Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 31

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                  Chiến tranh Mùa Đông: Nỗi nhục của Hồng Quân Xô Viết

-Chiến tranh Mùa Đông

Cuộc chiến Mùa đông là gì?

Print Friendly

Nguồn:What was the Winter War?“, History, 30/10/2016
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Chưa đầy hai năm trước khi Liên Xô đối đầu với phát xít Đức trong Thế chiến II, quốc gia này đã tiến hành một cuộc chiến tranh đẫm máu với một kẻ thù khác: đất nước Phần Lan bé nhỏ. Mối thù của Nga với nước láng giềng Bắc Âu của mình bắt đầu từ năm 1939, khi lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin mong muốn mở rộng ảnh hưởng của mình sang Đông Âu. Lấy cớ là quan ngại về một cuộc tấn công tiềm tàng của Đức, Stalin yêu cầu rằng biên giới giữa Phần Lan với Nga phải được đẩy lùi về phía Phần Lan 16 dặm dọc theo Eo đất Karelia để tạo ra một vùng đệm xung quanh thành phố Leningrad.
Stalin cũng muốn người Phần Lan bàn giao một số hòn đảo ở Vịnh Phần Lan và cho Liên Xô thuê phần lãnh thổ trên bán đảo Hanko để xây dựng một căn cứ hải quân. Liên Xô cũng đề nghị trao cho Phần Lan  một dải lãnh thổ rộng lớn của Nga như là một phần của thỏa thuận, nhưng người Phần Lan đã nghi ngờ về động cơ của họ và từ chối đề nghị này. Ngày 30 tháng 11 năm 1939, sau một loạt các tối hậu thư và các cuộc đàm phán thất bại, Hồng quân Liên Xô đã đã phát động một cuộc xâm lược Phần Lan với nửa triệu quân.
Mặc dù phải đối đầu với đội quân đông hơn và được trang bị vũ khí tốt hơn trong cái được gọi là “Cuộc chiến mùa đông”, người Phần Lan lại có lợi thế chiến đấu trên sân nhà. Được lãnh đạo bởi Nguyên soái Carl Gustaf Mannerheim, họ ẩn mình đằng sau một mạng lưới các hào, hầm bê tông và công sự tại chiến trường ở Eo đất Karelia và đánh bật các cuộc tấn công liên tiếp của xe tăng Liên Xô.
Ở những khu vực khác trên biên giới, các đội quân trượt tuyết Phần Lan đã sử dụng địa hình gồ ghề để tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các đơn vị quân bị cô lập của Liên Xô. Chiến thuật du kích của họ được hỗ trợ bởi thời tiết giá băng của mùa đông Phần Lan, điều đã khiến quân Liên Xô sa lầy và làm cho binh sĩ trở nên dễ dàng bị nhận ra trên địa hình đầy tuyết. Một tay bắn tỉa của Phần Lan, một nông dân tên là Simo Hayha, cuối cùng đã được ghi nhận là bắn chết hơn 500 binh sĩ Liên Xô.
Trong khi người Phần Lan thể hiện một sự phản kháng mạnh mẽ trong mùa đông năm 1939-1940, rốt cuộc quân đội của họ cũng không phải là đối thủ trước đội quân lớn hơn nhiều của Hồng quân. Vào tháng 02/1940, sau một trong những vụ oanh tạc pháo binh lớn nhất kể từ Thế chiến I, Liên Xô đã khôi phục các đợt tấn công dữ dội của mình và đè bẹp lực lượng phòng thủ của quân Phần Lan tại Eo đất Karelia. Với lực lượng bị thiếu hụt đạn dược và đang mấp mé bờ vực kiệt sức, Phần Lan đã đồng ý với các điều khoản hòa bình trong tháng tiếp theo.
Hiệp ước kết thúc Cuộc chiến Mùa đông buộc Phần Lan phải nhường lại 11% lãnh thổ của mình cho Liên Xô, nhưng đất nước này vẫn duy trì sự độc lập của mình và sau đó chuẩn bị đối đầu với quân Nga lần thứ hai trong Thế chiến II. Trong khi đó, đối với Liên Xô, chiến thắng đến với một cái giá đắt đỏ. Trong chỉ ba tháng chiến đấu, lực lượng của họ phải chịu hơn 300.000 thương vong so với khoảng 65.000 thương vong của Phần Lan.
Cuộc chiến Mùa đông có thể cũng đã mang lại những hệ quả quan trọng cho Thế chiến II, trong đó có việc sức chiến đấu yếu ớt của Hồng quân thường được chỉ ra là một yếu tố quan trọng dẫn đến niềm tin sai lầm của Adolf Hitler rằng cuộc xâm lược vào Liên Xô tháng 6/1941 có thể sẽ thành công.
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/02/06/cuoc-chien-mua-dong-la-gi/#sthash.KdTzwEbS.dpuf

  1. Chiến tranh Liên Xô - Phần Lan
    Một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai



    Tổ súng máy của Phần Lan.
    Thời gian30/11/1939 - 13/3/1940

    Địa điểmPhần Lan

    Kết quảChiến thắng đắt giá của Liên Xô
    Hoà ước Moscow

    Thay đổi lãnh thổLiên Xô chiếm được vùng Karelia của Phần Lan

    Tham chiến
    Phần Lan

    Liên Xô

    Chỉ huy :

