MỌI MIỀN NƯỚC VIỆT 16 (Đắk Lắk)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới. Việc đình Lạc Giao được Bảo Đại ban sắc tứ Thần Hoàng làng, mang ý nghĩa lớn lao, như nhắc nhở mọi người dân đang sinh sống nhớ lấy cội nguồn quê hương và trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân trên vùng đất mới.
Đình Lạc Giao là bằng chứng của mối quan hệ bang giao tốt đẹp Kinh- Thượng và còn là nơi bảo lưu truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắc Lắc. Hằng năm cứ đến ngày 27-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng niệm tại đình hết sức trang trọng về những chiến sĩ Nam tiến và đồng bào đã hy sinh trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp 12-1945.
Đắk Lắk
Tỉnh của Việt Nam
Đắk
Lắk, Darlac hay Đắc Lắc là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt
Nam. Tỉnh lỵ của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội
1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Wikipedia
Diện tích: 5.043 mi²
Dân số: 1,833 triệu (2014)
Những địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng, hấp dẫn du khách
Đăk Lăk thuộc khu vực Tây Nguyên
có địa hình hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc. Vì nằm trong vùng
khí hậu cận xích đạo nên chia thành hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa
mưa. Chính điều kiện khí hậu và địa hình, đã làm cho Đăk Lăk có những địa danh tham quan ấn tượng khi du lịch Tây Nguyên. Cộng với văn hóa lâu đời của vùng dân tộc thiểu số đã khiến cho du lịch Đăk Lăk trở thành nguồn khám phá bất tận đối với du khách. Trong bài này, dulich9 sẽ giới thiệu cho các bạn những địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng và vô cùng hấp dẫn du khách.
Những địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng
Điểm du lịch nổi tiếng – Buôn Đôn
Từ
Buôn Đôn có ý nghĩa là làng Đảo theo vì nó được lập bên cạnh con
sông Sêrêpốk. Ở giữa sông có nhiều đảo nổi giữa dòng trông như một “Vịnh
Hạ Long thu nhỏ” giữa núi rừng Tây Nguyên. Phía bên kia sông là rừng
đại ngàn Yok Đôn đầy kỳ bí và hoang sơ. Buôn Ðôn có nhiều điều kiện
thuận lợi để khai thác cả hai loại du lịch: du lịch sinh thái và du lịch
văn hóa. Nơi đây có Vườn quốc gia Yok Ðôn rộng hơn 100 ngàn ha là bảo
tàng phong phú về động thực vật tự nhiên. Buôn Đôn là nơi chung sống của
rất nhiều sắc tộc: Ê Ðê, M’nông, Gia rai, Lào, Thái…Đây cũng chính là
nơi có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng. Buôn Đôn hiện nay đã trở
thành một trong những địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng trong nước và quốc tế.
Khu du lịch đồi Tâm Linh – điểm đến tham quan tín ngưỡng
Đây
là khu chùa Tâm Linh, thuộc huyện Buôn Đôn, tại đây có tượng phật Quan
Âm cao gần 40 mét. Phía bên ngoài được vườn được xây dựng 18 vị La Hán
được chạm khắc trên đá những vẻ mặt với nhiều tâm trạng khác nhau, 18 vị
được xếp xung quanh vườn. Tất cả các khu vực này được đầu tư tỉ mỉ, tạo
thành một không gian tâm linh rộng lớn chạy dài từ chân lên tới đỉnh
đồi. Ngôi chùa được xây dựng theo lối kiến trúc mở nên du khách tới đây
có thể vãn cảnh chùa và được ngắm những cánh rừng đại ngàn hai bên đồi.
Du lịch đồi Tâm Linh là một trong những điểm tham quan tâm linh du lịch Đăk Lăk.
Mộ vua săn bắt Voi (Khunjunob) – địa điểm tham quan lịch sử Đăk Lăk
Khu
mộ vua săn voi được nằm trong nghĩa trang Buôn Đôn, nơi đây hội tụ
nhiều nét văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của các sắc tộc Tây Nguyên. Đây
cũng chính là một chứng tích không thay đổi của quá trình hình thành và
phát triển nghề săn bắt, thuần dưỡng voi rừng.
Khunjunob
tên thật là N’Thu K’nul, sinh năm 1828, một vị tù trưởng được nhân dân
trong vùng kính phục và là người có công lớn trong buổi đầu lập nghiệp
và phát triển nghề săn bắt voi rừng. Buôn Đôn đã xây dựng mộ của ông
theo lối kiến trúc M’nông – Lào và kết hợp với các hình khối, trang trí
bằng các búp sen trên bốn góc và đỉnh mộ để thể hiện lòng biết ơn và tôn
kính với vị tù trưởng quá cố. Khu mộ săn voi không chỉ là một địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng, thú vị mà còn là một địa danh tìm hiểu về lịch sử Buôn Đôn.
Địa điểm du lịch sinh thái vườn quốc gia Yok Đôn
Vườn
quốc gia Yok Đôn cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40 km về phía Tây
Bắc, thuộc địa bàn của 4 xã, ba huyện: Xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, xã
Ea Bung, Chư M’Lanh huyện Ea Súp (tỉnh Đăk Lăk) và xã Ea Pô huyện Cư Jút
(tỉnh Đăk Nông). Đây là một trong những khu vườn nguyên sinh được bảo
tồn của Việt Nam. Nơi đây 62 loài động vật, 196 loài chim, 46 loài bò
sát, 13 loài lưỡng cư và 464 loài thực vật, phần lớn là Ngọc Lan. Trong
số 56 loài động vật quý hiếm của Đông Dương, Yok Đôn có tới 38 loài, 17
loài có tên trong sách đỏ thế giới.
Cảnh hoang sơ của núi rừng và thảm thực vật thiên nhiên phong phú đã khiến nơi này trở thành địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng Đăk Lăk.
Cảnh hoang sơ của núi rừng và thảm thực vật thiên nhiên phong phú đã khiến nơi này trở thành địa điểm du lịch sinh thái nổi tiếng Đăk Lăk.
Tham quan vườn quốc gia Chư Yang Sin
Nằm
cách thành phố Buôn Ma Thuột 60km về phía đông nam,vườn quốc gia Chư
Yang Sin có tổng diện tích lên tới 59.667ha với địa hình đồi núi, sườn
dốc, trong đó có đỉnh Chư Yang Sin cao nhất Đăk Lăk khoảng 2.442m so với
mực nước biển. Ở đây cũng là một thảm thực vật và động vật khá phong phú
và đa dạng. Có rất nhiều loài đã được ghi vào sách đỏ của Việt Nam cần
được bảo tồn. Vườn quốc gia Chư Yang Sin là một trong những địa điểm mạo hiểm hấp dẫn khi du lịch Đăk Lăk.
Địa điểm tham quan đẹp ở Đăk Lăk – Hồ Lăk
Đây
là hồ tự nhiên có diện tích rộng lớn nhất Tây Nguyên khoảng 5km, cách
thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về phía nam theo quốc lộ 27. Nằm
cạnh tuyến đường giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt. Hồ được thông
với con sông Krông Ana, mặt sông luôn xanh thắm. Xung quanh hồ được bao
bọc bởi những dãy núi cao nên mặt hồ luôn phẳng lặng, yên bình. Đây là địa điểm du lịch chèo thuyền thú vị cho du khách. Những chiếc thuyền độc mộc lững lờ trôi trên sông, lắng nghe những âm thanh âm vang từ những cánh rừng đại ngàn bao bọc xung quanh, cho ta cảm giác như lạc về thời đại Đam San kiêu hãnh.
Bởi
sự yên bình, tĩnh lặng và vẻ đẹp núi rừng Tây Nguyên thơ mộng, nên từ
xưa vua Bảo Đại đã cho xây dựng một ngôi biệt thự ở đây để có thể nghỉ
dưỡng và vãn cảnh. Du khách đến đây cũng sẽ được tham quan ngôi biệt thự
cổ này ngay ven hồ.
Khám phá Buôn Jun – Buôn Lê
Nằm
tựa mình bên hồ Lăk thơ mộng, buôn Jun vẫn mang đầy đủ các đặc điểm của
một Tây Nguyên hoang sơ, như một thiếu nữ miền sơn cước. Đến đây du
khách sẽ được chiêm ngưỡng những ngôi nhà sàn với lối kiến trúc mang đậm
cổ truyền Tây Nguyên. Dạo quanh buôn làng, ngắm nhìn những cô gái ngồi
dệt thổ cẩm bên khung, hay nhâm nhi rượu cần thì chắc hẳn sẽ làm cho du
khách không lỡ rời bước chân đi. Buôn Jun – Buôn Lê thực sự là điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch Đăk Lăk.
Ngắm nhìn sự kiêu hùng của thác Dray Sáp (thác chồng) và thác Dray Nur (thác vợ)
Đây
là hai con thác bắt nguồn từ dòng sông Serepôk sau đó chia đôi ra thành
hai con thác đổ xuống hùng vĩ. Hai thác này còn gắn liền với nhiều câu
truyện cổ tích truyền miệng của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đến đây du khách sẽ được ngắm sự kiêu hùng của dòng nước đổ xuống, tiếng ầm ầm vang dậy cả núi rừng. Do vậy đây trở thành điểm tham quan du lịch Đăk Lăk nổi tiếng, lý tưởng cho du khách. Thác Gia Long – điểm đến ấn tượng khi du lịch Đăk Lăk
Thác
Gia Long cũng là một trong những con thác trên dòng Serepook thuộc địa
phận xã Dray Sáp huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Con thác này khá rộng và
đẹp. Không những vậy nó còn ghi dấu ấn của sự tàn độc và bóc lột của
thực dân Pháp qua cây cầu bắc ngang qua sông Ea Krông. Năm 1930 -1933,
thực dân Pháp đã huy động dân phu và tù nhân ở đây lao dịch hết sức cực
nhọc gian khổ, dưới sự tra tấn dã man để xây dựng cầu treo này. Đến đây
du khách sẽ cảm nhận được sự kỳ diệu của sức người khi có thể hoàn thành
xong cầu treo này. Thác Gia Long trở thành điểm tham quan ấn tượng khi du lịch Đăk Lăk.
Thác Krông K’mar
Là
một trong những thác rất đẹp của Đăk Lăk, thác Krông Kmar bắt nguồn từ
đỉnh cao nhất của dãy Chư Yang Sin đổ xuống chân núi tạo thành thác
Krông Kmar mang dáng vẻ hoang sơ huyền thoại. Và trở thành điểm du lịch đẹp Đăk Lăk cho du khách thập phương.
Thác Thủy Tiên – thắng cảnh đẹp của Đăk Lăk
Thác Thủy Tiên là một danh lam, thắng cảnh đẹp của Đăk Lăk,
đến đây du khách có thể tắm mình với dòng nước xanh mát. Thác có hệ
thống phân tầng nên dòng nước ở đây mức độ đổ xuống vừa phải. Vẻ đẹp thơ
mộng của dòng thác đã thu hút rất nhiều du khách tới tham quan và có
những trải nghiệm thú vị.
Thác Bảy Nhánh
Từ
thành phố Buôn Ma Thuột dọc theo tỉnh lộ 1 về hướng tây bắc 35km, du
khách đến buôn N’Drêch, xã Ea Hua, huyện Buôn Đôn, từ đây rẽ trái đi
tiếp khoảng 1km nữa là đến thác Bảy Nhánh. Dòng Sêrêpôk chảy qua đây và
chia làm 7 dòng sông nhỏ chảy qua các tảng đá lớn tạo thành 6 hòn đảo
nhỏ giữa các nhánh sông. Mỗi nhánh sông đều có những nét đặc biệt thú vị
mà du khách có thể say mê khám phá. Thác Bảy Nhánh là điểm du lịch Đăk Lăk thú vị, hấp dẫn cho những ai yêu khám phá sinh thái Tây Nguyên
Sự kiêu hùng của núi rừng Tây Nguyên đều được thể hiện qua nhữngdanh lam, thắng cảnh đẹp Đăk Lăk. Nếu có một lần bạn đến với Tây Nguyên thì hãy khám phá những địa điểm du lịch Đăk Lăk nổi tiếng, hấp dẫn này nhé!
Gợi ý du lịch Đăk Lăk mùa hoa cà phê
Đến Đăk Lăk thời điểm này, bạn được chìm vào không khí các lễ hội cũng như sắc hương của những bông hoa cà phê trắng muốt.
Được xem là trung tâm của văn hóa Tây Nguyên, Đăk Lăk là nơi có nhiều
món đặc sản danh tiếng cùng những chú voi ngộ nghĩnh, các cánh rừng
nguyên sinh bạt ngàn và cà phê rực trắng vào mùa hoa tháng 3. Những gợi ý
dưới đây sẽ giúp bạn lên kế hoạch thành công cho chuyến phượt tới miền
đất này.
Thời điểm du lịch
Đăk Lăk chia thành hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Khí hậu
tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình hàng năm 23 – 24 độ C.
Để có chuyến khám phá trọn vẹn, bạn nên đến vào hai thời điểm. Trong
đó, tháng 12 dương lịch là mùa hoa dã quỳ vàng rực và các lễ hội địa
phương đậm chất hoang sơ. Tháng 3 là mùa hoa cà phê nở trắng đất trời
Tây Nguyên và lễ hội đua voi hấp dẫn.
Tháng 3 là thời điểm thích hợp để bạn ngây ngất hương thơm cà phê. Ảnh: Tâm Trần.
|
Di chuyển
Du khách đến Đăk Lăk bằng ô tô riêng, xe máy, xe khách hoặc máy bay có thể xuất phát từ Hà Nội, Sài Gòn hay Đà Nẵng.
Xe khách: Tại Hà Nội, bạn mua vé ở bến xe Giáp Bát, giá khoảng
700.000 đồng. Ở Sài Gòn, du khách đi từ bến xe miền Đông, giá vé
220.000 – 300.000 đồng. Nếu xuất phát từ Đà Nẵng, bạn hãy tới Bến xe
Trung tâm mua vé với giá 250.000 – 350.000 đồng.
Máy bay: Bạn có thể mua vé ở nhiều địa điểm khác nhau với bất
kỳ thời điểm nào. Điểm đến là sân bay Buôn Ma Thuột, từ đây bạn dễ dàng
bắt xe buýt hay taxi vào trung tâm thành phố.
Lưu trú
Trung tâm Đăk Lăk có nhiều nhà nghỉ, khách sạn cho khách lựa chọn. Tuy
nhiên, giá cả ở đây hơi cao so với các khu vực khác. Trong đó, 500.000 -
1 triệu đồng là mức giá cho các điểm nghỉ bình dân và 1,2 - 3 triệu
đồng đối với khách sạn cao cấp.
Bạn có thể tìm thấy nhiều điểm lưu trú trên các đường Ngô Quyền, Nguyễn
Đức Cảnh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Chí Thanh… thuộc thành phố Buôn Ma
Thuột.
Di chuyển trong Buôn Ma Thuột
Du khách nên thuê xe máy để việc tham quan được thuận tiện hơn. Giá
thuê xe dao động 150.000 – 200.000 đồng một giờ. Bạn có thể thuê xe ngay
tại điểm lưu trú như khách sạn Đam San, nhà nghỉ Thu Hà, Gia Đình...
Địa điểm du lịch
Ngoài việc thưởng ngoạn hương sắc cà phê, du khách nên kết hợp các điểm
đến dưới đây nhằm tiết kiệm chi phí và chuyến đi được trọn vẹn hơn.
Rừng hoa cà phê: Đến Tây Nguyên, không khó để tìm những cánh
rừng cà phê bạt ngàn, nơi có diện tích trồng lớn nhất cả nước và được
xem là “thủ phủ” của loài cây này. Tháng 3 chính là thời điểm những
ngọn đồi phủ đầy sắc trắng, nhìn xa tựa tuyết phủ trên thân cây xen kẽ
những đàn ong, bướm bay lượn tạo nên khung cảnh nên thơ, tuyệt diệu.
Làng cà phê Trung Nguyên: Là nơi bạn có thể thưởng thức cà phê
với nhiều hương vị và phong cách khác nhau. Cùng với loại đồ uống đặc
trưng, nơi đây được xem là bảo tàng thu nhỏ với nhiều chi tiết tái hiện
buôn làng Tây Nguyên. Các vật dụng sinh hoạt thường ngày của đồng bào
dân tộc, nhà sàn, cồng chiêng…được thể hiện rất chi tiết và sinh động.
Trung tâm du lịch Bản Đôn: Bản Đôn luôn là địa danh quan trọng
trong bản đồ du lịch Tây Nguyên. Không chỉ sỡ hữu những thắng cảnh đẹp,
từ rừng đại ngàn đến sông hùng vĩ hay những đàn voi rừng vạm vỡ, nơi
đây còn có các món ăn đặc sắc như gà nướng sa lửa, rượu Ama Kông.
Lễ hội đua voi được tổ chức hai năm một lần vào tháng 3 dương lịch ở Bản Đôn. Ảnh: Cungphuot.info.
|
Vườn quốc gia Yok Đôn: Là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn với
nhiều du khách trong và ngoài nước, nằm trên địa bàn xã Krông Na, huyện
Buôn Đôn, cách Buôn Ma Thuột 40 km về phía Tây Bắc.
Du khách đến đây sẽ tận hưởng các loại hình du lịch sinh thái đặc trưng
như cưỡi voi, đi bộ, xe đạp địa hình trong những cánh rừng nguyên sinh.
Đặc biệt, ban đêm, bạn có thể đi xem các loài thú hoang dã, ban ngày du
thuyền độc mộc trên dòng Sêrêpok thơ mộng. Ngoài ra, tham quan buôn
làng, thưởng thức rượu cần với những món đặc sản hấp dẫn đặc trưng của
đồng bào Tây Nguyên cũng là ý tưởng hay.
Hồ Lắk: Cách TP Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về hướng Nam, đây
là hồ nước ngọt lớn nhất Tây Nguyên và thứ nhì Việt Nam (sau hồ Ba Bể).
Xung quanh hồ được bao phủ bởi những cánh rừng nguyên sinh.
Đến hồ Lắk, du khách không thể bỏ qua thú vui lắc lư trên lưng voi
khổng lồ đang bơi. Kế tiếp là ngao du trên chiếc thuyền độc mộc, nhìn
ngắm đàn cá tung tăng bơi lội. Bạn cũng có thể mang theo cần câu để có
những chú cá tươi ngon, chế biến thành món đặc sản cùng thưởng thức với
rượu cần thơm nồng bên ánh lửa cao nguyên bập bùng rực cháy.
Buôn Jun: Nép mình bên hồ Lắk thơ mộng, Buôn Jun là nét chấm
phá tuyệt sắc như một bức tranh sinh động của núi rừng Tây Nguyên. Những
ngôi nhà dài truyền thống nằm trên lưng chừng dốc, các cô gái M’Nông
thư thả dệt vải, trước nhà là chú voi con ngộ nghĩnh, được ôm trọn bởi
các tán cổ thụ cao lớn. Hồ Lắk mênh mông và các cánh rừng cà phê phủ sắc
trắng bao quanh. Đến đây, du khách như tìm về bản sắc Tây Nguyên hoang
sơ, huyền bí và quá đỗi thanh bình.
Lễ hội truyền thống
Lễ hội chính là phần hồn của văn hóa miền đất đỏ, đến đây, du khách
chưa tham gia thường bị coi là chưa biết đến văn hóa Tây Nguyên. Có lễ
hội được tổ chức theo thời gian nhất định, một số khác làm dựa vào khí
hậu và mùa màng trong năm.
Đua voi là lễ hội được tổ chức định kỳ hai năm một lần, vào tháng 3
dương lịch. Còn lễ hội đâm trâu tổ chức từ tháng 2 đến tháng 5 dương
lịch. Lễ cưới voi, lễ cúng cắt ngà voi, cúng sức khỏe cho voi, lễ bỏ mả,
cúng bến nước, lễ ăn cơm mới…đều là những ngày hội thu hút đông đảo du
khách tham gia mà vẫn mang nét nguyên bản, kỳ bí.
Gà nướng, cơm lam là món ăn trứ danh mà bạn không thể bỏ qua khi đến đây. Ảnh: Văn Trãi.
|
Món ăn đặc sản
Cơm lam muối vừng, gà nướng Bản Đôn, cá thác lác hồ Lắk, cá lăng
Sêrêpok, rau rừng nấu ống, cà đắng, gỏi lá, rượu cần, rượu Ama Kông… là
những đặc sản làm nên danh tiếng Tây Nguyên mà du khách không nên bỏ
qua.
Quà mua về
Cà phê chồn thơm ngon đặc trưng, mật ong rừng nguyên chất, chuối hột
rừng phơi khô dùng để ngâm rượu, măng khô rừng, chiếc khăn thổ cẩm dệt
truyền thống, ché rượu cần… là những món quà tiện cho du khách làm quà
sau những chuyến khám phá.
Vài lưu ý nhỏ
Tránh xả rác khi vào các khu rừng nguyên sinh, không nên đùa giỡn thái
quá với những chú voi, mặc trang phục lịch sự khi vào các buôn làng, tôn
trọng văn hóa địa phương của đồng bào.
Văn Trãi
Hang Dak Tuar - di tích lịch sử giả tạo ở Đăk Lăk
Những
nhân vật lịch sử được nhắc đến trong hồ sơ xét duyệt đang yêu cầu Tỉnh
ủy, UBND Đăk Lăk kiểm tra lại tính chính xác của các tài liệu về di tích
lịch sử Dak Tuar. Họ khẳng định hang đá này chưa bao giờ là căn cứ
kháng chiến như bản lý lịch di tích được Bộ VH-TT công nhận năm 1991.
Theo bản lý lịch di tích lịch
sử cách mạng hang đá buôn Dak Tuar năm 1990 của Bảo tàng tỉnh thì năm
1961, trong một trận càn quét của quân Mỹ và lính chế độ Sài Gòn cũ,
toàn bộ dân buôn Tuar (nay thuộc xã Cư Pui, huyện Krông Bông) chạy tránh
nạn trên núi Chư Yang Sin. Tại đây, 2 người làng phát hiện một hang đá
vừa rộng, vừa dài, gần nguồn nước, có nhiều ngóc ngách thuận tiện cho
việc trú quân, ăn ở lâu dài. Sau đó, tỉnh ủy Đăk Lăk đã chọn hang này
làm căn cứ. Một số cán bộ lúc đó như ông Huỳnh Văn Cần, Mười Nguyên, Lê
Chí Quyết, A Ma Thưng, Nam Vinh, Yblốc Êban, Lê Hữu Kiểng… đã ở đây chỉ
huy cuộc kháng chiến.
Bản lý lịch có đoạn: “Gộp Chăng (tức hang đá Dak Tuar)
không chỉ là đường dây chuyển liên lạc thông tin tiếp tế từ miền Bắc
hậu phương lớn vào miền Trung và các tỉnh miền Nam… mà còn là trung tâm
chỉ đạo cách mạng trong toàn tỉnh. Hang đá Dak Tuar mãi mãi đi vào lịch
sử…”.
Căn cứ vào hồ sơ này, kèm với ý kiến của Sở VH-TT và
tờ trình của UBND tỉnh Đăk Lăk, ngày 3/8/1991 Bộ VH-TT ký quyết định
công nhận hang Dak Tuar là di tích lịch sử.
Thế nhưng trong danh mục 8 tài liệu tham khảo của Bảo tàng Đăk Lăk nêu ra, kể cả tài liệu tin cậy nhất là các quyển Lịch
sử Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk, Vấn đề xây dựng căn cứ miền núi từ năm
1954-1970, Chỉ thị về nhiệm vụ xây dựng căn cứ cách mạng Tây Nguyên... đều không hề nhắc đến hang đá Dak Tuar.
Những nhân vật lịch sử được nhắc đến trong hồ sơ xét
duyệt di tích lịch sử như ông Huỳnh Văn Cần (nguyên bí thư Tỉnh ủy Đăk
Lăk), Hoàng Lê (nguyên chánh văn phòng Tỉnh ủy), Lê Hữu Kiểng (nguyên
tỉnh đội trưởng) đều khẳng định chưa hề một ngày ở trong hang Dak Tuar.
Có người còn nói không biết hang đá đó ở đâu. Ông Hoàng Lê nói: "Trong
kháng chiến chống Mỹ, cơ quan chỉ huy có đóng tại buôn Tuar, chứ không ở
trong hang đá. Nếu công nhận di tích lịch sử thì phải công nhận buôn
Tuar chứ không phải hang đá nào đó".
Ông Huỳnh Văn Cần, nay là cán bộ hưu trí, cho rằng:
"Để công nhận một địa danh là di tích lịch sử, trước hết phải khảo sát,
tập hợp tài liệu, gồm văn bản, hiện vật, lời kể của những nhân chứng
sống... Tất cả được lập thành hồ sơ và được đưa ra hội thảo để xem xét
độ chính xác của tài liệu, giá trị tầm vóc của di tích, sau đó mới có
thể kết luận và đề nghị công nhận. Thế nhưng bảo tàng Đăk Lăk đã không
hề đưa ra được bất cứ hiện vật, tài liệu, văn bản, nhân chứng nào chứng
minh cho bản lý lịch hang đá Dak Tuar". Ông Cẩn khẳng định những chi
tiết trong lý lịch Dak Tuar như: “Từ một hang đá hoang vu nơi chốn rừng
thiêng nước độc đã trở thành ngôi nhà thiên nhiên kín đáo vững chắc,
tỉnh ủy cùng các cơ quan ban ngành đã đóng chốt cùng với toàn dân Dak
Tuar mà hầu hết là người dân tộc M’nông để tổ chức cuộc kháng chiến...”
là không có thực.
Các vị lão thành cho biết đã nhiều lần đề nghị Tỉnh ủy
Đăk Lăk xác minh vấn đề này, và UBND tỉnh cũng đã yêu cầu Sở VH-TT tỉnh
giải trình. Nhưng đã hai tháng qua, chuyện thật giả của “di tích lịch
sử cách mạng Dak Tuar” vẫn chưa được các cơ quan chức năng tỉnh làm rõ.
Văn Nhân
Một số di tích lịch sử và văn hoá
Ngày cập nhật: 12/05/2014
Là
một mảnh đất có bề dày về văn hóa và lịch sử, Đăk Lăk ngày nay có rất
nhiều di tích đã và đang được kiểm kê, công nhận và xếp hạng. Ngoài
những di tích khảo cổ như khu mộ táng Ea Knuếk (Krông Păc), mộ Chăm Hòa
Sơn (Krông Bông), tháp Yang Prong (Ea Súp)...trong tình còn có hàng chục
di tích lịch sử và văn hóa, như:
· Nhà đày Buôn Ma Thuột.
· Đồn điền CADA.
· Đình Lạc Giao.
· Buôn Dliêya (Krông Năng), buôn căn cứ trong chống Pháp và chống Mỹ
· Buôn Cháy (Cư Mgar), buôn căn cứ trong chống Mỹ
· Hang đá Đăk Tuôr (Krông Bông) trụ sở của Tỉnh ủy trong vùng căn cứ thời kỳ chống Mỹ.
· Hang đá Khuê Ngọc Điền (Krông Bông)
· Đèo Phượng Hoàng (MĐrăk).
· Hang Ba tầng (Lăk)
· Chùa Khải Đoan (TP.Buôn Ma Thuột)
· Mộ Khun Ju Nốp (Buôn Đôn)
· Mộ thầy giáo Y Jút (Buôn Ma Thuột)
· Nhà dài Ê đê (Buôn Păn Lăm - TP.Buôn Ma Thuột)
· Nhà Lào cổ ở Buôn Đôn....
Nhà Đày Buôn Ma Thuột
Cách đây hơn 50 năm
đã có một Nhà Đày (một trong những khu biệt giam tù chính trị) với chế
độ tàn bạo nhất của bọn thực dân Pháp ở nước ta. Đến Buôn Ma Thuột tìm
hiểu về mảnh đất - con người, không thể không đến thăm Khu Di Tích Lịch
Sử Cách Mạng đã được Nhà nước xếp hạng này.
Buôn
Ma Thuột xưa được coi là vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà những người
không phải dân địa phương này đều ngại đặt chân đến. Cũng tại mảnh đất
hoang sơ này, với những toan tính về quyền lực, vào năm 1900, người Pháp
đã xây dựng lên một nhà lao dùng để giam tù chính trị tại đây. Dựa vào
ưu thế về việc giam giữ tù tại đây vì là vùng đất hoang vu, khí hậu độc
địa, ít người lui tới, sự khác biệt về ngôn ngữ văn hóa với người dân
tộc Ê Đê tại đây, người Pháp quyết định mở rộng nhà lao này.
Đình Lạc Giao
Ở Buôn Ma Thuột, trên địa phận của phường Thống Nhất,
có một ngôi đình mang tên là đình Lạc Giao được lập vào năm 1929, là
ngôi đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây
lập nghiệp, thờ vị thành hoàng làng là Đào Duy Từ. Ngôi đình ban đầu
làm bằng tranh tre, năm 1932, ngôi đình được xây dựng lại bằng gạch lợp
ngói theo hình chữ Môn, gồm có nhà thờ Thần Hoàng và những người có công
với nước, hai nhà tả hữu hai bên dùng làm nơi hội họp mỗi khi tế lễ,
phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng có bức bình phong có chạm
khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn
Làng Lạc Giao hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi…
Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này. Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột.
Làng Lạc Giao hình thành bắt đầu từ những người bị tù lưu đày xa xứ, rồi những dân phiêu bạt từ các vùng đất miền Trung nghèo khó tìm nơi lập nghiệp sinh sống, rồi những công chức, thầy giáo, binh lính được bổ nhiệm lên vùng đất xa xôi…
Ban đầu chỉ dăm nóc nhà dọc theo con đường suối Ea Tam, xóm người Việt ấy được gọi là thôn Nam Bang. Họ làm rẫy dọc theo khu rừng già ven suối, bên cạnh một buôn của Ama Thuột. Năm 1924, họ gọi xóm người Việt di cư đến là Lạc Giao với ý nghĩa: Lạc là con Lạc cháu Hồng, Giao nghĩa là nơi bang giao Kinh – Thượng. Tên gọi Lạc Giao là lời nguyền giao ước an cư lạc nghiệp của đồng bào Kinh- Thượng, cùng chung lưng đấu cật xây dựng vùng đất mới này. Năm 1925, làng Lạc Giao được mở rộng bao trùm cả một khu vực rộng lớn ở ngay trung tâm Buôn Ma Thuột.
Tài
liệu của đình Lạc Giao ghi: ông Phan Hộ, người Quảng Nam, vào Ninh Hoà
(Khánh Hoà) sinh sống. Thuở ấy, lên cao nguyên Dak Lak chưa có đường,
ông Phan Hộ cùng một số trai tráng đi bằng voi, ngựa xuyên rừng vài
tháng mới tới vùng M'Drak rồi đến Buôn Ma Thuột trao đổi hàng hoá với
người Ê Đê, thấy người dân ở đây giàu lòng mến khách, đất đai màu mỡ lại
dễ làm ăn, nên ông vận động nhiều gia đình lên đây sinh sống, khai phá
đất hoang để lập làng. Nỗi nhớ thương quê nhà bản quán, anh em khôn
nguôi trong lòng những người đi xa quê, làm ăn xứ lạ. Từ đó họ có nhu
cầu gặp gỡ, trao đổi công việc làm ăn, nhất là lễ tết có nơi cúng kiếng
ông bà tổ tiên, nhắc chuyện quê hương làng xóm. Họ đã góp tiền của công
sức dựng nên ngôi đình trên để thoả nỗi ước mong đó.
Đình Lạc Giao ra đời ghi dấu bước chân của người Việt trên mảnh đất cao nguyên, là nơi mọi người cầu mong sức khoẻ và làm ăn phát đạt, nơi thờ các vị tiên hiền và người có công với đất nước, nơi sinh hoạt trong những ngày lễ tết của cư dân Việt trên vùng đất mới.
Năm 1932, vua Bảo Đại ra chiếu sắc phong cho thần hoàng của làng là Đào Duy Từ, khẳng định đây là đất của “Hoàng triều cương thổ”. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới. Việc đình Lạc Giao được Bảo Đại ban sắc tứ Thần Hoàng làng, mang ý nghĩa lớn lao, như nhắc nhở mọi người dân đang sinh sống nhớ lấy cội nguồn quê hương và trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người dân trên vùng đất mới.
Đình Lạc Giao là bằng chứng của mối quan hệ bang giao tốt đẹp Kinh- Thượng và còn là nơi bảo lưu truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắc Lắc. Hằng năm cứ đến ngày 27-10 âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức ngày tưởng niệm tại đình hết sức trang trọng về những chiến sĩ Nam tiến và đồng bào đã hy sinh trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp 12-1945.
Chùa Khải Đoan
Chùa toạ lạc số 89A
đường Phan Bội Châu, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk, là ngôi chùa của những người Việt sinh sống ở Ðắk Lắk.
Chùa được bà Từ Cung
xây dựng năm 1951 trên một khu đất thoáng và rộng. Chùa cúng cho Giáo
Hội Tăng Già trung phần. Hoà Thượng Thích Đức Thiệu trụ trì đầu tiên,
đến nay đã qua 7 đời. Hiện nay chùa do thượng toạ Thích Châu Quang trụ
trì. Tên chùa “Khải Đoan” được ghép bởi hai từ đầu của vua Khải Định và
vợ ông là Đoan Huy Hoàng Thái Hậu. Chùa hiện đặt văn phòng ban trị sự
Phật giáo tỉnh Đắk Lắk.
Chùa có kiến trúc
kiểu chữ tam, trước cổng là tam quan, giữa là chánh điện, sau là nhà hậu
tổ. Cổng tam quan gồm hai tầng với ba vòm cửa cao 7m, rộng 10,5m. Điện
Quan Âm xây tách biệt với bố cục chính của chùa kiến trúc theo dạng tháp
trống, hình lục giác với sáu cột trang trí hình rồng mây. Chánh điện là
công trình kiến trúc chính, chia hai phần: phần trước kiến trúc theo
kiểu nhà dài của Tây Nguyên và cột kèo nhà rường của người Việt. Nửa sau
xây theo lối hiện đại. Chánh điện được chia làm 5 gian, giữa chánh điện
có bệ thờ Phật Thích Ca ngồi xếp bằng toạ thiền. Chùa có sắc phong năm
Quý Tỵ (1953) dài 1,85m và quả chuông có kích thước lớn, nặng 380 kg đúc
năm 1954. Sự ra đời của chùa Khải Đoan gắn liền với lịch sử di dân của
người Việt lên Đắc Lắc cũng như sự giao lưu, đan xen văn hoá cuả người
Việt với nhiều dân tộc địa phương trong quá trình cộng cư.
Dưới triều nhà
Nguyễn, chùa được sắc phong tự hiệu “Sắc tứ Khải Đoan tự” và là ngôi
chùa đầu tiên của tổ chức Phật giáo miền Trung, thời kỳ chấn hưng Phật
giáo Việt Nam tại Tây Nguyên, vùng đất hoàng triều cương thổ thời vua
Bảo Đại.
Chùa hướng mặt tây
nam, nhìn xuống suối Đốc Học, lưng dựa thế đất cao của khu phố Buôn Ma
Thuột “tiền thuỷ hậu sơn” theo quan niệm phong thổ hài hoà của kiến trúc
cổ Việt, thế đứng vững chãi bền lâu cho muôn đời con cháu.
Lối kiến trúc mô
phỏng theo kiểu dáng cung đình Huế kết hợp với phong cách nhà sàn của
dân tộc Tây Nguyên, pha chút kiến trúc hiện đại. Mái chùa cong, dáng dấp
một mái nhà rông, nhưng rất uyển chuyển mềm mại với những đôi giao long
quyện mây lướt gió, thật độc đáo mà hài hoà, cổ kính mà cũng thật gần
gũi, đậm đà.
Là ngôi chùa đầu tiên
của tổ chức Phật giáo Trung phần thời chấn hưng, suốt nửa thế kỷ qua,
Khải Đoan là trụ sở của Phật giáo tỉnh.
Khải Đoan được coi là
cái nôi Phật giáo Tây Nguyên. Từ đây hàng trăm ngôi chùa trong tỉnh đã
được hình thành và phát triển. Vì vậy nhân dân quen gọi là chùa Lớn hay
chùa Tỉnh.
Sau nhiều đợt trùng
tu, cất thêm vài công trình mới, chánh điện vẫn y như cũ và dành để thờ
Đức Thích Ca; bên hông trái của chùa có tòa lục giác thờ Quan Âm Bồ tát.
Ngoài việc là một trong những di tích lịch sử hấp dẫn của thành phố
Buôn Ma Thuột, chùa Khải Đoan còn là nơi thể hiện dòng chảy của đạo pháp
dân tộc trên đất Tây nguyên.
Nhà dài Ê Đê
Đặc điểm chính của
nhà dài Ê Đê là thưòng rất dài vì là nơi ở chung có khi của cả một dòng
họ và thường xuyên được nối dài thêm mỗi khi một thành viên nữ trong gia
đình xây dựng gia thất. Vì vậy có những huyền thoại nhà dài như tiếng chiêng ngân bởi vì đứng ở đầu nhà đánh chiếng thì cuối nhà chỉ còn nghe rất nhỏ, ra khỏi là mất luôn, không còn nghe thấy gì nữa.
Nhà dài truyền thống thường được xây dựng bằng vật liệu gỗ, tre, nứa lợp
mái tranh. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt có sức chịu đựng dãi dầu
cùng năm tháng. Các đà ngang, đòn dông luôn luôn bám nguyên tắc được đẽo
hoàn toàn bằng tay, từ những cây gỗ nguyên vẹn dài có thể tới trên chục
mét; đếm chúng, ta có thể biết nhà đã có thêm bao nhiêu lần được nối
dài. Những lần nối dài thường là khi trong nhà có một thành viên nữ xây
dựng gia thất vì người Ê Đê theo chế độ mẫu hệ, người con trai khi lấy
vợ sẽ đến ở nhà vợ và không có quyền hành gì.
Nhà được thưng vách và lót sàn bằng các phên nứa đập nát; mái lợp cỏ tranh đánh
rất dày, trên 20cm, thường chỉ làm một lần và sử dụng vĩnh viễn không
phải lợp lại. Đỉnh mái cách sàn nhà chừng 4-5 m. Gầm sàn cao khoảng hơn
1m trước đây luôn được dùng làm nơi nuôi nhốt trâu, bò, lợn, gà nên
rất mất vệ sinh, sau này đã bỏ dần tuy nhiên có một số nơi vẫn theo
phong tục cũ này. Khi làm nhà mới, người Ê Đê rất kiêng không bao giờ
dùng lại gỗ nhà cũ mà thường đốt bỏ, tuy nhiên ngày nay phong tục này
chỉ còn tồn tại ở các vùng sâu gần rừng nơi còn dễ kiếm gỗ làm nhà.
Những đặc trưng của
nhà Ê Đê là: hình thức của thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng
sinh hoạt. Đặt biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài là nơi chứa các vật dụng như bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) có thể dài tới 20m được đẽo từ những thân cây rừng nguyên vẹn kể cả chân, trên vách có treo cồng chiêng ... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hành lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp lửa... Nguyên bản trước đây bếp lửa của người Ê Đê thường được đặt trực tiếp trên sàn, họ đóng một khung vuông bằng gỗ cao khoảng 10 cm, đổ đất nện, sau đó đốt lửa trên đó cả ngày với mục đích giữ lửa và để chống muỗi và các loại côn trùng khác.
Trà Giang
Khám phá 8 món ngon của ẩm thực Đắk Lắk níu chân du khách
Du lịch Đắk Lắk
– trái tim của Tây Nguyên, không chỉ hấp dẫn du khách bởi cảnh quan
thiên nhiên hùng vĩ mà còn bởi những món đặc sản làm say lòng du khách.
Khám phá 8 món ngon của ẩm thực Đắk Lắk níu chân du khách
1. Gà nướng Bản Đôn
Để có những con gà nướng ngon, hợp lòng
du khách, người dân Bản Đôn phải rất công phu nuôi chọn gà và có cách
làm món riêng. Trước hết, giống gà phải là gà thả vườn chính hiệu. Đất ở
Bản Đôn rộng, vườn thưa, gà nuôi ở đây được thả rông tự do, thức ăn
chính của chúng là cỏ non, côn trùng và lúa rẫy.
Gà được chọn nướng là loại mới lớn, độ
chừng hơn một kg mỗi con. Sau khi làm xong, gà để nguyên con, có thể dần
cho con gà bẹp lại rồi ướp muối ớt, nước sả và thêm ít mật ong rừng. Để
ăn gà nướng ở Bản Đôn “đúng bài”, du khách phải chấm thịt gà với muối
ớt hoặc muối sả.
2. Cá bống thác kho riềng
Món cá bống thác kho riềng là một món ăn
có tính truyền thống của những đồng bào dân tộc tại Đắk Lắk. Cá bống
Tây Nguyên sống ngay trong dòng thác đổ. Loại cá này chỉ thích nghi với
môi trường nước đổ từ cao xuống, mình bé và trắng, thân tròn săn chắc
như ngón tay.
Cá còn tươi nhảy lao xao được xả cho
sạch nhớt trên mình, và bỏ vào ít muối ướp cho cứng lại, sau đó lấy
riềng rửa sạch giã nhỏ. Người ta bắc chảo cho nóng, và cho vào đó ít dầu
ăn, hay mỡ đun cho sôi lên, cho cá vào chiên vàng, đổ riềng đã chuẩn bị
sẵn. Mùi riềng, mùi cá bốc lên thơm ngào ngạt, đợi riềng và cá quyện
vào nhau, lúc này họ mới cho mắm muối và các gia vị: hành, tiêu, ớt,
đường và bột ngọt tạo độ vừa ăn. Du lịch Đắk Lắk mà quên thưởng thức món
cá bống thác kho riềng quả là một thiếu sót lớn đối với du khách.
3. Lẩu rau rừng
Gọi là lẩu song lẩu rau rừng giống món
canh hơn, với 10 loại lá rừng được chọn lọc nấu cùng tôm khô hoặc thịt
các loại. Món “lẩu” rau rừng này được chế biến đầu tiên bởi những người
dân tộc Ê đê khi phải đối diện với cuộc sống khó khăn. Để có thức ăn
hàng ngày, họ đã vào rừng để hái những loại lá khác nhau về nấu canh.
Trải qua thời gian, “lẩu” lá rừng đã trở thành món đặc sản của người dân
tộc bản địa và rất có sức hút với du khách.
4. Thịt nai
Thịt nai là món đặc sản chủ yếu của vùng
rừng núi Tây Nguyên, đặc biệt là ở Đắk Lắk. Thịt nai tươi khác thịt bò ở
chỗ ít gân, mỡ màu trắng ngà, mềm hơn cả thịt bê non.
Thịt nai có thể chế biến thành nhiều
món: nai nướng, nai xào lăn, nai nhúng giấm, nai lúc lắc, sườn nai rán,
cháo bao tử và sau cùng là nai khô hợp lại đủ 7 món như thịt bò. Nhưng
nai nướng, nai nhúng giấm và nai khô lại là những món tiêu biểu nhất.
5. Lẩu Cá lăng
Dòng Sêrêpôk hoang dã, bí ẩn và mãnh
liệt đã được thiên nhiên ban tặng cho một loại cá quý đó là cá lăng rắn
chắc, thịt thơm và là món ngon nổi tiếng. Cá Lăng có thể chế biến thành
nhiều món, tuy nhiên ấn tượng nhất vẫn là món lẩu cá lăng với hương vị
độc đáo mang đậm chất Tây Nguyên. Đây là món ăn ngon miệng và có tác
dụng giải nhiệt rất tốt trong những ngày nắng.
6. Măng le
Cây le thuộc họ tre nứa khá điển hình
trên vùng đất Tây Nguyên. Cây le có sức phát tán mạnh mẽ, sức sống dẻo
dai đến kỳ lạ. Măng le từ phần ngọn của cây măng dùng tươi hoặc cắt lát
phơi khô , măng le thuộc loại ngon nhất trong các loài măng như măng
tre, măng trúc… nhờ tính đặc ruột, vị ngọt, bùi, không đắng chát,…
Với món măng le tươi có thể chế biến món
đơn giản nhưng lại đầy hương vị là món gỏi măng trộn hay măng le nấu
cùng thịt vịt, măng le hầm giò heo, măng le xào gan đều rất ngon. Vào
các buôn được mời bữa cơm gạo nương ăn với măng le nấu với thịt nai khô
có kèm muối đâm lá bép ớt hiếm ăn một lần không bao giờ quên.
7. Cơm lam
Cơm lam là món ăn nổi tiếng của người
đồng bào ở bản Đôn. Cơm lam được coi là món ăn đặc trưng nhất của núi
rừng bởi chắt lọc từ vị ngọt của dòng suối mát trong và hương thơm của
tre nứa xanh ngút đầu non. Món ăn này được hình thành từ những chuyến đi
làm rẫy, đi rừng dài ngày của người đàn ông Tây Nguyên khi xưa.
Khi thưởng thức chỉ cần bóc bỏ lớp nứa
bên ngoài, cắt khúc và bạn đã có món cơm lam dẻo, thơm hấp dẫn. Người
Tây Nguyên thường dùng cơm lam với muối vừng, thịt gà hoặc thịt lợn rừng
nướng. Nước suối trong vắt của núi rừng cùng với vị ngọt của ống nứa
nơi đầu non đầu non đã tạo nên món cơm lam có hương vị đặc biệt, làm say
lòng bất cứ ai nếu đã từng thưởng thức.
8. Cà đắng
Cà đắng là một loại cà dại mọc nhiều
trên rừng, trên nương rẫy, hiện nay đã được người dân khu vực Tây Nguyên
trồng trong vườn nhà, ra quả quanh năm, trái cà dài, to hơn cà pháo của
người Kinh có gai, màu xanh sọc đốm trắng, đặc biệt có vị đắng rất đặc
trưng.
Cà đắng được chế biến thành nhiều món ăn
khác nhau trong bữa cơm của người dân tộc Ê Đê như nấu với cá tươi, cá
khô, tép khô, thịt rừng,… Ngoài nấu chín, người Ê Đê còn ăn cà đắng
sống, bằng cách giã nát cà rồi cho thêm gia vị: muối, ớt, bột ngọt, lá
é, lá và củ nén.
Theo Traveltimes.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét