiệm trong quá trình điều tra vụ án và vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp Xô viết, cố tình bóp méo các hồ sơ, chứng cớ. Họ đã bắt các nạn nhân mà không cần lý do, thậm chí bịa ra các hồ sơ để buộc tội những người vô tội. Đồng thời lại tìm mọi cách đễ cứu các đồng bọn đã tham gia kế hoạch phản quốc của mình”.
Với các sai lầm ở trên Xô viết các dân ủy và TW Đảng quyết định:
1. Nghiêm cấm các cơ quan của Bộ dân ủy nội vụ và tòa án Liên Xô tiến hành bất kỳ hành động bắt bớ hay giam cầm nào.
2. Phù hợp với đều 127 Hiến pháp Liên Xô, các vụ bắt bớ chỉ được tiến hành theo phán quyết của tòa án hoặc thỏa thuận của thẩm phán.
3. Giải tán các tòa tay ba Cheka đã được thành lập theo quyết định đặc biệt của Bộ nội vụ Liên Xô. Với tất cả các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật sẽ bị truy tố, hoặc đưa ra xem xét ở hội nghị bất thường của Bộ nội vụ Liên Xô.
Tại Hội nghị TW đồng chí Stalin đã phát biểu phê phán các hành động thanh trừng trái pháp luật: “Trong quá trình tiến hành làm trong sạch lực lượng vũ trang khỏi các lực lượng gián điệp nước ngoài. Đồng chí Vôlôsilốp và các Thứ trưởng BQP rõ ràng đã làm mọi sự việc đi quá xa.
Tin tưởng vào tin tức của Yezhov nguyên là Bộ tưởng Nội vụ- họ đã sa thải 40 ngàn cán bộ quân đội có kinh nghiệm – dường như là vi sự dao động về chính trị của họ. Đa số trong số đó bị sa thải với một lý do rất mơ hồ là vì có quan hệ với kẻ thù của nhân dân, họ nêu ra rằng trong số các sĩ quan nêu ở trên đã có các thành phần gián điểm của cơ quan phản gián nước ngoài mà họ không có bằng chứng nào…
Chúng ta có thể hiểu đồng chí Vôlôsilốp. Sự mất cảnh giác chính trị là rất nguy hiễm. Chúng ta đều biết, để thực hiện tấn công trên các mặt trận, cần phải tới hàng chục ngàn chiến sĩ, vậy mà chỉ dựa vào ba nhân vật “vớ vẩn” ở Bộ Tổng tham mưu cũng có thể một lúc sa thải hàng chục ngàn người như vậy ra khỏi quân đội – việc sa thải một lúc 40 ngàn cán bộ là việc làm cực kỳ có hại trong mọi khía cạnh, TW đã nhắc nhở đồng chí Vôlôsilốp.
Vào tháng 1 năm 1938 đã có 11 ngàn người bị sa thải trước kia được gọi quay trở lại quân đội và hạm đội. Vào năm 1937, 841 người đã bị khởi tố, trong đó chỉ có 121 người bị xử bắn. Năm 1938, theo số liệu có 52.372 người đã bị bắt trong số đó tới 49.641 người được trả tự do (số còn lại vào Gulag). Với số lượng , người được trả tự do lớn như vậy nói lên rằng Bộ trưởng dân ủy nội vụ lúc đó là Yezhov đã bắt rất nhiều người mà không có chứng cứ cụ thể nào. Những vụ bắt bớ này, TW không hề biết mà tự Yezhov tự ý hành động. Vì những hành động sai lầm này mà ngày 10 tháng 4 năm 1939, Yezhov và cấp phó của y đã bị bắt và ngày 4 tháng 4 năm 1940 theo phán quyết của toàn án quân sự tối cao đã bị xử bắn… Đối với đa số các trường hợp bị giam giữ trong các trại Gulag của Bộ nội vụ Liên Xô giai đoạn đó thì chúng thực sự là các tội phạm cần thiết phải giam giữ để cách ly với xã hội.