    Carl Gustaf Emil Mannerheim

    Kliment Yefremovich Voroshilov, sau bị thay thế bởi Semyon Konstantinovich Timoshenko

    Lực lượng
    : 250.000 , 30 tăng ,130 phi cơ
    : 1.000.000,3.000 tăng ,3.800 phi cơ

    Tổn thất :
    26.662 chết,39.886 bị thương,1.000 bị bắt
    126.875 chết hoặc mất tích,264.908 bị thương,5.600 bị bắt
  2. #2



    Trung tướng Phần Lan Öhquist-Harald



    Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Voroshilov




    Từ thập niên 1930, Phần Lan đã từ chối tham gia bất kỳ một tổ chức quốc tế nào nhằm bảo đảm cho sự trung lập của mình.
    Để đảm bảo an ninh vùng biên giới phía tây và tìm đường thông ra biển, Liên Xô đã đặt ra các yêu cầu đối với quốc gia nhỏ bé vùng Baltic này như sau:
    • Biên giới Phần Lan trên eo biển Karel phải lui về phía sau trên một cự ly đáng kể để đưa Leningrad ra khỏi tầm đại bác của đối phương (Phần Lan), tức là yêu cầu cắt đất đai của Phần Lan cho Liên Xô với điều kiện Liên Xô nhượng lại một vùng đất lớn hơn cho Phần Lan (nhưng ở vị trí kém quan trọng hơn).
    • Phần Lan phải nhượng lại một số đảo nhỏ của họ trên Vịnh Phần Lan
    • Liên Xô được thuê cảng Petsamo, cảng duy nhất không bị đóng băng của Phần Lan ở biển Bắc Cựccảng Hango trên đường vào vịnh Phần Lan để Nga dùng làm căn cứ hải quânkhông quân.
    Phần Lan khước từ tất cả những yêu sách trên[7] vì họ cho rằng với việc Liên Xô kiểm soát các vịnh then chốt, an ninh quốc gia của họ bị đe dọa nghiêm trọng. Đây là một suy nghĩ hợp lý vì Liên Xô từng đề nghị ba nước Estonia, LatviaLitva những yêu cầu tương tự năm 1939 và sau khi Liên Xô đưa quân vào ba nước này thì các chính phủ này đều bị lật đổ và các nước này đều bị sáp nhập vào Liên Xô.


    Đàm phán tan vỡ ngày 13 tháng 11, chính phủ Phần Lan bắt đầu tổng động viên. Ngày 28 tháng 11, Ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Mikhailovich Molotov đơn phương hủy hiệp ước bất khả xâm phạm ký giữa Phần Lan và Liên Xô năm 1932 (có giá trị trong 10 năm) và quân Liên Xô tràn vào Phần Lan với cớ quân Phần Lan "bắn đại bác" sang lãnh thổ Liên Xô.
    Ngày 1 tháng 12 năm 1939, tại Terijoki, một chính quyền thân Liên Xô với tên gọi là "Cộng hòa Nhân dân Phần Lan" đã được thành lập nhằm chuẩn bị cho việc tiếp quản Phần Lan sau khi Liên Xô chiếm trọn quốc gia này
    Ngày 3 tháng 12 năm 1939, Phần Lan đã yêu cầu Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án cuộc xâm lược của Liên Xô . Các nước trong Hội Quốc Liên đã đồng ý giúp đỡ Phần Lan trang bị và kinh tế trong cuộc chiến này.
    Cuộc đời ai rồi cũng sẽ gặp một người mà nếu không lấy được người ấy thì sau này có lấy ai cũng không còn quan trọng nữa. Bởi vì người ấy đã trở thành duy nhất của mọi cung bậc hờn giận yêu thương, đến nỗi những mối tình về sau dù cố gắng cách mấy cũng chỉ là sự lặp lại chẳng thể nguyên lành như cảm giác lần đầu…
    Có một người duy nhất để thương và nhớ. Có một người duy nhất để khóc và đau. Có một người duy nhất để mãi mãi không thuộc về nhau nhưng cũng chẳng thể nào buông tay được. Có một người như thế, âu cũng là một phước phần cho riêng mình - dẫu có là phước phần đớn đau.
  3. #3



    Cuộc xâm lăng của Liên bang Xô viết dọc tuyến biên giới với Phần Lan



    Trong cuộc chiến này Liên Xô gặp nhiều bất lợi, đội ngũ sĩ quan có kinh nghiệm đã bị Stalin triệt hạ gần hết trong cuộc đại thanh trừng, chỉ huy Liên Xô là Nguyên soái Kliment Yefremovich Voroshilov, một người nổi tiếng vì vai trò hỗ trợ đắc lực cho Stalin trong cuộc thanh trừng hơn là vì thành tích trên chiến trường. Quân Liên Xô cũng không có sư am tường về lãnh thổ Phần Lan và sự phối hợp chiến đấu giữa các đơn vị cũng thiếu hiệu quả.
    Ngày 30 tháng 11 năm 1939, Hồng quân Liên Xô tấn công tám điểm dọc biên giới dài 1.000 dặm của Phần Lan và dùng không quân oanh tạc thủ đô Helsingfors. Máy bay Liên Xô tràn ngập bầu trời Phần Lan, tiến hành oanh tạc dữ dội nhiều thành phố, thị trấn. Vào lúc 6h sáng cùng ngày, 23 sư đoàn của 4 tập đoàn quân với 450.000 binh lính, cùng 6 sư đoàn thiết giáp với hơn 2.000 xe tăng, được yểm hộ bởi hơn 1.000 máy bay vượt biên giới Phần Lan.

    Poster tuyên truyền của Liên Xô trong cuộc chiến tranh với Phần Lan



    Không quân Liên Xô tấn công Phần Lan chủ yếu là đơn vị ném bom và trinh sát tầm xa ADD(Aviatsiya Dalnego Deystviya), dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh tối cao. Ngoài ra còn có các đơn vị không quân khác, tổng số máy bay khoảng 1.500 tới 3.200 chiếc. Dù vậy Không lực Phần Lan tuy lúc đầu chỉ có 36 chiếc tiêm kích Fokker D.XXI, 17 máy bay ném bom Blenheim Mk.I, 31 máy bay bổ nhào Fokker C.X(các loại khác như Gladiator, Fiat G.50, Brewster B 239, Messerschmitt Bf 109 ... chưa có) nhưng các phi công được đào tạo tốt, nhiều kinh nghiệm. Dù phải sử dụng cóp nhặt đủ loại máy bay và số lượng mỗi loại rất ít, không quân Phần Lan sử dụng chúng rất hiệu quả, với tỷ lệ diệt địch trung bình 20:1.


    Chân dung lãnh tụ Liên Xô Stalin



    Ngay ngày đầu tiên của chiến tranh đã có tới 16 thành phốthị trấn miền Nam Phần Lan bị 200 máy bay Nga ném bom. Trong đó người Nga thực hiện một cuộc ném bom tàn sát vào thủ đô trong lúc người dân Phần Lan chưa biết tin gì về chiến tranh đã nổ ra. Theo các nguồn tin của Nga thì 9 chiếc máy bay SB-2 được giao nhiệm vụ tìm kiếm các kỳ hạm "Vainamoinen" và "Ilmarinen" của Phần Lan nhưng không tìm thấy nên chuyển mục tiêu vào dinh tổng thống gần quảng trường chợ. Đã có sự nhầm lẫn trong việc tìm mục tiêu và bom rơi xuống trung tâm thành phố, khu vực trạm xe buýt vào lúc 14h50, 2 dặm tính từ dinh tổng thống. 91 người chết, 236 người bị thương. Nhiều nhà cửa bị phá hủy. Mặc dù các máy bay Nga lợi dụng mây để tấn công bất ngờ, vẫn có 3 chiếc bị rơi vì cao xạ. Mục tiêu chiến lược của Nga là ép chính phủ Phần Lan phải đầu hàng, tiêu diệt nguồn lực cho cuộc kháng chiến, gây hoang mang trong dân chúng. Các phi vụ ném bom chiến lược thực hiện nhằm vào các hải cảng, ga xe lửa nhằm cắt đứt tiếp tế của Phần Lan trong khi các phi vụ chiến thuật nhằm vào các đạo quân trên chiến tuyến cùng các căn cứ không quân.
    Các chiến lược gia Hồng quân quá tự tin sau cuộc chiến Ba Lan nên đã quyết định tấn công bất ngờ vào Phần Lan ngay cuối mùa thu năm 1939 mà không cần chuẩn bị trang bị, khí tài mùa đông cho binh sĩ của mình. Tình báo Liên Xô cho biết Phần Lan chỉ có 120.000 quân phòng thủ cùng 162 máy bay đủ loại, yếu hơn nhiều so với đội quân Liên Xô.

    "Thùng bánh mì" mà ngoại trưởng Liên Xô Molotov đã nói tới. Người dân Phần Lan đã gọi nó là Molotovin leipäkori/Thùng bánh mì Molotov. Đây chính là loại bom RRAB-3 do Liên Xô sản xuất



    Dù lúc đầu ít có ác cảm với Liên Xô nhưng sau các cuộc ném bom, người Phần Lan hình dung Liên Xô là một đất nước bạo tàn, từ đó họ bắt đầu căm ghét và mong muốn được trả thù, đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc Phần Lan trở thành đồng minh Đức. Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt gửi thông điệp tới Moskva, khuyến cáo về việc Liên Xô ném bom các thành phố thì Molotov, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô trả lời rằng "chúng tôi không ném bom và sẽ không bao giờ ném bom thành phố của Phần Lan , mà chỉ ném bom các sân bay, các sân bay này cách Mỹ 8 ngàn km nên người Mỹ không thể phân biệt được". Tuyên truyền của Liên Xô nói rằng các hình chụp nhà cháy, người chết có từ năm 1918. Liên Xô không có ném bom mà ném bánh mì xuống cho dân Phần Lan đang chết đói.
    Stalin đặt kế hoạch chiếm Phần Lan chỉ trong 2 tuần, khi đó dù Molotov nói gì cũng không còn quan trọng. Người Nga đã lập trước một bộ sậu gọi là "Chính phủ nhân dân Phần-Lan" cũng như tuyên bố mọi hành động quân sự là để giúp chính phủ nói trên. Không có chiến tranh, chỉ là các hoạt động chống "các nhóm vũ trang phản động" tại Hensinki đang đàn áp nhân dân. Sau này người Nga còn dùng nhiều từ khác nhau để chỉ cuộc chiến như: "Cuộc kháng chiến chống Phần Lan"(?), "cuộc chiến không tuyên bố", "chiến dịch Phần Lan", "chiến dịch truy quét Bạch vệ Phần Lan" v.v...


    Con đường chết Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích và tiêu diệt



    Ban đầu người Nga tấn công chủ yếu vào công trình bố phòng trên biên giới Phần Lan ở eo biển Karel, bao gồm một vùng có công sự phòng ngự rộng khoảng 20 dặm chạy từ Bắc đến Nam. Tuy nhiên xe tăng Liên Xô thường xuyên vấp mìn của quân Phần lan cài lại nên nhiều chiếc bị phá huỷ mau chóng còn binh sĩ Liên Xô bị vướng rào kẽm gai trong phòng tuyến của đối phương nên phơi mình cho các ổ súng máy bố trí khéo léo trong rừng. Quân đội Phần Lan với số lượng ít ỏi, chỉ khoảng hơn 200.000, dựa vào địa hình quen thuộc đã chống trả quyết liệt. Họ chủ động rút lui nhử các binh đoàn Xô Viết với vũ khí hạng nặng vào sâu trong lãnh thổ. Khi quân Nga kéo sâu vào 30 dặm, người Phần Lan tổ chức phản công. Bị chặn lại tại các phòng tuyến Phần Lan được xây dựng trong rừng, ngày đêm bị tấn công dữ dội vào sườn, đường giao thông phía sau bị gián đoạn, các binh đoàn Nga bị cắt ra từng mảnh, rút lui về điểm xuất kích với tổn thất lớn.
    Mùa đông năm 1939 có nhiệt độ âm 40-50 độ C, lạnh thứ hai kể từ năm 1828. Không quần áo ấm, nhiên liệu, thuốc men dự trữ, binh lính Liên Xô thay vì gặp nhân dân Phần-Lan cầm cờ-hoa-khẩu hiệu vẫy chào (như đài nói) lại phải đánh nhau trong địa ngục băng giá (frozen hell). Hậu cần quá kém đến nỗi số người chết rét gấp nhiều số bị giết. Mặc dù chiến đấu với đội quân gấp 4 lần số bộ binh, 100 lần số xe tăng, 30 lần số máy bay, tinh thần quân Phần Lan rất cao. Có ngày quân Nga chết gần 10 ngàn người trong khi quân Phần Lan trung bình mất 250 người mỗi ngày.
    Trong suốt tháng 12, gần 12 sư đoàn Liên Xô đồng loạt tấn công ồ ạt trên toàn tuyến phòng thủ Mannerheim thuộc eo biển Karel nhưng đều thất bại. Từ ngày 7 tháng 12 năm 1939 đến ngày 8 tháng 1 năm 1940 khoảng 45.000-50.000 quân Liên Xô có xe tăng yểm trợ tấn công mạnh 11.000 quân Phần Lan ở Suomussalmi, kết quả là 27.500 lính Hồng quân tử trận và 2.100 bị bắt làm tù binh để đổi lấy 900 quân Phần Lan. Đặc biệt là trong khoảng từ 4 tháng 1 đến 7 tháng 1 năm 1940, 6.000 quân Phần Lan phục kích một lực lượng Xô viết khoảng 25.000 quân trong một trận lớn trên đường Raate, quân Phần Lan có 250 người chết để đổi lấy 17.500 quân Xô viết chết hoặc mất tích và 1.300 tù binh. 2 sư đoàn 163 và 44 Bộ binh Liên Xô bị mất 86 xe tăng còn phía Phần Lan tịch thu làm chiến lợi phẩm 69 xe T-26 và 10 xe cơ giới các loại.Tàn quân Liên Xô còn lại tháo chạy về hậu cứ.


    Lính trượt tuyết Phần Lan tại mặt trận phía Bắc ngày 12-1-1940
    Cuộc đời ai rồi cũng sẽ gặp một người mà nếu không lấy được người ấy thì sau này có lấy ai cũng không còn quan trọng nữa. Bởi vì người ấy đã trở thành duy nhất của mọi cung bậc hờn giận yêu thương, đến nỗi những mối tình về sau dù cố gắng cách mấy cũng chỉ là sự lặp lại chẳng thể nguyên lành như cảm giác lần đầu…
    Có một người duy nhất để thương và nhớ. Có một người duy nhất để khóc và đau. Có một người duy nhất để mãi mãi không thuộc về nhau nhưng cũng chẳng thể nào buông tay được. Có một người như thế, âu cũng là một phước phần cho riêng mình - dẫu có là phước phần đớn đau.
  4. #4

    Default

    Thống kê trong các chiến dịch này Phần Lan đã tịch thu 288 xe tăng và 35 xe cơ giới các loại của Liên Xô bao gồm T-26, BT-5BT-7. 167 chiếc đã được trang bị lại cho các đội xe tăng lúc này còn nhỏ bé của Phần Lan.
    Hồng quân rất lúng túng bởi nhiều vấn đề chưa lường hết như quân phục lính liên Xô có màu sẫm khiến họ trở thành bia di động trên tuyết, vấn đề liên lạc, vấn đề di chuyển trên các vùng đầm lầy Phần Lan, vấn đề lương thực, nhiên liệu và sưởi ấm trong nhiệt độ âm 40 độ C cho một đội quân nửa triệu v.v. Nhiều sư đoàn Hồng quân bị mất liên lạc như sư đoàn 44: bị kẹt trong đầm lầy, trong số 44.000 quân chỉ còn có 5.000 sống sót. Tại eo đất Karelian, các đơn vị Nga bị bao vây trong các công sự bằng gỗ, người chết đói, chết rét vô số.


    Quân tình nguyện Na Uy chiến đấu bên cạnh người dân Phần Lan năm 1940



    Các sông hồ, đầm lầy và rừng Phần-Lan chật xác Hồng quân. Các đoàn xe vận tải, xe tăng chết chìm trong đầm lầy, mắc kẹt giữa sông băng cho tới tận mùa xuân mới chìm xuống đáy. Hàng đòan xe bị bỏ giữa những con đường xuyên rừng. Phần Lan chiếm được 85 xe tăng, 437 xe tải, 36 xe kéo, 10 xe gắn máy, 1.620 ngựa, 92 pháo, 78 súng chống tăng, 13 pháo cao xạ và hàng ngàn súng trường, súng máy, nhiều kho đạn dược.
    Trong cuộc chiến này, người dân Phần Lan đã sáng chế ra 1 loại vũ khí đặc biệt là Cocktail Molotov (hàm ý căm ghét Molotov-Ngoại trưởng Liên Xô lúc đó) hay còn gọi là chai xăng để chống lại những xe tăng hạng nặng, xoay trở chậm chạp của Liên Xô đạt hiệu quả rất cao cũng như việc các binh sĩ Phần Lan mặc áo khoác trắng nguỵ trang trong tuyết để phục kích quân địch. Những kinh ngiệm này về sau đã được Liên Xô học lại trong Chiến tranh Xô-Đứcchai xăng vì nhiều lý do đã không đạt hiệu suất tiêu diệt xe tăng Đức cao như những gì người Phần Lan đã làm với Liên Xô. Khi kết thúc cuộc chiến Hồng quân Liên Xô bị thiệt hại 2.268 xe tăng, tương đương 9,2% số xe tăng Liên Xô có được năm 1939.


    Người anh hùng của quân Phần Lan- Trung uý Simo Hayha



    Ngoài những trận đánh trực diện, quân Phần Lan còn sử dụng các tay bắn tỉa, mà trong đó nổi tiếng nhất là Simo Hayha (Simo Häyhä) được quân Nga mệnh danh cho anh là Cái chết trắng (tiếng Nga: Белая Смерть, tiếng Anh: White Death, tiếng Phần Lan: Valkoinen kuolema). Sử dụng 1 khẩu súng trường Pystykorva, anh đã hạ 542 quân địch. Khi được tặng 1 khẩu súng tiểu liên Suomi M-31 SMG, anh diệt thêm 200 lính Xô viết, nâng thành tích lên được ít nhất 705 lính Liên Xô trong suốt cuộc chiến.
    Tuy đạt được những thắng lợi ấn tượng nhưng Phần Lan không thể sánh lại ưu thế của Liên Xô về người và của. Trong khi chiến tranh làm hao tổn lực lượng Phần Lan không thể bù đắp thì Liên Xô dù thiệt hại nặng nhưng với 170 triệu dân so với 4 triệu của Phần Lan thì thiệt hại nhân mạng là không đáng kể. Ngay cả quân đội Xô viết với 7,2 triệu người năm 1939 ,cũng đã đông gần gấp 2 lần toàn bộ dân số Phần Lan.
    Bất chấp thiệt hại khủng khiếp, Stalin tiếp tục cho hàng đoàn quân ra mặt trận, ông tuyên bố hồ hởi: "không quân của chúng ta đã tham chiến! Rất nhiều cầu đã bị phá sập! Rất nhiều đoàn tàu đã bị tiêu diệt! Quân Phần Lan chỉ còn ván trượt tuyết (để đánh nhau)! Nguồn cung cấp ván trượt của chúng quả là vô tận ...".


    Xe tăng T-26 của Liên Xô bị tịch thu trên đường Raate



    Đến tháng 2 năm sau, Hồng quân tập trung gom quân mở cuộc tấn công lớn tràn ngập eo biển kéo dài 42 ngày, kết hợp với những cuộc không kích lớn vào các nhà ga và các khu đầu mối đường sắt phía sau chiến tuyến. Theo 1 tác giả Việt Nam là Nguyễn Huy Quý thì: "Liên Xô đã kiên quyết giáng trả hành động gây chiến của Phần Lan""sau khi đập tan các cuộc tấn công khiêu khích của quân đội Phần Lan thì Liên Xô đã vượt biên giới và mở đường tiến về Hensinki.
    Tháng 2 năm 1940, không quân Liên Xô đánh bom tập trung nhằm cắt đứt đường xe lửa-nguồn tiếp tế cho mặt trận. Xe lửa chỉ có thể chạy vào ban đêm, dù vậy các cuộc ném bom trong đợt này diễn ra dày đặc đến nỗi hệ thống đường sắt của Phần Lan gần như tan tành vào thời điểm kết thúc cuộc chiến.
    Cuộc tấn công trên bộ của 6 sư đoàn Hồng quân, được yểm hộ bởi 440 khẩu đại bác cỡ lớn (bắn 300.000 quả đạn trên phòng tuyến chỉ dài 1.6km), cùng với 500 máy bay và hàng trăm xe tăng tại Hatjalahti và hồ Muolaa đã bị bẻ gẫy. Hồng quân thiệt hại hàng sư đoàn, nhưng Stalin tiếp tục điều thêm 600.000 quân, trong suốt một tháng, các cuộc tấn công biển người tiếp diễn tại hồ Ladoga, tại vịnh Phần Lan...
    Sau nửa tháng chiến đấu, phòng tuyến bị phá vỡ. Ngày 12 tháng 3 năm 1940 quân Liên Xô đổ bộ 2 sư đoàn (1 sư đoàn Liên Xô khoảng 22.000-25.000 người) lên Petsamo để tấn công 3 đại đội (1 đại đội khoảng trên 100 người) của Phần Lan. Tuyến phòng thủ phía Bắc của quân Phần Lan bị chọc thủng, 3 đại đội quân Phần Lan phòng thủ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngày 26/2, hết sạch đạn dược và nhiên liệu, lương thực, quân Phần Lan buộc phải rút khỏi Koivisto. Ngày 12 tháng 3 năm 1940, chính phủ Phần Lan đã phải chấp thuận các điều kiện ban đầu của Liên Xô.


    Xác chiến sĩ Hồng quân



    Những lãnh thổ của Phần Lan bị cắt cho Liên Xô



    Cuộc chiến kết thúc với thắng lợi của Liên Xô, dù bị thiệt hại nặng. Hội Quốc Liên đã phản đối quyết liệt cuộc tấn công này và với đa số phiếu tuyệt đối đã khai trừ Liên Xô ra khỏi tổ chức hội.
    Sau khi chiến tranh kết thúc, trên phần đất chiếm được của Phần Lan, Liên Xô đã thành lập Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia và sáp nhập vào Liên Xô do Otto Kusinen (một nhà chính trị Phần Lan lưu vong ở Liên Xô) lãnh đạo. Nhiều người dân ở đây đã bỏ chạy sang vùng lãnh thổ của chính phủ Phần Lan sau chiến tranh.
    Cuộc đời ai rồi cũng sẽ gặp một người mà nếu không lấy được người ấy thì sau này có lấy ai cũng không còn quan trọng nữa. Bởi vì người ấy đã trở thành duy nhất của mọi cung bậc hờn giận yêu thương, đến nỗi những mối tình về sau dù cố gắng cách mấy cũng chỉ là sự lặp lại chẳng thể nguyên lành như cảm giác lần đầu…
    Có một người duy nhất để thương và nhớ. Có một người duy nhất để khóc và đau. Có một người duy nhất để mãi mãi không thuộc về nhau nhưng cũng chẳng thể nào buông tay được. Có một người như thế, âu cũng là một phước phần cho riêng mình - dẫu có là phước phần đớn đau.
  5. #5

    Binh sĩ Phần Lan bắn cháy xe T-34 Liên Xô ở mặt trận Tali-Ihantala trong Chiến tranh Xô-Đức



    Cuối cuộc chiến 105 ngày, không quân Liên Xô đã ném bom 690 thành phố, thị trấnlàng mạc. Máy bay của không lực lục quân bay 44.041 phi vụ, hải quân bay 8.000 phi vụ, ném hơn 25 ngàn tấn bom (55.000 quả), 41 ngàn khối bom cháy. Cường kích Hồng quân tấn công hơn 440 phi vụ. Không lực Hồng quân mất 314 máy bay do cao xạ Phần Lan, 207 chiếc khác bị hạ do tiêm kích.
    Tổn thất của dân thường Phần Lan do không kích là 956 người chết, 540 bị thương nặng, 1.300 bị thương nhẹ với 2.000 ngôi nhà bị phá hủy, 5.000 nhà khác bị hư hại. Trong cả cuộc chiến, 25.000 người Phần-Lan chết, 55.000 bị thương, 450.000 người mất nhà cửa.
    Nhờ chiến thắng ở Phần Lan, Liên Xô đã có thể đoạt được các khu vực chiến lược nhằm củng cố phòng thủ đất nước và lấy thêm nhiều nhà máy, công trình của Phần Lan trên vùng đất mới Karelia. Sau khi Liên Xô chiếm dải đất Karelia của Phần Lan đã gây ra sự căm phẫn trong dân chúng nước này, chính phủ Phần Lan đã từ bỏ chính sách trung lập và tham gia cùng với các lực lượng Đức tấn công Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức năm 1941. (Xem chi tiết: Chiến tranh Continuation)
    Âm nhạc


    Xe tăng T-26 của Hồng quân Liên Xô ở mặt trận Karelia tháng 12/1939



    Năm 1942, nghệ sĩ Phần Lan Matti Jurva đã hát bài Njet Molotoff (No Molotov) để lên án cuộc tấn công của Liên Xô.
    Finlandia, Finlandia, Phần Lan, Phần Lan
    Sinne taas matkalla oli Iivana. Ivan đã quay lại nơi này lần nữa
    Kun Molotoffi lupas: "Juu kaikki harosii, Molotov nói “nhanh thôi, mọi thứ sẽ OK
    Huomenna jo Helsingissä syödään marosii". Ngày mai chúng ta sẽ ăn kem ở Helsinki”
    Njet Molotoff, njet Molotoff, Không Molotov, không Molotov
    Valehtelit enemmän kuin itse Bobrikov. Ông nói dối nhiều hơn cả Bobrikov

    Finlandia, Finlandia, Phần Lan, Phần Lan
    Mannerheimin linja oli vastus ankara. Phòng tuyến Mannerheim là hàng rào độc ác
    Kun Karjalasta alkoi hirmu tulitus, Lửa giận bốc lên từ Karelia
    Niin loppui monen Iivanan puhepulistus. Đã chấm dứt những lời ba hoa của Ivan
    Njet Molotoff... Không Molotov, không Molotov
    Valehtelit enemmän kuin itse Bobrikov. Ông nói dối nhiều hơn cả Bobrikov

    Cuộc chiến Mùa đông là gì?

    Print Friendly

    Nguồn:What was the Winter War?“, History, 30/10/2016
    Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
    Chưa đầy hai năm trước khi Liên Xô đối đầu với phát xít Đức trong Thế chiến II, quốc gia này đã tiến hành một cuộc chiến tranh đẫm máu với một kẻ thù khác: đất nước Phần Lan bé nhỏ. Mối thù của Nga với nước láng giềng Bắc Âu của mình bắt đầu từ năm 1939, khi lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin mong muốn mở rộng ảnh hưởng của mình sang Đông Âu. Lấy cớ là quan ngại về một cuộc tấn công tiềm tàng của Đức, Stalin yêu cầu rằng biên giới giữa Phần Lan với Nga phải được đẩy lùi về phía Phần Lan 16 dặm dọc theo Eo đất Karelia để tạo ra một vùng đệm xung quanh thành phố Leningrad.
    Stalin cũng muốn người Phần Lan bàn giao một số hòn đảo ở Vịnh Phần Lan và cho Liên Xô thuê phần lãnh thổ trên bán đảo Hanko để xây dựng một căn cứ hải quân. Liên Xô cũng đề nghị trao cho Phần Lan  một dải lãnh thổ rộng lớn của Nga như là một phần của thỏa thuận, nhưng người Phần Lan đã nghi ngờ về động cơ của họ và từ chối đề nghị này. Ngày 30 tháng 11 năm 1939, sau một loạt các tối hậu thư và các cuộc đàm phán thất bại, Hồng quân Liên Xô đã đã phát động một cuộc xâm lược Phần Lan với nửa triệu quân.
    Mặc dù phải đối đầu với đội quân đông hơn và được trang bị vũ khí tốt hơn trong cái được gọi là “Cuộc chiến mùa đông”, người Phần Lan lại có lợi thế chiến đấu trên sân nhà. Được lãnh đạo bởi Nguyên soái Carl Gustaf Mannerheim, họ ẩn mình đằng sau một mạng lưới các hào, hầm bê tông và công sự tại chiến trường ở Eo đất Karelia và đánh bật các cuộc tấn công liên tiếp của xe tăng Liên Xô.
    Ở những khu vực khác trên biên giới, các đội quân trượt tuyết Phần Lan đã sử dụng địa hình gồ ghề để tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các đơn vị quân bị cô lập của Liên Xô. Chiến thuật du kích của họ được hỗ trợ bởi thời tiết giá băng của mùa đông Phần Lan, điều đã khiến quân Liên Xô sa lầy và làm cho binh sĩ trở nên dễ dàng bị nhận ra trên địa hình đầy tuyết. Một tay bắn tỉa của Phần Lan, một nông dân tên là Simo Hayha, cuối cùng đã được ghi nhận là bắn chết hơn 500 binh sĩ Liên Xô.
    Trong khi người Phần Lan thể hiện một sự phản kháng mạnh mẽ trong mùa đông năm 1939-1940, rốt cuộc quân đội của họ cũng không phải là đối thủ trước đội quân lớn hơn nhiều của Hồng quân. Vào tháng 02/1940, sau một trong những vụ oanh tạc pháo binh lớn nhất kể từ Thế chiến I, Liên Xô đã khôi phục các đợt tấn công dữ dội của mình và đè bẹp lực lượng phòng thủ của quân Phần Lan tại Eo đất Karelia. Với lực lượng bị thiếu hụt đạn dược và đang mấp mé bờ vực kiệt sức, Phần Lan đã đồng ý với các điều khoản hòa bình trong tháng tiếp theo.
    Hiệp ước kết thúc Cuộc chiến Mùa đông buộc Phần Lan phải nhường lại 11% lãnh thổ của mình cho Liên Xô, nhưng đất nước này vẫn duy trì sự độc lập của mình và sau đó chuẩn bị đối đầu với quân Nga lần thứ hai trong Thế chiến II. Trong khi đó, đối với Liên Xô, chiến thắng đến với một cái giá đắt đỏ. Trong chỉ ba tháng chiến đấu, lực lượng của họ phải chịu hơn 300.000 thương vong so với khoảng 65.000 thương vong của Phần Lan.
    Cuộc chiến Mùa đông có thể cũng đã mang lại những hệ quả quan trọng cho Thế chiến II, trong đó có việc sức chiến đấu yếu ớt của Hồng quân thường được chỉ ra là một yếu tố quan trọng dẫn đến niềm tin sai lầm của Adolf Hitler rằng cuộc xâm lược vào Liên Xô tháng 6/1941 có thể sẽ thành công.
    - See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/02/06/cuoc-chien-mua-dong-la-gi/#sthash.KdTzwEbS.dpuf
     

    Cuộc chiến Mùa đông là gì?

    Print Friendly

    Nguồn:What was the Winter War?“, History, 30/10/2016
    Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
    Chưa đầy hai năm trước khi Liên Xô đối đầu với phát xít Đức trong Thế chiến II, quốc gia này đã tiến hành một cuộc chiến tranh đẫm máu với một kẻ thù khác: đất nước Phần Lan bé nhỏ. Mối thù của Nga với nước láng giềng Bắc Âu của mình bắt đầu từ năm 1939, khi lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin mong muốn mở rộng ảnh hưởng của mình sang Đông Âu. Lấy cớ là quan ngại về một cuộc tấn công tiềm tàng của Đức, Stalin yêu cầu rằng biên giới giữa Phần Lan với Nga phải được đẩy lùi về phía Phần Lan 16 dặm dọc theo Eo đất Karelia để tạo ra một vùng đệm xung quanh thành phố Leningrad.
    Stalin cũng muốn người Phần Lan bàn giao một số hòn đảo ở Vịnh Phần Lan và cho Liên Xô thuê phần lãnh thổ trên bán đảo Hanko để xây dựng một căn cứ hải quân. Liên Xô cũng đề nghị trao cho Phần Lan  một dải lãnh thổ rộng lớn của Nga như là một phần của thỏa thuận, nhưng người Phần Lan đã nghi ngờ về động cơ của họ và từ chối đề nghị này. Ngày 30 tháng 11 năm 1939, sau một loạt các tối hậu thư và các cuộc đàm phán thất bại, Hồng quân Liên Xô đã đã phát động một cuộc xâm lược Phần Lan với nửa triệu quân.
    Mặc dù phải đối đầu với đội quân đông hơn và được trang bị vũ khí tốt hơn trong cái được gọi là “Cuộc chiến mùa đông”, người Phần Lan lại có lợi thế chiến đấu trên sân nhà. Được lãnh đạo bởi Nguyên soái Carl Gustaf Mannerheim, họ ẩn mình đằng sau một mạng lưới các hào, hầm bê tông và công sự tại chiến trường ở Eo đất Karelia và đánh bật các cuộc tấn công liên tiếp của xe tăng Liên Xô.
    Ở những khu vực khác trên biên giới, các đội quân trượt tuyết Phần Lan đã sử dụng địa hình gồ ghề để tiến hành các cuộc tấn công chớp nhoáng vào các đơn vị quân bị cô lập của Liên Xô. Chiến thuật du kích của họ được hỗ trợ bởi thời tiết giá băng của mùa đông Phần Lan, điều đã khiến quân Liên Xô sa lầy và làm cho binh sĩ trở nên dễ dàng bị nhận ra trên địa hình đầy tuyết. Một tay bắn tỉa của Phần Lan, một nông dân tên là Simo Hayha, cuối cùng đã được ghi nhận là bắn chết hơn 500 binh sĩ Liên Xô.
    Trong khi người Phần Lan thể hiện một sự phản kháng mạnh mẽ trong mùa đông năm 1939-1940, rốt cuộc quân đội của họ cũng không phải là đối thủ trước đội quân lớn hơn nhiều của Hồng quân. Vào tháng 02/1940, sau một trong những vụ oanh tạc pháo binh lớn nhất kể từ Thế chiến I, Liên Xô đã khôi phục các đợt tấn công dữ dội của mình và đè bẹp lực lượng phòng thủ của quân Phần Lan tại Eo đất Karelia. Với lực lượng bị thiếu hụt đạn dược và đang mấp mé bờ vực kiệt sức, Phần Lan đã đồng ý với các điều khoản hòa bình trong tháng tiếp theo.
    Hiệp ước kết thúc Cuộc chiến Mùa đông buộc Phần Lan phải nhường lại 11% lãnh thổ của mình cho Liên Xô, nhưng đất nước này vẫn duy trì sự độc lập của mình và sau đó chuẩn bị đối đầu với quân Nga lần thứ hai trong Thế chiến II. Trong khi đó, đối với Liên Xô, chiến thắng đến với một cái giá đắt đỏ. Trong chỉ ba tháng chiến đấu, lực lượng của họ phải chịu hơn 300.000 thương vong so với khoảng 65.000 thương vong của Phần Lan.
    Cuộc chiến Mùa đông có thể cũng đã mang lại những hệ quả quan trọng cho Thế chiến II, trong đó có việc sức chiến đấu yếu ớt của Hồng quân thường được chỉ ra là một yếu tố quan trọng dẫn đến niềm tin sai lầm của Adolf Hitler rằng cuộc xâm lược vào Liên Xô tháng 6/1941 có thể sẽ thành công.
    - See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/02/06/cuoc-chien-mua-dong-la-gi/#sthash.KdTzwEbS.dpuf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét