CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 180
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những chiến công thầm lặng của lực lượng tình báo Việt Nam ( Phần 1/4)
"Người tình báo thầm lặng" là tiêu đề quyển truyện ký viết về cuộc đời nhà tình báo Tống Văn Trinh có mã danh N113 (nhà xuất bản Văn Nghệ) do công ty Fahasa phát hành. Tác giả quyển sách là Thạc sỹ toán học Tống Quang Anh - con trai của nhà tình báo Tống Văn Trinh. Quyển sách đã hé lộ nhiều chiến công bí mật của lực lượng tình báo trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và chân dung cuộc đời của nhà tình báo Tống Văn Trinh.
Vỏ bọc hoàn hảo
Năm 1954, một cán bộ quân báo ở Cần Thơ tên là Tống Văn Trinh được tập kết ra Bắc và phiên vào biên chế Sư đoàn 330 làm cán bộ trợ lý Ban Quân lực.
Một ngày đầu năm 1957, ông nhận được lệnh điều động về Cục Tình báo, thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau một khóa huấn luyện đặc biệt và bí mật, Tống Văn Trinh được Cục Tình báo đưa sang Lào bằng đường hợp pháp trong vỏ bọc một doanh nhân Việt kiều Thái Lan vào đầu năm 1959.
Với cái tên mới là Nguyễn Văn Độ, mật danh N113, ông bắt liên lạc và cư trú tại nhà một thầu khoán tên Bùi ở đường Nong Bone gần That Phoune. Ông Bùi là thầu khoán của hãng xây dựng Calavy, Lào.
Trước đó có một người tên Nguyễn Văn Đan ở Sài Gòn qua làm thư ký cho
Hãng Calavy. Do không chịu đựng cảnh xa nhà, ông ta đã về nước. Khi về,
ông ta bỏ lại giấy phép cư trú. Ông Bùi dùng mối quan hệ thân thiết của
mình nhờ một người làm việc trong ngành cảnh sát thay ảnh ông "Độ" vào
bộ hồ sơ cư trú của ông Đan.
Sau 2 lần lột xác, Tống Văn Trinh trở thành Nguyễn Văn Đan, thư ký cho Hãng Calavy, Lào. Sau đó "Nguyễn Văn Đan" được ông Bùi giới thiệu vào làm thư ký cho cơ quan Đăng kiểm xe (Bureau Contrôle d'Auto) thuộc Sở Công chánh Vientiane - Ngạch công chức chính thức của Vương quốc Lào.
Sau một thời gian ngắn, "Nguyễn Văn Đan" chiếm được cảm tình tất cả đồng nghiệp. Năm 1960, "Trung tâm" thu xếp đưa vợ con ông "Đan" từ Việt Nam qua sống chung.
Suốt 5 năm đầu, "Nguyễn Văn Đan" chỉ làm mỗi nhiệm vụ là tạo thiện cảm, xây dựng các mối quan hệ thân tình với các gia đình có con em làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tại Lào và chính quyền VNCH.
Năm 1964, Cục Tình báo gởi sang một điệp viên phụ trách điện đài tên T.. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, vì ông "Đan" không chỉ lo giấy phép cư trú, mà còn phải tạo nghề nghiệp bình phong cho người phụ trách điện đài và đặc biệt là nơi đặt điện đài, bảo đảm hoạt động an toàn. Để tạo thế hợp pháp cho người phụ trách điện đài, ông "Đan" vận động bà con Việt kiều góp tiền xây dựng một ngôi trường tư thục mang tên La Fontaine dạy chương trình phổ thông Lào nhưng có kèm thêm tiếng Việt. Điệp viên T. sang với vỏ bọc là thầy giáo dạy tiếng Lào.
Năm 1970, ông "Đan" tiếp tục "lót ổ" cho điệp viên Q vào vỏ bọc tổng
giám thị của trường La Fontaine. Năm 1963, nhận thấy Công ty cổ phần
Hàng không nội địa Vương quốc Lào - Societé Véha Akat (SVA) có nhiều cổ
phần của các quan chức lớn và nơi đó có nhiều thông tin về chính trị
quân sự bởi vì ông Oun Sanani Kone - Cố vấn Quốc phòng của chính phủ Lào
- là chủ tịch Hội đồng quản trị của SVA.
Ông "Đan" tìm cách xin vào làm kế toán trưởng của VSA. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông "Đan" được Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đặc biệt ưu ái, xem như người nhà.
Chính mối quan hệ thân thiện với Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đã tạo điều kiện cho ông Đan nắm bắt được những thông tin tối mật chính phủ Lào, kể cả tình hình chính trị của Việt Nam Cộng hòa.
Thời gian này, mọi tình hình của chính quyền Lào thân Mỹ và VNCH tại Lào đều được báo cáo đầy đủ về "Trung tâm".
Đầu năm 1971, ông "Đan" nhận thấy có điều gì đó bất thường khi một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ và VNCH bất ngờ xuất hiện tại Lào. Qua dòng họ nhà Sanani Kone, ông phát hiện Mỹ và VNCH thỏa thuận với chính quyền Lào thân Mỹ thực hiện một kế hoạch quân sự lớn tại khu vực Hạ Lào. Ngay lập tức, ông và cộng sự báo cáo ngay về "Trung tâm".
Cùng thời điểm đó, một cán bộ tình báo của ta đang trú ẩn trong bộ máy cao cấp của chính quyền VNCH cũng báo cáo về Hà Nội: "Mỹ và VNCH sắp thực hiện một chiến dịch quân sự lớn tại Hạ Lào nhằm cắt đứt đường Trường Sơn". "Trung tâm" chỉ thị cho ông "Đan" tìm cách thu thập thông tin chi tiết về kế hoạch này tại Lào.
Chiến dịch Lam Sơn 719
Năm 1971, chuẩn bị thực hiện "Chiến dịch Lam Sơn 719", Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã đưa một đoàn sĩ quan quân sự sang tại Vientian. Trong số đó có viên trung tá tên B. Biết ông "Đan" là người thân tín của nhà Sanani Kone, Trung tá B nhờ ông "Đan" tạo điều kiện để kết thân.
Tại bữa tiệc chiêu đãi kết thân giữa viên Trung tá B và Sanani Kone, ông "Đan" vờ say rượu để có cớ vào phòng làm việc của trung tá B ngủ. Trong khi trung tá B còn mê mải cụng ly với vị lãnh đạo quốc phòng Lào, ông "Đan" đàng hoàng dùng máy ảnh chuyên biệt chụp lại trọn bộ 2 bản kế hoạch "Chiến dịch Dewey Canyon II" của Mỹ và "Chiến dịch Lam Sơn 719" của VNCH.
Ngày hôm sau, toàn bộ chi tiết 2 kế hoạch quân sự "khủng" đó nằm gọn
trên bàn làm việc của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương của ta. Căn cứ
vào kế hoạch của địch, các vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng soạn thảo kế hoạch
đón lõng phản công mang tên "Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào".
Ông Lê Trọng Tấn - Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
được giao làm Tư lệnh và ông Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị làm Chính ủy chiến dịch.
Khi địch bắt đầu di binh thực hiện chiến dịch, quân ta cũng bắt đầu động binh khởi động kế hoạch đón lõng vào ngày 30-1-1971.
Nhất cử nhất động của địch, quân ta đều nắm trong lòng bàn tay. Các sư đoàn 308, 304, 324, Sư đoàn 2 và lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4, B5, 559 cùng một số lực lượng của Quân Giải phóng nhân dân Lào (Gồm 4 trung đoàn pháo, 3 trung đoàn cao xạ phòng không, 3 trung đoàn công binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp), liên quân Lào - Việt kề vai sát cánh đã làm chủ hoàn toàn chiến trường. Hầu như mọi cánh quân của địch đều lọt vào mạng lưới giăng sẵn của quân ta.
Trận giao chiến vùng Hạ Lào này được tờ Paris Match (Pháp) viết: "Mục tiêu của cuộc hành quân này là tạo lập một hành lang dài 24 km dọc theo Đường 9 đến Sê Pôn, sâu vào đất Lào 35 km đến tận con đường nhánh có ý nghĩa chiến lược của đường mòn Hồ Chí Minh. Giai đoạn 3 của chiến dịch phải là một cuộc hành quân càn quét dài ngày nhưng do bị thiệt hại nặng, tướng Lãm (quân đội VNCH) phải ra lệnh rút quân sớm kể từ ngày 10-3-1971.
Quân đội VNCH chỉ có thể rút quân bằng không lực Mỹ, đường bộ đã bị Bắc Việt chặn toàn bộ. Toàn bộ chiến dịch bị kết thúc sớm vào ngày 24-3-1971. Thiệt hại của quân đội VNCH ước tính lên đến 10.000 người, gần một nửa số quân tham chiến ở Lào. Mỹ chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ nhưng cũng thiệt hại 107 chiếc trực thăng và 176 phi hành đoàn". Hơn 1.000 quân, trong đó có đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù VNCH - đầu hàng và bị quân ta bắt sống.
Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của quân dân hai nước Việt - Lào đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
Chiến dịch Kou Keo
Ngày 25-5-1972, với sự hậu thuẫn của quân đội Mỹ, lực lượng quân đội Lào thân Mỹ bất ngờ đổ quân xuống Cánh đồng Chum thực hiện một kế hoạch quân sự mang tên "Chiến dịch hành quân Kou Keo". Đó là phần mở đầu của chiến dịch mang tên "phục thù" của lực lượng liên quân Mỹ - Lào - Thái.
Trưa hôm đó, vừa từ hãng hàng không về đến nhà, ông "Đan" nhận được
tin mật từ quê nhà gửi sang yêu cầu báo cáo thông tin về kế hoạch quân
sự của địch ở Cánh đồng Chum. "Trung tâm" yêu cầu phải báo cáo trước 24
giờ đêm. Có nghĩa là ông "Đan" chỉ có 12 giờ để thực hiện một nhiệm vụ
gần như bất khả thi.
Ông đành dùng tư cách "người nhà" của dòng họ nhà Sanani Kone đi tìm gặp ngay viên sĩ quan tham mưu ở Bộ Quốc phòng. Đó là cách thu thập thông tin rất nguy hiểm, dễ lộ vỏ bọc điệp viên nhưng ông không còn cách nào khác.
Ông bày một cuộc nhậu rồi khéo léo hỏi thăm tình hình chiến sự. Vô tình, viên sĩ quan này phun hết mọi kế hoạch của chiến dịch hành quân Kou Keo. Từ cuộc nhậu với viên sĩ quan cao cấp, ông "Đan" ghi nhận: "Lực lượng quân đội Lào thân Mỹ được huy động gồm Trung đoàn Cơ động số 5 ở Chinaimo, một binh đoàn của quân Hạ Lào - Savannakhét, 2 tiểu đoàn lính Mèo ở Sảm Thông, Long Chẹng của tướng phỉ Vàng Pao.
Mục tiêu cuộc hành quân không nhằm chiếm đóng mà tập trung đánh phá cơ sở hậu cần và làm tiêu hao dẫn đến tiêu diệt lực lượng Pathét Lào. Theo kế hoạch, sau 3 ngày càn quét và oanh kích bằng không quân, liên quân Lào thân Mỹ sẽ rút quân theo hai con đường, Phone Hông và bản Ban Paksane. Chiến dịch Kou Keo chỉ là đòn đánh nhử quân cách mạng Pathét.
Ngay đêm đó, "Trung tâm" nhận được bản báo cáo của ông Đan. Từ báo cáo của ông, quân cách mạng Pathet Lào không rơi vào cái bẫy "Giương đông kích tây" của địch.
Thực tế cho thấy, vào ngày 21-5-1972, quân Mỹ tập trung không quân đánh phá ác liệt các điểm cao trọng yếu và trục đường giao thông để mở đường cho bộ binh tấn công bằng 3 mũi vào các điểm cao ở Thẩm Lửng ngày 25-5-1972. Đoán được kế hoạch của địch, quân Pathét Lào đón lõng và đánh tan 6 tiểu đoàn (có 2 tiểu đoàn Thái Lan) ở Hin Đăm, Thẩm Lửng, đẩy lui nhiều đợt tiến công của địch ở Mường Sủi, đồng thời dùng đặc công, pháo binh tập kích địch ở Long Chẹng.
Đúng như báo cáo, vào ngày 11-8-1972, địch chuyển hướng tấn công toàn lực vào Cánh đồng Chum từ hướng khác: 4 tiểu đoàn Thái Lan tiến vào đường bộ theo 3 hướng đông nam, tây và đông bắc. Mặt khác 2 tiểu đoàn Thái Lan đổ bộ đường không xuống Phu Keng đánh hướng tây bắc. Quân Pathét Lào tập trung lực lượng đã phục kích sẵn ở Phu Luông, Phu Huasang, Phu Thông, đồi 5 mỏm, điểm cao 1294, bản Lao, Phu Học chờ địch chui vào rọ để phản đột kích. Kết quả, địch bị diệt và bị bắt sống hơn 700 tên. Quân Pathét Lào giữ được trận địa.
Nhờ nguồn tin tình báo của ông "Đan", quân Pathét Lào đã giáng cho liên quân Mỹ - Lào ngụy một trận đòn choáng váng".
Luật sư danh dự
Sau ngày đất nước thống nhất 30-4-1975, đang là kế toán trưởng hãng hàng không có thu nhập của giới thượng lưu, ông chấp nhận bỏ tất cả để được về quê mẹ. Được "Trung tâm" chấp nhận cho hồi hương, ông Tống Văn Trinh về Việt Nam, xin chuyển ngành về tỉnh Cửu Long (giờ là Vĩnh Long) làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.
Năm 1977, do nhu cầu nhân sự, ông Tống Văn Trinh được điều chuyển sang tỉnh Hậu Giang giữ chức Trưởng ban Pháp chế. Sau khi Ban Pháp chế chuyển thành Sở Tư pháp, ông được cử làm Giám đốc. Ông là người có công xây dựng và củng cố bộ máy tư pháp toàn tỉnh Cần Thơ (hiện giờ là TP Cần Thơ), trong đó có việc thành lập các phòng công chứng.
Bộ Tư pháp dựa vào thành tích đóng góp, đặc cách công nhận ông là luật sư và là thành viên của Hội Luật gia Việt Nam. Dù ông chưa từng tốt nghiệp Đại học Luật.
Đến cuối năm 1986, cơn tai biến mạch máu não lần hai đã quật ông ngã gục nhưng nhờ được cứu chữa kịp thời ông đã qua khỏi. Ông xin nghỉ hưu.
Ngày 19-8-2008, đúng vào ngày kỷ niệm 63 năm tham gia cách mạng, ông về cõi vĩnh hằng ở tuổi 86.
Nông Huyền Sơn
Những chiến công thầm lặng của lực lượng tình báo Việt Nam ( Phần 1/4)
Câu chuyện thật của "Người tình báo thầm lặng"
16:45 28/02/2017Cuốn sách "Người tình báo thầm lặng" đã hé lộ nhiều chiến công bí mật của lực lượng tình báo trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và chân dung cuộc đời của nhà tình báo Tống Văn Trinh.
"Người tình báo thầm lặng" là tiêu đề quyển truyện ký viết về cuộc đời nhà tình báo Tống Văn Trinh có mã danh N113 (nhà xuất bản Văn Nghệ) do công ty Fahasa phát hành. Tác giả quyển sách là Thạc sỹ toán học Tống Quang Anh - con trai của nhà tình báo Tống Văn Trinh. Quyển sách đã hé lộ nhiều chiến công bí mật của lực lượng tình báo trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và chân dung cuộc đời của nhà tình báo Tống Văn Trinh.
Vỏ bọc hoàn hảo
Năm 1954, một cán bộ quân báo ở Cần Thơ tên là Tống Văn Trinh được tập kết ra Bắc và phiên vào biên chế Sư đoàn 330 làm cán bộ trợ lý Ban Quân lực.
Một ngày đầu năm 1957, ông nhận được lệnh điều động về Cục Tình báo, thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau một khóa huấn luyện đặc biệt và bí mật, Tống Văn Trinh được Cục Tình báo đưa sang Lào bằng đường hợp pháp trong vỏ bọc một doanh nhân Việt kiều Thái Lan vào đầu năm 1959.
Với cái tên mới là Nguyễn Văn Độ, mật danh N113, ông bắt liên lạc và cư trú tại nhà một thầu khoán tên Bùi ở đường Nong Bone gần That Phoune. Ông Bùi là thầu khoán của hãng xây dựng Calavy, Lào.
Tác giả Tống Quang Anh, con trai nhà tình báo Tống Văn Trinh tại buổi giới thiệu sách "Nhà tình báo thầm lặng". |
Sau 2 lần lột xác, Tống Văn Trinh trở thành Nguyễn Văn Đan, thư ký cho Hãng Calavy, Lào. Sau đó "Nguyễn Văn Đan" được ông Bùi giới thiệu vào làm thư ký cho cơ quan Đăng kiểm xe (Bureau Contrôle d'Auto) thuộc Sở Công chánh Vientiane - Ngạch công chức chính thức của Vương quốc Lào.
Sau một thời gian ngắn, "Nguyễn Văn Đan" chiếm được cảm tình tất cả đồng nghiệp. Năm 1960, "Trung tâm" thu xếp đưa vợ con ông "Đan" từ Việt Nam qua sống chung.
Suốt 5 năm đầu, "Nguyễn Văn Đan" chỉ làm mỗi nhiệm vụ là tạo thiện cảm, xây dựng các mối quan hệ thân tình với các gia đình có con em làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tại Lào và chính quyền VNCH.
Năm 1964, Cục Tình báo gởi sang một điệp viên phụ trách điện đài tên T.. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, vì ông "Đan" không chỉ lo giấy phép cư trú, mà còn phải tạo nghề nghiệp bình phong cho người phụ trách điện đài và đặc biệt là nơi đặt điện đài, bảo đảm hoạt động an toàn. Để tạo thế hợp pháp cho người phụ trách điện đài, ông "Đan" vận động bà con Việt kiều góp tiền xây dựng một ngôi trường tư thục mang tên La Fontaine dạy chương trình phổ thông Lào nhưng có kèm thêm tiếng Việt. Điệp viên T. sang với vỏ bọc là thầy giáo dạy tiếng Lào.
Nhà tình báo Tống Văn Trinh. |
Ông "Đan" tìm cách xin vào làm kế toán trưởng của VSA. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông "Đan" được Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đặc biệt ưu ái, xem như người nhà.
Chính mối quan hệ thân thiện với Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đã tạo điều kiện cho ông Đan nắm bắt được những thông tin tối mật chính phủ Lào, kể cả tình hình chính trị của Việt Nam Cộng hòa.
Thời gian này, mọi tình hình của chính quyền Lào thân Mỹ và VNCH tại Lào đều được báo cáo đầy đủ về "Trung tâm".
Đầu năm 1971, ông "Đan" nhận thấy có điều gì đó bất thường khi một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ và VNCH bất ngờ xuất hiện tại Lào. Qua dòng họ nhà Sanani Kone, ông phát hiện Mỹ và VNCH thỏa thuận với chính quyền Lào thân Mỹ thực hiện một kế hoạch quân sự lớn tại khu vực Hạ Lào. Ngay lập tức, ông và cộng sự báo cáo ngay về "Trung tâm".
Cùng thời điểm đó, một cán bộ tình báo của ta đang trú ẩn trong bộ máy cao cấp của chính quyền VNCH cũng báo cáo về Hà Nội: "Mỹ và VNCH sắp thực hiện một chiến dịch quân sự lớn tại Hạ Lào nhằm cắt đứt đường Trường Sơn". "Trung tâm" chỉ thị cho ông "Đan" tìm cách thu thập thông tin chi tiết về kế hoạch này tại Lào.
Chiến dịch Lam Sơn 719
Năm 1971, chuẩn bị thực hiện "Chiến dịch Lam Sơn 719", Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã đưa một đoàn sĩ quan quân sự sang tại Vientian. Trong số đó có viên trung tá tên B. Biết ông "Đan" là người thân tín của nhà Sanani Kone, Trung tá B nhờ ông "Đan" tạo điều kiện để kết thân.
Tại bữa tiệc chiêu đãi kết thân giữa viên Trung tá B và Sanani Kone, ông "Đan" vờ say rượu để có cớ vào phòng làm việc của trung tá B ngủ. Trong khi trung tá B còn mê mải cụng ly với vị lãnh đạo quốc phòng Lào, ông "Đan" đàng hoàng dùng máy ảnh chuyên biệt chụp lại trọn bộ 2 bản kế hoạch "Chiến dịch Dewey Canyon II" của Mỹ và "Chiến dịch Lam Sơn 719" của VNCH.
Bìa sách "Nhà tình báo thầm lặng". |
Khi địch bắt đầu di binh thực hiện chiến dịch, quân ta cũng bắt đầu động binh khởi động kế hoạch đón lõng vào ngày 30-1-1971.
Nhất cử nhất động của địch, quân ta đều nắm trong lòng bàn tay. Các sư đoàn 308, 304, 324, Sư đoàn 2 và lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4, B5, 559 cùng một số lực lượng của Quân Giải phóng nhân dân Lào (Gồm 4 trung đoàn pháo, 3 trung đoàn cao xạ phòng không, 3 trung đoàn công binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp), liên quân Lào - Việt kề vai sát cánh đã làm chủ hoàn toàn chiến trường. Hầu như mọi cánh quân của địch đều lọt vào mạng lưới giăng sẵn của quân ta.