Các nhóm gián điệp nước ngoài, bè lũ luôn tổ chức chống phá chúng ta đã bị chúng ta tiêu diệt. Thưa các đồng chí, việc thanh trừng bè lũ gián điệp và phản động trong hàng ngũ quân đội và trong đất nước – đó chính là công lao to lớn của Đảng cộng sản trước nhân dân Xô viết. Nếu không làm được việc đó thì chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị đất nước để chống lại bè lũ hiếu chiến đang lăm le xâm lược chúng ta, hòng phục hồi chủ nghĩa tư bản, biến người Xô viết thành nô lệ của chủ nghĩa đế quốc. Âm mưu phá hoại sức mạnh kinh tế và quân sự của Liên Xô để chuẩn bị xâm lược Liên Xô..”
Như vậy là có lẽ chúng ta cũng đã thấy những vấn đề phức tạp và nghiêm trọng trong thời kỳ đó, ngoài ra bức thư này đã cho chúng ta thấy Stalin hoàn toàn nhận thức được về cục diện chiến tranh xâm lược của bọn phát xít Đức (đừng quên rằng trong bài trước tôi đã có viết rõ về mối quan hệ giữa Tukhachevsky và phái chóp bu quân sự của Đức quốc xã). Khi phát hiện ra các âm mưu của kẻ thù Stalin đã lập tức có những biện pháp hoàn toàn cần thiết, tiến hành thanh lọc các cơ quan Bộ nội vụ, ông vẫn nhớ về vụ hàng chục ngàn phần tử phái Zionism từ Đảng Cộng sản Do Thái chuyển sang Đảng Cộng sản Bolsheviks.
(https://www.facebook.com/hongquanlienxotl98/photos/a.1111897538883368.1073741846.898718953534562/1250710701668717/?type=3&theater).
Nhà văn phương Tây nổi tiếng Leon Pheikhtvanger trong cuốn sách Moscow 1937 đã viết: “Khi đang ở Châu Âu nghe những lời buộc tội đối với Zinoviev, tôi có cảm giác có cái gì đó không tin cậy. Tôi có cảm tưởng rằng, hình như lời thú tội của các bị cáo được đưa ra bởi một cách bí hiểm nào đó… Nhưng khi tôi tới Moscow vào giai đoạn hai của phiên tòa và trực tiếp nghe lời khai của Pitacov, Radek và một số bị cáo khác thì các nghi vấn của tôi trước đó đã tan biên như muối hòa trong nước dưới ảnh hưởng của các ấn tượng mà tôi có được khi tôi nghe trực tiếp các lời khai của các bị cáo…” (Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta trong giai đoạn đó, người cũng đang ở tại Liên Xô và theo dõi các sự kiện này).
Tất nhiên tôi sẽ tạm dừng bài viết tại gần đây, vì đi sâu nữa sẽ sang phần viết về “Đại thanh trừng” mất, đề tài đó xin lùi lại vào khi khác. Trước lúc dừng , tôi xin trích dẫn một nhận xét của chính khách ngoại quốc, những người từng theo dõi sát sao thời kỳ đó đã nhận xét. Xin trích dẫn chính kiến của cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Xô, Johdeph Devils, trong bài báo của ông năm 1941 trên tờ báo “Sundy Express” có viết : “Sau khi Đức quốc xã tấn công vào Liên Xô có người đã hỏi : “Ông nghĩ thế nào về đội quân thứ năm ở nước Nga?” . Johdeph Devils đã trả lời rằng : “Ở nước Nga không có đội quân này, họ đã bị xử bắn hết rồi!”. Ông còn nói tiếp : “Một phần lớn thế giới đã có lúc cho rằng chiến dịch thanh trừng những năm 1935-1938 là tàn ác, xấu xa. Tuy nhiên, bây giờ đã trở nên rõ ràng chính chiến dịch đó là biểu hiện tầm nhìn chiến lược của Stalin và các cộng sự của ông”. Johdeph Devils đã đọc và phân tích kỹ kế hoạch của Trotsky và Bukharin, ông đã nhận xét: “Có thể nói ngắn gọn là kế hoạch này chính là sự cấu kết toàn diện của họ với Đức Quốc xã…”. Devils nhấn mạnh rằng : “Sự kháng cự của nhà nước Xô viết – mà chúng ta đang được chính kiến – sẽ là con số 0 (số không) nếu như Stalin và các đồng chí của ông không rat ay sớm tiêu diệt bè lũ phản bội.
#Gấu
CUỘC THANH TRỪNG TRONG HỒNG QUÂN XÔ-VIẾT THỜI KỲ 1937-1939 DƯỚI CON MẮT MỘT ĐẠI TƯỚNG LIÊN XÔ
[04.11.2005 21:36 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
(NCTG) Từ khi Liên Xô tan rã và những tài liệu "tuyệt mật" trong các kho lưu trữ dần dần được "bạch hóa", thế giới được biết đến cụ thể hơn, chi tiết hơn về những gì diễn ra ở Liên bang Xô-viết trong hơn 70 năm kể từ 1917.
Đại tướng Aleksandr Gorbatov (1891-1973)
Người đọc kinh hoàng trước những vụ án ngụy tạo khét tiếng Moscow thời 1936 - 1939, khi Stalin thủ tiêu đại đa số những lãnh tụ tối cao của đảng và nhà nước Xô-viết. Cũng như vậy, từ "vụ án các thống chế" năm 1937 cho đến cuối thập niên 30, nhà độc tài đỏ này đã gây nên nhiều vụ thanh trừng đẫm máu trong quân đội Liên Xô, khiến nền quân sự nước này trở nên đặc biệt yếu kém trước Thế chiến thứ Hai.
 
Nhiều ý kiến cho rằng nếu không có những cuộc đàn áp có tổ chức trong nội bộ Hồng quân, chắc chắn Liên Xô đã không phải chịu nhiều thất bại nhục nhã và nặng nề trong thời gian đầu cuộc chiến với Đức. Quả thực, chỉ trong vòng một vài năm ngắn ngủi, quân đội Xô-viết đã phải chịu những tổn thất vô cùng lớn: trong những cuộc đàn áp, Stalin đã giết 3 trong số 5 nguyên soái lỗi lạc, được tấn phong năm 1935 (Tukhachevsky, Bljucher, Yegorov); rất nhiều đại tướng tài ba như Alksnis, Yakir, Belov, Dybenko, Kashirin, Kork, Uborevich, Eideman, Feldman, Primakov, Putna; các thủy sư đô đốc Orlov, Victorov, Sivkov, v.v... Trong năm 1938, những cuộc đàn áp đã thủ tiêu tất cả 80 thành viên Hội đồng Quân sự (thành lập năm 1934) và nhiều tướng tá khác. Người ta ước tính có tới 30.000 thượng và hạ sĩ quan bị xử bắn.
 
Rất nhiều tướng tá khác, sau này có vai trò lớn trong Thế chiến thứ Hai, cũng bị Stalin đày đọa. Chẳng hạn, nguyên soái Rokossovsky, một nhà quân sự lỗi lạc gốc Ba Lan, từng là bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan năm 1956. Ông bị bắt năm 1937 ở Leningrad (St. Peterburg ngày nay), bị vu là "gián điệp Ba Lan" rồi bị tra tấn và cầm tù tới năm 1941 mới được thả. Nếu không được sự bảo lãnh của hai nguyên soái Timoshenko và Zhukov (Zhukov, vị thống soái huyền thoại của Đệ  nhị Thế chiến,  trước là thuộc hạ dưới cấp của Rokossovsky) thì không biết bao giờ Rokossovsky mới được phóng thích; có thể ông đã bị thiệt mạng chẳng biết chừng! Trong giai đoạn "tẩy trừ", nhiều đại tướng khác như Gorbatov, nhiều nguyên soái khác như Maretskov cũng ở trường hợp như Rokossovsky.
