CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 62
(ĐC sưu tầm trên NET)
Mặt Trăng là vật thể nổi bật nhất trên bầu trời của chúng ta vào ban đêm, gợi lên cả những điều kỳ diệu và thần thoại từ xa xưa. Vài thập kỷ vừa qua đã đưa đến hiểu biết mới về những điều bí ẩn của Mặt Trăng, nhiều câu hỏi chưa có lời đáp vẫn bao trùm chiếc “vệ tinh tự nhiên” duy nhất này.
Các hành tinh theo kích cỡ, từ trái qua phải: Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hỏa. Trong đó, Sao Kim có kích cỡ tương đương với Trái Đất (diện tích bề mặt bằng 0,902 Trái Đất và thể tích bằng 0,866 Trái Đất), nhưng Sao Kim không có vệ tinh tự nhiên giống như Trái Đất của chúng ta – ND (Ảnh: Scooter20, Wikipedia)
Các đại hành tinh như Sao Mộc và Sao Thổ có kích cỡ lớn hơn Trái Đất nhiều lần. Thế nhưng, mặt trăng của Sao Mộc chỉ bằng khoảng 1/80 hành tinh này, còn Mặt Trăng của chúng ta lại tương đương ¼ Trái Đất – ND (Ảnh: Wikipedia)
Hố va chạm Copernicus trên bề mặt Mặt Trăng. Theo tính toán khoa học, một thiên thạch có đường kính vài dặm với vận tốc 30.000 dặm/giây sẽ tạo ra hố sâu gấp 4-5 lần đường kính của nó. Các hố thiên thạch trên trái đất đã chứng minh tính toán này là chính xác. Thế nhưng các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng lại nông một cách khác thường – ND (Ảnh: Courtesy NASA/JPL-Caltech)
Hình ảnh quen thuộc của Mặt Trăng mà chúng ta luôn thấy khi nhìn từ Trái Đất… (Ảnh: NASA/GSFC/Arizona State University, Wikipedia)
Đĩa hát 78 rpm
Máy thâu băng
Ảnh hưởng của vũ trụ lên cơ thể người
Có rất nhiều cuộc thảo luận
trong giới y khoa về việc hướng năng lượng trong cơ thể người phù hợp
với các tần số chữa bệnh trong vũ trụ. Liệu các phương pháp được quảng
bá đó có thực sự hiệu quả? Hoặc liệu những phương pháp như vậy dưới góc
độ khoa học có hợp lý hay không? Đây là các vấn đề thảo luận nằm ngoài
phạm vi bài viết này.
Tuy nhiên, một nghiên cứu được trình bày
tại hội thảo của Hiệp hội Khám phá Khoa học (Society for Scientific
Exploration) ở Washington, D.C, Mỹ vào tháng 5 vừa qua, đã đưa ra giả
thuyết rằng, cơ thể của chúng ta sẽ tự điều chỉnh để phù hợp với các tần
số trong vũ trụ.
York Dobyns hoàn thành luận án tiến sĩ
ngành vật lý tại Đại học Princeton và đã làm việc ở “Phòng Nghiên cứu
những Hiện tượng bất thường Princeton” trong 30 năm. Ông là đồng tác giả
nghiên cứu và là người thuyết trình tại buổi hội thảo, còn Tiến sĩ
Rollin McCraty đến từ Viện HeartMath là người chịu trách nhiệm chính.
Theo đó, Rollin và nhóm nghiên cứu của ông đã phát hiện ra rằng, các
biến số môi trường như: tia vũ trụ, tình trạng hoạt động của Mặt Trời và
các sóng điện từ trong bầu khí quyển Trái Đất… có thể là tác nhân gây
nên 2-8% sự thay đổi trong nhịp tim.
Trong nghiên cứu của Rollin, 16 tình
nguyện viên tham gia đến từ Ả-rập Xê-út (Ả-rập Saudi) đã được đo sự biến
thiên của nhịp tim từ ngày 1/3 đến ngày 31/8/2012. Trong khoảng thời
gian đó, 12 biến số của từ trường Trái Đất, vũ trụ và các nhân tố như
nhịp điệu sinh học của cơ thể cũng được đồng thời ghi lại để xem xét khi
tiến hành phân tích dữ liệu.
Kết quả thu được cho thấy, 74/120 thử
nghiệm có xác suất ngẫu nhiên p < 0,05. Nghĩa là chỉ có 5% sự thay
đổi của nhịp tim xảy ra một cách ngẫu nhiên. 31/120 thử nghiệm còn lại
cho xác xuất p < 0,001 tức là trong những thử nghiệm này, 99% sự thay
đổi nhịp tim là do các nhân tố bên ngoài tác động.
Có đến hơn 99,9% khả năng các nhân tố môi trường đã tác động đến sự thay đổi nhịp tim.
Theo TS Dobyns, hiện tượng cộng hưởng
Schumann và các tia vũ trụ là một trong những nhân tố được cho thấy có
sự tác động đáng kể đến sự thay đổi nhịp tim.
Trang web của Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ đã miêu tả về các tia vũ trụ như sau: “Các
tia vũ trụ được tìm thấy trong không gian vũ trụ, chúng rất giàu năng
lượng và được phóng liên tục vào bầu khí quyển của Trái đất. Chúng đến
từ mọi hướng trong không gian vũ trụ và nguồn gốc của những tia này đến
nay vẫn còn là một điều bí ẩn”.
Còn đối với các cộng hưởng Schumann, trang Wikipedia đã miêu tả như sau:
“Cộng hưởng
Schumann là hiện tượng các bức xạ điện từ được tạo ra bao quanh theo chu
vi trái đất như ở trong một hốc cộng hưởng sóng dọc. Nguyên nhân có thể
do sét, nhưng biên độ của chúng cực bé cho nên chỉ có thể phát hiện
bằng các máy đo có độ nhạy cao. Cộng hưởng Schumann có ảnh hưởng đối với
sự thay đổi khí hậu, các hoạt động địa chấn và hệ thần kinh của con
người. Loại cộng hưởng này dường như có liên hệ với các hoạt động điện
trong bầu khí quyển, đặc biệt trong những khoảng thời gian hoạt động ánh
sáng cường độ mạnh.
Cộng hưởng
Schumann tương tự như một loại nhiệt kế, trong đó các chỉ số tần số giúp
đo nhiệt độ chung của Trái Đất, cũng như sự thay đổi của khí hậu và
thậm chí là có khả năng dự báo về những trận động đất lớn. Ngoài ra, tần
số chính của Cộng hưởng Schumann trùng hợp với tần số Alpha của não bộ,
được miêu tả như là sóng điện từ đại diện cho các hoạt động của vỏ não
trong giai đoạn nghỉ ngơi, và là một trong những tham số được sử dụng
đối với hệ thần kinh trung ương.”
Trong
chuyên mục Khoa học huyền bí, Đại Kỷ Nguyên khám phá các nghiên cứu và
các sự kiện có liên quan tới các hiện tượng và giả thuyết đang thách đố
hiểu biết của chúng ta hiện nay. Chúng tôi sẽ đào sâu vào những ý tưởng
có thể kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng mới. Hãy chia
sẻ với chúng tôi suy nghĩ của bạn về những chủ đề có thể gây nhiều tranh
cãi trong phần bình luận bên dưới.
Tác giả: Tara MacIsaac, Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Thanh Hải biên dịch
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Thanh Hải biên dịch
Người đàn ông này yêu cầu Vũ trụ cho một ‘dấu hiệu’ – và ông đã nhận được
Trong một cuộc phỏng vấn với Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh,
Rick Dodson nhớ lại một số trải nghiệm siêu thường vào những năm 1980.
Điều gì đã thực sự xảy ra vào lúc đó? Tất cả những điều này có ý nghĩa
gì?
Giờ đây, hiện thực của các trải nghiệm
siêu thường đã dần phai mờ, chỉ còn lại sự nghi hoặc len lỏi vào suy
nghĩ của ông. Ông đã nhận được các cuộc điện thoại kỳ lạ—có thể là các
cuộc điện thoại từ những người đã khuất. Khi ông phát hiện thấy rất
nhiều người khác, bao gồm bà ngoại của ông, cũng từng trải nghiệm hiện
tượng này, ông đã bắt đầu một cuộc tìm kiếm sự thật đầy hứng khởi. Nhưng
thật khó nắm bắt sự thực trong những trường hợp như vậy.
Để biết thêm chi tiết về những trải nghiệm của Dodson vào những năm 1980, hãy đọc thêm bài Người đàn ông hơn 30 năm đi tìm lời giải cho hiện tượng điện tử bí ẩn.
Giờ đây, khoảng 20 năm sau, ông muốn một
dấu hiệu—thứ gì đó để làm sống lại niềm tin rằng những gì ông đã trải
nghiệm thực sự đến từ một tấm màn bí ẩn phân cách giữa thế giới này và
thế giới bên kia.
Ông đã đặt câu hỏi này với Vũ trụ: “Đây có phải sự thật không?!” Câu trả lời dường như xuất hiện một cách trùng hợp đến không ngờ, “Có! Có rất nhiều nguồn lực kỳ diệu đang hoạt động trong thế giới này!”
Ông thoáng nghĩ đến người cha đã mất
khoảng 7 năm về trước và tự hỏi nếu người chết có khả năng liên lạc với
người sống thì liệu cha ông có đang cố gắng liên lạc với ông hay không.
Vào cuối ngày hôm đó, ông nhận được điện thoại từ một người phụ nữ bảo
rằng một gói đồ cho Charles Dodson đã được chuyển nhầm đến nhà bà. Đó là
tên cha ông.
Người phụ nữ hỏi rằng liệu ông có sống ở
địa chỉ ghi trên gói đồ không. Dodson cho biết ông không sống ở đó,
nhưng ông từng sở hữu một cửa hàng ở địa chỉ đó. Dodson sống ở
Driftwood, Texas, một thị trấn nhỏ đến nỗi ông khá chắc rằng không có
bất cứ một Charles Dodson nào khác sống ở đây. Cha ông đã chuyển đi khỏi
Driftwood từ rất lâu trước khi ông mất. Dodson hiếm khi nhận được thư
từ gửi cho cha ông và bưu phẩm thì cũng rất hiếm.
Dodson gọi cho bưu điện địa phương và
hỏi xem có ai khác tên Charles Dodson trong danh sách sống ở thị trấn
này không. Trong hồ sơ của họ có một thùng thư đề tên Charles Dodson. Sự
trùng hợp của một địa chỉ nhầm lẫn gắn liền với nơi Dodson từng sở hữu
một cửa hàng, tên người cha của ông, và ý nghĩ muốn một dấu hiệu và có
lẽ liên quan đến cha ông, đã làm Dodson băn khoăn. Nhưng sự trùng hợp
không dừng lại ở đó.
Ông cầu một dấu hiệu khác, chỉ để chắc chắn.
Ông nghĩ về cuộc hội thoại sắp tới với
tôi. Ông nghĩ về tên tôi, Tara, vì nó quả là một cái tên kỳ lạ vì ông
không biết bất kỳ ai khác có tên như vậy. Ông cầu một sự trùng hợp cụ
thể liên quan đến tôi để xác nhận tính chất kỳ diệu của các sự kiện
trước đó.
Không lâu sau khi có suy nghĩ này, ông
nhận được một yêu cầu gia nhập nhóm cộng đồng trên Facebook do ông quản
lý. Yêu cầu đến từ một người phụ nữ tên Tara. Khi vợ Dodson về nhà, ông
kể với bà về chuỗi sự kiện trùng hợp liên tiếp này. Bà nói, “Tôi biết
ông sẽ nhận được yêu cầu đó”. Số là bà đang ở quán cà phê thì nghe thấy
một người phụ nữ đề cập đến việc gia nhập nhóm Facebook. Biết rằng
Dodson là người quản lý nhóm này, vợ Dodson đã bắt chuyện với cô và biết
được tên cô là Tara và cô vừa mới chuyển vào thị trấn.
Đó chưa phải là kết thúc. Người bạn của
ông tên Orbra đã gọi cho ông không lâu sau cuộc nói chuyện của với vợ.
Lúc trước, khi ông nghĩ rằng tên tôi (Tara) có chút kỳ lạ, ông đã nghĩ
đến Orbra, người bạn có cái tên mà ông cũng cảm thấy rất kỳ lạ. Mặc dù
bản thân cuộc gọi của cô không có gì quá ngạc nhiên, nhưng bình thường
cô rất ít gọi cho ông. Nếu kết hợp với tất cả những sự kiện đã trôi qua
đến thời điểm này, thì đây lại chính là một thời điểm rất kỳ lạ để cô
quyết định gọi cho ông.
“Đây quả là là thứ gì đó thật to lớn”, Dodson kết luận. “Thứ gì đó siêu thường”.
Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn đang
thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa học
Huyền bí” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường đã
kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới.
Chúng có thật hay không? Điều đó tùy bạn quyết định!
Tác giả: Tara MacIsaac, Epoch Times
Quý Khải biên dịch
Quý Khải biên dịch
7 sự trùng hợp lạ lùng làm bạn nhớ tới phim ‘Ma trận’
Mặt Trăng là vật thể nổi bật nhất trên bầu trời của chúng ta vào ban đêm, gợi lên cả những điều kỳ diệu và thần thoại từ xa xưa. Vài thập kỷ vừa qua đã đưa đến hiểu biết mới về những điều bí ẩn của Mặt Trăng, nhiều câu hỏi chưa có lời đáp vẫn bao trùm chiếc “vệ tinh tự nhiên” duy nhất này.
Chúng ta dần phụ thuộc vào tiểu hành
tinh màu trắng ấy – thiên thể không ngừng quay xung quanh Trái Đất theo
quỹ đạo 28 ngày – như một phần quan trọng trong thế giới tự nhiên của
chúng ta. Nhưng khi phân tích các đặc tính vật lý của ‘người láng giềng’
quen thuộc, nhiều chi tiết cho thấy Mặt Trăng không hoàn toàn ‘tự
nhiên’ đến vậy.
Một Mặt Trăng được-chế-tạo?!!! Giả
thuyết phi lý này bắt nguồn từ đâu? Giả thuyết được thừa nhận lần đầu
vào những năm 1960 bởi hai nhà khoa học Nga là Mijail Vasin và Alexander
Sherbakov; sau đó, nó được xác nhận bởi các điều tra viên và đồng
nghiệp, những người cũng hứng thú với giả thuyết này. Ý tưởng gồm có
7 định đề phân tích một số trong những đặc điểm kỳ lạ nhất của người bạn
đồng hành Mặt Trăng. Dưới đây là bản tóm tắt ngắn gọn các kết quả quan
sát.
Bí ẩn số 1: Vệ tinh lớn, hành tinh nhỏ
So sánh với những hành tinh khác trong
Hệ Mặt Trời, cả đường quỹ đạo và kích thước của Mặt Trăng đều khác
thường đáng kể. Tất nhiên, nhiều hành tinh cũng có các ‘mặt trăng’.
Nhưng bởi lực hút yếu hơn, những hành tinh nhỏ hơn—như là Sao Thủy
(Mercury) và Sao Kim (Venus)—không có mặt trăng. Tuy có kích thước tương
đương nhưng Trái Đất lại mang theo Mặt Trăng bằng ¼ kích thước của nó.
Các hành tinh theo kích cỡ, từ trái qua phải: Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hỏa. Trong đó, Sao Kim có kích cỡ tương đương với Trái Đất (diện tích bề mặt bằng 0,902 Trái Đất và thể tích bằng 0,866 Trái Đất), nhưng Sao Kim không có vệ tinh tự nhiên giống như Trái Đất của chúng ta – ND (Ảnh: Scooter20, Wikipedia)
Hãy so sánh điều này với các đại hành
tinh như Sao Mộc hay Sao Thổ, vốn có một số vệ tinh tương đối nhỏ (mặt
trăng của Sao Mộc xấp xỉ 1/80 kích thước của hành tinh này). Dường như,
Mặt Trăng của chúng ta lại là sự hiện diện hiếm hoi trong vũ trụ.
Các đại hành tinh như Sao Mộc và Sao Thổ có kích cỡ lớn hơn Trái Đất nhiều lần. Thế nhưng, mặt trăng của Sao Mộc chỉ bằng khoảng 1/80 hành tinh này, còn Mặt Trăng của chúng ta lại tương đương ¼ Trái Đất – ND (Ảnh: Wikipedia)
Một chi tiết thú vị khác là khoảng cách
từ Mặt Trăng tới Trái Đất—đủ gần để nó trông có vẻ tương đương với khích
thước của Mặt Trời. Sự trùng hợp kỳ lạ này thể hiện rõ nhất trong lúc
nhật thực toàn phần, khi Mặt Trăng hoàn toàn che khuất Mặt Trời.
Và cuối cùng, với đường quỹ đạo tròn gần
như hoàn hảo, Mặt Trăng không hành xử giống như những vệ tinh khác. Hầu
hết các vệ tinh đều có xu hướng đi theo hình elip hơn là hình tròn.
Bí ẩn số 2: Đường cong khó tin
Trung tâm lực hấp dẫn của Mặt Trăng cách
Trái Đất gần hơn gần 1829m so với trung tâm hình học của nó. Với sự
chênh lệch đáng kể như vậy, các nhà khoa học vẫn chưa thể giải thích
được tại sao Mặt Trăng vẫn duy trì đường quỹ đạo theo hình tròn gần như
hoàn hảo mà không bị chệch ra ngoài.
“Có phải Mặt Trăng là con tàu vũ trụ rỗng bên trong, được đưa vào quỹ đạo Trái Đất của chúng ta từ thời tiền sử xa xôi?”
—Don Wilson viết trong quyển “Our Mysterious Spaceship Moon” (Tạm dịch: Tàu vũ trụ mặt trăng bí ẩn của chúng ta)
Bí ẩn số 3: Các hố va chạm
Hãy nghĩ về những bức ảnh chụp bề mặt của Mặt Trăng, chắc chắn bạn sẽ tưởng tượng đến một nơi đầy các hố va chạm.
Phần lớn những thiên thạch bay về phía
bề mặt Trái Đất đều sẽ bị bốc cháy hoàn toàn hoặc một phần, nhờ có tầng
khí quyển bảo vệ dày. Vì không có lớp khí quyển như vậy, có vẻ Mặt Trăng
không được bảo vệ tốt như Trái Đất. Tuy nhiên, độ sâu của những hố va
chạm này khá nông so với chu vi của chúng – điều này cho thấy Mặt Trăng
sở hữu lớp chất liệu có độ bền cực lớn, nhờ đó ngăn chặn sự xâm nhập sâu
hơn của các thiên thạch.
Thậm chí, những hố va chạm có đường kính
lớn hơn 180 dặm cũng không sâu quá 4 dặm. Nếu Mặt Trăng chỉ đơn thuần
là một khối đá đồng nhất, thì sẽ phải có những hố va chạm có độ sâu tối
thiểu gấp 4-5 lần.
Hố va chạm Copernicus trên bề mặt Mặt Trăng. Theo tính toán khoa học, một thiên thạch có đường kính vài dặm với vận tốc 30.000 dặm/giây sẽ tạo ra hố sâu gấp 4-5 lần đường kính của nó. Các hố thiên thạch trên trái đất đã chứng minh tính toán này là chính xác. Thế nhưng các hố thiên thạch trên bề mặt mặt trăng lại nông một cách khác thường – ND (Ảnh: Courtesy NASA/JPL-Caltech)
Hai nhà khoa học Vasin và Sherbakov cho
rằng lớp vỏ Mặt Trăng có lẽ được tạo bằng một khung titanium. Thực tế,
điều này đã được xác minh: vỏ Mặt Trăng có chứa một lượng titanium cao.
Theo ước tính của nhóm các nhà nghiên cứu Xô Viết, lớp titanium này có
độ dày gần 32km.
Bí ẩn số 4: Biển Mặt Trăng
Cái được gọi là “biển Mặt Trăng” này
hình thành như thế nào? Người ta tin rằng vùng khổng lồ này là dung nham
cứng, đến từ bên trong Mặt Trăng, và xảy ra do một thiên thạch gây tác
động. Giả thuyết này có thể được giải thích dễ dàng đối với một hành
tinh ấm áp và nóng chảy ở bên trong. Nhưng nhiều người cho rằng, có
nhiều khả năng Mặt Trăng luôn luôn là một thiên thể lạnh lẽo.
Minh
họa sự hình thành lớp vỏ magma trên Mặt Trăng. Theo giả thuyết truyền
thống, sau vụ va chạm lớn, một phần Mặt Trăng bị tan chảy và được gọi là
“biển magma Mặt Trăng”. Khi biển magma nguội đi, nó tạo thành một lớp
phủ, hình thành chủ yếu bởi sự kết tủa và lắng đọng của một số loại
khoáng chất như Olivin, anorthit,… – ND (Ảnh: Wikipedia)
Bí ẩn số 5: Không cân xứng về mặt địa lý
Trên bề mặt không nhìn thấy được của Mặt
Trăng (phía tối của Mặt Trăng), chúng ta đã phát hiện nhiều hố va chạm,
núi đồi, và các địa hình mấp mô. Nhưng bề mặt đối diện với Trái Đất lại
là nơi khá bằng phẳng, chiếm phần lớn các đại dương. Tại sao 80% biển
lại chỉ có ở một phía của Mặt Trăng?
Hình ảnh quen thuộc của Mặt Trăng mà chúng ta luôn thấy khi nhìn từ Trái Đất… (Ảnh: NASA/GSFC/Arizona State University, Wikipedia)
…so
sánh với bề mặt không nhìn thấy được của Mặt Trăng nếu quan sát từ Trái
Đất… (Ảnh: NASA/GSFC/Arizona State University, Wikipedia)
Bí ẩn số 6: Mật độ thấp
Người ta phát hiện rằng độ đậm đặc của
Mặt Trăng bằng khoảng 60% của Trái Đất. Nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau
đã chứng minh Mặt Trăng chỉ có thể rỗng ở bên trong. Trong cuốn sách năm
1982 “Moongate: Suppressed Findings of the U.S. Space Program” (tạm
dịch: ‘Nguyệt môn: Những phát hiện được giữ kín của Chương trình Không
gian Hoa Kỳ’), nhà nghiên cứu và kỹ sư hạt nhân William L. Brian II đã
viết rằng: bằng chứng từ các cuộc thí nghiệm địa chấn Apollo cho thấy
“Mặt Trăng là rỗng và tương đối cứng”. Thêm vào đó, một số nhà khoa học
khẳng định táo bạo rằng đó là rỗng nhân tạo.
Thực tế, theo vị trí của các lớp địa
chất bề mặt đã được xác định, nhiều nhà khoa học tuyên bố rằng, có vẻ
như Mặt Trăng là hành tinh được hình thành “ngược”. Một số người đã
trích dẫn điều này làm lý lẽ ủng hộ cho giả thuyết xây dựng nhân tạo.
Thí
nghiệm về làn sóng rung chứng minh Mặt Trăng là rỗng. Kết thí nghiệm
cho thấy, các làn sóng rung chỉ lan ra từ tâm chấn dọc theo bề mặt mặt
trăng, chứ không đi vào trung tâm mặt trăng. Điều này cho thấy mặt trăng
là rỗng (Ảnh: zhengjian.org)
Bí ẩn số 7: Các giả thuyết nguồn gốc khác
Hơn một thế kỷ qua, có 3 giả thuyết chính giải thích về nguồn gốc của Mặt Trăng.
- Một giả thuyết cho rằng Mặt Trăng thực tế là một bộ phận của Trái Đất, sau đó đã tách ra.
- Một giả thuyết khác tin rằng Mặt Trăng được hình thành cùng thời điểm với Trái Đất, nổi lên từ các đám tinh vân nguyên thủy giống như Trái Đất.
- Còn theo giả thuyết thứ ba, khi đi lang thang trong vũ trụ, Mặt Trăng bị hấp dẫn và bị giữ lại trong vòng quỹ đạo của Trái Đất.
Giả
thuyết vụ va chạm lớn cho rằng, một thiên thể đã va chạm với Trái Đất,
bắn tung lên các vật chất và bụi khí. Những vật chất này hợp nhất lại
tạo thành Mặt Trăng. Tuy nhiên, giả thuyết này vẫn chưa thể giải thích
được nhiều điều bí ẩn về Mặt Trăng -ND (Ảnh: Marvel, Wikipedia)
Nhưng những bí ẩn đã nêu ở trên cho thấy
vấn đề trong 3 giả thuyết này: quỹ đạo mang tính chu kỳ và theo một
đường tròn gần như hoàn hảo của Mặt Trăng, và kích cỡ tương đối lớn của
nó. Trong các trường hợp khi một vệ tinh bị một hành tinh giữ lại, thì
thông thường nó sẽ có quỹ đạo lệch tâm – hay ít nhất cũng là hình elip.
Một vấn đề khác là cả 3 giả thuyết đều không thể giải thích đà quay
(angular momentum) lớn giữa Mặt Trăng và Trái Đất
Giả thuyết thứ tư cho rằng Mặt Trăng
được-chế-tạo, có lẽ gây nhiều kinh ngạc hơn cả. Tuy nhiên, nó có thể
giải thích những đặc điểm bất thường khác nhau đang hiện diện ở Mặt
Trăng, bởi vì một vệ tinh do những sinh vật có trí tuệ chế tạo sẽ không
giống các thiên thể hình thành ngẫu nhiên hàng tỉ năm về trước. Thực tế,
nhiều nhà khoa học đã chấp nhận giả thuyết này có giá trị không kém
những giả thuyết khác.
“Lần đầu tiên tình cờ thấy giả
thuyết gây sốc [của các nhà khoa học] Xô Viết, tiết lộ về bản chất thật
sự của Mặt Trăng, tôi đã choáng váng. Lúc đầu, tôi cho rằng điều đó thật
khó tin và một cách tự nhiên tôi bác bỏ nó. Sau đó, khi thông tin khoa
học từ các cuộc thám hiểm Apollo của chúng tôi mang lại ngày càng nhiều
dữ kiện hỗ trợ cho giả thuyết Xô Viết, tôi thấy mình buộc phải chấp nhận
nó”, trích lời mở đầu của Don Wilson trong cuốn sách khám phá về
giả thuyết vệ tinh nhân tạo của ông với tựa đề “Our Mysterious Spaceship
Moon” (tạm dịch: Tàu vũ trụ Mặt Trăng bí ẩn của chúng ta)
Xem thêm: Mặt trăng có phải là được tạo ra?
Nếu thực sự Mặt Trăng là nhân tạo, vậy
mục đích của nó là gì, và ai đã xây dựng nó? Có phải nó được tạo ra đơn
giản chỉ để chiếu sáng bầu trời đêm? hay còn có những ý đồ thiết kế nào
khác? Từ trường của Mặt Trăng có ảnh hưởng đến thủy triều trên Trái Đất,
chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, và một số người tin rằng trăng tròn còn
có thể ảnh hưởng tới trạng thái tinh thần của chúng ta.
Nó đã trở thành một phần không thể thiếu
của cuộc sống trên Trái Đất, thật khó để tưởng tượng thế giới sẽ ra sao
nếu không có Mặt Trăng. Nhưng có lẽ, nhân loại một thời kì xa xưa đã
từng biết đến một kỷ nguyên không có vầng Trăng.
Leonardo Vintiñi, Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh
Hồng Liên biên dịch
Hồng Liên biên dịch
3 điều trùng hợp lạ thường trong hệ Mặt trời: Chúng có ý nghĩa gì?
1. Thiên văn học cổ đại dường như đã biết được những kiến thức về lượng tử, điều mà chúng ta mới biết từ năm 1913.
Từ thời cổ đại, các hành tinh đã được
liên hệ với 7 kim loại đã biết (sắt, đồng, bạc, thiếc, vàng, thủy ngân
và chì) và chúng cũng được sắp xếp theo một thứ tự truyền thống.
Vào năm 1913, Henry Gwyn-Jefferies
Moseley, đã khám phá ra một cách để đo lường số nguyên tử, nhờ vào đó để
đánh số thứ tự các nguyên tố hóa học.
Trật tự truyền thống của các hành tinh,
mà đã được biết đến từ hàng nghìn năm trước phát hiện của ông Moseley,
là tương đồng với trật tự các nguyên tố được ông Moseley phát hiện.
Điều trùng hợp này được trình bày trong
cuốn sách “A Little Book of Coincidence in the Solar System” (tạm dịch:
Cuốn sách nhỏ về sự trùng hợp trong hệ Mặt trời), của tác giả John
Martineau.
2. Bố cục của các ngôi sao và thiên hà dường như song song với phương hướng chuyển động của mặt trời
Ông Dragan Huterer là giáo sư vật lý và nhà lý thuyết vũ trụ học, thuộc trường Đại học Michigan. Ông đã giải thích trong một bài viết
về cách thức tại sao mà các mô hình được thấy trong vũ trụ lại có sự
trùng hợp đáng kinh ngạc, hoặc là dấu hiệu của một cấu trúc vượt quá
hiểu biết hiện nay về hệ Mặt trời và vũ trụ.
Ông quan sát một hình ảnh nền bức xạ vi
sóng vũ trụ (CMB – cosmic microwave background), chụp vũ trụ thời sơ
khai và đưa ra nhận định: các hạt Photon, proton và electrons tụ hợp lại
trong một khối dày đặc trong vũ trụ sơ khai; sau đó cái khối này sẽ
được phóng thích để di chuyển xuyên qua vũ trụ. Ông mô tả hình ảnh
CMB này như là “một màn sương cấu thành từ các hạt photon vi sóng tiếp
cận chúng ta từ mọi hướng, lấp đầy toàn bộ vũ trụ.”
Một phân tích các điểm lạnh và nóng của
màn sương này cho thấy những mô hình cơ bản. Những mô hình này cho thấy
có những sự sắp xếp nhất định, với tỉ lệ xảy ra tình cờ nhỏ hơn 0,1%,
Huterer nói.
Những mô hình này cho thấy có những sự sắp xếp nhất định, với tỉ lệ xảy ra tình cờ nhỏ hơn 0,1%
Kate Land và Joao Magueijo tại đại học
Imperial ở London đã tìm thấy một số sự sắp xếp trong CMB, và cũng có
những sự sắp đặt trong chuyển động của Mặt Trời trong không gian.
“Họ đã đặt một cái tên hài hước cho cách
sắp xếp kỳ quái này—tất nhiên đây cũng là cái chúng ta phát hiện ra—là
‘trục của quỷ’”, Huterer nói.
Ông viết: “Rất nhiều các nhà vũ trụ học
cảm thấy rằng các cách sắp xếp đa dạng của CMB là cực kỳ khó có khả năng
xảy ra ngẫu nhiên. Hơn nữa, gần như tất cả sự liên kết đều chỉ theo
hướng chuyển động của hệ mặt trời, hoặc định hướng của mặt phẳng hoàng
đạo. Liệu có một lời giải thích nào sâu hơn không?”
Một
ví dụ về bản đồ nhiệt độ bức xạ nền vi sóng vũ trụ, với màu xanh biểu
thị nhiệt độ lạnh hơn và màu đỏ biểu thị nhiệt độ ấm hơn. (Ảnh: NASA)
3. Mối liên hệ giữa mặt trăng và trái đất tuân theo những phép tính toán lạ thường trong toán học
Mối liên hệ giữa kích thước của Trái đất và Mặt trăng (Ảnh: Wiki)
Bán kính Mặt trăng = 1080 dặm = 3 x 360
Bán kính Trái đất = 3960 dặm = 11 x 360
Bán kính Trái đất + Bán kính Mặt trăng = 5040 dặm = 1 x 2 x 3 x 4 x 5 x 6 x 7 = 7 x 8 x 9 x 10
Đường kính Trái đất (D) = 7920 dặm = 8 x 9 x 10 x 11
Trong đó: 1 dặm = 5280 feet = (10 x 11 x 12 x 13) – (9 x 10 x 11 x 12)
Sự trùng hợp ngẫu nhiên này cũng được Martineau nhấn mạnh; các phép tính toán đã được kiểm định lại bởi Đại Kỷ Nguyên.
Tara MacIsaac, Epoch Times
Quý Khải biên dịch
Quý Khải biên dịch
Có kiếp sau hay không? Những thí nghiệm kỳ lạ nhất trong lịch sử
Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn
đang thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa
học Huyền bí” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường
đã kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới.
Chúng có thật hay không? Điều đó tùy bạn quyết định!
Từ rất lâu nhân loại đã trăn trở
với câu hỏi này. Đối với một số người, tôn giáo đã cung cấp cho họ lời
giải đáp. Trong khi đối với những người khác, họ vẫn tiếp tục tìm kiếm
và thường hay sử dụng những phương pháp kỳ lạ để kiểm định xem liệu cái
chết có phải là kết thúc hay không.
Dưới đây chúng ta cùng điểm qua một
số thí nghiệm hấp dẫn và kỳ quái nhất mà con người từng tiến hành để
công nhận hoặc phủ nhận ẩn đố này:
Thí nghiệm 21 grams
Bạn có thể cảm thấy khá quen thuộc khi
nghe đến thí nghiệm này. Trên thực tế đây là một giả thuyết khá thú vị,
mặc dù có sai sót. Năm 1901, tiến sĩ Duncan MacDougall, một nhà vật lý ở
Massachusetts, Mỹ đã tiến hành một loạt các thí nghiệm để chứng minh
rằng linh hồn con người có trọng lượng, hiểu theo nghĩa một đơn vị vật
lý xác thực.
MacDougall muốn đo đạc xem liệu có bất
kỳ thay đổi đáng kể nào trong khối lượng của bệnh nhân vào thời khắc
cuối đời của họ hay không. Ộng đã đặt sáu bệnh nhân mắc chứng lao giai
đoạn cuối trên một chiếc cân công nghiệp có khả năng đo đạc chính xác
đến 2/10 của một ounce (1 ounce = 28 gram).
Theo lời kể của TS MacDougall, cả sáu
bệnh nhân đã mất ¾ ounce hay khoảng 21 gram sau khi trút hơi thở cuối
cùng. Tương tự, ông tiến hành thí nghiệm trên 15 con chó nhưng không
phát hiện thấy thay đổi về khối lượng. Từ đó ông kết luận rằng sự chênh
lệch khối lượng ở đây chính là khối lượng của linh hồn con người.
Mặc dù nghe có vẻ logic, nhưng thí
nghiệm này lại không có căn cứ khoa học và trên thực tế TS MacDougall đã
tuyển chọn khi công bố các kết quả thí nghiệm của mình. Thực ra, chỉ
một trong số các bệnh nhân của ông bị mất 21 gram sau khi chết và có một
cách giải thích hợp lý cho hiện tượng này: sau khi chết, hai lá phổi
không còn thực hiện chức năng làm nguội máu nên có thể xuất hiện tình
trạng toát mồ hôi. Lượng nước mất đi trong quá trình toát mồ hôi sau khi
chết có thể lên đến 21 gram. Còn về trường hợp của những chú chó tội
nghiệp, chúng sẽ không thể mất nước vì chúng không có tuyến mồ hôi.
Hiện tượng giọng nói điện tử
EVP (Electronic Voice Phenomena
– hiện tượng giọng nói điện tử) là hiện tượng xuất hiện các âm thanh kỳ
lạ trong các cuộn băng thâu âm điện tử. Những ai có thiên hướng tâm
linh tin rằng những âm thanh này chính là giọng nói của người đã khuất.
Âm thanh dạng này thường không có trong quá trình thu âm, nhưng lại xuất
hiện trong quá trình tua lại.
Người đàn ông đầu tiên đã thử tiếp xúc
với thế giới linh hồn là nhiếp ảnh gia người Mỹ Atilla von Szalay. Những
thí nghiệm đầu tiên của ông được tiến hành vào năm 1941 với đĩa hát 78
rpm. Nhưng ông đã không gặp may mắn với chúng. Szalay gặt hái được
‘thành công’ đầu tiên vào năm 1956, khi ông bắt đầu sử dụng máy thâu
băng. Một số thông điệp ông ghi nhận được là “Hotdog, Art!”, “This is G!” (Đây là G!) và “Merry Christmas and Happy New Year to you all!” (Giáng sinh vui vẻ và Chúc mừng năm mới tất cả mọi người!).
Đĩa hát 78 rpm
Máy thâu băng
Trong nhiều năm qua, rất nhiều người đã
thử liên lạc với người chết thông qua biện pháp EVP và một số người thậm
chí còn tuyên bố chế tạo được những thiết bị được thiết kế riêng cho
mục đích này. Hai trong số những thiết bị nổi tiếng nhất làSpiricom của O’Neil và Ghost Box của Frank Sumption.
Chiếc hộp ma Ghost Box của Frank Sumption
Liệu có tồn tại sự sống sau khi chết? Nghiên cứu về nguyên tử hé lộ câu trả lời
Liệu có tồn tại sự sống sau khi chết,
và phải chăng thực chất của sự bất tử nằm bên trong một linh hồn dưới
dạng thức ‘nguyên tử’?
Nói một cách nghiêm túc, cơ thể con
người đều “chết” sau mỗi thập kỷ. Bởi vì mỗi tế bào sẽ nhân đôi, biến
mất, và được thay thế bằng các tế bào mới với một tần suất nhất định,
phụ thuộc vào loại tế bào đó (tế bào cơ, tế bào kết nối các mô, tế bào
nội tạng, tế bào thần kinh…). Tuy rằng các tế bào nguyên gốc vốn tạo
thành khuôn mặt, xương, hay máu của chúng ta đã biến mất trong nhiều
giờ, nhiều ngày hay nhiều năm (được thay thế bằng các tế bào mới), nhưng
cơ thể chúng ta vẫn luôn tái sinh (sản sinh tế bào mới) mà vẫn duy trì
được một ý thức như trước.
Vậy ý thức trú ngụ ở nơi đâu? Phải chăng
nó không bị tác động bởi chu kỳ sinh tử của cơ thể vật chất? Sự sống là
gì? Và điều gì quyết định cái chết?
Câu trả lời cho những dạng câu hỏi này
thường được tìm thấy đâu đó trên ranh giới giữa khoa học và triết học.
Tuy nhiên, để tiến hành các chuyến thám hiểm ngoài không gian tìm kiếm
sự sống trong tương lai, cộng đồng khoa học cần trả lời các câu hỏi quan
trọng này về thời điểm sự sống bắt đầu, kết thúc, và nơi sự sống trú
ngụ…
Sự bất tử của nguyên tử
Theo ngành sinh học hiện đại, việc học
tập bao gồm một loạt các kích thích môi trường và thiết lập sự phân
nhánh hình cây xuyên suốt vòng đời của một sinh vật; việc học tập sẽ
phát triển một cái gọi là “lưu trữ thông tin thần kinh”.
Loại lưu trữ này là khá nhanh, nhưng nó
không hiệu quả bằng thông tin gen. Một gói thông tin gen sẽ ngay lập tức
được chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác mà không cần quá trình
học tập nhàm chán ở trung gian.
Nói cách khác, đặc điểm của cơ thể chúng
ta tồn tại trong những đứa con dưới dạng gen. Màu tóc, hình dáng cơ
thể, huyết tương, hay một thiết lập đặc thù sẽ được bảo quản trong các
gói thông tin gen và có thể di truyền qua nhiều thế hệ.
Cái gói thông tin gen vừa đề cập đến có
phải là bất tử không? Câu trả lời là không. Khi các giao tử (tinh trùng ở
nam và trứng ở nữ) kết hợp với nhau trước quá trình thụ thai, một lượng
lớn các gen sẽ bị mất trong quá trình hình thành hợp tử. Các đặc điểm
sẽ được truyền sang thế hệ sau, nhưng các đặc tính cá nhân sẽ mất đi khi
chết.
Tuy các tế bào chết đi khá nhanh chóng, các nguyên tử lại gần như là bất tử.
Tuy vậy, một số nhà khoa học đã xác nhận
được rằng tâm trí và cơ thể sẽ đi theo các con đường riêng rẽ sau khi
chu kỳ sự sống kết thúc. Theo tiến sĩ Rene Severijnen và Ger Bongaerts—2
nhà nghiên cứu tại trung tâm y tế thuộc trường Đại học Radboud ở Hà
Lan, sự sống đồng thời tồn tại ở các tầng các khau. Họ cho rằng tuy các
tế bào chết đi khá nhanh chóng, các nguyên tử lại gần như là bất tử.
Theo TS Bongaerts, sự tử vong của một
nguyên tử đồng nghĩa với sự chuyển đổi vật chất thành năng lượng—cũng
tương tự như khi phát nổ bom nguyên tử. Điều này nói lên rằng, trong khi
cơ thể đang phân hủy tại nhà xác (phân hủy ở tầng tế bào), các nhân
nguyên tử sẽ không thoái hóa. Nếu không thì sau khi chết, mỗi người sẽ
đều là một quả bom nguyên tử nổ chậm.
Nếu hoạt động của nguyên tử không kết thúc sau khi chết, vậy điều gì sẽ xảy ra với những nguyên tử này khi một người qua đời?
Trong tín ngưỡng của những nền văn hóa
phương Đông thời cổ đại, họ nói rằng con người có nhiều cơ thể tồn tại ở
nhiều trường không gian khác nhau. Theo cách hiểu này, chúng ta có thể
thấy rằng khi cơ thể trong nhà xác đang phân hủy, tầng tế bào cũng đang
phân rã (cơ thể vật chất). Tuy nhiên cùng lúc đó, các nguyên tử cực nhỏ
bên trong những tế bào này, tồn tại ở một trường không gian không bị ảnh
hưởng bởi sự phân hủy đó, sẽ vẫn bảo trì kết cấu vật chất như lúc ban
đầu.
Như vậy, những “cơ thể” được tạo thành
từ các phần tử nhỏ hơn tế bào, vốn không trải qua quá trình phân rã mà
chúng ta chứng kiến trong nhà xác, rất có thể chính là linh hồn, tâm
trí, hay ý thức con người mà chúng ta có thể cảm nhận được qua trực giác
nhưng vẫn chưa thể xác định bằng trình độ khoa học hiện nay.
Sự hiện hữu của chúng nói lên rằng ngay
cả sau khi cơ thể chết đi, sự sống có thể vẫn chưa kết thúc. Theo nhận
định của Tiến sĩ Severijnen, sự chấm dứt các hoạt động sinh trưởng và
trao đổi chất vào thời điểm tử vong chỉ là một mặt của đồng tiền.
Sự sống vi mô
Theo một số nhà khoa học, các nguyên tử
có thể ghi nhớ mỗi cảm xúc, mỗi cảm giác, mỗi từng trải nghiệm chi li
của chủ thể. Mặc dù ý tưởng về các nguyên tử có khả năng lưu trữ ký ức
nghe có vẻ xa vời, nhưng việc phát hiện trí thông minh ở mức độ vi mô đã
mở ra cánh cửa cho các cuộc tranh luận mới về nguồn gốc của sự sống.
Trong nhiều năm, khoa học tin rằng các
tế bào không có tính độc lập; người ta cho rằng chúng chỉ hoạt động theo
nhóm như một sợi vải trong một tấm vải. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây
của Giáo sư Brian Ford, nhà sinh học và chủ tịch Hội Ứng dụng Nghiên cứu
thuộc trường Đại học Cambridge, đã cho thấy điều ngược lại.
Công trình của ông cho thấy các tế bào
đơn lẻ trên thực tế là các thực thể hoàn thiện, với trí tuệ, có khả năng
giao tiếp và chia sẻ thông tin. Theo quan điểm của ông, tế bào đơn lẻ
là một cơ thể hoàn thiện có khả năng đưa ra quyết định.
Vậy hãy thử nghĩ xem, nếu dung lượng lưu
trữ của một tế bào – theo nghiên cứu mới này, được chuyển tiếp vào các
cấu trúc nguyên tử nhỏ và tinh tế hơn, thì rất có thể đó chính là một
trạng thái lưu trữ của ý thức hay “linh hồn” tiếp tục tồn tại sau khi
chết.
Tác giả: Leonardo Vintini, Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh
Quý Khải biên dịch
Quý Khải biên dịch
Nhà phẫu thuật nổi tiếng: Bằng chứng cho thấy linh hồn rời cơ thể trong trải nghiệm cận tử
Bị tuyên bố là đã chết, người đàn ông quan sát cảnh tượng bệnh viện trong trạng thái linh hồn, sau đó trở về và kể lại.
Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn và
thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa học
Huyền bí” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường đã
kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới.
Chúng có thật hay không? Điều đó tùy bạn quyết định!
Các nhà nghiên cứu về trải nghiệm cận tử
ở Hà Lan đã thu thập được hơn 70 trường hợp những người rời khỏi thân
xác và chứng kiến những cảnh tượng mà bình thường họ không thể nhìn
thấy.
Những điều họ nhìn thấy (ví dụ, hành
động của những người trong bệnh viện) có thể được xác nhận, từ đó cung
cấp một số bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy ý thức hiện hữu bên
ngoài não bộ.
Titus Rivas, Anny Dirven, và Rudolf Smit đã đăng tải bộ sưu tập này trong quyển sách có tựa đề “Wat een stervend brein niet kan”
(“Điều một bộ não đang chết không thể làm”). Họ đang tìm kiếm nguồn tài
trợ để dịch cuốn sách từ tiếng Hà Lan. Trong thời gian chờ đợi, Đại Kỷ
Nguyên đã chủ động dịch một số trường hợp để tham khảo.
Trong một trường hợp được báo cáo bởi
bác sĩ phẫu thuật tim Lloyd W. Rudy (1934-2012), một bệnh nhân được
tuyên bố là đã chết trong ít nhất 20 phút, đột nhiên sống lại. Ngoài ra,
điều ông nói về khoảng thời gian chết cũng đã đi ngược lại tất cả các
lý giải thông thường.
Bệnh nhân đã miêu tả chính xác sự kiện lý ra ông không thể nhìn thấy, vì cặp mắt ông bị băng kín để bảo vệ giác mạc trong quá trình phẫu thuật.
Tiến sĩ Rudy tốt nghiệp trường Y đại học
Washington, ông từng là trưởng khoa Tim tại trường Y đại học Georgia,
đồng thời là thành viên của đội ngũ cấy ghép tim đầu tiên tại trường đại
học Stanford. Vào một ngày Giáng sinh, Rudy và người phụ tá Roberto
Amado-Cattaneo đang thực hiện ca mổ để thay thế một van tim bị nhiễm
trùng. Bệnh nhân bị chứng phình mạch gây ra do nhiễm trùng, và khi ca mổ
hoàn tất, người bệnh chỉ có thể sống sót nhờ máy duy trì sự sống.
Sau khi tình trạng bệnh nhân trở nên
tuyệt vọng, các bác sĩ phẫu thuật đã viết một tờ giấy chứng tử, để thông
báo cho vợ anh ta, rồi ngắt các thiết bị y tế.
“Vì lý do này khác, họ đã quên tắt máy
đo các chức năng cơ thể như huyết áp,” các nhà nghiên cứu viết. “Ngoài
ra, trước khi tuyên bố không thể chữa trị cho bệnh nhân, họ đã hạ một
ống dài có micro vào cơ thể ông để có thể thu thập thông tin chính xác
về một số chức năng cơ thể, ví dụ như nhịp tim.”
“Rudy và phụ tá của ông đã đang thay đồ
rồi. Cả hai bọn họ đều cởi áo khoác, găng tay, và mặt nạ và đứng gần
cánh cửa đang mở. Họ đề cập đến những điều có thể làm và loại thuốc họ
đã có thể dùng để cứu lấy bệnh nhân.
“Khoảng 20 đến 25 phút trôi qua từ khi
bệnh nhân bị tuyên bố là đã chết. Đột nghiên, dường như ghi nhận được
một dạng hoạt động điện tích nào đó … Rudy và phu tá của ông nghĩ đây có
thể là các cơn co thắt tim, nhưng tình trạng này gia tăng và bắt đầu
xuất hiện nhịp đập, đầu tiên thì chậm nhưng sau đó nhanh dần lên.”
Không một ai làm bất cứ điều gì để hồi sức cho bệnh nhân vì ông được tuyên bố là đã chết, và tự ông đã sống lại.
Không một ai làm bất cứ điều gì để hồi
sức cho bệnh nhân vì ông được tuyên bố là đã chết, và tự ông đã sống
lại. Người bệnh lấy lại ý thức trong một vài ngày sau đó, nhưng ông đã
phục hồi mà không có bất kỳ dấu hiệu tổn thương não bộ.
Amado-Cattaneo nói, “Tôi đã bắt gặp một
vài người phục hồi sau khi bị sốc mạnh và kéo dài, nhưng những người này
vẫn còn sống, trong khi trường hợp này thì người đàn ông đã chết rồi.”
Với rất nhiều người tuyên bố đã rời khỏi
cơ thể trong trải nghiệm cận tử, bệnh nhân miêu tả một ánh sáng chói
lòa ở phía cuối con đường hầm. Tuy nhiên, chính những việc ông chứng
kiến trong bệnh viện đã hấp dẫn những người muốn chứng thực các trải
nghiệm cận tử một cách khoa học.
Ông ta đã nhìn thấy Rudy và
Amado-Cattaneo đang trao đổi, ông ta có thể miêu tả chính xác vị trí của
họ trong căn phòng, tư thế khi họ đứng khoanh tay trước ngực; ông cũng
nhìn thấy chuyên viên gây mê tiến vào phòng. Thú vị nhất là việc ông đã
nhìn thấy màn hình máy tính của y tá với một hàng các giấy ghi chú, cái
này chồng lên cái kia. Thật vậy, y tá đã ghi chép lại tin nhắn qua điện
thoại cho Rudy trên các tờ giấy ghi chú đó và dán chúng lên như vậy.
Các tác giả viết: “Rudy chỉ ra rằng bệnh
nhân không thể nhìn thấy các mảnh giấy ghi chú trước cuộc phẫu thuật,
vì không có cuộc gọi nhỡ vào lúc đó. Rõ ràng là người ta không hay dán
các mảnh giấy ghi chú dính đè lên nhau, và bệnh nhân không thể đoán một
cách tình cờ cách y tá dán những mảnh giấy đó trong trường hợp này.
“Rudy kết luận rằng bệnh nhân hẳn phải
đứng ở vị trí bên trên cơ thể của ông, bởi vì ông không thể miêu tả căn
phòng và những thứ khác trong khi đang nằm như vậy. Vì thế ông phỏng
đoán rằng sự ngẫu nhiên hay suy diễn thông thường không thể là một lời
giải thích hợp lý.”
“Sự ngẫu nhiên hay suy diễn thông thường không thể là một lời giải thích hợp lý.”
Từ quyển sách “Điều một bộ não đang chết không thể làm”
Amado-Cattaneo cũng không thể giải thích
hiện tượng này. Ông xác nhận rằng bệnh nhân đã miêu tả chính xác những
sự kiện lý ra ông không thể nhìn thấy, bởi vì cặp mắt của ông bị băng
kín để bảo vệ giác mạc trong quá trình phẫu thuật.
Thiết bị theo dõi các chỉ số sinh học
của ông không hề bị hỏng, trái tim ông đã ngừng đập và không hề có bất
cứ dấu hiệu hô hấp nào trong ít nhất 20 phút. Amado-Cattaneo không thể
nhớ tên của bệnh nhân, tuy nhiên Rudy đã qua đời khi Rivas và đồng
nghiêp nghiên cứu tiến hành điều tra trường hợp này.
Trong một bài viết được xuất bản trên
Tạp chí Nghiên cứu Hiện tượng Cận tử, Rivas và Smit đã viết về trường
hợp này: “Tất nhiên, trường hợp này sẽ hoàn thiện nếu có thể xác nhận
danh tính của bệnh nhân, từ đó cho phép họ tiếp cận các hồ sơ y tế,
nhưng trừ phi Amado-Cattaneo nhắc lại tên mình, việc nghiên cứu sâu hơn
là không thể. Tuy nhiên, trong quan điểm của chúng tôi, điểm thiếu sót
này chỉ có có thể giảm thiểu chút ít, chứ không cách nào phủ nhận trường
hợp này như một bằng chứng nghiêm túc cho tính chất AVP (“apparently
non-physical veridical perception”, hay “nhận thức trung thực dường như
phi vật chất”, một thuật ngữ dùng để chỉ các nhận thức không thể có, nếu
xét đến trạng thái và vị trí cơ thể của người trải nghiệm).”
Rivas và Smit đã kết luận trong bài viết
như sau: “Chúng tôi tin rằng việc thu thập các bằng chứng vụn vặt như
vậy đang khiến việc phản bác trường hợp loại này càng ngày càng khó khăn
hơn.
Nhân viên Đại Kỷ Nguyên – Marieke Vos đã cung cấp bản dịch từ tiếng Hà Lan sang tiếng Anh
Tara MacIsaac, Epoch Times
Biên dịch: phastacook
Tara MacIsaac, Epoch Times
Biên dịch: phastacook
Nhận xét
Đăng nhận xét