Trận giao chiến vùng Hạ Lào này được tờ Paris Match (Pháp) viết: "Mục tiêu của cuộc hành quân này là tạo lập một hành lang dài 24 km dọc theo Đường 9 đến Sê Pôn, sâu vào đất Lào 35 km đến tận con đường nhánh có ý nghĩa chiến lược của đường mòn Hồ Chí Minh. Giai đoạn 3 của chiến dịch phải là một cuộc hành quân càn quét dài ngày nhưng do bị thiệt hại nặng, tướng Lãm (quân đội VNCH) phải ra lệnh rút quân sớm kể từ ngày 10-3-1971.
Quân đội VNCH chỉ có thể rút quân bằng không lực Mỹ, đường bộ đã bị Bắc Việt chặn toàn bộ. Toàn bộ chiến dịch bị kết thúc sớm vào ngày 24-3-1971. Thiệt hại của quân đội VNCH ước tính lên đến 10.000 người, gần một nửa số quân tham chiến ở Lào. Mỹ chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ nhưng cũng thiệt hại 107 chiếc trực thăng và 176 phi hành đoàn". Hơn 1.000 quân, trong đó có đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù VNCH - đầu hàng và bị quân ta bắt sống.
Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của quân dân hai nước Việt - Lào đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
Chiến dịch Kou Keo
Ngày 25-5-1972, với sự hậu thuẫn của quân đội Mỹ, lực lượng quân đội Lào thân Mỹ bất ngờ đổ quân xuống Cánh đồng Chum thực hiện một kế hoạch quân sự mang tên "Chiến dịch hành quân Kou Keo". Đó là phần mở đầu của chiến dịch mang tên "phục thù" của lực lượng liên quân Mỹ - Lào - Thái.
Ông Tống văn Trinh và vợ (đứng giữa) trong thời gian hoạt động ở Lào. |
Ông đành dùng tư cách "người nhà" của dòng họ nhà Sanani Kone đi tìm gặp ngay viên sĩ quan tham mưu ở Bộ Quốc phòng. Đó là cách thu thập thông tin rất nguy hiểm, dễ lộ vỏ bọc điệp viên nhưng ông không còn cách nào khác.
Ông bày một cuộc nhậu rồi khéo léo hỏi thăm tình hình chiến sự. Vô tình, viên sĩ quan này phun hết mọi kế hoạch của chiến dịch hành quân Kou Keo. Từ cuộc nhậu với viên sĩ quan cao cấp, ông "Đan" ghi nhận: "Lực lượng quân đội Lào thân Mỹ được huy động gồm Trung đoàn Cơ động số 5 ở Chinaimo, một binh đoàn của quân Hạ Lào - Savannakhét, 2 tiểu đoàn lính Mèo ở Sảm Thông, Long Chẹng của tướng phỉ Vàng Pao.
Mục tiêu cuộc hành quân không nhằm chiếm đóng mà tập trung đánh phá cơ sở hậu cần và làm tiêu hao dẫn đến tiêu diệt lực lượng Pathét Lào. Theo kế hoạch, sau 3 ngày càn quét và oanh kích bằng không quân, liên quân Lào thân Mỹ sẽ rút quân theo hai con đường, Phone Hông và bản Ban Paksane. Chiến dịch Kou Keo chỉ là đòn đánh nhử quân cách mạng Pathét.
Ngay đêm đó, "Trung tâm" nhận được bản báo cáo của ông Đan. Từ báo cáo của ông, quân cách mạng Pathet Lào không rơi vào cái bẫy "Giương đông kích tây" của địch.
Thực tế cho thấy, vào ngày 21-5-1972, quân Mỹ tập trung không quân đánh phá ác liệt các điểm cao trọng yếu và trục đường giao thông để mở đường cho bộ binh tấn công bằng 3 mũi vào các điểm cao ở Thẩm Lửng ngày 25-5-1972. Đoán được kế hoạch của địch, quân Pathét Lào đón lõng và đánh tan 6 tiểu đoàn (có 2 tiểu đoàn Thái Lan) ở Hin Đăm, Thẩm Lửng, đẩy lui nhiều đợt tiến công của địch ở Mường Sủi, đồng thời dùng đặc công, pháo binh tập kích địch ở Long Chẹng.
Đúng như báo cáo, vào ngày 11-8-1972, địch chuyển hướng tấn công toàn lực vào Cánh đồng Chum từ hướng khác: 4 tiểu đoàn Thái Lan tiến vào đường bộ theo 3 hướng đông nam, tây và đông bắc. Mặt khác 2 tiểu đoàn Thái Lan đổ bộ đường không xuống Phu Keng đánh hướng tây bắc. Quân Pathét Lào tập trung lực lượng đã phục kích sẵn ở Phu Luông, Phu Huasang, Phu Thông, đồi 5 mỏm, điểm cao 1294, bản Lao, Phu Học chờ địch chui vào rọ để phản đột kích. Kết quả, địch bị diệt và bị bắt sống hơn 700 tên. Quân Pathét Lào giữ được trận địa.
Nhờ nguồn tin tình báo của ông "Đan", quân Pathét Lào đã giáng cho liên quân Mỹ - Lào ngụy một trận đòn choáng váng".
Luật sư danh dự
Sau ngày đất nước thống nhất 30-4-1975, đang là kế toán trưởng hãng hàng không có thu nhập của giới thượng lưu, ông chấp nhận bỏ tất cả để được về quê mẹ. Được "Trung tâm" chấp nhận cho hồi hương, ông Tống Văn Trinh về Việt Nam, xin chuyển ngành về tỉnh Cửu Long (giờ là Vĩnh Long) làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.
Năm 1977, do nhu cầu nhân sự, ông Tống Văn Trinh được điều chuyển sang tỉnh Hậu Giang giữ chức Trưởng ban Pháp chế. Sau khi Ban Pháp chế chuyển thành Sở Tư pháp, ông được cử làm Giám đốc. Ông là người có công xây dựng và củng cố bộ máy tư pháp toàn tỉnh Cần Thơ (hiện giờ là TP Cần Thơ), trong đó có việc thành lập các phòng công chứng.
Bộ Tư pháp dựa vào thành tích đóng góp, đặc cách công nhận ông là luật sư và là thành viên của Hội Luật gia Việt Nam. Dù ông chưa từng tốt nghiệp Đại học Luật.
Đến cuối năm 1986, cơn tai biến mạch máu não lần hai đã quật ông ngã gục nhưng nhờ được cứu chữa kịp thời ông đã qua khỏi. Ông xin nghỉ hưu.
Ngày 19-8-2008, đúng vào ngày kỷ niệm 63 năm tham gia cách mạng, ông về cõi vĩnh hằng ở tuổi 86.
Nông Huyền Sơn
70 năm ngày truyền thống lực lượng An ninh nhân dân (12/7/1946 – 12/7/2016):
Những chiến công thầm lặng của lực lượng An ninh nhân dân
(Baohatinh.vn)
- Ngày 12/7/1946, sau khi phá thành công vụ án tại phố Ôn Như Hầu (Hà
Nội), lực lượng An ninh - Công an nhân dân Việt Nam đã khẳng định vai
trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng
và cuộc sống bình yên của nhân dân. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng đó,
Bộ Công an đã quyết định lấy ngày 12/7/1946 là ngày truyền thống của lực
lượng An ninh nhân dân (ANND).
Đồng
hành với lực lượng ANND Công an cả nước, 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo
của Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, cấp ủy, chính quyền
địa phương, sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, lực lượng An ninh Công an
Hà Tĩnh đã trưởng thành về mọi mặt, cùng toàn quân, toàn dân trong tỉnh
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn, hoạt động của bọn phản cách
mạng, giữ vững an ninh quốc gia (ANQG), đảm bảo TTATXH, phục vụ đắc lực
nhiệm vụ phát triển KT-XH của địa phương.
Những năm
kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy còn non trẻ nhưng ANND Công an Hà
Tĩnh đã phối hợp với các lực lượng bộ đội, dân quân tự vệ dũng cảm chiến
đấu, đập tan nhiều tổ chức phản động có âm mưu, hoạt động chống phá
chính quyền cách mạng.
Đại
tá Lê Văn Sao (ngoài cùng bên trái), Giám đốc Công an tỉnh cùng đoàn
công tác kiểm tra việc đảm bảo an ninh trật tự tại Khu kinh tế Vũng Áng.
Ảnh: Xuân Lý
Những năm chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ, nhất là trong đấu tranh chống gián điệp biệt kích do Mỹ -
Ngụy tung ra miền Bắc, lực lượng An ninh Hà Tĩnh đã triển khai đồng bộ
các mặt công tác nghiệp vụ, mưu trí thực hiện chiến thuật “trò chơi
nghiệp vụ”, bắt và tiêu diệt nhiều toán biệt kích xâm nhập bằng đường
không, đường biển và vùng núi ở biên giới Việt Lào. Điển hình như: vụ
Đổng Choác ở Cẩm Xuyên, Khe Lũy - Kỳ Anh, bắt toán gián điệp biệt kích
Lê Khoái; bắt gọn 11 tên trong toán gián điệp mang tên Hadley do Lê Văn
Ngung (SN 1945, quê Đan Phượng, Hà Đông) làm toán trưởng nhảy dù xuống
địa bàn Hương Sơn…
Trong phong trào “Vì miền Nam
ruột thịt”, hàng trăm CBCS ưu tú của lực lượng An ninh Hà Tĩnh đã tình
nguyện vào miền Nam, tăng cường cho an ninh miền Nam, an ninh các nước
bạn Lào, Campuchia. Hơn 20 năm đấu mưu, đấu trí, đấu lực trên mặt trận
thầm lặng, nhiều CBCS đã vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường. Máu
đào của các anh hòa vào núi sông trên dặm dài đất nước, tô thắm thêm
truyền thống của lực lượng.
Từ ngày tái lập tỉnh
(1991), trước những khó khăn, thiếu thốn nhiều bề, nhưng lực lượng An
ninh Hà Tĩnh đã đồng sức, đồng lòng trực tiếp giải quyết tốt các mâu
thuẫn, các điểm nóng nổi cộm như Trung Lương (TX Hồng Lĩnh); Cẩm Nhượng
(Cẩm Xuyên); Minh Lộc, Thanh Lộc (Can Lộc); đấu tranh có hiệu quả với tà
đạo do Lưu Văn Ty cầm đầu...
Bước vào thời kỳ hội
nhập, ngoài việc đi đầu cả nước trong phong trào xây dựng nông thôn mới,
Hà Tĩnh đã tập trung cao độ xây dựng các khu kinh tế, trong đó có Khu
kinh tế Vũng Áng, với nhiều công trình, dự án trọng điểm cả nước và khu
vực. Theo đó, phải di dời hàng ngàn hộ dân, hàng ngàn ngôi mộ và hàng
chục cơ sở thờ tự khác.
Quá trình thực hiện đã nảy
sinh một số vấn đề liên quan đến an ninh chính trị và TTATXH. Với mục
tiêu đảm bảo ANTT phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH, lực lượng an ninh
đã chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền thực hiện tốt các vấn đề liên
quan đến ANQG; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng quân sự, biên phòng,
hải quan, công an các tỉnh biên giới nước CHDCND Lào, các ban, ngành
liên quan, xây dựng thế trận ANND gắn với quốc phòng toàn dân, đảm bảo
an ninh xã hội.
Với nhiều chính sách mới trong thời
kỳ hội nhập, các lực lượng an ninh đã tăng cường công tác quản lý xuất
nhập cảnh, kiểm soát chặt chẽ trên tuyến biên giới, cửa khẩu, ngăn chặn
kịp thời các hoạt động xâm nhập của bọn phản động, giải quyết các vụ
việc vi phạm quy chế biên giới, hoạt động xuất nhập cảnh trái phép của
người Việt Nam và người nước ngoài; phối hợp, đấu tranh, ngăn chặn các
hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em, vũ khí, vật liệu nổ, ma túy, tiền giả
và nhiều vụ việc khác liên quan đến ANQG.
Chỉ tính
riêng những tháng đầu năm 2016, lực lượng An ninh Hà Tĩnh đã góp phần
quan trọng đảm bảo tuyệt đối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử
ĐBQH và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.
Cùng với
đó, lực lượng đã tập trung triển khai quyết liệt nhiều phương án, kế
hoạch, giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh về ANTT; chủ động nắm
chắc tình hình, phòng ngừa có hiệu quả các hoạt động phá hoại, kích động
biểu tình, phá rối ANTT của các thế lực thù địch và các đối tượng phản
động trong, ngoài nước; kịp thời tham mưu cấp ủy, chính quyền nhiều giải
pháp về đảm bảo ANTT; đảm bảo vững chắc an ninh biên giới, bờ biển, các
mục tiêu trọng điểm, an ninh nội bộ, an ninh văn hóa – tư tưởng, an
ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh xã hội.
Tham
mưu và tập trung chỉ đạo, giải quyết các vụ việc phức tạp về ANTT, phục
vụ tốt nhiệm vụ phát triển KT-XH của tỉnh; đặc biệt là phòng ngừa, xử
lý những vấn đề phức tạp về ANTT nảy sinh do sự cố môi trường ở khu vực
miền Trung.
70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành, các thế hệ của lực lượng An ninh Hà Tĩnh đã nối tiếp hun đúc nên
những truyền thống cao đẹp “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Nêu cao
bản chất trong sáng và lòng nhân ái “lá lành đùm lá rách”, CBCS An ninh
Hà Tĩnh đã quyên góp hàng trăm triệu đồng giúp đỡ đồng bào bị thiệt hại
do bão lũ, xây dựng nhà tình nghĩa, làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa,
được cấp ủy, chính quyền, các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân khen
ngợi, đánh giá cao.
Với những thành tích, chiến
công 70 năm qua, lực lượng ANND Công an Hà Tĩnh đã được Đảng, Nhà nước
tặng thưởng nhiều huân, huy chương; Chính phủ, Bộ Công an, UBND tỉnh
tặng thưởng hàng trăm bằng khen và nhiều cờ thi đua xuất sắc cho các tập
thể, cá nhân; điển hình Phòng PA88 đã được Nhà nước phong tặng danh
hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới”.
Phát
huy truyền thống, lực lượng An ninh Hà Tĩnh nguyện tuyệt đối trung
thành với Đảng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng
nỗ lực, phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong tình hình mới, phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH của địa phương.
Đại tá Nguyễn Tiến Nam
Phó Giám đốc Công an tỉnh
Chiến công thầm lặng của tình báo quân đội
09:00 | 20/12/2012
(Petrotimes) - Trái ngược
với nỗi lo sợ về sức mạnh hủy diệt khủng khiếp của B-52 tưởng như có
thể san phẳng cả Hà Nội, đưa Hà Nội trở về “thời kỳ đồ đá” như kẻ thù
hăm dọa, Tổng hành dinh - nơi Bộ chỉ huy thống soái của cuộc quyết chiến
chiến lược vẫn không hề rời Hà Nội. Các tướng lĩnh, lãnh đạo cao cấp
của Đảng, Nhà nước có mặt trong thành cổ, ngay dưới hầm chỉ huy để kịp
thời xử lý mọi tình huống, ban ra những mệnh lệnh chính xác.
Trong 12 ngày đêm tháng Chạp 1972 ấy, điều gì đã xảy ra ở Tổng hành
dinh? Một trong số ít người nắm chắc những câu chuyện ấy là Thiếu tướng
Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu)…
“Kiểm định” tên lửa
Trong 12 ngày đêm ấy, ông đảm trách nhiệm vụ trực ban tác chiến phòng
không tại Tổng hành dinh. Ông cũng là người được giao nhiệm vụ trực tiếp
bấm nút còi báo động mỗi lần B-52 bay vào Hà Nội.
Trong vô vàn khó khăn của việc tìm tòi cách đánh B-52, theo Thiếu tướng
Nguyễn Văn Ninh, có một cái khó “trên trời rơi xuống”. Khoảng năm 1967
đến 1968, B-52 được Mỹ cải tiến gây nhiễu rất mạnh, gần như kẻ thù “bịt
mắt radar” của ta. Không dừng lại ở đó, ngày 5-6-1967, quân đội Ai Cập
choáng váng trong đợt tập kích của Israel, radar không phát hiện được,
nhiều bộ khí tài tên lửa của Liên Xô bị thu giữ.
Có những bộ khí tài này, Mỹ đã dày công nghiên cứu và vô hiệu hóa hệ
thống chống nhiễu cũng như không còn khả năng điều khiển tên lửa sau khi
phóng. Với sự thay đổi “âm thầm” này, quân Mỹ hết sức chủ quan, coi
thường tên lửa Việt Nam, coi như đã loại được tên lửa ta ra khỏi cuộc
chiến với B-52.
“Trong tác chiến công nghệ cao, nó làm nhiễu, bịt mắt mình thì ai cũng
hiểu, địch thì bịt mắt, ta thì vạch nhiễu tìm thù nhưng bây giờ nguy
hiểm hơn là ở chỗ cái rãnh của tên lửa. Nó biết tần số, nó nhằm vào cái
rãnh, tạo nhiễu vào rãnh là không điều khiển được tên lửa nữa, làm cho
đạn rơi xuống. Suốt một thời gian dài, ta bắn tên lửa toàn bị rơi xuống
đất là vì thế. Có trận ở Hải Phòng, ta bắn tới 90 quả tên lửa không diệt
được máy bay B-52 nào cũng vì thế.
Lại có chuyện một quả tên lửa rơi xuống nhà dân, làm chết cả gia đình,
khiến bộ đội ta day dứt lắm. Lúc đó, có nhiều ý kiến chủ quan, vội cho
rằng bộ đội ta bị “nhiễu tư tưởng”, nhưng sự thật đâu phải thế” - Thiếu
tướng Nguyễn Văn Ninh nhớ lại.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh (trái)
Một bữa, ông Nguyễn Xuân Mậu, Phó chính ủy Quân chủng Phòng không -
Không quân mời ông Ninh, trên cương vị là Trợ lý tác chiến Phòng không
của Cục Tác chiến xuống quân chủng. Ông Mậu chẳng nói chẳng rằng, mời
ông Ninh đi thẳng xuống một đơn vị chiến đấu, lệnh mở máy rồi mời ông
Ninh vào xem. Nhiễu dày đặc. Ông Mậu nói nhiễu dày cũng không nguy hiểm
bằng phóng đạn ra lại rơi ngay xuống đất. Trung đoàn tính toán thấy
nhiễu thế không đánh được. Ông Mậu nói, không phải chúng tôi “nhiễu tư
tưởng” đâu mà dường như kỹ thuật có vấn đề rồi! Phải nghe bộ đội, giờ
anh bảo tôi phóng, tôi phóng ngay nhưng…
Từ thực tế đó, ông Ninh và lãnh đạo Quân chủng Phòng không - Không quân
đã đi đến một nhận định hết sức đúng đắn: Phải nghiên cứu nghiêm túc,
phải đặt vấn đề với chuyên gia Liên Xô. Đây là một vấn đề tối mật. “Quả
tên lửa lên không trung rồi, muốn điều khiển nó, có những lệnh sang
phải, trái đều được mã hóa, nó báo cáo về, đài tự động giải mã, lệnh
liên tiếp nhưng không công khai, thế mà địch nó biết vì nó lấy được bộ
khí tài của Ai Cập, nó nghiên cứu rất sâu… Kiến nghị và nhận định của
chúng tôi đã được Bộ Quốc phòng ghi nhận” - ông Ninh kể.
Suốt năm 1968, tên lửa chỉ đánh vu vơ, bộ đội tên lửa lo lắng. Rất may
là khi đặt vấn đề với Liên Xô, bạn đồng ý ngay, đưa cả tổng công trình
sư của tên lửa sang Việt Nam nghiên cứu. Ông tổng công trình sư có mặt,
mắt thấy tai nghe nhiều cú phóng thất bại. Cuối cùng ông đã gật đầu:
Phải quyết định cải tiến cả bộ khí tài và cả tên lửa. Cải tiến rất cơ
bản. Ông cũng rất khâm phục phát hiện của bộ đội Việt Nam, đây là một
phát hiện có tính lịch sử, đã được trả giá bằng máu. Nếu không có cải
tiến này, khó mà có chiến thắng B-52 năm 1972.
Thêm một chuyện mà các nhà tên lửa chưa tính đến. Theo thiết kế, các bộ
khí tài thường không được cơ động xa, trong khi để đánh máy bay Mỹ, ta
cho khí tài cơ động vào Nam ra Bắc, nhiều thiết bị bị “xộc xệch”. Bộ đội
Việt Nam đặt vấn đề phải “kiểm định” lại toàn bộ khí tài tên lửa. Phía
Liên Xô đồng ý.
“Một ông đại tá đi máy bay, mang cả một phòng thí nghiệm sang, kéo hết
khí tài về đo chỉnh, chuẩn hóa lại nhiều thứ tần số, phải mất 3 tháng
trời, đến ngày 22/12/1971 mới xong. Như vậy, mình được 3 năm cật lực để
chuẩn bị và bước vào 1972 với bộ khí tài đã được “chỉnh sửa”, chúng ta
tự tin có thể đánh được các loại máy bay của Mỹ, xử lý được các loại
nhiễu. Việc này có công lao rất lớn của các bạn Liên Xô” - ông Ninh
khẳng định.
chiếm ưu thế chủ động
Là một cán bộ tác chiến, ông Ninh rất chú ý đến việc vì sao chúng ta
không bị bất ngờ trong câu chuyện B-52. Khi đó, mặc dù Richard Nixon
dùng “động tác giả”, điện cho ông Phạm Văn Đồng coi như hiệp định đã
xong, có thể ký được rồi. Còn Kissinger thì nói hòa bình trong tầm tay.
Mỹ còn ngừng ném bom từ cầu Hàm Rồng ra bắc, chỉ đánh khu 4 rất ác liệt
để ta tưởng sắp ký đến nơi và giành thế bất ngờ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó bận vô cùng nhưng ngày 28/6/1972 đã có
buổi làm việc với Tư lệnh Phòng không - Không quân Lê Văn Tri. Ông Ninh
cũng được tham dự. Đại tướng nói: “Giờ thì ai cũng có thể dự báo B-52
đánh vào Hà Nội rồi nhưng chúng sẽ đánh như thế nào? Rồi Đại tướng khẳng
định ngay, “ta phải đánh lớn” và giao cho Bộ Tổng tham mưu mở chuyên đề
về việc này.
Sau 7 ngày chuẩn bị, ngày 6/7/1972, khi địch đang đánh miền Bắc, hội
nghị đã diễn ra dưới một tòa nhà 2 tầng, thành phần chỉ có 10 người.
Kiểm tra xác chiếc B-52 đầu tiên bị rơi (ông Nguyễn Văn Ninh đứng giữa phía sau)
Trong số người dự họp, có cả ông Ninh dù khi đó mới mang hàm thiếu tá
nhưng ông là Trợ lý tên lửa và trực ban Tác chiến phòng không ở Sở chỉ
huy của Bộ Tổng tham mưu. Vai trò trực ban tác chiến rất lớn, có quyền
báo cáo thẳng Tổng tham mưu trưởng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tại cuộc họp bàn cách đánh B-52 ở Bộ Tổng tham mưu hôm ấy, còn có đại
diện của Cục Quân báo (Tổng cục 2 ngày nay). Báo cáo tổng hợp về B-52 do
ông Phan Mạc Lâm trình bày đã “mở màn” cho hội nghị, làm cơ sở để mọi
người thảo luận. “Để có được chiến thắng B-52, vai trò của Cục 2 rất
lớn, rất quan trọng nhưng đáng tiếc là công việc rất thầm lặng, đến nay
rất ít người biết việc này. Ngay cả các thế hệ cán bộ Tổng cục 2 hiện
nay cũng không nắm hết được. Mới đây, nhân kỷ niệm 40 năm Điện Biên Phủ
trên không, một đồng chí lãnh đạo của Tổng cục 2 đã đến nhà riêng gặp
tôi, xin được nghe tôi kể lại chiến công của Cục 2 ngày ấy” - Thiếu
tướng Nguyễn Văn Ninh kể.
Giữa tháng 4/1972, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ lần
thứ hai bắt đầu, 26 vạn người dân thủ đô đã đi sơ tán. Đến chiến dịch
12 ngày đêm, số người đi sơ tán lên đến gần 50 vạn. Các trọng điểm bị
đánh phá ác liệt ở ngoại thành cũng phải sơ tán triệt để.
Trong thời gian chiến tranh phá hoại đến khi B-52 đánh vào Hà Nội,
thành phố đã có 40 vạn hố cá nhân và 90.000 hầm tập thể, đủ chỗ trú ẩn
cho 90 vạn người. Mỗi người ở Hà Nội có 3 hầm trú ẩn ở trong nhà, ở cơ
quan và trên đường phố.
|
Để tìm hiểu được thông tin về B-52 lúc đó là câu chuyện khó như mò kim
đáy bể. Nhiều ý kiến nêu, để có thông tin, chỉ còn cách cài điệp viên
vào không quân chiến lược của Mỹ nhưng thực tế ta không thể làm được
chuyện này. Thế mà Cục 2 cũng đã có cách riêng của họ.
Đầu năm 1972, Cục 2 đưa một tổ trinh sát kỹ thuật thuộc Trung đoàn 75
vào Quảng Bình, trèo lên những điểm cao nhất, trang bị cho anh em máy
thu tin, ghi chép toàn bộ thông tin của không quân và ngoài Hạm đội 7
của Mỹ, nghe nhiều, nghe kỹ để thu nhận được tin liên quan đến B-52. Có
được tin nào phải báo ngay về cho Cục Tác chiến và cho đồng chí Phan Mạc
Lâm để Tổng hành dinh xử trí và hành động.
Tại Tổng hành dinh lúc nào cũng có một chiếc bảng đen, phía trên có
dòng chữ “Tin cục 2”. Cán bộ Cục 2 đi trinh sát lúc đó phần đông là sinh
viên tốt nghiệp đại học, mới được tuyển vào nhưng rất giỏi, tận tụy với
công việc, thu được rất nhiều tin, giải mã tốt.
Trở lại với “Hội nghị Diên Hồng” bàn chuyện đánh B-52 tại Tổng hành
dinh, báo cáo chuyên đề về B-52 của ông Phan Mạc Lâm dài tới 30 trang,
tóm tắt từ tính năng chiến thuật đến bom, nhiễu khiến mọi người rất chú
ý. Ông Mạc Lâm cũng được cả bộ chỉ huy hỏi rất nhiều điều. Trong đó, có
một câu hỏi thú vị được đặt ra: “B-52 đánh Hà Nội thì đã rõ, nhưng nếu
đánh thì nó đánh đêm hay ngày?”. Trước đó, B-52 đã nhiều lần đánh chiến
trường phía Nam nhưng chỉ đánh ban ngày. Ông Lâm, bằng sự mẫn cảm của
một nhà phân tích đã nói ngay: “Nhiều khả năng sẽ đánh đêm”. Nhận định
ấy được đồng tình vì Mỹ đánh đêm thì sẽ loại trừ được không quân ta. Hơn
thế, lúc đó, Mỹ rất “khinh thường” tên lửa Việt Nam sau sự kiện Ai Cập,
cho rằng đó là loại tên lửa “không ăn thua”, cổ lỗ sĩ.
Tư lệnh Phòng không - Không quân Lê Văn Tri là người phát biểu hăng hái
nhất. Ông khẳng định ngay: “Tôi nghĩ rằng nếu B-52 vào, ta có nhiều vũ
khí để hạ nó. Tên lửa vẫn đánh được, không quân cũng đánh được, pháo cáo
xạ, nếu là loại pháo 100 ly thì khi B-52 bay ở độ cao 10 km vẫn “tóm
cổ” được nó”.
Ý kiến của ông Tri được chấp nhận. Sau này, ta đã cho pháo 100 ly tham
gia đánh B-52, ở Hà Nội có mấy đại đội công nhân, tự vệ kéo pháo 100 ly
ra huấn luyện; ở Thái Nguyên có một trung đoàn pháo 100 ly. Thực tế sau
này cũng chứng minh nhận định của ông Tri là đúng, cả 3 loại vũ khí, tên
lửa, máy bay, pháo 100 ly đều tiêu diệt được B-52.
Tin chiến thắng từ cột cờ Hà Nội
Số anh em trinh sát ở Quảng Bình đã được điều về Hà Nội để thu tin.
Ngày 17/12, Cục 2 báo cáo, 6 hàng không mẫu hạm Mỹ đã di chuyển vào Vịnh
Bắc Bộ, ta báo động cho tất cả lực lượng vũ trang miền Bắc sẵn sàng
chiến đấu cao. Cán bộ chủ chốt đi phép đều được gọi về. Trung đoàn tên
lửa 261 định đi vào Nam cũng được giao nhiệm vụ ở lại phía Bắc.
12 giờ trưa 18/12, anh em đã thấy sóng B-52 “dồn dập lắm rồi” dù trên màn hình radar “chưa có gì”.
16 giờ, ông Mạc Lâm chạy sang Bộ Tổng tham mưu báo cáo đã nhận được
điện B-52 cất cánh rồi. Nhiều tốp B-52 từ Guam đến phía đông
Philippines, đang tiếp dầu.
50/60 vạn nhân dân Hà Nội đi sơ tán sau trận bom B-52 đầu tiên đêm 18/12/1972
“Lúc đó, tôi dựa vào ba nguồn tin. Một là, tin Cục 2 như đã nói ở trên.
Hai là tin từ tổng trạm radar phòng không với bản tiêu đồ mi-ca do trạm
45 của Trung đoàn 291 báo cáo lúc 18 giờ. Ba là, nguồn tin… truyền
miệng. May mắn lúc tôi đang trực thì khoảng hơn 16 giờ, ông Phùng Thế
Tài đi đâu về đã chạy xuống sở chỉ huy. Gặp tôi, ông Tài nói:
- Ninh, đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng cố vấn đàm phán ở Paris, sau nhiều ngày đấu với Kissinger vừa về nước rồi.
- Thật không anh?
- Thật chứ, tôi vừa đi đón ông ấy ở sân bay Gia Lâm về. Tình hình căng
lắm. Nó cắt từ ngày 13 không họp nữa. Cứ tưởng ông Lê Đức Thọ ở đó chờ ý
kiến Bộ Chính trị nhưng không ngờ ông Thọ cũng bỏ về luôn. Căng lắm
rồi!”.
Cuối cùng ông Tài kết luận: “Cậu phải ở lỳ đây mà trực, nó đánh đấy!”. Ông Ninh đứng nghiêm: “Tuân lệnh”.
Có ba nguồn tin trong tay, ông Ninh hội ý 3 đồng chí trong sở chỉ huy rồi báo cáo Cục trưởng Vũ Lăng, giọng ông run run:
- Căng lắm rồi anh ơi, phải gọi kíp trực ban tăng người!
Ông Lăng nghe tình hình thì đồng ý ngay, điều thêm một số đồng chí nữa
vào làm việc, có cả trực ban không quân. 19 giờ, ông Ninh báo cáo Tổng
tham mưu trưởng. Ông gọi điện cho Thượng tướng Văn Tiến Dũng, đề nghị
cho báo động phòng không sớm 5 phút, khi máy bay cách Hà Nội chưa đến
100 km cũng kéo còi luôn. Ông Dũng đồng ý và nói:
- Tôi sang ngay!
19 giờ 10 phút, ông Ninh tiếp tục báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng rất bình tĩnh chỉ thị:
- Cậu Ninh cứ 5 phút báo cáo tôi một lần!
Tại Tổng hành dinh lúc này, ông Trần Độ là trực ban trưởng ngồi trước
mi-crô, bật lên thông báo tình hình. Mọi tiếng nói trong tổng hành dinh
sẽ được truyền đến Bộ Chính trị, lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng nghe.
“Tôi chạy lại ấn nút còi báo động cho Hà Nội, nó vang lên trên nóc hội
trường Ba Đình. Quy định còi đó rú lên thì tất cả các còi khác của Hà
Nội đều phải lên tiếng. Hà Nội lúc này có 16 cái còi điện, 500 loa to,
rú vang khắp. Hàng loạt điện thoại trong sở chỉ huy, mấy chục cái đều
réo lên. Có đồng chí cán bộ cấp cao hỏi “tập hay là thật đấy?”. Chúng
tôi lúc đó được tăng cường khoảng 6-7 người, chỉ trả lời một câu: “Mời
đồng chí xuống hầm” mà không nói “thật hay giả” - Thiếu tướng Nguyễn Văn
Ninh nhớ lại.
Lúc đó khoảng 19 giờ 40 phút, việc báo động được thực hiện trước 25
phút, bom rơi và Hà Nội náo động. Một tổ trinh sát được cử lên trực ở
cột cờ Hà Nội, có nhiệm vụ quan sát. Nhìn thấy gì thì cứ thế nói như
thuyết minh… đá bóng, thông tin sẽ truyền về loa ở Tổng hành dinh. Tôi
còn nhớ cậu Trần Đức Thịnh, quê ở Thái Nguyên trong tổ đó.
Khi bom rơi cũng là lúc đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Lê Hiến Mai,
Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào sở chỉ huy. Cuối cùng là đồng chí
Phùng Thế Tài vừa từ đâu chạy về, mồ hôi ướt đầm lưng áo. Họ phân công
nhau điều hành. Lúc này, ông Ninh mới cảm thấy thở được vì cả ngày hôm
đó, ông chưa ăn uống gì. Đồng chí liên lạc thấy thế thương quá, dúi cho
một thanh lương khô.
20 giờ 30 phút đêm 18/12/1972, vẫn chưa có máy bay rơi. Không khí hầm
chỉ huy như ngột ngạt, nóng bỏng. Bỗng từ chiếc loa kết nối với tổ trinh
sát trên cột cờ Hà Nội vang lên tiếng nói hồn nhiên của chiến sĩ Thịnh:
- Ối trời! Cái gì rơi kìa! Cháy to, cháy to lắm!
Chiến sĩ ấy đâu biết tiếng nói của anh dội vào sở chỉ huy, mọi người
nhìn nhau cười sung sướng. Mấy phút sau, chuông điện thoại từ Quân chủng
Phòng không - Không quân réo vang. Tin báo: B-52 rơi rồi, Tiểu đoàn 59,
Trung đoàn 261 bắn rơi rồi. Ông Ninh là người nhận tin, vui sướng đến
trào nước mắt. Ông nói với Phó tư lệnh Quân chủng Nguyễn Quang Bích:
“Anh báo cáo trực tiếp với anh Văn đi, anh Văn đang mong lắm!”.
Không xa hầm trực ban, hầm Đại tướng ở phía trước, chỉ cách chừng 100
mét. Ít phút sau khi nhận được tin, Đại tướng mừng lắm. Ông leo lên mặt
đất. Trời rét đậm nhưng ai cũng thấy khoan khoái lạ thường. Tại tổng
hành dinh, mọi người, tướng lĩnh và sĩ quan đều ôm lấy nhau. Ai cũng
khóc vì vui sướng.
Trong 12 ngày đêm, 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc
B-52. Phi công Mỹ bị tiêu diệt 43 tên, bắt sống làm tù binh 44 tên. Phía
Mỹ thừa nhận 15 B-52 bị bắn hạ, 5 chiếc hư hại nặng (có 1 chiếc rơi ở
Lào), 5 chiếc bị thương nhẹ, 43 quân nhân tử vong và 49 quân nhân bị bắt
làm tù binh. Phía Việt Nam có 2.380 người dân bị chết, 1.355 người bị thương. |
Ghi chép của Nguyễn Văn Minh
Nhận xét
Đăng nhận xét