 
Để thấy rõ mức độ phi lý và gian manh của các vụ án xét xử các sĩ quan trong quân đội Xô-viết nói riêng, và của các vụ án ngụy tạo khét tiếng ở Liên Xô thời kỳ 1936 - 1939 nói chung, không gì hơn là đọc lại một đoạn trong hồi ký của đại tướng Gorbatov, một nạn nhân, một nhân chứng, đồng thời là một chỉ huy quân sự tài ba của Liên Xô.
 
Aleksandr Gorbatov (1891-1973) là một quân nhân chuyên nghiệp. Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo (có 10 anh chị em), từ một hạ sĩ quan trong quân đội Nga hoàng, ông gia nhập Hồng quân năm 1919 và chỉ huy một lữ đoàn kỵ binh trong cuộc nội chiến. Vào cuối thập niên 30, trong những cuộc thanh trừng, khủng bố quân đội, ông bị kết án khổ sai trong một trại lao động cưỡng bức và chỉ được thả tự do tháng 10-1941, khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô và đa số các sĩ quan cao cấp thuộc quân đội Xô-viết đã bị tàn sát. Trong Thế chiến thứ Hai, Gorbatov lần lượt giữ các chức vụ tư lệnh Sư đoàn xạ thủ, phó tư lệnh Quân đoàn 24, chỉ huy Tập đoàn quân thứ 3 và tư lệnh quân đội thành phố Berlin. Năm 1955, ông được phong hàm đại tướng. Tên của Gorbatov đã được lãnh tụ Khrushchev nhắc đến trong bản báo cáo mật nổi tiếng đọc tại Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, như một nạn nhân của cuộc thanh trừng trong Hồng quân Xô-viết thời kỳ 1937 - 1939.
 
Gorbatov thuộc lớp những trí thức - chuyên gia quân sự "tiền chiến", có trình độ hiểu biết, có tư duy độc lập và không tôn sùng "chế độ mới" một cách mù quáng. Được tôi luyện trong đạn lửa của rất nhiều cuộc chiến, với tinh thần "uy vũ bất năng khuất", không ít lần Gorbatov cương quyết bảo vệ quan điểm của mình trong các vấn đề chuyên môn trước Stalin (nhà độc tài này từng phải thốt lên "Gorbatov đúng là loại đánh chết cũng không chừa!"), và hậu quả là những năm tháng bị thất sủng, tù đày và trại tập trung. Cuộc đời và những chiến tích oanh liệt của Gorbatov, về sau, đã được dựng thành phim với tựa đề "The General" (Vị tướng).
 
Tuy không phải là một nhà văn "chuyên nghiệp" nhưng cuốn tự truyện "Năm tháng và chiến chinh" - trong đó Gorbatov kể lại những năm tháng của cuộc đời ông, từ thuở ấu thơ qua những cuộc chiến và kết thúc khi Hồng quân Liên Xô chiếm được Berlin - là một tác phẩm có giá trị văn học cao (nhưng không được xuất bản trong một thời gian dài). Trích đoạn sau đây được chuyển ngữ từ bản tiếng Hung của cuốn hồi ký, được Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1988 tại Budapest.
NĂM THÁNG VÀ CHIẾN CHINH (trích)
... Khi cánh cửa phòng giam nhà tù Lubyanka (1) sập lại sau lưng, tôi liếc thấy vài người, tôi chào họ, đáp lại, họ thân mật "zdrastvuytye!" (2) với tôi.
Họ có cả thảy bảy người. Sau chút im lặng, một người lên tiếng:
- Bây giờ, có lẽ đồng chí bộ đội suy nghĩ như sau: "Mình hoàn toàn vô tội nhưng lại bị nhốt cùng một lũ phản quốc". Nghĩ thế là sai. Chúng tôi cũng như cậu cả thôi. Đừng ngại gì cả, ngồi xuống giường đi và kể cho chúng tôi hay có tin gì mới ngoài thế giới, vì đã lâu chúng tôi không được biết gì cả.
Các bạn cùng cảnh ngộ của tôi đặc biệt quan tâm đến tình thế nước Đức của Hitler. Sau này tôi mới biết tất cả bọn họ đã từng giữ những trọng trách trong quá khứ. Tuy nhiên, tôi kinh hãi khi được biết: trong các cuộc thẩm vấn, họ đã ký nhận những điều ngu xuẩn không thể tưởng tượng nổi, họ đã nhận những tội danh bịa đặt về phần mình và cả với những kẻ khác. Một số người làm điều này vì bị tra tấn, số khác vì hoảng sợ trước những câu chuyện về nhục hình.
Đối với tôi, điều đó hoàn toàn khó hiểu. Tôi bảo họ:
- Nhưng, bằng những lời thú nhận dối trá, chẳng những các anh làm hại bản thân và ảnh hưởng đến những người bị khai, mà còn hại cả đến thân nhân và bạn hữu của các anh nữa; cuối cùng, các anh đưa cuộc điều tra vào con đường sai lầm và đánh lạc hướng chính quyền Xô-viết.
Những luận cớ của tôi không thuyết phục được họ. Một số người còn là tín đồ của cái "thuyết" đặc biệt, cho rằng càng nhiều người bị bắt bớ bao nhiêu thì người ta càng nhận ra nhanh chóng bấy nhiêu, rằng tất cả những trò này là ngu xuẩn và có hại bậc nhất đối với đảng.
Tôi rất tức giận vì họ. Thế mà họ chỉ nói một cách mai mỉa:
- Rồi chúng ta sẽ thấy sau một tuần, cậu ăn nói ra sao!...
Ba ngày liền tôi không bị ai tra hỏi, ngày thứ tư tôi bị gọi đi lấy khẩu cung. Người ta cho tôi giấy bút để tôi "trình bày tất cả mọi tội lỗi" của tôi.
- Tôi không có gì để viết về "những tội lỗi" của tôi cả - tôi đáp.
- Không có gì ư?! - người tra hỏi kêu lên. - Thoạt đầu ai nấy đều bảo thế, rồi các anh có dịp suy nghĩ đôi chút, các anh nhớ lại và viết lại hết. Anh có thời gian, đi đâu mà vội. Ai không có gì để viết, người đó sẽ được tự do.
Tôi bị bỏ lại một mình, mấy tiếng trôi qua. Người hỏi cung trở lại và tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Sao vậy? Chẳng lẽ anh không hiểu người ta muốn gì ở anh ư? Hãy hiểu rằng chúng tôi không thích bông đùa đâu. Thành thử, hãy cố mà làm! Làm sai với tôi là sẽ thiệt thòi đấy. Với tôi, chưa bao giờ có chuyện một kẻ nào đó lại không chịu ký nhận. Rõ chửa?
Một giờ sau, anh ta quay lại và thấy tôi vẫn không viết, anh ta bảo:
- Anh cư xử tồi ngay từ buổi đầu. Gay đấy! Thôi, về buồng giam mà suy nghĩ.
Về đến buồng giam, tôi bị gạn hỏi dồn dập: "Người ta hỏi cậu những gì? Cậu trả lời ra sao? Có thú nhận không?"
Sau khi đã nghe tôi thuật lại, mọi người rút ra kết luận là phương pháp hỏi cung chẳng thay đổi chút nào. Tôi phải chờ những lần lấy khẩu cung mới, khi đó hoặc là tôi viết, hoặc tôi sẽ bị chở đi Lefortovo.
Lời chẩn đoán có vẻ đúng. 24 giờ sau, khi mọi việc lại lặp lại y hệt lần hỏi cung đầu, nhân viên tra hỏi tỏ ra hết sức thô bạo, anh ta chửi rủa và dọa sẽ chuyển tôi qua Lefortovo...
Hôm sau, tôi bị dẫn độ qua nhà tù Lefortovo. Tôi được phân vào một phòng giam tí hon, đã có hai người ở đó. Một bạn tù của tôi nguyên là lữ đoàn trưởng, người kia từng là một cán bộ lãnh đạo của Bộ Dân ủy Thương nghiệp. Cả hai đều đã ký nhận mọi thứ ngu xuẩn về mình và những người khác. Họ cố chứng tỏ cho tôi biết là không còn con đường nào khác. Nghe họ kể, tôi lạnh toát sống lưng. Tôi không muốn tin là những chuyện như thế lại có thể xảy ra ở xứ ta.
Anh bạn tù mới của tôi có ý kiến như sau: ký nhận ngay là hơn cả vì nếu hôm nay cậu không ký thì sau một tuần hay nửa năm, đằng nào cậu cũng làm điều đó.
- Tôi thà chết còn hơn vu cáo bản thân và cái chính là vu cáo kẻ khác.
- Hồi mới vào đây, bọn tớ cũng có tâm trạng như thế - hai người đáp.
Ba ngày trôi qua. Những cuộc hỏi cung bắt đầu. Thoạt tiên, chúng không khác gì như ở nhà tù Lubyanka. Khi nhân viên điều tra hiểu rằng tôi sẽ không viết, anh ta phun phì phì một hồi:
- Rồi mày sẽ viết. Ở chỗ bọn tao, chưa từng và cũng sẽ không có kẻ nào lại không viết!
Lần thứ tư, tôi bị dẫn đến một vị thủ trưởng. Thoạt đầu ông này bình thản hỏi tôi: tôi có biết tôi đã định cho mình một số phận như thế nào không, tôi đã suy nghĩ chín chắn chưa? Về sau, vị thủ trưởng ấy nói với nhân viên điều tra: "Được, tôi đồng ý với anh!"
Lần này tôi phải ở lại phòng hỏi cung khá lâu. Phải khó khăn lắm tôi mới mò được về phòng giam. Các bạn tù của tôi đồng thanh nói:
- Thấy chưa! Và đây mới là khởi đầu.
Đồng chí B. lắc đầu khẽ hỏi:
- Có cần đến tất cả những trò này không?
Tôi bị tra khảo năm lần, cách nhau hai, ba ngày. Có khi tôi chỉ về được buồng giam nhờ sự giúp đỡ của người khác. Sau đó tôi được nghỉ hai chục ngày. Các bạn cùng phòng tôi coi đây là một điềm lành.
Nhưng chẳng bao lâu người ta lại đưa tôi đi lấy khẩu cung. Lần này tôi cũng bị tra hỏi năm bận. Một bữa, vô tình tôi được biết tên con quái vật từng tra hỏi tôi: Stolbunsky. Tôi không biết hiện giờ anh ta ở đâu. Nếu còn sống, tôi ước giá anh ta đọc những dòng này và cảm nhận được rằng tôi khinh bỉ anh ta đến mức nào, chẳng những bây giờ mà tôi đã từng khinh bỉ ngay từ khi tôi còn nằm trong tay anh ta. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng anh ta phải biết rõ điều đó. Ngoài người thẩm cung, có hai tên đao phủ tráng kiện cũng có mặt trong các buổi tra hỏi. Đến giờ, tai tôi vẫn văng vẳng giọng nói của Stolbunsky mỗi khi tôi được đưa đi, kiệt sức và đầm đìa máu, ý nói vọng theo như thể báo một điềm gở: "Rồi mày sẽ ký, sẽ phải ký!" Tôi chịu đựng mọi nhục hình trong đợt tra tấn thứ hai. Nhưng tôi đã muốn chết biết nhường nào khi "hiệp" ba bắt đầu!
Một lần, đồng chí B. hỏi:
- Chẳng lẽ lần này cũng không thuyết phục nổi cậu, rằng tình cảnh của cậu hoàn toàn bế tắc?
- Không, tôi không để nó chi phối đâu - tôi đáp. - Tôi sẽ chết và khi đó tôi cũng chỉ lặp đi lặp lại: không và không!
Rốt cục người ta để tôi yên và ba tháng liền tôi không bị đưa đi thẩm vấn. Trong thời gian đó, tôi tin tưởng vững chắn rằng tôi sẽ được trả tự do. Có bận, tôi còn đập cửa đòi gặp người phụ trách nhà tù hoặc ông công tố viên. Cố nhiên, hành vi hỗn láo của tôi không phải lúc nào cũng được bỏ qua. Nhưng bằng một cách nào đó, tôi phải rút ngắn thời gian...
... Sau ba tháng trời không bị hỏi cung, ngày 8 tháng Năm 1939, một người xuất hiện tại cửa phòng giam, tay cầm giấy và bảo tôi thu xếp đồ đạc. Tôi mừng rỡ vô hạn!
Tôi được dẫn đến một căn phòng, tòa án quân sự họp ở đó. Đến lúc này, tôi vẫn chưa hết tâm trạng vui sướng tràn trề trong lòng. Tôi muốn chính điều đó: tòa án hãy làm sáng tỏ vụ việc của tôi!
Chủ tọa phiên tòa hỏi:
- Trong quá trình điều tra, tại sao anh không thú nhận những tội lỗi của mình?
- Tôi không phạm tội, vậy đâu có gì để thú nhận - tôi đáp.
- Thế sao có mười người đã bị xử lại khai ra anh? - ông chủ tọa hỏi.
Trong giây phút đó, tôi vô cùng phấn chấn, tôi tin chắc sẽ được phóng thích đến nỗi tôi đã trả lời một cách cởi mở, điều mà sau này tôi phải chua xót hối hận:
- Tôi được đọc một cuốn sách của Victor Hugo. Sách kể rằng vào thế kỷ XVI, ở đảo Anh Quốc người ta buộc 11 người vào tội quan hệ với ma quỷ. Trong số đó, mười người thú nhận tội lỗi sau khi bị tra tấn, nhưng người thứ mười một không chịu thú nhận. Khi đó, nhà vua hạ lệnh thiêu sống người thứ mười một đó trên giàn lửa và dựa vào thứ nước bị nung chín chảy từ người anh ta, người ta phải chứng tỏ rằng kẻ bất hạnh đã đồng lõa với quỷ dữ. Rõ ràng - tôi nói tiếp - 10 người đã thú nhận tội lỗi và khai ra tôi cũng có cảm giác như 10 người Anh, nhưng họ không muốn trải qua cảm giác như người thứ mười một đã phải chịu.
Các thẩm phán mỉm cười nhìn nhau và vị chủ tọa hỏi đám người ngồi xung quanh:
- Thế nào, rõ chưa các đồng chí?
Những kẻ đó gật đầu.
Tôi được đưa ra hành lang. Hai phút trôi qua. Người ta lại dẫn tôi vào phòng và tuyên bố bản án: 15 năm tù cấm cố trong nhà tù và trại giam, cộng 5 năm bị tước quyền công dân.
Đối với tôi, bản án bất ngờ đến nỗi tôi ngã quỵ ngay tại nơi tôi đang đứng.
Ghi chú:
(1) Lubyanka là trung tâm của các cơ quan mật vụ chính trị Liên Xô (từ Cheka đến KGB), đặt tại một quảng trường ở thủ đô Moscow.
 
(2) Câu chào gặp mặt trong tiếng Nga.
Trần Lê giới thiệu và chuyển ngữ

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét