MỌI MIỀN NƯỚC VIỆT 18 (Đồng Nai)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Cổng vào khu Di tích lịch sử - Danh thắng Núi Chứa Chan
Một góc cảnh quan hang động ở danh thắng Núi Chứa Chan
Du khách đi Nha Trang khi gần đến trung tâm thành phố sẽ qua một nơi gọi là Ngã ba Thành, vì vậy khi dạo chơi ở thành phố Biên Hòa sẽ ngạc nhiên khi nghe nói: Tới Ngã ba Thành rồi!
Ồ, ở Biên Hòa cũng có Ngã ba Thành, nhưng đó là Thành Kèn (chứ không phải thành Diên Khánh ở Nha Trang). Gọi là ngã ba Thành vì nơi đó có một ngôi thành cổ, rất cổ - có thể coi là cổ nhất của Nam bộ.
Thành cổ Biên Hòa nằm ngay giữa thành phố Biên Hòa hiện đại. Bơ vơ. Điêu tàn.
Thành cổ nằm ở đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa. Nếu bạn không chú ý, bạn sẽ không thấy thành cổ mà chỉ thấy siêu thị, chợ, và những tòa nhà mới xây to đẹp, còn thành cổ thì nằm khiêm tốn, khuất sau cổng của... Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Đồng Nai. Vết tích còn lại là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong, bên trong có ngôi nhà kiến trúc theo kiểu Pháp. Thành cổ ở đó, như một lão già sắp tàn hơi, nằm nghiền ngẫm sự đời qua bao thế kỷ, và nhìn đám hậu sinh đang xôn xao giữa chốn phồn hoa.
Thành cổ Biên Hòa được xây dựng từ năm nào?
Theo thư tịch cổ, từ thế kỷ 14-15, thành do dân Lạp Man xây đắp bằng đất với tên gọi "Thành Cựu". Thời nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền Thành Cựu, có mở rộng hơn, với tên gọi thành Biên Hòa. Theo tác giả Lương Văn Lựu viết trong Biên Hòa sử lược, thì "Thành được xây dựng vào năm Gia Long thứ 15 (tức 1816) tại địa hạt thôn Bàn Lân (thôn Tân Lân) huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa cũng với tên gọi là "Thành Cựu" do dân Lạp Man xây đắp bằng đất. Chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và một kỳ đài (phía chánh điện). Mỗi cửa ngõ có bắc một cầu đá ngang qua hào để làm lối lưu thông ra vào". Thành được xây theo hình cánh cung, đến năm Minh Mạng thứ 18 (tức 1837), Thành Cựu được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Thành Biên Hòa.
Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, thu gọn chu vị thành còn 1/8 so với trước và gọi là thành "Xăng đá", phiên âm từ tiếng Pháp Soldat - nghĩa là "Thành Lính". Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở. Buổi sáng lính thường sử dụng kèn báo thức, âm thanh vang cả một vùng nên dân địa phương còn gọi là Thành Kèn.
Những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho biết, Thành Biên Hòa có một vị trí rất quan trọng trên nhiều mặt. Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này.
Phải công tâm mà nói rằng: thành Biên Hòa xưa với những dấu tích còn sót lại trong phạm vi nội ô thành phố Biên Hòa hôm nay là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua 170 năm được tạo dựng (tính từ mốc nguyên khởi), bao biến cố của thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình cổ thành Biên Hòa vẫn còn những dấu tích khá rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại.
Trong diễn trình lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, cổ thành Biên Hòa là một dấu chứng gắn liền với những sự kiện quan trọng. Trong lý lịch di tích thành Biên Hòa của Nhà Bảo tàng Đồng Nai thực hiện, phần nội dung đã nêu khá đầy đủ những chi tiết này. Và có lẽ, chúng ta đồng thuận những trích dẫn, ghi chép hầu hết từ trong tư liệu của Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn hay Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
Tư liệu ghi chép về cổ thành Biên Hòa rất hiếm. Trong những đợt sưu tầm tư liệu phục vụ cho địa chí Đồng Nai vào những năm cuối thập niên 90, thế kỷ XX, tôi có đến một số thư viện tại Hà Nội (Thư viện Quốc gia, Viện Hán Nôm, Thư viện Quân đội, Viện Sử học Việt Nam) với mong muốn tìm những tư liệu Biên Hòa - Đồng Nai xưa nhưng tiếc rằng tư liệu thu thập không nhiều, không có tư liệu về thành cổ Biên Hòa.
Theo một số tư liệu, chúng ta biết rằng, cổ thành Biên Hòa được bắt đầu xây dựng vào năm 1834. Tư liệu cho biết như sau: Tháng 6, năm 1834, xây đắp thành đất tỉnh Biên Hòa, 4 mặt thành đều dài 70 trượng, cao 4 thước 3 tấc, dày 1 trượng, mở 4 cửa. Đào hào rộng 2 trượng, sâu sáu thước. Quan Khâm sai Đoàn Văn Phú chịu trách nhiệm trong việc trù tính việc làm. Vua Minh Mạng đồng ý cho việc chọn lấy 1.000 dân trong hạt đứng ra xây đắp, số dân làm thành được hậu cấp cho tiền gạo.
Và đến năm 1838, đợt xây dựng với quy mô lớn hơn về thành Biên Hòa được tiến hành. Tư liệu cho biết: Tháng Giêng năm 1838, xây đắp thành tỉnh Biên Hòa. Chu vi dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng 5 thước, hào đào rộng 3 trượng, cửa thành có 4 cửa. Vua Minh Mạng sai phát 4.000 binh dân làm việc và lại cho đây là công trình trọng đại nên phái Vệ úy Vệ tả bảo nhị là Nguyễn Văn Gia, Thự phó Vệ úy Tiền doanh Long Võ là Phan Văn Lăng, Vệ úy Tả thủy Gia Định là Lê Văn Tự, Vệ úy Bình Thuận là Tôn Thất Mậu trông coi việc thực hiện.
Ngoài ra còn có một số tư liệu khác cũng nhắc đến thành Biên Hòa với một số chi tiết khác như: có dựng 1 kỳ đài, mỗi cửa ra vào đều có bắc cầu đá ngang qua hào để làm lối ra vào, hào rộng 4 trượng, sâu 6 thước, tường thành dày trượng. Một số giả thuyết cho rằng, thành Biên Hòa được xây dựng trên dấu tích cũ của một thành trì của dân Lạp Man (Chân Lạp). Theo tác giả Lương Văn Lựu thì đời Gia Long vào năm 1816 thì thành Biên Hòa đã được xây. Trước tiên, thành Biên Hòa đắp bằng đất, sau này, xây bằng đá ong.
Cổ thành Biên Hòa là một công trình phòng thủ quân sự của triều Nguyễn ở vùng đất Biên Hòa. Hệ thống bố phòng ở Biên Hòa lúc bấy giờ còn có các trạm, lũy, tấn, đồn thủ tại các nơi xung yếu. (Cũng cần nói thêm: tỉnh Biên Hòa lúc bấy giờ gồm phủ Phước Long và 4 huyện: Phước Chánh, Phước An, Bình An, Long Thành. Đối chiếu với địa giới hiện nay thì nó bao gồm các tỉnh hiện nay như: Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước và một phần đất của các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận). Ngoài chức năng của một trung tâm các hoạt động nhiều mặt của xã hội đương thời, cổ thành Biên Hòa đóng góp rất quan trọng trong việc bố phòng, trấn an vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Thành Biên Hòa là điểm chỉ huy của các cuộc trấn áp đối với sự nổi dậy phá hoại của các tộc người miền núi không tuân phục triều Nguyễn, triều Nguyễn gọi chung là man sách.
Trong diễn trình lịch sử kế tiếp, thành Biên Hòa có vị trí quan trọng của triều Nguyễn trong việc trấn áp các cuộc nổi dậy mà tiêu biểu là cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi ở Phiên An. Cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi vào năm 1833 và bị dập tắt hòan toàn vào năm 1835. Trong thời đoạn này, thành Biên Hòa nhiều lần đổi chủ. Lúc thì quân của Lê Văn Khôi chiếm lấy, sau đó quân của triều Nguyễn chiếm lại.
Sự biến động này không chỉ làm đau đầu triều Nguyễn mà còn làm cho trăm dân của Biên Hòa lâm vào nạn chiến tranh. Chính từ sau ” sự kiện “ Lê Văn Khôi, 3 năm sau, vua Minh Mạng thấy việc xây thành Biên Hòa “ là công trình trọng đại”, chuẩn cho xây thành Biên Hòa và sai phái trách nhiệm cho nhiều vị tướng quân. Tầm quan trọng của thành Biên Hòa không chỉ bó hẹp trong tỉnh Biên Hòa mà còn của chung khu vực Đông Nam Bộ. Điều này thể hiện sự phân công của vua Minh Mạng đối với các vị quan ở Bình Thuận, Gia Định cùng được điều trông coi.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bởi xu thế chủ hòa của một số danh tướng đương thời nên đại quân được tăng cường đến, sung quân tại chỗ của Biên Hòa đã không ngăn được bước tiến của quân thù. Cả thành Biên Hòa rơi vào tay giặc và bắt đầu cho thời đọan lịch sử đau thương dười sự thống trị ngoại xâm từ Tây phương. Trong sự kiện này, thành Biên Hòa luôn luôn được đánh giá có một vị trí chiến lược quan trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của giai đọan lịch sử này, nhưng phải cần nhắc rằng, một địa thế quan trọng trong thời điểm lịch sử này là thành Biên Hòa đã không được sử dụng đúng với tầm của chính nó.
Trong những giai đọan lịch sử về sau, thành Biên Hòa gắn với những sự kiện lịch sử đáng chú ý như trận đánh của nhóm hội kín Lâm Trung Trại vào ngày 14 tháng 2 năm 1916. Đại cuộc bất thành, một số nghĩa dõng của nhóm bị quân Pháp dùng nhiều phương cách bắt và tử hình. Tinh thần yêu nước và quật khởi xem nhẹ cái chết vì đại nghĩa dân tộc của những người lãnh đạo Lâm Trung Trại được người dân Biên Hòa ghi nhớ, tạc lòng. Những người lãnh đạo nhóm yêu nước bị Pháp tử hình được nhân dân địa phương thờ phụng tại chùa Bửu Hưng (người dân quen gọi là chùa Cô Hồn – một trong những di tích đã được tỉnh Đồng Nai xếp hạng).
Khi thực dân Pháp tái chiếm Biên Hòa, lực lượng vũ trang yêu nước Biên Hòa phối hợp với một số đơn vị khác ở miền Đông Nam Bộ tấn công vào thị xã Biên Hòa vào đầu năm 1946. Trận đánh lịch sử này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp của nhân dân Biên Hòa nói riêng và Nam Bộ nói chung. Tinh thần trận đánh cỗ võ mạnh mẽ cho phong trào tham gia kháng chiến, bất hợp tác với giặc của nhiều tầng lớp nhân dân. Diễn biến trận đánh này chúngta có thể tìm hiểu chi tiết trong nhiều sách sử của Biên Hòa – Đồng Nai, trong lý lịch hồ sơ di tích này. Đây là trận tấn công đầu tiên của lực lượng cách mạng ở Nam Bộ vào một thị xã kể từ khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
Ngoài các sự kiện tiêu biểu trên, chúng ta có thể lược nêu những sự kiện khác liên quan đến thành Biên Hòa trong các thời kỳ lịch sử về sau. Những sự kiện đó gắn liền với thể chế chính trị đương thời hoặc liên quan tới quá trình đấu tranh kháng chiến của phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh cách mạng. Bởi lẽ, trong thời kỳ từ 1945 – 1954 hay 1954 – 1975, chính quyền đương thời đã sử dụng và xây dựng thêm một số công trình trong phạm vi cổ thành Biên Hòa phục vụ các hoạt động, chủ yếu về an ninh, quân sự: doanh trại, nhà thương, nơi giam giữ, tra khảo, sở an ninh quân đội…Và sau ngày giải phóng (năm 1975), chính quyền cách mạng địa phương tiếp quản và cũng đã tạo nên những đổi thay trong phạm vi của cổ thành để ngành hậu cần công an hoạt động.
Tôi mạo muội nói dông dài như thề để có cái nhìn về cổ thành này như thế nào cho thật khách quan. Qủa vậy, qua những tư liệu trên, chúng ta nhận thấy rõ những điểm này:
Xin được nêu lên vấn đề quy đổi đơn vị tính mét theo hiện nay. Trong hồ sơ lý lịch di tích quy đổi ra như thế này: “ chu vi 338 trượng = 1.784,8 m, cao 8 thước 5 tấc = 3,91 m, dày 1 trượng = 4,6 m, hào rộng 4 trượng = 16,4 m, sâu 6 thước = 2,76 m” - dẫn theo cách tính trong Địa bạ triều Nguyễn của tác giả Nguyễn Đình Đầu. Trong Địa chí Đồng Nai (tập III, trang 180) khi đề cập thành Biên Hòa cho biết: “ chu vi 338 trượng (khoảng 1.350 m), tường cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3,4 m), dày 1 trượng (4 m), hào rộng 4 trượng (16 m), sâu 6 thước (2,4 m)“.
Chúng tôi xin tóm lược dẫn lại một cách tính mà tác giả là Nguyễn Đình Đầu nêu trong Địa chí Thành phố Hồ Chí Minh (Nxb Tp.HCM 1987). Qua nhiều tư liệu (Sách Quan chế của Paulus Của năm 1888, Tự điển Tabert năm 1838 – từ điển này sử dụng tư liệu của một từ điển do Bá Đa Lộc và Hồ Văn Nghị soạn từ trước năm 1790) đã phỏng đoán rằng thước dùng ở Gia Định là thước mộc, quy đổi 1 thước mộc dài 0m487. Nhưng loại thước này chỉ dùng cho đến năm 1805. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đặt hiệu là Gia Long đã lấy thước cũ thời Lê để định chuẩn chung cho cả nước phải sử dụng, đó là “ quan mộc xích “, thước này dài 0m424.
Tôi thiết nghĩ rằng, thước này vẫn được dùng trong thời vua Minh Mạng. Thành Biên Hòa xây dựng trong thời Minh Mạng nên cách tính, ghi chép theo định chuẩn thước này. Như vậy, khi lấy chuẩn, 1 trượng bằng 4m24, 1 thước bằng 0m424, chúng ta sẽ lược đổi được những thông số về thành Biên Hòa như sau: chu vi 338 m (khoảng 1.433,12 m), tường cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3, 604 m), dày 1 trượng (khoảng 4,24 m), hào rộng 4 trượng (khoảng 16,96 m), sâu 6 thước (khoảng 2,544 m). Ý kiến này chúng tôi nêu như một sự tham khảo và rất mong được sự giúp đỡ cho biết thêm của các nhà nghiên cứu.
Trên những cơ sở dữ liệu trên, tôi thiết nghĩ dấu tích kiến trúc cổ thành Biên Hòa hiện tồn trong nội ô Biên Hòa hiện nay (phường Quang Vinh) là một di tích lịch sử cần được bảo vệ, tôn tạo và phát huy trong đời sống hiện tại. Sự tồn tại của những dấu tích kiến trúc này là một điều may mắn và tự hào cho địa phương, các nhà quản lý, chuyên ngành trong công tác bảo vệ. Mọi sự so sánh đều khập khiểng nhưng nhân đây, tôi cũng muốn có đôi lời về sự kiện liên quan đến thành cổ Thăng Long trong một khía cạnh. Cổ thành Biên Hòa không có bề dày như hoàng thành của vùng kinh kỳ Thăng Long. Nhưng phải mất thời gian và công sức, phải khai quật từ lòng đất mới tìm thấy vết tích hoàng thành; trong khi ở Biên Hòa, dấu tích lộ thiên trên mặt đất. Diễn trình của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai chỉ hơn 300 năm có lẻ thì thành Biên Hòa tồn tại 170 năm. Các di tích vật thể loại hình thành trì thời Nguyễn ở Nam Bộ hầu như không còn để lại dấu tích kiến trúc như thành Biên Hòa. Vì vậy, khi bảo vệ di tích này, đây sẽ là một loại hành di tích độc đáo của cả Nam Bộ và có thể phát huy tác dụng hiệu quả cao giá trị của chúng trong các hoạt động liên quan.
Nhưng chúng ta bảo vệ như thế nào ? Đó chính là câu hỏi không kém phần quan trọng. Theo tôi được biết, việc bảo vệ di tích này còn có những chỗ “ vướng nhau “ trong công tác quy hoạch đô thị. Khi xã hội phát triển bao giờ cũng có những vấn đề nảy sinh giữa công việc bảo vệ di sản và phát triển mà quan trọng là phát triển đô thị, khi nguồn đất là yếu tố cần thiết. Gía trị di sản là vô cùng quan trọng nhưng không phải vì thế mà nó cản trở cho sự phát triển; song cũng không phải vì phát triển bằng mọi giá mà chúng ta phá bỏ giá trị di sản. Những thiệt hại về kinh tế chúng ta có thể khắc phục được dù có mất nhiều thời gian nhưng giá trị di sản thi không thể. Vì vậy, qua một số tư liệu chúng tôi tham khảo, một số nơi khi tiến hành quy hoạch phát triển, công tác điều tra di sản thường được thực hiện trước. Đối với di tích thành cổ Biên Hòa, chúng tôi đề nghị giữ nguyên hiện trạng của di tích trong hồ sơ khoanh vùng bảo vệ. Như thế, có nghĩa một số chi tiết về quy hoạch đô thị liên quan đến di tích thành Biên Hòa cần được điều chỉnh. Hẳn mọi công dân của Biên Hòa sẽ rất vui sướng khi thấy thành phố Biên Hòa phát triển với những quy hoạch khoa học, hiện đại. Và người dân sẽ càng tự hào hơn nữa khi trong đô thị hiện đại ấy bảo lưu những giá trị di sản độc đáo của nơi mình đang sống. Một khoảng của chiều kích lịch sử gắn liền với công sức của tiền nhân, những sự kiện lịch sử được hiển hiện trong lòng một đô thị mới và giá trị di sản ấy được giữ gìn cho muôn đời sau dù cuộc sống, xã hội có phát triển đến mức nào.
Di tích thành cổ Biên Hòa được bảo vệ sẽ làm phong phú thêm danh mục di tích của thành phố Biên Hòa và là một loại hình di tích độc đáo. Trong tương lai, chắc chắn thành phố Biên Hòa sẽ phát triển hơn hiện tại. Hiện nay, thành phố Biên Hòa đã là đô thị loại II trải qua 20 năm (1993 – 2013). Hoạt động văn hóa thành phố này chắc chắn sẽ phát triển theo hướng tích cực và tất yếu phù hợp với sự phát triển chung của địa phương. Vì vậy, di tích thành cổ Biên Hòa sẽ có cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát huy hơn. Tôi cũng mạo muội nêu lên ý này: Chúng ta có thể tôn tạo, sử dụng những cấu kết kiến trúc trong phạm vi di tích thành Biên Hòa thành Bảo tàng và hình thành một điểm sinh hoạt văn hóa của thành phố Biên Hòa. Bộ sưu tập súng thần công, đại bác hiện nay tại Bảo tàng Đồng Nai chuyển về đây trưng bày sẽ tăng thêm ý nghĩa, giá trị của chúng. Nội dung cấu kết trưng bày tại di tích sẽ rất phong phú khi thể hiện lịch sử vùng đất Biên Hòa và tôn vinh những danh tướng có công với xứ sở này. Đây cũng có thể được xem như một Võ miếu – vốn di tích là thành trì quân sự, trong khi chúng ta đã xây dựng một công trình vănhóa - Văn miếu.
Nguồn Tin: Hee Trần
Ths Phan Đình Dũng
Ảnh: Phạm Hoài Nhân
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
theo Quyết định số 457/QĐ ngày 25 tháng 3 năm 1991.
Từ thành phố Biên Hòa theo hướng quốc lộ I qua cầu Rạch Cát, rẽ vào bên trái khoảng 200 mét là đến đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Đền tọa lạc trên một khu đất rộng, bên tả của nhánh sông Đồng Nai ôm trọn Cù lao phố (thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa).
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 457/QĐ ngày 25 tháng 3 năm 1991.
Từ thành phố Biên Hòa theo hướng quốc lộ I qua cầu Rạch Cát, rẽ vào bên trái khoảng 200 mét là đến đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Đền tọa lạc trên một khu đất rộng, bên tả của nhánh sông Đồng Nai ôm trọn Cù lao phố (thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa).
Ngôi đền được xây dựng năm nào, ngày nào chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể. Sách gia định thành thông chi có ghi: “… Ở phía Nam Cù lao phố, thôn Bình Hoành, huyện Phước Chánh, thờ khai quốc công thần Tráng Hoàn hầu Nguyễn Hữu Cảnh .Đền trông ra sông Phước Giang, lấy đá ngầm làm làm thủy thành, dưới có cá chép lạ, lớn 6,7 thước, cứ đêm khuya tĩnh mịch, thường hướng vào đền, quãy nhảy dưới sông bơi lội ngược xuôi, như hình múa lạy. Sau qua trào Tây Sơn, hương tàn khói lạnh”.
Đến đời Trung Hưng, cấp 10 người từ phu, hàng năm cho tiền công tế vào mùa xuân, cầu đảo thường linh ứng; năm Tự Đức thứ 4, quan tỉnh tâu rằng đền lâu ngày mục nát, lại bị nước xói, phụng mệnh lấy cho 400 quan tiền giao dân sở tại mua vật liệu, dựng lại đền ở sau cách 10 trượng…”
Năm 1851, đền được xây lại cách vị trí cũ khoảng 400m. Hơn 100 năm sau đền được tu sửa bao nhiêu lần không rõ. Năm 1960 Ban quý tế đền đứng ra chủ trì việc trùng tu. Trước chánh điện mở thêm hành lang rộng 2 mét, các cột chính được đắp rồng, các cửa gỗ được thay bằng cửa sắt kéo, mái lợp ngói âm dương thay cho loại vảy cá trước đây. Kiến trúc hiện tồn của di tích thuộc vào niên đại này, lối kiến trúc tương đối hiện đại, các nét xưa còn lại ít, có chăng là nội thất trong các trang trí hoa văn, đồ thờ.
Ngôi đền được xây dựng theo dạng chữ điền (J) mặt tiền hướng ra sông Đồng Nai, phía Tây Nam. Chánh điện đền hình vuông, tường gạch trát đá rửa, bốn mái lợp ngói lá vảy cá, nền lát gạch tàu, phía trước mái đều gắn đôi rồng chầu pháp lam bằng gốm men xanh, đối xứng hai bên là cặp lân. Từ ngoài theo lối chính có 3 cửa. Hai cửa khắc chìm hàng chữ Hán với nội dung nói về đền thờ Bình Kính, công lao của Nguyễn Hữu Cảnh đối với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.
Nội điện có ba hàng cột gõ lớn. Trên các cột đều treo liễn đối. Các hoành phi thể hiện dưới dạng đại tự chữ Hán, liễn đối được trang trí hoa văn sơn son thiếp vàng vẫn giữ tươi màu dù trải qua nhiều năm tháng. Dưới những hoành phi là những bao lam gỗ được chạm trổ các đề tài lưỡng long chầu nhật, hoa chim sơn kim nhũ óng ánh. Gian giữa chánh điện thờ thấn, hai bên thờ tả ban, hữu ban liệt vị. Một góc bên bàn thờ trong tủ kiếng còn lưu giữ bộ áo mão tương truyền là của đức ông Nguyễn Hữu Cảnh thửơ sinh thời. Trước bàn thờ thần là bàn thờ la liệt, bàn thờ hội đồng, xung quanh đắp nổi bộ tứ linh và ở trên có đôi hạc và lưỡng long, gian giữa bày hai hàng bát bửu bằng đồng. Dọc theo bờ tường hai bên có bồn bệ xi măng thờ các bậc tiền nhân, hậu hiền, thế hiền và thánh mẫu.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một trong số ít di tích ở Biên Hòa còn lưu giữ được sắc thần, trong đó ghi rõ họ tên, chức tước vinh hiển, thứ bậc thượng đẳng thần của vua ban phong cho Nguyễn Hữu Cảnh.
Hàng năm, tại đền, nhân dân địa phương tổ chức hai lần lễ tế (tính theo âm lịch) vào các ngày 16 tháng 5 và 11 tháng 11, cầu cho quốc thái dân an và tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân có công mở mang vùng đất phương nam của tổ quốc. Năm 1998, kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1698 – 1998) Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai đã xây dựng nhà bia trong khuôn viên di tích đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Nhằm lưu truyền công đức của các bậc tiền nhân đã có công khai phá, bảo vệ, kiến tạo và xây dựng Đồng Nai với quá khứ hào hùng của ông cha, của truyền thống hào khí Đồng Nai.
Di tích lịch sử cấp quốc gia đền thờ Nguyễn Tri Phương (TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)
Đồng Nai
Tỉnh của Việt Nam
Đồng
Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ Việt Nam. Tỉnh lỵ của Đồng Nai
hiện nay là thành phố Biên Hòa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km, cách
Hà Nội 1.684 km theo đường Quốc lộ 1A. Wikipedia
Diện tích: 2.281 mi²
Dân số: 2,839 triệu (2014)
Những địa điểm du lịch đẹp nhất ở Đồng Nai
Cách Sài Gòn không xa và chi phí đi lại, ăn ở thấp giúp các địa danh này 'ghi điểm' với giới trẻ.
Đảo Ó - Ðồng Trường
Từ TP.HCM, theo quốc lộ 1A hướng về Ðồng Nai, đến ngã ba Trị An thì rẽ trái, đi 8 km nữa đến trung tâm thị trấn Vĩnh An (huyện lỵ Vĩnh Cửu) rồi đến bến thuyền Ðồng Trường. Sau 30 phút ngồi thuyền rong chơi hồ Trị An, bạn sẽ đặt chân lên đảo Ó.
Đến đảo Ó, ngoài thả mình trong không gian xanh tươi của cây, của trăm hoa khoe sắc và những đợt gió lộng, bạn sẽ được hòa mình vào làn nước trong xanh mát mẻ hay tìm cảm giác mạnh trong trong máng trượt cao 15 m.
Ngoài ra, bạn còn có các trò vui chơi như đi ca nô, mô tô nước, phóng phi tiêu, đánh cờ… Hai món ngon bạn không nên bỏ qua khi đến đây là cá lăng nấu canh chua và cá lăng kho tộ (cá lăng được dánh bắt trong hồ). Nếu muốn nghỉ qua đêm, bạn có thể thuê những nhà nghỉ ẩn mình dưới rừng cây hoặc trên đồi thông.
Núi Chứa Chan
Núi Chứa Chan còn gọi là núi Gia Ray, núi Gia Lào thuộc huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Với chiều cao 800 m so với mặt nước biển, đây là ngọn núi cao thứ hai khu vực Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long.
Núi Chứa Chan phát triển cả hai mảng du lịch là du lịch tâm linh: chùa Gia Lộc và cây đa hai thân một ngọn, cùng dịp lễ vào rằm tháng 7. Riêng với phượt thủ hay các du khách ưa mạo hiểm có thể trekking phám phá đỉnh núi, len lỏi giữa cây rừng, cắm trại qua đêm hay thả mình trong màn sương dày đặc trên đỉnh núi vào sáng sớm.
Thác Ba Zọt
Thác Ba Zọt thuộc Phú Hòa, Định Quán, Đồng Nai và nằm trong khu du lịch sinh thái Hoa Phượng. Đường đến thác khá dễ. Du khách cứ rong xe trên quốc lộ 20 hướng về Đà Lạt, đến khu vực tỉnh Định Quán, chịu khó nhìn bên tay trái, sẽ thấy con đường số 18 dẫn vào thác (10 km).
Được khai thác từ khá lâu cùng bức tranh tuyệt đẹp của một ngọn thác “không cao về chiều ngang nhưng hút hồn người bằng chiều rộng” thế nhưng đến nay, thác vẫn chỉ là điểm đến của các bạn trẻ khu vực lân cận.
Đến thác, ngoài việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng thác, thưởng thức các món ăn từ cá lăng tươi ngon, du khách thường tự thưởng cho mình cảm giác lênh đênh trên thuyền, thả cần câu ở những mỏm đá gập ghềnh của thác, khám phá vườn đá tuyệt đẹp hay thả mình trên võng, ngủ một giấc dài trong tiếng đàn của thác.
Thác Mai
Từ địa phận của lâm trường Tân Phú, theo con đường mòn uốn lượn quanh co, vắng bóng người qua lại chừng 8 km (từ Quốc lộ 20 là 20 km), du khách sẽ đến khu du lịch rừng thác Mai (Định Quán - Đồng Nai). Gọi là thác Mai vì nếu đến vào mùa xuân, cả dòng thác như uốn lượn theo những cánh mai vàng.
Thác Mai không có những dòng chảy ào ạt từ trên cao mà uốn lượn mềm mại qua những vách đá thấp nên giống với chuỗi ghềnh hơn. Sau khi chinh phục những ghềnh đá, pose ảnh với những dáng thác khác nhau, ngâm mình trong làn nước mát lạnh thì bữa tiệc ngoài trời với những món ăn mang theo trên tảng đá bằng phẳng sẽ khiến cuộc vui thêm lý thú.
Ngoài thác, danh thắng này cũng mê hoặc du khách với Đá Bàn, nơi lưu dấu vết bàn tay người khổng lồ gắn liền với chuyện tình kể về dũng sĩ Knhút nghĩa hiệp của dân tộc Mạ và hồ suối khoáng nóng thiên nhiên.
Khu du lịch sinh thái Vườn Xoài
Những cây xoài trĩu quả là lý do bạn nên đến khu du lịch sinh thái Vườn Xoài, ấp Tân Cang, xã Phước Tân, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai trong thời gian này.
Bên cạnh việc nhìn ngắm những cây xoài lúc lỉu trái, thưởng thức những trái xoài tươi dong hái trên cây, các món ngon dân dã, ngủ trưa trên chiếc võng treo giữa hai thân cây, hay trên tấm trải trên cỏ, bạn đừng quên tham gia các trò chơi cảm giác mạnh như cưỡi đà điểu, tham gia trượt cỏ, chèo thuyền Cadac, thuyền thúng... bạn cũng có thể tản bộ quan sát đời sống của các loại động vật hoang dã.
Du lịch vườn Long Khánh
Từ TP. HCM đi theo quốc lộ 1A khoảng chừng 80 km về hướng Đông Bắc, qua khỏi đèo Mẹ Bồng Con là tới vùng Long Khánh (Đồng Nai), vùng đất nổi tiếng về trái cây của tỉnh Đồng Nai.
Du lịch vườn ở Long Khánh hàng năm diễn ra nhộn nhịp nhất vào khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch. Đến đây vào thời điểm này, du khách tha hồ nhìn ngắm và thưởng thức những chùm chôm chôm chín đỏ, những chùm dâu màu vàng mơ, măng cụt tím thẫm ẩn hiện trong lá, mùi sầu riêng thoang thoảng trong gió.
Có hai phương án để “tận hưởng" vườn trái cây. Một là dịch vụ “bao bụng” (bao ăn đến no bụng) của nhà vườn. Hai là “bao cây”, mua nguyên cả cây, ăn không hết, nhà vườn sẽ hái mang về (có lợi khi đi nhóm đông).
Bên cạnh du lịch vườn, Long Khánh còn có những điểm tham quan hấp dẫn mà bạn có thể ghé thăm. Đó là khu văn hóa Suối Tre, mộ cổ Hàng Gòn, tượng đài chiến thắng Long Khánh...
Rừng quốc gia Nam Cát Tiên
Nam Cát Tiên là tên gọi một vùng đất nằm gọn trong đoạn uốn khúc của sông Ðồng Nai, toạ lạc ngay trên ranh giới của cả 3 tỉnh Ðồng Nai, Bình Phước và Lâm Ðồng. Còn khu rừng cấm Nam Cát Tiên cách TP. HCM 160 km, là phần chót và cao nhất của huyện Tân Phú (Ðồng Nai) có diện tích 36.000 ha.
Rừng cấm Nam Cát Tiên sở hữu tất cả vẻ đẹp đặc trưng của một khu rừng lớn với đồi, bãi ven sông, có các trảng rộng lớn bằng phẳng, các dòng chảy dốc, nhiều thác nước và hệ sinh thái động thực vật phong phú, đây là điểm đến thích hợp cho những du khách thích khám phá hay nghiên cứu.
Có khá nhiều phương án để khám phá rừng nhưng thông dụng nhất là trekking, cắm trại và ngắm thú đêm.
Đá Ba Chồng
Từ ngã ba Dầu Giây đi theo quốc lộ 20 hướng lên Đà Lạt độ chừng 40km, du khách sẽ gặp 3 hòn đá chênh vênh nằm chồng lên nhau. Ba hòn đá này có độ cao 36m so với mặt đất, hòn đá nằm trên cùng nằm chìa ra đường như “đe dọa” người đi đường.
Cạnh Đá Ba Chồng là Núi Đá, người dân còn gọi là núi Bạch Tượng vì có hình dáng giống như đôi voi đang phủ phục. Trên đỉnh núi là tượng Phật Thích Ca cao hơn 20m. Đối diện Núi Đá, Hòn Dĩa như một cái dĩa nằm trên tảng đá nhỏ cao hơn 43 m so với mặt đất. Người ta gom chung Núi Đá, Hòn Dĩa, Núi Ba Chồng và hàng trăm tảng đá lớn nhỏ khác nhau tại đây thành danh thắng núi Ba Chồng (ba hòn đá chồng lên nhau).
Do 3 hòn đá chồng lên nhau khá chênh vênh, không có cách nào chinh phục nên chỉ có một cách duy nhất để khám phá núi Ba Chồng là men theo đường mòn, rồi cầu thang nhỏ hẹp, chông chênh lên đỉnh Núi Đá, nơi có tượng Phật, thu vào tầm mắt vẻ đẹp của khu danh thắng hay nét trù phú của vùng đất này. Sau đó, trên đường xuống núi, ghé vào những phiến đá bằng phẳng, “mở tiệc” ngoài trời tận hưởng cảm giác nhìn mọi thứ từ trên cao.
Thác Giang Điền
Nằm trong địa phận xã Giang Điền, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, thác Giang Điền được xem là điểm dã ngoại sinh thái cuối tuần thú vị với các bạn trẻ TP. HCM và các vùng lân cận.
Để đến được thác Giang Điền, có thể xuất phát từ TP. HCM đến ngã ba Vũng Tàu, rẽ trái quốc lộ 51, đến ngã ba Thái Lan, rẽ trái chừng 15km là đến thác. Hoặc từ TP. HCM theo quốc lộ 1A chạy thẳng đến huyện Thống Nhất, đến chợ Trà Cổ, có ngã ba rẽ phải theo đường đất đỏ, qua cầu Giang Điền gặp ngã ba tiếp tục rẽ trái chừng 1 km là đến nơi.
Không tự nhiên hay hùng vĩ như những ngọn thác ở Tây Nguyên, thác Giang Điền “mời gọi” du khách với vẻ đẹp của ngọn thác hơn 80% nhân tạo với hàng loạt dòng chảy và những mỏm đá chơi vơi. Lịch trình thú vị nhất khám phá địa điểm này là ăn uống (mang theo), tắm thác, đi dạo và nghỉ ngơi.
Khu du lịch Bửu Long
Khu du lịch Bửu Long nằm ở phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, cách trung tâm thành phố Biên Hòa 6 km, cách TP. HCM khoảng 30 km. Khu du lịch có diện tích 84 ha, gồm hồ Long Ẩn, hồ Long Vân, núi Bửu Long cao 34 m và núi Long Sơn cao 37m.
Trong hồ có rất nhiều núi đá vôi. Các núi đá này do tác động của mưa gió, xâm thực, nên bị gọt dũa, bào mòn tạo thành một cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, tựa như một vịnh Hạ Long giữa đồng bằng.
Trải nghiệm trọn vẹn ở khu du lịch này gồm thả bộ trên những con đường bê tông uốn lượn, bơi thuyền len lỏi giữa những vách đá vôi trong lòng hồ, chinh phục núi Bửu Long, thu vào tầm mắt toàn bộ khu danh thắng, tìm hiểu về truyền thuyết của khu danh thắng, chiêm bái chùa Bửu Phong trên đỉnh núi Bửu Long hay khám phá cụm Long Sơn Thạch Động (còn gọi là chùa Hang) trên núi Long Ẩn.
Bạn cũng đừng quên ghé thăm khu văn miếu Trấn Biên, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của vùng đất này.
Theo Infonet
Đưa hệ thống cáp treo du lịch đầu tiên ở Đồng Nai vào hoạt động
Cập nhật lúc 07:19, Chủ Nhật, 24/01/2016 (GMT+7)
(ĐN) - Hôm nay 24-1, UBND huyện Xuân Lộc chính
thức khánh thành đưa vào sử dụng hệ thống cáp treo du lịch lên quần thể
di tích lịch sử danh thắng núi Chứa Chan (thuộc địa phận xã Xuân
Trường). Đây là tuyến cáp treo du lịch đầu tiên của Đồng Nai và là tuyến
cáp treo du lịch thứ 3 ở khu vực Đông Nam bộ.
Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc Hồ Văn Hà cho biết, tuyến cáp treo này
được huyện kêu gọi đầu tư hoàn toàn bằng vốn của tư nhân, trị giá 300 tỷ
đồng, do Công ty TNHH Toàn Xuân Hưng làm chủ đầu tư với thời gian thi
công gần 1 năm. Trong đó, thời gian thực hiện hệ thống cáp là 6 tháng
do Công ty Dopperlmayr Seilbahehnen Gmbh (Cộng hòa Áo) thiết kế, sản
xuất và lắp đặt.
Được biết, toàn bộ chiều dài của tuyến cáp là 1.265 mét, độ cao chênh
lệch giữ hai nhà ga là 254,90 mét. Giai đoạn 1, cáp treo núi Chứa Chan
được đầu tư 28 cabin (mỗi cabin chở tối đa 8 người lớn). Giai đoạn 2 dự
kiến tăng lên 44 ca bin.
Toàn tuyến có 10 trụ, trụ cao nhất là gần 24 mét. Đường kính cáp vận
chuyển là 45mm. Thời gian vận chuyển trung bình giữa 2 ga là gần 5 phút,
công suất vận chuyển là 1.500 người/giờ.
Ngoài bộ phận truyền động chính bằng mô tơ điện, cáp treo núi Chứa
Chan còn có bộ phận truyền động bằng thủy lực độc lập, cho phép vận hành
hệ thống với công suất nhỏ hơn trong trường hợp khẩn cấp.
Hệ thống ca bin cáp có bộ phận kẹp mở tự động, có bố trí hệ thống con
lăn ma sát ở phía đầu vào và đầu ra của 2 nhà ga. Các chức năng chính
của hệ thống cáp treo như: tốc độ dây cáp, việc đóng và mở bộ phận kẹp
cáp,... được vận hành và kiểm soát bởi các mạch điện tử, nhằm bảo đảm
vận hành êm ái và an toàn, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về an toàn của
Hiệp hội Vận chuyển cáp treo trên không thế giới
Cùng với hệ thống cáp treo lên núi Chứa Chan, chủ đầu tư còn xây dựng
một khu nhà điều hành, hệ thống nhà hàng, các hồ sinh thái, đài phun
nước…Công trình cáp treo du lịch Núi Chứa Chan sẽ giải quyết việc làm
cho khoảng 200 người dân, chủ yếu là lao động trẻ của huyện Xuân Lộc.
Theo Công ty TNHH Toàn Xuân Hưng, giá vé khai trương cho tuyến cáp
treo khứ hồi là 160 ngàn đồng đối với người lớn, trẻ em là 90 ngàn đồng.
Chiều lên là 90 ngàn đồng với người lớn và 50 ngàn đồng với trẻ em.
Chiều xuống người lớn là 70 ngàn đồng, trẻ em là 40 ngàn đồng. Trẻ em
cao 0,9 mét trở xuống được miễn phí.
Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc Hồ Văn Hà kỳ vọng, khi tuyến cáp treo du
lịch đi vào hoạt động sẽ tạo ra cú hích mạnh, khai thác tối đa tiềm
năng du lịch của Núi Chứa Chan, đồng thời tạo ra nguồn thu đáng kể cho
huyện. Đây chính là Công trình của huyện chào mừng Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng và mừng Xuân Bính Thân 2016.
Cáp treo đang được vận hành thử lên núi Chứa Chan |
Các cabin được tập kết về ga trên núi Chứa Chan |
Nhà điều hành trung tâm hệ thống cáp treo |
Chuyên gia của Cộng hòa Áo chuyển giao công nghệ vận hành hệ thống cáp treo du lịch Núi Chứa Chan cho người Việt Nam |
Hệ thống chuyển lực cho cáp treo nhà ga phía dưới chân Núi Chứa Chan |
Nhân viên kỹ thuật điều khiển hệ thống vận chuyển cabin |
Các cột chui lực của cáp treo núi Chứa Chan |
Ga trên núi Chứa Chan |
Tin và ảnh: Công Nghĩa
Danh lam thắng cảnh núi Chứa Chan - tỉnh Đồng Nai.
Núi Chứa Chan thuộc địa phận huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích danh lam
thắng cảnh cấp quốc gia theo quyết định số 1204/QĐ-BVHTTDL ngày
29/3/2012.
Từ
thành phố Biên Hòa, du khách đi theo Quốc lộ 1A (hướng Hà Nội) khoảng
70km đến ngã ba Ông Đồn, rẽ theo Tỉnh lộ 766 về hướng Đông Bắc khoảng 2
km, nhìn bên trái thấy bảng Khu Di tích lịch sử - Danh thắng núi Chứa
Chan, rẽ vào đường nhựa khoảng 3,5 km là đến chân núi.
Núi
Chứa Chan là ngọn núi cao thứ hai ở Nam bộ (sau núi Bà Đen - Tây Ninh)
với độ cao 837m so với mực nước biển, sườn dốc 30-35 độ, đôi chỗ là vách
dựng đứng. Đây là một thắng cảnh hữu tình, độc nhất vô nhị ở Đồng Nai
và hiếm gặp ở Nam bộ. Núi có dáng hình vòng cung gồm ba ngọn đồi liên
tiếp nhau giống hình bát úp. Thế núi hùng vĩ, cao chót vót; vào buổi
sáng, núi rực rỡ xanh dưới ánh nắng nhẹ của mặt trời; lúc chiều tà núi
sừng sững âm u trên nền trời trắng xám; tháng mười núi mờ ảo trong sương
mù cùng với những dải mây trắng lững lờ bay lượn, bao phủ ôm lấy núi.
Cổng vào khu Di tích lịch sử - Danh thắng Núi Chứa Chan
Cảnh
quan thiên nhiên núi Chứa Chan đẹp và hấp dẫn với nhiều dòng suối quanh
năm tươi mát ẩn mình dưới những rừng cây bạt ngàn, nước chảy không bao
giờ cạn; ở lưng chừng núi có nhiều “giếng Tiên” cùng với những di tích
do con người tạo nên như chùa Bửu Quang, chùa Lâm Sơn, chùa Linh Sơn,
nhà nghỉ mát của toàn quyền Pháp, vườn trà của vua Bảo Đại… tạo thành
một quần thể thắng cảnh độc đáo ở Đông Nam bộ. Đặc biệt nơi đây còn nổi
tiếng “Cây da ba gốc một ngọn”, Mật Khu Hầm Hinh và các bãi đá tự nhiên
trùng trùng điệp điệp, xen lẫn nhau tạo thành những bức tường đá kỳ vĩ
và những hang động được tạo thành bởi sự sắp xếp của các khối đá to lớn
chạy ngầm trong lòng núi. Trong lòng các hang động có các khe suối nhỏ
nước chảy quanh năm, từ xa xưa đã có nhiều vị thiền sư chọn làm nơi
thiền định, đến nay vẫn còn dấu tích.
Núi
Chứa Chan còn là nơi bảo tồn được các giá trị văn hóa truyền thống mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc như lễ Thượng ngươn, Trung ngươn, Hạ ngươn,
giỗ tổ Khai sơn thu hút đông đảo nhân dân, du khách trong và ngoài tỉnh
tham dự. Đặc biệt đây là nơi sinh sống lâu đời của dân tộc bản địa
Chơro, còn gìn giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống, là thế mạnh cho
việc phát triển du lịch thám hiểm thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa lịch
sử…Ngoài ra, vùng núi này cũng chứa đựng nhiều giá trị sinh học đa dạng
với nhiều loài đặc hữu của vùng Đông Nam bộ trong đó có nhiều loại thú
quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam.
Một góc cảnh quan hang động ở danh thắng Núi Chứa Chan
Nơi
đây là điểm du lịch vô cùng hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài
nước. Du khách đến với danh thắng Núi Chứa Chan là tìm về với sự tĩnh
lặng, thưởng thức vẻ đẹp, sự trong lành của thiên nhiên, viếng chùa để
lòng thanh thản, cầu mong cho sự bình an; để hiểu, tự hào và trân trọng
thêm những giá trị truyền thống của nhân dân miền Đông nói riêng và dân
tộc Việt Nam nói chung.
Huy Hoàng
huongvanhoa@yahoo.comDu lịch Đồng Nai ngắm vẻ chông chênh của thắng cảnh Đá Ba Chồng
Những hòn đá khổng lồ chồng lên nhau như chực chờ đổ vẫn cứ vững vàng giữa một khu dân cư sầm uất ở Đồng Nai.
Du lịch Đồng Nai ngắm vẻ chông chênh của thắng cảnh Đá Ba Chồng
Click chọn ngay gói khuyến mãi mùa hè hấp dẫn từ iVIVU.com
Theo Ngoisao.net
Thành Cổ Biên Hòa: di tích lịch sử cần được giữ gìn, tôn tạo
Ồ, ở Biên Hòa cũng có Ngã ba Thành, nhưng đó là Thành Kèn (chứ không phải thành Diên Khánh ở Nha Trang). Gọi là ngã ba Thành vì nơi đó có một ngôi thành cổ, rất cổ - có thể coi là cổ nhất của Nam bộ.
Thành cổ Biên Hòa nằm ngay giữa thành phố Biên Hòa hiện đại. Bơ vơ. Điêu tàn.
Thành cổ nằm ở đường Phan Chu Trinh, phường Quang Vinh, TP.Biên Hòa. Nếu bạn không chú ý, bạn sẽ không thấy thành cổ mà chỉ thấy siêu thị, chợ, và những tòa nhà mới xây to đẹp, còn thành cổ thì nằm khiêm tốn, khuất sau cổng của... Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Đồng Nai. Vết tích còn lại là một vòng thành được xây dựng bằng đá ong, bên trong có ngôi nhà kiến trúc theo kiểu Pháp. Thành cổ ở đó, như một lão già sắp tàn hơi, nằm nghiền ngẫm sự đời qua bao thế kỷ, và nhìn đám hậu sinh đang xôn xao giữa chốn phồn hoa.
Thành cổ Biên Hòa được xây dựng từ năm nào?
Theo thư tịch cổ, từ thế kỷ 14-15, thành do dân Lạp Man xây đắp bằng đất với tên gọi "Thành Cựu". Thời nhà Nguyễn, thành được xây dựng lại trên nền Thành Cựu, có mở rộng hơn, với tên gọi thành Biên Hòa. Theo tác giả Lương Văn Lựu viết trong Biên Hòa sử lược, thì "Thành được xây dựng vào năm Gia Long thứ 15 (tức 1816) tại địa hạt thôn Bàn Lân (thôn Tân Lân) huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa cũng với tên gọi là "Thành Cựu" do dân Lạp Man xây đắp bằng đất. Chu vi thành dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng. Hào xung quanh rộng 4 trượng, sâu 6 thước. Thành có 4 cửa và một kỳ đài (phía chánh điện). Mỗi cửa ngõ có bắc một cầu đá ngang qua hào để làm lối lưu thông ra vào". Thành được xây theo hình cánh cung, đến năm Minh Mạng thứ 18 (tức 1837), Thành Cựu được xây dựng lại bằng đá ong và đổi tên thành Thành Biên Hòa.
Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam bộ, Thành Biên Hòa trở thành nơi phòng ngự, phản công địch của quan quân nhà Nguyễn. Tháng 12-1861, Thành Biên Hòa rơi vào tay thực dân Pháp. Trong thời gian chiếm đóng, quân đội Pháp tiến hành xây dựng lại, thu gọn chu vị thành còn 1/8 so với trước và gọi là thành "Xăng đá", phiên âm từ tiếng Pháp Soldat - nghĩa là "Thành Lính". Hào phía đông được lấp đất lại xây cất phố xá và một số doanh trại, biệt thự, nhà thương... trong nội thành cho sĩ quan cao cấp và quân đội Pháp ở. Buổi sáng lính thường sử dụng kèn báo thức, âm thanh vang cả một vùng nên dân địa phương còn gọi là Thành Kèn.
Những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đều cho biết, Thành Biên Hòa có một vị trí rất quan trọng trên nhiều mặt. Đây là ngôi thành cổ duy nhất ở Đồng Nai còn sót lại trên đất Nam bộ. Nơi đây đã ghi dấu ấn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu trong cuộc khai phá đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, cũng như giai đoạn chống Pháp và Mỹ sau này.
Phải công tâm mà nói rằng: thành Biên Hòa xưa với những dấu tích còn sót lại trong phạm vi nội ô thành phố Biên Hòa hôm nay là một điều may mắn cho vùng đất này. Bởi lẽ, trải qua 170 năm được tạo dựng (tính từ mốc nguyên khởi), bao biến cố của thời cuộc, xã hội đã làm thay đổi và mất đi nhiều di sản vật thể thì công trình cổ thành Biên Hòa vẫn còn những dấu tích khá rõ nét, hiện diện trong đời sống hiện tại.
Trong diễn trình lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, cổ thành Biên Hòa là một dấu chứng gắn liền với những sự kiện quan trọng. Trong lý lịch di tích thành Biên Hòa của Nhà Bảo tàng Đồng Nai thực hiện, phần nội dung đã nêu khá đầy đủ những chi tiết này. Và có lẽ, chúng ta đồng thuận những trích dẫn, ghi chép hầu hết từ trong tư liệu của Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn hay Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
Tư liệu ghi chép về cổ thành Biên Hòa rất hiếm. Trong những đợt sưu tầm tư liệu phục vụ cho địa chí Đồng Nai vào những năm cuối thập niên 90, thế kỷ XX, tôi có đến một số thư viện tại Hà Nội (Thư viện Quốc gia, Viện Hán Nôm, Thư viện Quân đội, Viện Sử học Việt Nam) với mong muốn tìm những tư liệu Biên Hòa - Đồng Nai xưa nhưng tiếc rằng tư liệu thu thập không nhiều, không có tư liệu về thành cổ Biên Hòa.
Theo một số tư liệu, chúng ta biết rằng, cổ thành Biên Hòa được bắt đầu xây dựng vào năm 1834. Tư liệu cho biết như sau: Tháng 6, năm 1834, xây đắp thành đất tỉnh Biên Hòa, 4 mặt thành đều dài 70 trượng, cao 4 thước 3 tấc, dày 1 trượng, mở 4 cửa. Đào hào rộng 2 trượng, sâu sáu thước. Quan Khâm sai Đoàn Văn Phú chịu trách nhiệm trong việc trù tính việc làm. Vua Minh Mạng đồng ý cho việc chọn lấy 1.000 dân trong hạt đứng ra xây đắp, số dân làm thành được hậu cấp cho tiền gạo.
Và đến năm 1838, đợt xây dựng với quy mô lớn hơn về thành Biên Hòa được tiến hành. Tư liệu cho biết: Tháng Giêng năm 1838, xây đắp thành tỉnh Biên Hòa. Chu vi dài 338 trượng, cao 8 thước 5 tấc, dày 1 trượng 5 thước, hào đào rộng 3 trượng, cửa thành có 4 cửa. Vua Minh Mạng sai phát 4.000 binh dân làm việc và lại cho đây là công trình trọng đại nên phái Vệ úy Vệ tả bảo nhị là Nguyễn Văn Gia, Thự phó Vệ úy Tiền doanh Long Võ là Phan Văn Lăng, Vệ úy Tả thủy Gia Định là Lê Văn Tự, Vệ úy Bình Thuận là Tôn Thất Mậu trông coi việc thực hiện.
Ngoài ra còn có một số tư liệu khác cũng nhắc đến thành Biên Hòa với một số chi tiết khác như: có dựng 1 kỳ đài, mỗi cửa ra vào đều có bắc cầu đá ngang qua hào để làm lối ra vào, hào rộng 4 trượng, sâu 6 thước, tường thành dày trượng. Một số giả thuyết cho rằng, thành Biên Hòa được xây dựng trên dấu tích cũ của một thành trì của dân Lạp Man (Chân Lạp). Theo tác giả Lương Văn Lựu thì đời Gia Long vào năm 1816 thì thành Biên Hòa đã được xây. Trước tiên, thành Biên Hòa đắp bằng đất, sau này, xây bằng đá ong.
Cổ thành Biên Hòa là một công trình phòng thủ quân sự của triều Nguyễn ở vùng đất Biên Hòa. Hệ thống bố phòng ở Biên Hòa lúc bấy giờ còn có các trạm, lũy, tấn, đồn thủ tại các nơi xung yếu. (Cũng cần nói thêm: tỉnh Biên Hòa lúc bấy giờ gồm phủ Phước Long và 4 huyện: Phước Chánh, Phước An, Bình An, Long Thành. Đối chiếu với địa giới hiện nay thì nó bao gồm các tỉnh hiện nay như: Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước và một phần đất của các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận). Ngoài chức năng của một trung tâm các hoạt động nhiều mặt của xã hội đương thời, cổ thành Biên Hòa đóng góp rất quan trọng trong việc bố phòng, trấn an vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Thành Biên Hòa là điểm chỉ huy của các cuộc trấn áp đối với sự nổi dậy phá hoại của các tộc người miền núi không tuân phục triều Nguyễn, triều Nguyễn gọi chung là man sách.
Trong diễn trình lịch sử kế tiếp, thành Biên Hòa có vị trí quan trọng của triều Nguyễn trong việc trấn áp các cuộc nổi dậy mà tiêu biểu là cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi ở Phiên An. Cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi vào năm 1833 và bị dập tắt hòan toàn vào năm 1835. Trong thời đoạn này, thành Biên Hòa nhiều lần đổi chủ. Lúc thì quân của Lê Văn Khôi chiếm lấy, sau đó quân của triều Nguyễn chiếm lại.
Sự biến động này không chỉ làm đau đầu triều Nguyễn mà còn làm cho trăm dân của Biên Hòa lâm vào nạn chiến tranh. Chính từ sau ” sự kiện “ Lê Văn Khôi, 3 năm sau, vua Minh Mạng thấy việc xây thành Biên Hòa “ là công trình trọng đại”, chuẩn cho xây thành Biên Hòa và sai phái trách nhiệm cho nhiều vị tướng quân. Tầm quan trọng của thành Biên Hòa không chỉ bó hẹp trong tỉnh Biên Hòa mà còn của chung khu vực Đông Nam Bộ. Điều này thể hiện sự phân công của vua Minh Mạng đối với các vị quan ở Bình Thuận, Gia Định cùng được điều trông coi.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bởi xu thế chủ hòa của một số danh tướng đương thời nên đại quân được tăng cường đến, sung quân tại chỗ của Biên Hòa đã không ngăn được bước tiến của quân thù. Cả thành Biên Hòa rơi vào tay giặc và bắt đầu cho thời đọan lịch sử đau thương dười sự thống trị ngoại xâm từ Tây phương. Trong sự kiện này, thành Biên Hòa luôn luôn được đánh giá có một vị trí chiến lược quan trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của giai đọan lịch sử này, nhưng phải cần nhắc rằng, một địa thế quan trọng trong thời điểm lịch sử này là thành Biên Hòa đã không được sử dụng đúng với tầm của chính nó.
Trong những giai đọan lịch sử về sau, thành Biên Hòa gắn với những sự kiện lịch sử đáng chú ý như trận đánh của nhóm hội kín Lâm Trung Trại vào ngày 14 tháng 2 năm 1916. Đại cuộc bất thành, một số nghĩa dõng của nhóm bị quân Pháp dùng nhiều phương cách bắt và tử hình. Tinh thần yêu nước và quật khởi xem nhẹ cái chết vì đại nghĩa dân tộc của những người lãnh đạo Lâm Trung Trại được người dân Biên Hòa ghi nhớ, tạc lòng. Những người lãnh đạo nhóm yêu nước bị Pháp tử hình được nhân dân địa phương thờ phụng tại chùa Bửu Hưng (người dân quen gọi là chùa Cô Hồn – một trong những di tích đã được tỉnh Đồng Nai xếp hạng).
Khi thực dân Pháp tái chiếm Biên Hòa, lực lượng vũ trang yêu nước Biên Hòa phối hợp với một số đơn vị khác ở miền Đông Nam Bộ tấn công vào thị xã Biên Hòa vào đầu năm 1946. Trận đánh lịch sử này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp của nhân dân Biên Hòa nói riêng và Nam Bộ nói chung. Tinh thần trận đánh cỗ võ mạnh mẽ cho phong trào tham gia kháng chiến, bất hợp tác với giặc của nhiều tầng lớp nhân dân. Diễn biến trận đánh này chúngta có thể tìm hiểu chi tiết trong nhiều sách sử của Biên Hòa – Đồng Nai, trong lý lịch hồ sơ di tích này. Đây là trận tấn công đầu tiên của lực lượng cách mạng ở Nam Bộ vào một thị xã kể từ khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai.
Ngoài các sự kiện tiêu biểu trên, chúng ta có thể lược nêu những sự kiện khác liên quan đến thành Biên Hòa trong các thời kỳ lịch sử về sau. Những sự kiện đó gắn liền với thể chế chính trị đương thời hoặc liên quan tới quá trình đấu tranh kháng chiến của phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh cách mạng. Bởi lẽ, trong thời kỳ từ 1945 – 1954 hay 1954 – 1975, chính quyền đương thời đã sử dụng và xây dựng thêm một số công trình trong phạm vi cổ thành Biên Hòa phục vụ các hoạt động, chủ yếu về an ninh, quân sự: doanh trại, nhà thương, nơi giam giữ, tra khảo, sở an ninh quân đội…Và sau ngày giải phóng (năm 1975), chính quyền cách mạng địa phương tiếp quản và cũng đã tạo nên những đổi thay trong phạm vi của cổ thành để ngành hậu cần công an hoạt động.
Tôi mạo muội nói dông dài như thề để có cái nhìn về cổ thành này như thế nào cho thật khách quan. Qủa vậy, qua những tư liệu trên, chúng ta nhận thấy rõ những điểm này:
- Về tên gọi, thành Biên Hòa có nhiều tên gọi theo cách dân gian như: thành Cựu, thành Kèn, thành Xăng đá. Tên gọi thành Kèn, thành Xăng Đá gắn với thời Pháp xâm lược, chiếm lấy thành làm nới tập trung quân lính. Thành Cựu tôi nghĩ là người dân Biên Hòa gọi từ khi vua Minh Mạng cho xây thành mới. Có hai vấn đề đặt ra tại đây: thành Cựu do người dân gọi để chỉ thành do Gia Long cho xây từ năm 1816 (?) hoặc cũng có thể để gọi thành bằng đất do Minh Mạng cho xây năm 1834. Như vậy, cái tên gọi thành Cựu chỉ xuất hiện trong hai mốc sau: năm 1834 hoặc năm 1838.
- Thành Biên Hòa được xây dựng từ tháng 6 năm 1834. Ban đầu, thành được đắp đất với một quy mô vừa phải. Đến năm 1838 mới được xây bằng đá ong. Kiến trúc hiện tồn như tường thành và một số cấu kiện kiến trúc khác là của di tích cổ thành xây dựng cách đây 170 năm.
- Trải qua nhiều biến cố, thành Biên Hòa có nhiều thay đổi. Âu đó cũng là số phận chung của vạn vật trong biến đổi dời thay của thời cuộc, xã hội con người. Tổng thể quy mô thành Biên Hòa nguyên khởi không còn được bảo vệ. Đợt thu hẹp đầu tiên là khi quân Pháp chiếm đóng năm 1861, chu vi thành Biên Hòa được thu hẹp chỉ còn 1/ 8. Những cấu kết kiến trúc xây dựng sau này trong phạm vi cổ thành dầu đã bị thu hẹp cũng là những dấu tích có giá trị trong diễn tiến lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.
- Cùng với hệ thống bố phòng khác, thành Biên Hòa là một công trình kiến trúc quân sự trung tâm có vị thế chiến lược của vùng Đông Nam Bộ trong chính sách trị an của nhà Nguyễn ở phía Nam của Tổ quốc. Dấu tích cổ thành Biên Hòa ngày nay có giá trị phản ánh được một trong những chiều kích lịch sử trong diễn trình lịch sử của Biên Hòa – Đồng Nai. Ngày nay, trong các thành trì chung của nhà Nguyễn ở Nam Bộ, thành Biên Hòa có lẽ là duy nhất còn để lại những dấu tích cấu kết kiến trúc lớn, khá đặc sắc.
Xin được nêu lên vấn đề quy đổi đơn vị tính mét theo hiện nay. Trong hồ sơ lý lịch di tích quy đổi ra như thế này: “ chu vi 338 trượng = 1.784,8 m, cao 8 thước 5 tấc = 3,91 m, dày 1 trượng = 4,6 m, hào rộng 4 trượng = 16,4 m, sâu 6 thước = 2,76 m” - dẫn theo cách tính trong Địa bạ triều Nguyễn của tác giả Nguyễn Đình Đầu. Trong Địa chí Đồng Nai (tập III, trang 180) khi đề cập thành Biên Hòa cho biết: “ chu vi 338 trượng (khoảng 1.350 m), tường cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3,4 m), dày 1 trượng (4 m), hào rộng 4 trượng (16 m), sâu 6 thước (2,4 m)“.
Chúng tôi xin tóm lược dẫn lại một cách tính mà tác giả là Nguyễn Đình Đầu nêu trong Địa chí Thành phố Hồ Chí Minh (Nxb Tp.HCM 1987). Qua nhiều tư liệu (Sách Quan chế của Paulus Của năm 1888, Tự điển Tabert năm 1838 – từ điển này sử dụng tư liệu của một từ điển do Bá Đa Lộc và Hồ Văn Nghị soạn từ trước năm 1790) đã phỏng đoán rằng thước dùng ở Gia Định là thước mộc, quy đổi 1 thước mộc dài 0m487. Nhưng loại thước này chỉ dùng cho đến năm 1805. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đặt hiệu là Gia Long đã lấy thước cũ thời Lê để định chuẩn chung cho cả nước phải sử dụng, đó là “ quan mộc xích “, thước này dài 0m424.
Tôi thiết nghĩ rằng, thước này vẫn được dùng trong thời vua Minh Mạng. Thành Biên Hòa xây dựng trong thời Minh Mạng nên cách tính, ghi chép theo định chuẩn thước này. Như vậy, khi lấy chuẩn, 1 trượng bằng 4m24, 1 thước bằng 0m424, chúng ta sẽ lược đổi được những thông số về thành Biên Hòa như sau: chu vi 338 m (khoảng 1.433,12 m), tường cao 8 thước 5 tấc (khoảng 3, 604 m), dày 1 trượng (khoảng 4,24 m), hào rộng 4 trượng (khoảng 16,96 m), sâu 6 thước (khoảng 2,544 m). Ý kiến này chúng tôi nêu như một sự tham khảo và rất mong được sự giúp đỡ cho biết thêm của các nhà nghiên cứu.
Trên những cơ sở dữ liệu trên, tôi thiết nghĩ dấu tích kiến trúc cổ thành Biên Hòa hiện tồn trong nội ô Biên Hòa hiện nay (phường Quang Vinh) là một di tích lịch sử cần được bảo vệ, tôn tạo và phát huy trong đời sống hiện tại. Sự tồn tại của những dấu tích kiến trúc này là một điều may mắn và tự hào cho địa phương, các nhà quản lý, chuyên ngành trong công tác bảo vệ. Mọi sự so sánh đều khập khiểng nhưng nhân đây, tôi cũng muốn có đôi lời về sự kiện liên quan đến thành cổ Thăng Long trong một khía cạnh. Cổ thành Biên Hòa không có bề dày như hoàng thành của vùng kinh kỳ Thăng Long. Nhưng phải mất thời gian và công sức, phải khai quật từ lòng đất mới tìm thấy vết tích hoàng thành; trong khi ở Biên Hòa, dấu tích lộ thiên trên mặt đất. Diễn trình của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai chỉ hơn 300 năm có lẻ thì thành Biên Hòa tồn tại 170 năm. Các di tích vật thể loại hình thành trì thời Nguyễn ở Nam Bộ hầu như không còn để lại dấu tích kiến trúc như thành Biên Hòa. Vì vậy, khi bảo vệ di tích này, đây sẽ là một loại hành di tích độc đáo của cả Nam Bộ và có thể phát huy tác dụng hiệu quả cao giá trị của chúng trong các hoạt động liên quan.
Nhưng chúng ta bảo vệ như thế nào ? Đó chính là câu hỏi không kém phần quan trọng. Theo tôi được biết, việc bảo vệ di tích này còn có những chỗ “ vướng nhau “ trong công tác quy hoạch đô thị. Khi xã hội phát triển bao giờ cũng có những vấn đề nảy sinh giữa công việc bảo vệ di sản và phát triển mà quan trọng là phát triển đô thị, khi nguồn đất là yếu tố cần thiết. Gía trị di sản là vô cùng quan trọng nhưng không phải vì thế mà nó cản trở cho sự phát triển; song cũng không phải vì phát triển bằng mọi giá mà chúng ta phá bỏ giá trị di sản. Những thiệt hại về kinh tế chúng ta có thể khắc phục được dù có mất nhiều thời gian nhưng giá trị di sản thi không thể. Vì vậy, qua một số tư liệu chúng tôi tham khảo, một số nơi khi tiến hành quy hoạch phát triển, công tác điều tra di sản thường được thực hiện trước. Đối với di tích thành cổ Biên Hòa, chúng tôi đề nghị giữ nguyên hiện trạng của di tích trong hồ sơ khoanh vùng bảo vệ. Như thế, có nghĩa một số chi tiết về quy hoạch đô thị liên quan đến di tích thành Biên Hòa cần được điều chỉnh. Hẳn mọi công dân của Biên Hòa sẽ rất vui sướng khi thấy thành phố Biên Hòa phát triển với những quy hoạch khoa học, hiện đại. Và người dân sẽ càng tự hào hơn nữa khi trong đô thị hiện đại ấy bảo lưu những giá trị di sản độc đáo của nơi mình đang sống. Một khoảng của chiều kích lịch sử gắn liền với công sức của tiền nhân, những sự kiện lịch sử được hiển hiện trong lòng một đô thị mới và giá trị di sản ấy được giữ gìn cho muôn đời sau dù cuộc sống, xã hội có phát triển đến mức nào.
Di tích thành cổ Biên Hòa được bảo vệ sẽ làm phong phú thêm danh mục di tích của thành phố Biên Hòa và là một loại hình di tích độc đáo. Trong tương lai, chắc chắn thành phố Biên Hòa sẽ phát triển hơn hiện tại. Hiện nay, thành phố Biên Hòa đã là đô thị loại II trải qua 20 năm (1993 – 2013). Hoạt động văn hóa thành phố này chắc chắn sẽ phát triển theo hướng tích cực và tất yếu phù hợp với sự phát triển chung của địa phương. Vì vậy, di tích thành cổ Biên Hòa sẽ có cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát huy hơn. Tôi cũng mạo muội nêu lên ý này: Chúng ta có thể tôn tạo, sử dụng những cấu kết kiến trúc trong phạm vi di tích thành Biên Hòa thành Bảo tàng và hình thành một điểm sinh hoạt văn hóa của thành phố Biên Hòa. Bộ sưu tập súng thần công, đại bác hiện nay tại Bảo tàng Đồng Nai chuyển về đây trưng bày sẽ tăng thêm ý nghĩa, giá trị của chúng. Nội dung cấu kết trưng bày tại di tích sẽ rất phong phú khi thể hiện lịch sử vùng đất Biên Hòa và tôn vinh những danh tướng có công với xứ sở này. Đây cũng có thể được xem như một Võ miếu – vốn di tích là thành trì quân sự, trong khi chúng ta đã xây dựng một công trình vănhóa - Văn miếu.
Nguồn Tin: Hee Trần
Ths Phan Đình Dũng
Ảnh: Phạm Hoài Nhân
Đồng Nai - Khu di tích lịch sử chiến khu Đ
Một tour du lịch nối kết nhiều điểm đến của Đồng Nai gồm làng bưởi
Tân Triều - di tích lịch sử chiến khu Đ - làng dân tộc Phú Lý đang được
Sở Thương mại - du lịch xúc tiến xây dựng. Trong đó, di tích lịch sử
Chiến khu Đ được xem là một điểm nhấn quan trọng cho toàn tuyến.
Khi bắt tay xây dựng tuyến du lịch này, Sở Thương mại - du lịch đã
xác định đây sẽ là một tour du lịch về nguồn kết hợp với du lịch sinh
thái, dã ngoại. Khu di tích lịch sử Chiến khu Đ không chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ mà còn mang trong mình tiềm
năng rất lớn cho khai thác và phát triển du lịch. Hơn nữa, việc đưa
Chiến khu Đ thành điểm du lịch quen thuộc cũng nhằm phục vụ cho công tác
tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ và thu hút khách đến tham quan, học
tập, nghiên cứu, qua đó hiểu rõ hơn về ý nghĩa lịch sử, tinh thần yêu
nước và đấu tranh của quân và dân miền Đông Nam bộ.
Để di tích lịch sử Chiến khu Đ thành điểm đến du lịch hấp dẫn, ngành du lịch đã dự kiến tổ chức một số hoạt động như: tái hiện lại cuộc sống của người chiến sĩ giải phóng năm xưa trong chiến khu (du khách ngủ võng giữa rừng, thổi cơm bằng bếp Hoàng Cầm); thăm làng dân tộc của đồng bào Chơ Ro bản địa (du khách được ăn cơm lam, uống rượu cần và múa hát cùng đồng bào); tham quan Khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu; các trò chơi tập thể, trò chơi dân gian; tổ chức ăn nghỉ cho du khách, bán hàng lưu niệm đặc trưng (khăn rằn, nón tai bèo)... Việc đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá cho tour du lịch về nguồn với Chiến khu Đ lịch sử trong năm 2006 cũng đã được ngành du lịch dự thảo kế hoạch trình UBND tỉnh. Trước mắt, ngành sẽ lập một website với nhiều nội dung tuyên truyền, quảng bá; phối hợp cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài tỉnh thực hiện những chương trình giới thiệu về du lịch Chiến khu Đ... Công ty du lịch Đồng Nai chịu trách nhiệm khai thác tuyến du lịch này cũng như thiết kế các tour có nối với điểm di tích Chiến khu Đ.
Kế hoạch là vậy, nhưng để tuyến du lịch này đi vào hiện thực thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn đối với ngành du lịch tỉnh lẫn Ban quản lý khu di tích lịch sử Chiến khu Đ. Các đoàn và khách tham quan tự do trước nay chỉ đến tìm hiểu di tích, được hướng dẫn, thuyết minh rồi...về, tất cả chỉ trong nửa ngày. Dù khách đã vất vả đường xa đến đây nhưng khu di tích vẫn chưa có hoạt động nào để "giữ chân" du khách giống như Khu di tích địa đạo Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh). Hiện tại, khu di tích gần như chưa có cơ sở phục vụ lưu trú, ăn nghỉ, vui chơi nào cho du khách. Hệ thống các biển định danh cho các loài cây thuộc Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu đến nay vẫn chưa làm. Vì vậy, nếu được đưa vào khai thác du lịch, khu di tích hiện mới chỉ có thể là một điểm dừng chân trong tour về Đồng Nai của du khách. Để Chiến khu Đ thành điểm du lịch về nguồn kết hợp du lịch sinh thái có sức giữ chân du khách ở lại vài ngày có lẽ còn phải chờ vào tiến độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch của một dự án lớn hơn: dự án Trung tâm văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ. Thế nhưng, việc từng bước đưa vào thêm một số sản phẩm du lịch để khu di tích vốn đã hấp dẫn khách du lịch lại càng hấp dẫn hơn vẫn là một việc làm hoàn toàn khả thi đối với ngành du lịch mà không phải nằm chờ vào quy hoạch.
Để di tích lịch sử Chiến khu Đ thành điểm đến du lịch hấp dẫn, ngành du lịch đã dự kiến tổ chức một số hoạt động như: tái hiện lại cuộc sống của người chiến sĩ giải phóng năm xưa trong chiến khu (du khách ngủ võng giữa rừng, thổi cơm bằng bếp Hoàng Cầm); thăm làng dân tộc của đồng bào Chơ Ro bản địa (du khách được ăn cơm lam, uống rượu cần và múa hát cùng đồng bào); tham quan Khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu; các trò chơi tập thể, trò chơi dân gian; tổ chức ăn nghỉ cho du khách, bán hàng lưu niệm đặc trưng (khăn rằn, nón tai bèo)... Việc đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá cho tour du lịch về nguồn với Chiến khu Đ lịch sử trong năm 2006 cũng đã được ngành du lịch dự thảo kế hoạch trình UBND tỉnh. Trước mắt, ngành sẽ lập một website với nhiều nội dung tuyên truyền, quảng bá; phối hợp cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài tỉnh thực hiện những chương trình giới thiệu về du lịch Chiến khu Đ... Công ty du lịch Đồng Nai chịu trách nhiệm khai thác tuyến du lịch này cũng như thiết kế các tour có nối với điểm di tích Chiến khu Đ.
Kế hoạch là vậy, nhưng để tuyến du lịch này đi vào hiện thực thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn đối với ngành du lịch tỉnh lẫn Ban quản lý khu di tích lịch sử Chiến khu Đ. Các đoàn và khách tham quan tự do trước nay chỉ đến tìm hiểu di tích, được hướng dẫn, thuyết minh rồi...về, tất cả chỉ trong nửa ngày. Dù khách đã vất vả đường xa đến đây nhưng khu di tích vẫn chưa có hoạt động nào để "giữ chân" du khách giống như Khu di tích địa đạo Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh). Hiện tại, khu di tích gần như chưa có cơ sở phục vụ lưu trú, ăn nghỉ, vui chơi nào cho du khách. Hệ thống các biển định danh cho các loài cây thuộc Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu đến nay vẫn chưa làm. Vì vậy, nếu được đưa vào khai thác du lịch, khu di tích hiện mới chỉ có thể là một điểm dừng chân trong tour về Đồng Nai của du khách. Để Chiến khu Đ thành điểm du lịch về nguồn kết hợp du lịch sinh thái có sức giữ chân du khách ở lại vài ngày có lẽ còn phải chờ vào tiến độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch của một dự án lớn hơn: dự án Trung tâm văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ. Thế nhưng, việc từng bước đưa vào thêm một số sản phẩm du lịch để khu di tích vốn đã hấp dẫn khách du lịch lại càng hấp dẫn hơn vẫn là một việc làm hoàn toàn khả thi đối với ngành du lịch mà không phải nằm chờ vào quy hoạch.
Từ thành phố Biên Hòa theo hướng quốc lộ I qua cầu Rạch Cát, rẽ vào bên trái khoảng 200 mét là đến đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Đền tọa lạc trên một khu đất rộng, bên tả của nhánh sông Đồng Nai ôm trọn Cù lao phố (thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa).
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 457/QĐ ngày 25 tháng 3 năm 1991.
Từ thành phố Biên Hòa theo hướng quốc lộ I qua cầu Rạch Cát, rẽ vào bên trái khoảng 200 mét là đến đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Đền tọa lạc trên một khu đất rộng, bên tả của nhánh sông Đồng Nai ôm trọn Cù lao phố (thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa).
Ngôi đền được xây dựng năm nào, ngày nào chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể. Sách gia định thành thông chi có ghi: “… Ở phía Nam Cù lao phố, thôn Bình Hoành, huyện Phước Chánh, thờ khai quốc công thần Tráng Hoàn hầu Nguyễn Hữu Cảnh .Đền trông ra sông Phước Giang, lấy đá ngầm làm làm thủy thành, dưới có cá chép lạ, lớn 6,7 thước, cứ đêm khuya tĩnh mịch, thường hướng vào đền, quãy nhảy dưới sông bơi lội ngược xuôi, như hình múa lạy. Sau qua trào Tây Sơn, hương tàn khói lạnh”.
Đến đời Trung Hưng, cấp 10 người từ phu, hàng năm cho tiền công tế vào mùa xuân, cầu đảo thường linh ứng; năm Tự Đức thứ 4, quan tỉnh tâu rằng đền lâu ngày mục nát, lại bị nước xói, phụng mệnh lấy cho 400 quan tiền giao dân sở tại mua vật liệu, dựng lại đền ở sau cách 10 trượng…”
Năm 1851, đền được xây lại cách vị trí cũ khoảng 400m. Hơn 100 năm sau đền được tu sửa bao nhiêu lần không rõ. Năm 1960 Ban quý tế đền đứng ra chủ trì việc trùng tu. Trước chánh điện mở thêm hành lang rộng 2 mét, các cột chính được đắp rồng, các cửa gỗ được thay bằng cửa sắt kéo, mái lợp ngói âm dương thay cho loại vảy cá trước đây. Kiến trúc hiện tồn của di tích thuộc vào niên đại này, lối kiến trúc tương đối hiện đại, các nét xưa còn lại ít, có chăng là nội thất trong các trang trí hoa văn, đồ thờ.
Ngôi đền được xây dựng theo dạng chữ điền (J) mặt tiền hướng ra sông Đồng Nai, phía Tây Nam. Chánh điện đền hình vuông, tường gạch trát đá rửa, bốn mái lợp ngói lá vảy cá, nền lát gạch tàu, phía trước mái đều gắn đôi rồng chầu pháp lam bằng gốm men xanh, đối xứng hai bên là cặp lân. Từ ngoài theo lối chính có 3 cửa. Hai cửa khắc chìm hàng chữ Hán với nội dung nói về đền thờ Bình Kính, công lao của Nguyễn Hữu Cảnh đối với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.
Nội điện có ba hàng cột gõ lớn. Trên các cột đều treo liễn đối. Các hoành phi thể hiện dưới dạng đại tự chữ Hán, liễn đối được trang trí hoa văn sơn son thiếp vàng vẫn giữ tươi màu dù trải qua nhiều năm tháng. Dưới những hoành phi là những bao lam gỗ được chạm trổ các đề tài lưỡng long chầu nhật, hoa chim sơn kim nhũ óng ánh. Gian giữa chánh điện thờ thấn, hai bên thờ tả ban, hữu ban liệt vị. Một góc bên bàn thờ trong tủ kiếng còn lưu giữ bộ áo mão tương truyền là của đức ông Nguyễn Hữu Cảnh thửơ sinh thời. Trước bàn thờ thần là bàn thờ la liệt, bàn thờ hội đồng, xung quanh đắp nổi bộ tứ linh và ở trên có đôi hạc và lưỡng long, gian giữa bày hai hàng bát bửu bằng đồng. Dọc theo bờ tường hai bên có bồn bệ xi măng thờ các bậc tiền nhân, hậu hiền, thế hiền và thánh mẫu.
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một trong số ít di tích ở Biên Hòa còn lưu giữ được sắc thần, trong đó ghi rõ họ tên, chức tước vinh hiển, thứ bậc thượng đẳng thần của vua ban phong cho Nguyễn Hữu Cảnh.
Hàng năm, tại đền, nhân dân địa phương tổ chức hai lần lễ tế (tính theo âm lịch) vào các ngày 16 tháng 5 và 11 tháng 11, cầu cho quốc thái dân an và tưởng nhớ công lao của các bậc tiền nhân có công mở mang vùng đất phương nam của tổ quốc. Năm 1998, kỷ niệm 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1698 – 1998) Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai đã xây dựng nhà bia trong khuôn viên di tích đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Nhằm lưu truyền công đức của các bậc tiền nhân đã có công khai phá, bảo vệ, kiến tạo và xây dựng Đồng Nai với quá khứ hào hùng của ông cha, của truyền thống hào khí Đồng Nai.
Theo svhtt&dl – Đồng Nai
Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Nguyễn Tri Phương (TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)
Đền thờ Nguyễn Tri Phương tọa lạc bên hữu ngạn sông
Đồng Nai, xưa thuộc thôn Mỹ Khánh, tỉnh Biên Hòa, nay là phường Bửu Hòa,
TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Di tích đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công
nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 1539-QĐ,
ngày 27/12/1990.
Nguyên
thủy, đình có tên là Mỹ Khánh thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh. Sau khi
danh tướng Nguyễn Tri Phương mất, nhân dân Biên Hòa đã tạc tượng, thờ
ông tại đình. Từ đó, đình Mỹ Khánh đổi tên là đền thờ Nguyễn Tri Phương.
Đền
thờ Nguyễn Tri Phương là cơ sở tín ngưỡng gắn bó với đời sống tinh thần
của người dân Biên Hòa - Đồng Nai được xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ
Công (I). Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật truyền thống còn
bảo lưu những nét tiêu biểu có tính chuẩn mực, kiểu thức của một ngôi
đình làng Nam bộ với mái ngói âm dương, tường xây gạch thẻ tô vôi, cột
kèo làm bằng gỗ quý. Nội thất bày trí trang nghiêm với các bàn hương án
chạm lộng công phu; hoành phi, liễn đối cổ kính, nội dung ca ngợi công
lao của Thần Thành hoàng và danh tướng Nguyễn Tri Phương. Đặc biệt trong
đền thờ tượng Nguyễn Tri Phương làm bằng gỗ mít nài. Tương truyền rằng
có một bô lão ở địa phương nằm mộng thấy ông hiện về áo bào lẫm liệt, vũ
khí trong tay bèn chặt cây mít trước nhà tạc tượng như hình trong mộng.
Ngoài ra, trên bàn hương án thờ Thần còn lưu giữ bộ áo mão vua ban cho
Nguyễn Tri Phương khi đi kinh lược phương Nam.
Di tích lịch sử cấp quốc gia đền thờ Nguyễn Tri Phương (TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai)
Nguyễn
Tri Phương tự Hàm Trinh, hiệu Đường Xuyên, sinh ngày 09 tháng 09 năm
1800 (ngày 21 tháng 07 năm Canh Thân) trong một gia đình có truyền thống
yêu nước và hiếu học ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông là Nguyễn Văn Đảng, mẹ
là Nguyễn Thị Thê. Thuở thiếu thời, Nguyễn Tri Phương tỏ rõ là người
thông minh có ý chí, hoài bão và đức độ hơn người. Mới tuổi 23, ông đã
được tiến cử vào làm việc tại triều đình nhà Nguyễn. Qua ba triều vua
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Nguyễn Tri Phương luôn được tin dùng và
giữ nhiều trọng trách như: Thượng thư Bộ Lại, Bộ Công, Bộ Binh, Hiếu
điện Đại học sỹ - một chức hàm trong tứ trụ triều đình, đứng đầu hàng
võ…
Trước
quân thù, ông là một dũng tướng, trong lòng dân, ông là bậc hiền tài.
Vì mệnh nước, Nguyễn Tri Phương đã đi khắp mọi miền đánh đuổi giặc ngoại
xâm, lập nhiều công trạng, đến đâu ông cũng đều thu phục nhân tâm, mở
mang kinh tế.
Tháng
02 năm 1861 sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương dẫn
quân về lập tuyến phòng thủ ở Biên Hòa. Công việc đang gấp rút tiến hành
thì triều đình có lệnh triệu hồi ông. Hơn 10 năm sau ở tuổi 73, trong
một cuộc tử chiến với quân Pháp tại thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị
thương nặng, bọn Pháp cho người đến điều trị vết thương hòng mua chuộc
nhưng ông kiên quyết cự tuyệt rồi mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873
(nhằm ngày 01 tháng 11 năm Ất Dậu).
Sống
oai hùng, chết oanh liệt, người dân Biên Hòa - Đồng Nai đã tôn kính thờ
ông với niềm tin sâu sắc rằng ông sẽ phù hộ cho mưa thuận gió hòa, cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Hàng năm, vào ngày 16 và 17 tháng 10 (âm lịch)
tại đền diễn ra Lễ Kỳ yên theo phong tục thờ Thần của người Việt rất
long trọng, được đông đảo nhân dân đến thành kính dâng hương.
Huy Hoàng
Đồng Nai: Chùa Gia Lào vừa được xếp hạng di tích lịch sử - danh thắng
Những giai thoại được kể ở xóm ông Vong
Bất cứ người dân Long Phước nào cũng thuộc lòng sự tích ly kỳ mộ “ông Vong”. Người lớn vẫn thường kể cho con cháu nghe sự kiện diển ra vào ngày 26-12-1861 được ghi vào chính sử và gắn liền với nhân vật lịch sử Nguyễn Đức Ứng (?- 1861).
Theo sử liệu thì vào ngày 17-12-1861, trước sự tấn công của quân Pháp
vào thành Biên Hòa, đại quân của triều đình Nguyễn không chống cự nổi
đành rút chạy. Chỉ sau một ngày khởi chiến, quân Pháp dễ dàng tiến vào
chiếm thành Biên Hòa.
Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng là một võ tướng của triều đình Huế, trước đó được vua Tự Đức phái vào miền Nam để ngăn chặn đường tiến công như vũ bão của quân Pháp. Ông theo đường lối chủ chiến không chủ hòa, nhất quyết không chịu khuất phục của quân xâm lược nên ông đã sát cánh cùng nhân dân chống giặc cứu nước.
Sau khi chiếm Biên Hòa, quân Pháp theo sông Đồng Nai tiếp tục tiến
đánh Long Thành, phủ Phước Tuy (Bà Rịa). Nguyễn Đức Ứng đã trực tiếp chỉ
huy lực lượng phòng ngự ở Long Thành. Ông tiến hành thu nhận quân sĩ từ
Biên Hòa chạy về và cùng với lực lượng đông đảo nghĩa quân địa phương
lập tuyến phòng thủ, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ hướng Biên Hòa
xuống Bà Rịa.
Khoảng 9 giờ ngày 26-12-1861, cánh quân do đại tá Pháp Dominique Diego chỉ huy tiến vào huyện lỵ Long Thành thì bị nghĩa quân do Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy bí mật phục kích.
Nhưng do lực lượng, vũ khí và hỏa lực của đối phương quá mạnh nên
quân ta vừa tham chiến liền bị tiêu hao sinh lực rất nhiều đành rút dần
về phòng thủ tại căn cứ. Đến chiều, Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng cùng một số
nghĩa binh bị trúng đạn, các nghĩa binh phải khiêng ông rút sâu vào căn
cứ chữa trị.
Do vết thương quá nặng, ngay trong đêm ngày 27-12-1861 (nhằm ngày 26-11 âm lịch), Nguyễn Đức Ứng đã trút hơi thở cùng với 27 nghĩa binh trong trận quyết tử cuối cùng với quân thù. Ông ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn của các nghĩa sĩ và nhân dân.
Sau khi Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hy sinh, người dân
đã bí mật tìm cách đưa thi hài ông và các nghĩa binh về an táng trong
ngôi mộ chung trên gò đất cao ngay trong căn cứ. Bỗng vài ngày sau, tại
đây đột nhiên ùn lên một ụ gò mồi rất lớn nên người dân cho rằng Lãnh
binh hiển linh tạo cái gò mối nhằm che mắt quân thù.
Người dân vẫn thường kể rằng, vào những đêm thanh vắng, gió mát họ nghe rõ trong cơn gió lớn lao xao tràn qua, là tiếng quân hò reo, tiếng ngựa hí và tiếng va chạm binh khí ở ngay mộ Nguyễn Đức Ứng. Người ta nói đó là đoàn quân của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đi đánh trận trở về tụ họp. Từ dạo đó, nhân dân suy tôn Nguyễn Đức Ứng là “Thần Tướng” và kính trọng gọi là “Đức Ông”.
Lão nông Huỳnh Văn Giỏi (86 tuổi), nhà gần ngôi mộ cho chúng tôi biết
thêm rằng ngày xưa khu đất nơi có ngôi mộ chỉ là một cánh rừng vắng vẻ,
ít người qua lại. Dần dần quanh khu vực mộ có nhiều người đến sinh
sống, lập nghiệp hình thành nên “xóm ông Vong”. Người dân dựng một ngôi
miếu nhỏ, ngay phía sau ngôi mộ để lấy chỗ thờ cúng Đức Ông và các nghĩa
binh chu đáo.
Kiến trúc khác lạ và đặc biệt của mộ “ông Vong”
Lăng mộ Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hiện tọa lạc trên Quốc lộ 51 thuộc ấp Đất Mới, xã Long Phước, huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai) được trùng tu tôn tạo bề thế nhất vào năm 2010.
Điều đặc biệt dù là ngôi mộ của một vị võ tướng của triều Nguyễn nhưng kiến trúc mộ lại hoàn toàn không xây giống như lối truyền thống ở những ngôi mộ thường thấy. Trên phần mộ, có một tấm bia đá in dòng chữ bằng tiếng Pháp (mà không phải là chữ Hán): “ Ice ropose Nguyễn Đức Ứng. Lãnh binh de L Armeé Imperiale Tự Đức Décede le 26 Decembre 1861”.
Theo tài liệu lưu trữ của Bảo tàng tỉnh Đồng Nai thì vào khoảng năm 1936, có một người phụ nữ từ Sài Gòn đến tìm mộ, bà nói giọng Huế mặc trang phục theo kiểu tầng lớp quý tộc và tự xưng là cháu của Nguyễn Đức Ứng.
Không rõ họ tên bà ta là gì chỉ biết rằng bà từ Sài Gòn đến nên người
dân gọi là bà Năm Sài Gòn. Sau khi tìm được mộ, bà lập đàn cúng bái và
thuê người xây dựng lại toàn bộ ngôi mộ hoàng tráng thay cho ngôi mộ
đất.
Bà Năm Sài Gòn đã cho xây mộ theo cấu tạo khối lập thể hình thang, dạng kim tự tháp cụt, chiều cao 1.4 m, chiều rộng 4 m, các cạnh hình thang lại có góc nghiên 25 độ, , dựng xung quanh trên mộ là 8 trụ búp sen cao 1 m. Mộ được xây bằng chất liệu bê tông, xi măng, cốt thép chắn chắn.
Ngôi mộ được xây mới từ năm 1936 đã tồn tại nguyên bản đến tận hôm nay. Vài năm sau đó, người ta vẫn thấy bà Năm Sài Gòn trở lại cúng viếng vài lần nhưng qua nhiều biến cố của chiến tranh không thấy bà trở lại viếng mộ nữa.
Đến năm 1991 lại có một người xưng là con cháu cụ lãnh binh (không rõ
họ tên) từ Huế vào tìm mộ và có gặp ông Ba Bạc, chủ nhân phần đất nơi
có mộ Nguyễn Đức Ứng. Viếng mộ xong, ông ta xin phép trở ra Huế và hứa
sẽ trở lại nên có để lại địa chỉ nhà của một người bà trên 90 tuổi là
Công Tằng Tôn Nữ Thị Hy số 08 Đinh Bộ Lĩnh, Thành phố Huế.
Sau khi nhận được địa chỉ này thì Bảo tàng Đồng Nai đã gửi thư liên hệ nhưng bưu điện phúc đáp địa chỉ này không có người nhận. Có lẽ bà cụ xây mộ năm xưa đã qua đời. Và theo nhận định của một số người có thể bà Năm Sài Gòn năm xưa chính là bà Công Tằng Tôn Nữ Thị Hy?
Như vậy, qua nguồn thông tin thân nhân trên cũng như tấm bia đá ghi
chữ bằng tiếng Pháp năm 1936 và họ là Công Tằng Tôn Nữ trong địa chỉ
phần nào giúp cho các nhà nghiên cứu khẳng định rằng Nguyễn Đức Ứng là
thành viên của gia tộc Nguyễn Đức. Tuy nhiên, trong danh mục các quan
viên triều Nguyễn có rất nhiều vị mang họ Nguyễn Đức, nhưng lại không
thấy tên danh tướng Nguyễn Đức Ứng (?).
Điều này có gì uẩn khúc vẫn đang chờ các nhà nghiên cứu lịch sử làm sáng tỏ thân phận của một nhân vật lịch sử Nguyễn Đức Ứng “sinh vi tướng” ở đất Huế cố đô và đã “tử vi thần” ngay trên mảnh đất Đồng Nai.
Những món đặc sản ở Đồng Nai
rất phong phú như bưởi Tân Triều, mít Tố Nữ, nấm mối, cơm gà cá mặn…
làm mê mẩn du khách gần xa khi có dịp đặt chân đến nơi đây.
Quả thật thiên nhiên đã ưu đãi, nơi đây
một khí hậu thuận hòa cho cây cối đơm hoa kết trái mà không phải âu lo
bị lũ lụt, bão tố tàn phá như ở miền Trung, miền Bắc hoặc như ở mấy tỉnh
đồng bằng sông nước miền Tây.
1. Bưởi Tân Triều
Làng bưởi Tân Triều thuộc xã Tân Bình,
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa khoảng 6 km. Làng
bưởi ngày nay vẫn giữ được nét thanh bình của làng quê yên ả với những
vườn bưởi xanh xum xuê quả, vườn tiếp vườn, tới đầu làng đã nghe hương
bưởi thơm thoang thoảng.
Cây bưởi Tân Triều sau bao năm thăng trầm
đã lấy lại “tiếng thơm” của mình khi người dân Tân Triều mạnh dạn xóa
vườn tạp để phục hồi lại cây bưởi vào những năm 1985 trở đi. Bưởi Tân
Triều có nhiều loại, bưởi Thanh nước nhiều, trái rất sai, mỗi mùa một
cây có thể cho từ bốn đến năm trăm trái.
2. Dơi xào lăn
Long Khánh là vùng có nhiều cây trái, hoa
quả ngọt, quanh năm nên có rất nhiều loài dơi trú ngụ. Có nhiều loại
dơi: dơi quạ, dơi sen, dơi chó, dơi hương…ta có thể giăng lưới bắt gơi
ban đêm trong các vườn cây ăn trái trong mùa trái chính, hoặc ban ngày
tìm đơi trong các hang động, cây da, hoặc trong trần nhà tối; bọn trẻ
còn bắt dơi trong cát đọt chuối.
Bắt dơi cũng phái khéo léo, kẻo dơi cắn tay chảy máu chứ chẳng chơi. Trước khi làm thịt, dơi được cắt tiết; huyết dơi có tính hàn, uống rất mát, thường dùng pha với rượu uống, nghe nói rượu huyết dơi còn trị được bệnh hen suyễn, và hiếm muộn con. Thịt dơi rất ngọt và thơm, dơi càng hôi thì xào lăn ăn càng có vị đậm đà; thịt dơi còn có thể băm nhuyễn nấu cháo lại càng hấp dẫn. Trong bữa bữa cơm của người miền đông nam bộ có thêm mót thịt dơi xào lăn thì thật là tuyệt.
3. Mít Tố Nữ
Nói tới Mít thì Long Khánh vốn là đất của
mít, xoài, đu đủ rất lâu đời. Ba loại trái này thì khắp nơi đều có
không nhiều thì ít. Nhưng “Mít tố nữ” thì gần như độc chiếm ở đất Long
Khánh. Mít Tố nữ, trái nhỏ hơn rất nhiều so với mít thường, có trái nặng
chỉ vài lạng, to thì một, hai ký là nhiều. Do trái nhỏ, nên nhiều người
mới vào miền Nam thoạt nhìn tưởng đó là mít non.
Múi và hương vị của mít Tố nữ cũng khác rất nhiều so với mít thường: xẻ một đường đọc để bổ đôi trái mít, lật cuống lên sẽ thấy múi tròn , nổi gân, kết như một chùm dâu chín vàng, thơm lựng, thơm ngạt ngào, thơm rất lâu, vỏ và cùi mít có khi ba ngày còn phảng phất ; khách ăn mít tố nữ vừa xong khó mà “che dấu” được người chung quanh bởi cái mùi rất đặc biệt này. Mấy chị em đi chợ nói rằng:”Ghiền món gì đi chợ “ăn vụng” đố ai biết, nhưng ăn sầu riêng, tố nữ thì không “giấu” vào đâu được bởi về tới nhà hãy còn nghe mùi thơm bất hủ của nó.” Không sai chút nào!
4. Canh chua lá dang
Long Khánh đất đỏ Bazan lá dang mọc rất
nhiều, nó thuộc họ dây leo, thường mọc trong rừng cao su. Mẹ tôi cứ mỗi
chiều đi cạo mủ về y như rằng thế nào trong giỏ cạo cũng có một vài bó
lá dang để dành nấu canh; món canh lá dang là món khoái khẩu của anh em
tụi tôi. Lá dang được lặt kỹ, rữa sạch, trước khi để ráo nhớ vò mạnh tay
một tí cho lá hơi bị dập ra vị chua mới đáo để và hấp dẫn. Trên bếp đã
chuẩn bị sẵn con gà luộc, nước luộc gà dùng để nấu canh lá dang thì trên
cả tuyệt vời; chỉ cần sử dụng một ít thịt đầu, cổ cánh, chân và cả phao
câu nững cho nồi canh thêm ngọt.
Sau khi nêm nếm vừa miệng ăn, nhớ bỏ thêm chút đường cát cho nó đậm đà, chua chua mà ngọt ngọt mới bắt mồi (món này dân nhậu khoái chí lấm đấy). Lá dang để ráo, nồi nước vừa sôi sùng sục bỏ lá dang vào, khuấy đều để cho lá ngã màu vàng, nêm lại một tí là được. Lúc này bộ lòng gà được phi hành mỡ xào lên, nêm nếm cho vừa; nhắc nồi canh xuống đổ chão lòng gà vào nồi canh nghe một tiếng xèo, béo ngậy, toả mùi thơm hấp dẫn giữa thịt gà lá dang, hành ngò, rau quế. Cả nhà quây quần bên mâm cơm có tô canh chua gà lá dang, mãi mê ăn quên cả no.
5. Dế cơm chiên nước mắm
Dế cơm tuy là loại côn trùng, sống tự
nhiên dưới hang nhưng là món ăn dân dã xuất hiện từ rất lâu ở Long
Khánh. Thường vào mùa mưa, bọn trẻ thường đi đào dế cơm về cung cấp cho
thực khách, dế cơm cũng có thể câu bằng cách thả kiến nhọt xuống hang,
lấp miệng hang lại khoảng vài phút dế cơm bị kiến nhọt cắn, nhảy thót
lên miệng hang tha hồ mà bắt.
Dế cơm chỉ cần lặt sạch cánh, lặt 2 chân sau(để đùi lại, 2 đùi dế rất béo), móc ruột bỏ hết, xong nhét hột đậu phộng vào ruột, rồi ướp nước mắm, nêm cho vừa ăn. Mắc chão dầu cho xôi, để dế vào chiên cho vàng là được.
Dế cơm chiên nước mắm ăn vừa dòn, vừa đậm đà hương vị nước mắm, vừa béo ngậy của dầu, béo thơm của đậu phộng mang đặc trưng món ăn dân dã miền Đông Nam bộ. Ngoài ra dế cơm còn được những bà nội trợ lăn bột chiên bơ để thêm một món đãi khách thì hết chỗ nói.
6. Lẩu lá khổ qua rừng
Khá phổ biến ở Long Khánh, đây là loại lá
khổ qua rừng rất đắng nhưng có hậu ngọt ngào, đậm đà dân dã. Là loại lá
rừng, chỉ mọc trong mùa mưa nhưng để đáp ứng nhu cầu ẩm thực của thực
khách nhiều hộ dân đã nhân được giống khổ qua rừng để trồng ở vườn nhà,
đến nay thì lá khổ qua rừng có quan năm khi nào thực khách cần cũng đều
có thể đáp ứng được.
Lẫu lá khổ qua rừng nếu được nấu bằng cá trào cững (giống cá lóc con) thì hợp khẩu vị hơn; nếu không thì nấu với sườn non, tôm khô cũng được. Lá khổ qua được lặt, rữa sạch để ráo trên dĩa, lẫu nước đang sôi chỉ cần nhúng một nắm lá vào lẩu vớt với ra ngay dùng liền, thì mới cảm được vị ngon đặc trưng của nó.
7. Trái ươi rừng
Trái ươi là đặc sản Đồng Nai
từ nhiều năm nay đã đóng cửa. Người "làng rừng" vùng chiến khu Đ không
còn mấy ai được vào lượm trái ươi rụng đầy dưới gốc cây khi ve sầu bắt
đầu cất tiếng hát. Nhưng không phải năm nào cũng có, "mùa ươi" có khi
hai, ba năm mới trúng một lần. Do vậy, trái ươi ngày càng đắt đỏ. Người
viết đã một lần được theo chân các cán bộ kiểm lâm của Lâm trường Vĩnh
An cho vào rừng để săn ươi. Nói là săn bởi vì trái ươi đã hiếm lắm rồi.
Để hái trái còn tươi nguyên, các thợ săn phải leo lên cây mé nhánh.
Ươi là loại thân cây to, cao cả chục mét. Do vậy, để mé được nhánh, thợ săn leo trèo giỏi. Mỗi cây có thể cho từ 30- 50kg trái tươi. Trái ươi tươi đem về phơi vài nắng, khô lại còn bằng đầu ngón tay giữa của người lớn thì có thể cất vào nơi khô ráo hàng tháng có khi vài năm vẫn không bị hư.
8. Gỏi cá Biên Hòa
Đóng đô ven cù lao Phố với các quán san
sát bờ sông Đồng Nai, gỏi cá Biên Hòa từ lâu đã trở thành món đặc sản
của vùng đất này. Chỉ đơn giản là đĩa thịt cá, nồi nước lèo kèm mớ rau
đủ loại, cộng với không gian đặc trưng của vùng đất cù lao đã trở thành
điểm hẹn của những ai thích đi tìm những món ngon dân dã.
Món gỏi cá ngon ở điểm nguồn nguyên liệu dễ tìm, luôn trong trạng thái tươi sống. Con cá còn bơi quẫy tung tăng trong hồ được vớt ra, với thao tác nhanh gọn, chính xác, đầu bếp cầm con dao bén ngót lát một đường dọc theo xương sống từ đuôi đến mang, lộn ngược má thịt ra ngoài, dùng một dụng cụ nạo từng thớ thịt cá mỏng dài chừng hai đốt ngón tay. Miếng thịt cá trắng tươi, nổi rõ từng lằn gân máu đỏ, ngay lập tức được trộn với hỗn hợp những gia vị quen thuộc như riềng, hành, tỏi, sả, thính, bao phủ một lớp mỏng bọc ngoài miếng thịt cá. Vừa giữ cho miếng cá không đổi mùi tanh, và có độ khô cần thiết tạo cảm giác an tâm khi có một lớp đủ thứ gia vị màu vàng ươm bao bọc, nhìn thôi đã đủ thèm ứa nước miếng.
9. Nấm mối Đồng Nai
Vào đầu mùa mưa là thời điểm đang rộ nấm
mối, về vùng Bình Sơn (huyện Long Thành) hay Thừa Đức (huyện Cẩm Mỹ) sẽ
thấy rất nhiều người đi tìm nấm mối. Muốn hái được nấm mối ngon phải
dùng đèn soi đi vào ban đêm vì thời tiết mát, dễ thu hoạch, còn ban ngày
gặp ánh sáng nấm nở thành tán, hái dễ bị vụn nát, giá không cao.
Một tổ nấm mối thường có trọng lượng từ 1-4 kg, vào những ngày rộ, dân Long Thành, Long Khánh, Cẩm Mỹ… có khi thu được hàng tấn nấm. Một số thương lái chuyên mua nấm mối cho biết, năm nay nấm mối ít, chỉ bằng một nửa những năm trước. Trước đây, nấm mối mọc nhiều trong vườn cây lâu năm, nhưng gần đây nhiều cây trồng bị sâu bệnh khiến cho nông dân phải thường xuyên phun thuốc bảo vệ thực vật, điều này đã ảnh hưởng đến môi trường đất nên nấm mọc ngày càng ít.
10. Cơm gà cá mặn
Ở các quán ăn vừa sang trọng vừa bình dân ở Đồng Nai
đều có món cơm gà cá mặn. Cơm được nấu trong nồi đất, được trộn lẫn các
gia vị như thịt gà, chà bông, cá mắm, nêm nếm sao cho vừa ăn.
Khi ăn, niêu cơm vẫn còn để trên bếp, lúc xới cơm hơi khói bay nghi ngút tỏa mùi thơm quyến rũ; cơm nấu càng cháy ăn càng ngon và đậm đà. Đãi khách bằng món cơm gà cá mặn vừa tiện, hấp dẫn lại ngon, thắt chặt thêm tình cảm thắm thiết giữ khách và chủ đặc biệt là sẽ nhớ Long Khánh với món cơm gà cá mặn.
Núi Chứa Chan - chùa Gia Lào (huyện Xuân Lộc) là một địa danh
nổi tiếng xưa nay không chỉ là phong cảnh hữu tình từ vẻ đẹp của núi đá
hang động thiên nhiên kết hợp với bàn tay sáng tạo khéo léo của con
người mà còn là một địa danh với nhiều chiến tích lịch sử đã đi vào ký
ức của bao thế hệ cư dân như một biểu tượng của quê hương \"Miền Đông
gian lao mà anh dũng\".
Ngày
17-6-2009, UBND tỉnh Đồng Nai đã ra Quyết định số 1687/QĐ-UBND xếp hạng
núi Chứa Chan là di tích lịch sử - danh thắng đầu tiên nằm trên địa
phận huyện Xuân Lộc. Và ngày 8-8 tới, Đảng bộ và nhân dân huyện Xuân Lộc
sẽ long trọng tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận di tích lịch sử danh
thắng.
* Núi Chứa Chan - chùa Gia Lào: Dị tích lịch sử, danh thắng
Núi
Chứa Chan cao khoảng 837m là một trong những ngọn núi hiếm hoi của miền
Đông Nam bộ, một thắng cảnh hữu tình nằm gọn trên địa bàn huyện Xuân
Lộc. Xung quanh núi có 4 suối nước trong mát quanh năm mang những cái
tên rất quen thuộc của đồng bào dân tộc Châu Ro: Gia Ui, Gia Miên, Gia
Liêu, Gia Lào.
Từ ngã
ba Ông Đồn theo tỉnh lộ 766 đi hướng Đông Bắc khoảng 3 cây số, du khách
đến chân núi Chứa Chan. Từ đây, theo đường mòn và những bậc đá tam cấp
đã định hình để lên núi viếng chùa. Trên lưng chừng núi ở độ cao khoảng
600m có một hang đá thiên tạo về hướng Đông Bắc có mái vòm uốn cong tạo
dáng hình rồng như kiến trúc chùa cổ, xung quanh khu vực này từ xưa,
giới tu hành, đạo hạnh đã đến dựng chùa, trong đó có chùa Gia Lào (tức
là chùa Bửu Quang Tự). Trong phạm vi khu vực núi Chứa Chan còn có mật
khu Hầm Hinh nổi tiếng là địa điểm đóng quân của Ban chỉ huy quận quân
sự 10, sau đó là Huyện đội Xuân Lộc trong khoảng thời gian từ năm 1946
đến cuối năm 1948. Hầm Hinh là một bãi đá tự nhiên gồm những viên đá
granite xếp ken với nhau tạo thành một bức tường dày. Âm sâu bên trong
là hang đá gồm những tảng đá lớn xếp chênh nhau tạo thành. Lòng hang sâu
hun hút, khúc khuỷu với nhiều chỗ rộng hẹp, cao thấp khác nhau tạo
thuận lợi cho việc thoát hiểm khi cần. Chính nhờ vị thế đó, Ban chỉ huy
quận quân sự 10 (Xuân Lộc) đã chọn đóng quân và cũng từ địa điểm này các
đồng chí: Đinh Quang Ân, Bùi Cát Vũ, Phạm Đình Công đã lập sở chỉ huy
đánh giao thông đường sắt ở Trảng Táo, Gia Hinh, Bảo Chánh. Năm 1947,
đồng chí Nguyễn Văn Tạo lúc này là chủ tịch quận bộ Việt Minh Xuân Lộc
và đồng chí Huỳnh Công Tâm (Tư Ước), chỉ huy trưởng quận quân sự 10,
kiêm chỉ huy trưởng ban bảo vệ căn cứ địa Gia Ray đã tạm mượn chùa Chánh
Giác ở mật khu Hầm Hinh để chứa thóc gạo làm trạm tiếp tế lương thực
cho bộ đội và cán bộ trong huyện. Cuối năm 1948, giặc Pháp tiến hành càn
quét vùng quanh núi Chứa Chan, mật khu Hầm Hinh bị lộ, quân Pháp và
Việt gian đốt chùa Chánh Giác, lúa gạo cháy suốt 6 ngày đêm còn ngút
khói. Thời gian sau, thầy trò chùa Chánh Giác lại chạy lên chùa Bửu
Quang tiếp tục tu hành, vận động bá tánh ủng hộ kháng chiến.
Tháng
5-1947, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư xứ ủy Nam bộ trên đường đi công tác từ
Nam Trung bộ vào đến núi Chứa Chan. Đồng chí đã lưu lại căn cứ của huyện
Xuân Lộc tại khu vực chùa Gia Lào một thời gian.
* Núi Chứa Chan - chùa Gia Lào: Điểm hẹn du lịch
Từ chân
núi lên chùa chừng 2km, đặc biệt là khi du khách leo hết dốc khoảng 300
bậc đá sẽ đến một đoạn đường bằng phẳng rợp bóng cây. Đến cây 1 ngọn 3
gốc gặp suối Tiên, du khách có thể hết sức thích thú khi vốc nước rửa
mặt. Nguồn nước từ trong hang núi chảy ra, thật trong mát. Vượt dốc 3,
du khách sẽ đến chùa, chùa được kiến tạo dựa vào hình thể thiên nhiên,
chánh điện xây mái vòm uốn cong bên trên hang đá của hàm rồng. Tất cả
tạo nên một quần thể những hang động thiên nhiên được bàn tay con người
xây đắp thêm phần thẩm mỹ, tạo cho ngôi chùa một vẻ thâm nghiêm kỳ vĩ.
Vào
ngày cuối tuần về Xuân Lộc, du khách có thể bơi thuyền trên hồ Gia Ui
(thuộc xã Xuân Tâm) cách thị trấn Gia Ray khoảng 5km về phía Đông Bắc;
rồi ghé qua khu vui chơi giải trí hồ Núi Le (toạ lạc tại khu 7, thị trấn
Gia Ray) để thưởng thức các món ăn đặc sản của sông, hồ... ngắm cảnh
thiên nhiên sông núi hữu tình. Từ giã hồ Núi Le thơ mộng, du khách về
lại núi Chứa Chan lên viếng chùa Gia Lào, dùng bữa cơm chay, đêm ngủ
võng trong những chòi lá dựng cheo leo trên sườn núi để thưởng thức một
đêm ngủ rừng đầy thú vị.
Sớm
tinh sương vào chùa thắp hương cúng Phật, du khách còn thời gian thưởng
thức vẻ đẹp của rừng núi, của bạt ngàn nương rẫy với những vườn cây ăn
trái xanh tươi, như: mít, bơ, chôm chôm, chuối, sầu riêng, cam, quýt... Ở
đây còn có hàng chục loài hoa kiểng bốn mùa trổ hoa ngát hương làm du
khách ngất ngây có cảm giác như sống giữa bồng lai tiên cảnh.
Thêm
một tin vui nữa là sau khi núi Chứa Chan được công nhận di tích lịch sử -
danh thắng, huyện Xuân Lộc sẽ đầu tư hệ thống cáp treo phát triển du
lịch ở khu vực này. Đến lúc đó chắc chắn khu di tích - danh thắng núi
Chứa Chan sẽ là một điểm du lịch lý tưởng, một điểm hẹn hấp dẫn cho du
khách.
Nguyễn Ngọc Dũng(Nguồn: Báo Đồng Nai)
Huyện Xuân Lộc (Đồng Nai): Đón nhận bằng Di tích lịch sử núi Chúa Chan – chùa Gia Lào
Sáng ngày 8/8/2009, huyện Xuân Lộc đã long trọng tổ chức buổi lễ đón
nhận bằng di tích lịch sử danh thắng núi Chứa Chan- chùa Gia Lào.
Ngay từ sáng sớm, từng đoàn người đã tập trung
trước khu trung tâm huyện để tiến vào Núi Chứa Chan – chùa Gia Lào, nơi
được công nhận là khu di tích lịch sử danh thắng. Tại khu vực lễ, nhiều
người dân rất háo hức chờ đón giờ phút mà theo họ đây có thể sẽ là bước
ngoặc để núi Chứa Chan - chùa Gia Lào mang một diện mạo mới, có nhiểu
điều kiện thuận lợi hơn để được đầu tư phát triển mở rộng, ngày càng thu
hút đông đảo khách tham quan du lịch từ khắp các nơi tìm đến.
Huyền thoại về mộ ‘ông Vong’ ở Long Thành, Đồng Nai
(CAO) Dân gian vùng Long Phước (huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai) truyền tụng rằng cái ụ gò mối lớn nằm trên một khoảng đất
trống bằng phẵng cạnh con suối Cả mà nhân dân tôn kính gọi là: “Mộ ông
Vong”.
Đó chính là một ngôi mộ tập thể chôn Lãnh binh Nguyễn Đức
Ứng và 27 nghĩa binh đã anh dũng hy sinh trong những ngày đầu chống trả
sự xâm lược của Thực dân Pháp. Năm 1994, mộ “ông Vong” được Bộ Văn hóa –
Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch ) công nhận là di
tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.Bất cứ người dân Long Phước nào cũng thuộc lòng sự tích ly kỳ mộ “ông Vong”. Người lớn vẫn thường kể cho con cháu nghe sự kiện diển ra vào ngày 26-12-1861 được ghi vào chính sử và gắn liền với nhân vật lịch sử Nguyễn Đức Ứng (?- 1861).
Cái ụ gò mối mà dân gian tôn kính gọi là mộ “ông Vong”
Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng là một võ tướng của triều đình Huế, trước đó được vua Tự Đức phái vào miền Nam để ngăn chặn đường tiến công như vũ bão của quân Pháp. Ông theo đường lối chủ chiến không chủ hòa, nhất quyết không chịu khuất phục của quân xâm lược nên ông đã sát cánh cùng nhân dân chống giặc cứu nước.
Tấm bia đá ghi bằng tiếng Pháp trên mộ “ông Vong” được cho rằng dựng từ năm 1936
Khoảng 9 giờ ngày 26-12-1861, cánh quân do đại tá Pháp Dominique Diego chỉ huy tiến vào huyện lỵ Long Thành thì bị nghĩa quân do Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng chỉ huy bí mật phục kích.
Bia tưởng niệm công đức Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh do huyện ủy Long Thành dựng vào năm 2010
Do vết thương quá nặng, ngay trong đêm ngày 27-12-1861 (nhằm ngày 26-11 âm lịch), Nguyễn Đức Ứng đã trút hơi thở cùng với 27 nghĩa binh trong trận quyết tử cuối cùng với quân thù. Ông ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn của các nghĩa sĩ và nhân dân.
Ngôi mộ Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hiện nay
Người dân vẫn thường kể rằng, vào những đêm thanh vắng, gió mát họ nghe rõ trong cơn gió lớn lao xao tràn qua, là tiếng quân hò reo, tiếng ngựa hí và tiếng va chạm binh khí ở ngay mộ Nguyễn Đức Ứng. Người ta nói đó là đoàn quân của Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng đi đánh trận trở về tụ họp. Từ dạo đó, nhân dân suy tôn Nguyễn Đức Ứng là “Thần Tướng” và kính trọng gọi là “Đức Ông”.
Sau khi trùng tu tôn tạo vào năm 2010, khu mộ Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh toạ lạc trên khu đất tổng diện tích là 27.402 m2
Kiến trúc khác lạ và đặc biệt của mộ “ông Vong”
Lăng mộ Lãnh binh Nguyễn Đức Ứng và 27 nghĩa binh hiện tọa lạc trên Quốc lộ 51 thuộc ấp Đất Mới, xã Long Phước, huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai) được trùng tu tôn tạo bề thế nhất vào năm 2010.
Điều đặc biệt dù là ngôi mộ của một vị võ tướng của triều Nguyễn nhưng kiến trúc mộ lại hoàn toàn không xây giống như lối truyền thống ở những ngôi mộ thường thấy. Trên phần mộ, có một tấm bia đá in dòng chữ bằng tiếng Pháp (mà không phải là chữ Hán): “ Ice ropose Nguyễn Đức Ứng. Lãnh binh de L Armeé Imperiale Tự Đức Décede le 26 Decembre 1861”.
Theo tài liệu lưu trữ của Bảo tàng tỉnh Đồng Nai thì vào khoảng năm 1936, có một người phụ nữ từ Sài Gòn đến tìm mộ, bà nói giọng Huế mặc trang phục theo kiểu tầng lớp quý tộc và tự xưng là cháu của Nguyễn Đức Ứng.
Ngày
lễ giỗ chung được nhân dân và chính quyền địa phương tổ chức thường
niên trong hai ngày 26 và 27 tháng 11 âm lịch. Người dân sắm lễ vật
hương đăng, trà quả đem ra mộ dâng lên Đức Ông và các nghĩa binh hết sức
long trọng
Bà Năm Sài Gòn đã cho xây mộ theo cấu tạo khối lập thể hình thang, dạng kim tự tháp cụt, chiều cao 1.4 m, chiều rộng 4 m, các cạnh hình thang lại có góc nghiên 25 độ, , dựng xung quanh trên mộ là 8 trụ búp sen cao 1 m. Mộ được xây bằng chất liệu bê tông, xi măng, cốt thép chắn chắn.
Ngôi mộ được xây mới từ năm 1936 đã tồn tại nguyên bản đến tận hôm nay. Vài năm sau đó, người ta vẫn thấy bà Năm Sài Gòn trở lại cúng viếng vài lần nhưng qua nhiều biến cố của chiến tranh không thấy bà trở lại viếng mộ nữa.
Khách
du lịch đi từ hướng từ Bà Rịa Vũng Tàu về TP.HCM trên Quốc lộ 51 thường
ghé khu di tích lịch sử mộ “ông Vong” để tham quan và chiêm bái
Sau khi nhận được địa chỉ này thì Bảo tàng Đồng Nai đã gửi thư liên hệ nhưng bưu điện phúc đáp địa chỉ này không có người nhận. Có lẽ bà cụ xây mộ năm xưa đã qua đời. Và theo nhận định của một số người có thể bà Năm Sài Gòn năm xưa chính là bà Công Tằng Tôn Nữ Thị Hy?
Tấm bia dựng bên Quốc lộ 51 để chỉ đường cho khách vào tham quan khu mộ
Điều này có gì uẩn khúc vẫn đang chờ các nhà nghiên cứu lịch sử làm sáng tỏ thân phận của một nhân vật lịch sử Nguyễn Đức Ứng “sinh vi tướng” ở đất Huế cố đô và đã “tử vi thần” ngay trên mảnh đất Đồng Nai.
10 món đặc sản ngon nổi tiếng của Đồng Nai
Những món đặc sản ở Đồng Nai
rất phong phú như bưởi Tân Triều, mít Tố Nữ, nấm mối, cơm gà cá mặn…
làm mê mẩn du khách gần xa khi có dịp đặt chân đến nơi đây.
Quả thật thiên nhiên đã ưu đãi, nơi đây
một khí hậu thuận hòa cho cây cối đơm hoa kết trái mà không phải âu lo
bị lũ lụt, bão tố tàn phá như ở miền Trung, miền Bắc hoặc như ở mấy tỉnh
đồng bằng sông nước miền Tây.
1. Bưởi Tân Triều
Làng bưởi Tân Triều thuộc xã Tân Bình,
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa khoảng 6 km. Làng
bưởi ngày nay vẫn giữ được nét thanh bình của làng quê yên ả với những
vườn bưởi xanh xum xuê quả, vườn tiếp vườn, tới đầu làng đã nghe hương
bưởi thơm thoang thoảng.
2. Dơi xào lăn
Long Khánh là vùng có nhiều cây trái, hoa
quả ngọt, quanh năm nên có rất nhiều loài dơi trú ngụ. Có nhiều loại
dơi: dơi quạ, dơi sen, dơi chó, dơi hương…ta có thể giăng lưới bắt gơi
ban đêm trong các vườn cây ăn trái trong mùa trái chính, hoặc ban ngày
tìm đơi trong các hang động, cây da, hoặc trong trần nhà tối; bọn trẻ
còn bắt dơi trong cát đọt chuối.
Bắt dơi cũng phái khéo léo, kẻo dơi cắn tay chảy máu chứ chẳng chơi. Trước khi làm thịt, dơi được cắt tiết; huyết dơi có tính hàn, uống rất mát, thường dùng pha với rượu uống, nghe nói rượu huyết dơi còn trị được bệnh hen suyễn, và hiếm muộn con. Thịt dơi rất ngọt và thơm, dơi càng hôi thì xào lăn ăn càng có vị đậm đà; thịt dơi còn có thể băm nhuyễn nấu cháo lại càng hấp dẫn. Trong bữa bữa cơm của người miền đông nam bộ có thêm mót thịt dơi xào lăn thì thật là tuyệt.
3. Mít Tố Nữ
Nói tới Mít thì Long Khánh vốn là đất của
mít, xoài, đu đủ rất lâu đời. Ba loại trái này thì khắp nơi đều có
không nhiều thì ít. Nhưng “Mít tố nữ” thì gần như độc chiếm ở đất Long
Khánh. Mít Tố nữ, trái nhỏ hơn rất nhiều so với mít thường, có trái nặng
chỉ vài lạng, to thì một, hai ký là nhiều. Do trái nhỏ, nên nhiều người
mới vào miền Nam thoạt nhìn tưởng đó là mít non.
Múi và hương vị của mít Tố nữ cũng khác rất nhiều so với mít thường: xẻ một đường đọc để bổ đôi trái mít, lật cuống lên sẽ thấy múi tròn , nổi gân, kết như một chùm dâu chín vàng, thơm lựng, thơm ngạt ngào, thơm rất lâu, vỏ và cùi mít có khi ba ngày còn phảng phất ; khách ăn mít tố nữ vừa xong khó mà “che dấu” được người chung quanh bởi cái mùi rất đặc biệt này. Mấy chị em đi chợ nói rằng:”Ghiền món gì đi chợ “ăn vụng” đố ai biết, nhưng ăn sầu riêng, tố nữ thì không “giấu” vào đâu được bởi về tới nhà hãy còn nghe mùi thơm bất hủ của nó.” Không sai chút nào!
4. Canh chua lá dang
Long Khánh đất đỏ Bazan lá dang mọc rất
nhiều, nó thuộc họ dây leo, thường mọc trong rừng cao su. Mẹ tôi cứ mỗi
chiều đi cạo mủ về y như rằng thế nào trong giỏ cạo cũng có một vài bó
lá dang để dành nấu canh; món canh lá dang là món khoái khẩu của anh em
tụi tôi. Lá dang được lặt kỹ, rữa sạch, trước khi để ráo nhớ vò mạnh tay
một tí cho lá hơi bị dập ra vị chua mới đáo để và hấp dẫn. Trên bếp đã
chuẩn bị sẵn con gà luộc, nước luộc gà dùng để nấu canh lá dang thì trên
cả tuyệt vời; chỉ cần sử dụng một ít thịt đầu, cổ cánh, chân và cả phao
câu nững cho nồi canh thêm ngọt.
Sau khi nêm nếm vừa miệng ăn, nhớ bỏ thêm chút đường cát cho nó đậm đà, chua chua mà ngọt ngọt mới bắt mồi (món này dân nhậu khoái chí lấm đấy). Lá dang để ráo, nồi nước vừa sôi sùng sục bỏ lá dang vào, khuấy đều để cho lá ngã màu vàng, nêm lại một tí là được. Lúc này bộ lòng gà được phi hành mỡ xào lên, nêm nếm cho vừa; nhắc nồi canh xuống đổ chão lòng gà vào nồi canh nghe một tiếng xèo, béo ngậy, toả mùi thơm hấp dẫn giữa thịt gà lá dang, hành ngò, rau quế. Cả nhà quây quần bên mâm cơm có tô canh chua gà lá dang, mãi mê ăn quên cả no.
5. Dế cơm chiên nước mắm
Dế cơm tuy là loại côn trùng, sống tự
nhiên dưới hang nhưng là món ăn dân dã xuất hiện từ rất lâu ở Long
Khánh. Thường vào mùa mưa, bọn trẻ thường đi đào dế cơm về cung cấp cho
thực khách, dế cơm cũng có thể câu bằng cách thả kiến nhọt xuống hang,
lấp miệng hang lại khoảng vài phút dế cơm bị kiến nhọt cắn, nhảy thót
lên miệng hang tha hồ mà bắt.
Dế cơm chỉ cần lặt sạch cánh, lặt 2 chân sau(để đùi lại, 2 đùi dế rất béo), móc ruột bỏ hết, xong nhét hột đậu phộng vào ruột, rồi ướp nước mắm, nêm cho vừa ăn. Mắc chão dầu cho xôi, để dế vào chiên cho vàng là được.
Dế cơm chiên nước mắm ăn vừa dòn, vừa đậm đà hương vị nước mắm, vừa béo ngậy của dầu, béo thơm của đậu phộng mang đặc trưng món ăn dân dã miền Đông Nam bộ. Ngoài ra dế cơm còn được những bà nội trợ lăn bột chiên bơ để thêm một món đãi khách thì hết chỗ nói.
6. Lẩu lá khổ qua rừng
Khá phổ biến ở Long Khánh, đây là loại lá
khổ qua rừng rất đắng nhưng có hậu ngọt ngào, đậm đà dân dã. Là loại lá
rừng, chỉ mọc trong mùa mưa nhưng để đáp ứng nhu cầu ẩm thực của thực
khách nhiều hộ dân đã nhân được giống khổ qua rừng để trồng ở vườn nhà,
đến nay thì lá khổ qua rừng có quan năm khi nào thực khách cần cũng đều
có thể đáp ứng được.
Lẫu lá khổ qua rừng nếu được nấu bằng cá trào cững (giống cá lóc con) thì hợp khẩu vị hơn; nếu không thì nấu với sườn non, tôm khô cũng được. Lá khổ qua được lặt, rữa sạch để ráo trên dĩa, lẫu nước đang sôi chỉ cần nhúng một nắm lá vào lẩu vớt với ra ngay dùng liền, thì mới cảm được vị ngon đặc trưng của nó.
7. Trái ươi rừng
Trái ươi là đặc sản Đồng Nai
từ nhiều năm nay đã đóng cửa. Người "làng rừng" vùng chiến khu Đ không
còn mấy ai được vào lượm trái ươi rụng đầy dưới gốc cây khi ve sầu bắt
đầu cất tiếng hát. Nhưng không phải năm nào cũng có, "mùa ươi" có khi
hai, ba năm mới trúng một lần. Do vậy, trái ươi ngày càng đắt đỏ. Người
viết đã một lần được theo chân các cán bộ kiểm lâm của Lâm trường Vĩnh
An cho vào rừng để săn ươi. Nói là săn bởi vì trái ươi đã hiếm lắm rồi.
Để hái trái còn tươi nguyên, các thợ săn phải leo lên cây mé nhánh.
Ươi là loại thân cây to, cao cả chục mét. Do vậy, để mé được nhánh, thợ săn leo trèo giỏi. Mỗi cây có thể cho từ 30- 50kg trái tươi. Trái ươi tươi đem về phơi vài nắng, khô lại còn bằng đầu ngón tay giữa của người lớn thì có thể cất vào nơi khô ráo hàng tháng có khi vài năm vẫn không bị hư.
8. Gỏi cá Biên Hòa
Đóng đô ven cù lao Phố với các quán san
sát bờ sông Đồng Nai, gỏi cá Biên Hòa từ lâu đã trở thành món đặc sản
của vùng đất này. Chỉ đơn giản là đĩa thịt cá, nồi nước lèo kèm mớ rau
đủ loại, cộng với không gian đặc trưng của vùng đất cù lao đã trở thành
điểm hẹn của những ai thích đi tìm những món ngon dân dã.
Món gỏi cá ngon ở điểm nguồn nguyên liệu dễ tìm, luôn trong trạng thái tươi sống. Con cá còn bơi quẫy tung tăng trong hồ được vớt ra, với thao tác nhanh gọn, chính xác, đầu bếp cầm con dao bén ngót lát một đường dọc theo xương sống từ đuôi đến mang, lộn ngược má thịt ra ngoài, dùng một dụng cụ nạo từng thớ thịt cá mỏng dài chừng hai đốt ngón tay. Miếng thịt cá trắng tươi, nổi rõ từng lằn gân máu đỏ, ngay lập tức được trộn với hỗn hợp những gia vị quen thuộc như riềng, hành, tỏi, sả, thính, bao phủ một lớp mỏng bọc ngoài miếng thịt cá. Vừa giữ cho miếng cá không đổi mùi tanh, và có độ khô cần thiết tạo cảm giác an tâm khi có một lớp đủ thứ gia vị màu vàng ươm bao bọc, nhìn thôi đã đủ thèm ứa nước miếng.
9. Nấm mối Đồng Nai
Vào đầu mùa mưa là thời điểm đang rộ nấm
mối, về vùng Bình Sơn (huyện Long Thành) hay Thừa Đức (huyện Cẩm Mỹ) sẽ
thấy rất nhiều người đi tìm nấm mối. Muốn hái được nấm mối ngon phải
dùng đèn soi đi vào ban đêm vì thời tiết mát, dễ thu hoạch, còn ban ngày
gặp ánh sáng nấm nở thành tán, hái dễ bị vụn nát, giá không cao.
Một tổ nấm mối thường có trọng lượng từ 1-4 kg, vào những ngày rộ, dân Long Thành, Long Khánh, Cẩm Mỹ… có khi thu được hàng tấn nấm. Một số thương lái chuyên mua nấm mối cho biết, năm nay nấm mối ít, chỉ bằng một nửa những năm trước. Trước đây, nấm mối mọc nhiều trong vườn cây lâu năm, nhưng gần đây nhiều cây trồng bị sâu bệnh khiến cho nông dân phải thường xuyên phun thuốc bảo vệ thực vật, điều này đã ảnh hưởng đến môi trường đất nên nấm mọc ngày càng ít.
10. Cơm gà cá mặn
Ở các quán ăn vừa sang trọng vừa bình dân ở Đồng Nai
đều có món cơm gà cá mặn. Cơm được nấu trong nồi đất, được trộn lẫn các
gia vị như thịt gà, chà bông, cá mắm, nêm nếm sao cho vừa ăn.
Khi ăn, niêu cơm vẫn còn để trên bếp, lúc xới cơm hơi khói bay nghi ngút tỏa mùi thơm quyến rũ; cơm nấu càng cháy ăn càng ngon và đậm đà. Đãi khách bằng món cơm gà cá mặn vừa tiện, hấp dẫn lại ngon, thắt chặt thêm tình cảm thắm thiết giữ khách và chủ đặc biệt là sẽ nhớ Long Khánh với món cơm gà cá mặn.
Thanh Xuân
7 món đặc sản đậm đà dân dã của Đồng Nai
Nằm sát TP HCM, Đồng Nai từ lâu đã trở thành điểm
du lịch quen thuộc, một phần vì phong cảnh và một phần vì cả những món
ngon nơi đây.
Lẩu lá khổ qua rừng
Khá phổ biến ở Long Khánh, đây là loại lá khổ qua rừng rất đắng nhưng
có càng ăn lại càng thấy ngọt ngào, đậm đà dân dã. Là loại lá rừng, chỉ
mọc trong mùa mưa nhưng để đáp ứng nhu cầu ẩm thực của thực khách nhiều
hộ dân đã nhân được giống khổ qua rừng để trồng ở vườn nhà, đến nay thì
lá khổ qua rừng có quanh năm khi nào thực khách cần cũng đều có thể đáp
ứng được.
Lẩu lá khổ qua rừng nếu được nấu bằng cá trào cững (giống cá lóc con)
thì hợp khẩu vị hơn; nếu không thì nấu với sườn non, tôm khô cũng được.
Lá khổ qua được nhặt, rửa sạch để ráo trên đĩa, nồi nước đang sôi chỉ
cần nhúng một nắm lá vào lẩu vớt với ra ngay dùng liền, thì mới cảm được
vị ngon đặc trưng.
Nấm mối
Nấm mối chỉ mọc một lần trong năm, vào đầu mùa mưa khoảng dịp Tết Đoan
Ngọ (5/5 âm lịch). Nấm mối mọc trong vườn rẫy, nhiều nhất là trong rừng
lô cao su; những người sành nấm mối, chỉ nghe mưa là đoán ngay sẽ có nấm
mối, sáng hôm sau đi tìm, y như rằng tha hồ mà nhổ. Nấm mối không nên
rửa trước mà phải để khô, gọt cho sạch chân nấm cho hết đất, gọt xung
quanh đỉnh nấm vì sợ ngộ độc. Sau khi gọt sạch nấm được ngâm nước muối
rồi rửa sạch, để cho ráo nước là có thể đem xào nấu được, khi xào nên
chọn mỡ heo để xào mới ngon.
Nấm mối chỉ cần xào tỏi là tuyệt lắm rồi; nấm búp là nấm mới nhú khỏi
mặt đất xào ăn còn hấp dẫn hơn nhiều. Nấm mối còn được dùng để nấu cháo,
đổ bánh xèo đều ngon hết chỗ nói. Nấm mối ngon ngọt hơn cả thịt gà, có
hương vị lạ và quyến rũ. Nấm mối còn được gói bằng lá nghệ, lá chuối, lá
lốp đem nướng chấm muối tiêu chanh ngon tuyệt cú mèo. Mùi thơm của nấm
mối có sức quyến rũ lạ thường người nào may mắn ăn được một lần sẽ nhớ
mãi.
Canh chua lá giang
Long Khánh miền đông đất đỏ bazan lá giang mọc rất nhiều, nó thuộc họ
dây leo, thường mọc trong rừng cao su. Lá giang được nhặt kỹ, rửa sạch,
trước khi để ráo nhớ vò mạnh tay một tí cho lá hơi bị dập ra vị chua mới
đáo để và hấp dẫn.
Trên bếp đã chuẩn bị sẵn con gà luộc, nước luộc gà dùng để nấu canh lá
giang thì trên cả tuyệt vời; chỉ cần sử dụng một ít thịt đầu, cổ cánh,
chân và cả phao câu nững cho nồi canh thêm ngọt. Sau khi nêm nếm vừa
miệng ăn, nhớ bỏ thêm chút đường cát cho nó đậm đà, chua chua mà ngọt
ngọt mới bắt mồi (món này dân nhậu khoái chí lắm). Lá giang để ráo, nồi
nước vừa sôi sùng sục bỏ lá vào, khuấy đều để cho lá ngả màu vàng, nêm
lại một ít là được. Lúc này bộ lòng gà được phi hành mỡ xào lên, nêm nếm
cho vừa; nhắc nồi canh xuống đổ lòng gà vào nồi canh nghe một tiếng
xèo, béo ngậy, toả mùi thơm hấp dẫn giữa thịt gà lá giang, hành ngò, rau
quế. Cả nhà quây quần bên mâm cơm có tô canh chua gà lá giang, mải mê
ăn quên cả no.
Cơm gà cá mặn
Ở các quán ăn vừa sang trọng vừa bình dân như quán Bạn Tôi (Thích Quảng
Đức nối dài), Hương Việt (Cách mạng tháng Tám, phường Xuân An), Thanh
Mập (Nguyễn Văn Bé, phường Xuân Thanh), quán Tài Lộc (Thích Quảng Đức,
phường Xuân An), xuất hiện món cơm gà cá mặn và đã trở thành món ăn phổ
biến hấp dẫn như đặc trưng riêng của vùng đất Long Khánh.
Cơm được nấu trong nồi đất, được trộn lẫn các gia vị như thịt gà, chà
bông, cá mắm, nêm nếm sao cho vừa ăn. Khi ăn, niêu cơm vẫn còn để trên
bếp, lúc xới cơm hơi khói bay nghi ngút tỏa mùi thơm quyến rũ; cơm nấu
càng cháy ăn càng ngon và đậm đà. Đãi khách bằng món cơm gà cá mặn vừa
tiện, hấp dẫn lại ngon, thắt chặt thêm tình cảm thắm thiết giữ khách và
chủ.
Dế cơm chiên nước mắm
Dế cơm tuy là loại côn trùng, sống tự nhiên dưới hang nhưng là món ăn
dân dã xuất hiện từ rất lâu ở Long Khánh. Thường vào mùa mưa, bọn trẻ
thường đi đào dế cơm về cung cấp cho thực khách, dế cơm cũng có thể câu
bằng cách thả kiến nhọt xuống hang, lấp miệng hang lại khoảng vài phút
dế cơm bị kiến nhọt cắn, nhảy thót lên miệng hang tha hồ mà bắt.
Dế cơm chỉ cần nhặt sạch cánh, nhặt 2 chân sau (để đùi lại, 2 đùi dế
rất béo), móc ruột bỏ hết, xong nhét hột đậu phộng vào ruột, rồi ướp
nước mắm, nêm cho vừa ăn. Mắc chão dầu cho xôi, để dế vào chiên cho vàng
là được.
Dế cơm chiên nước mắm ăn vừa dòn, vừa đậm đà hương vị nước mắm, vừa béo
ngậy của dầu, béo thơm của đậu phộng mang đặc trưng món ăn dân dã miền
Đông Nam bộ. Ngoài ra dế cơm còn được những bà nội trợ lăn bột chiên bơ
để thêm một món đãi khách thì hết chỗ nói.
Trái ươi
Ươi là loại thân cây to, cao cả chục mét. Mỗi cây có thể cho từ 30 đến
50 kg trái tươi. Trái ươi tươi đem về phơi vài nắng, khô lại còn bằng
đầu ngón tay giữa của người lớn thì có thể cất vào nơi khô ráo hàng
tháng có khi vài năm vẫn không bị hư.
Trái ươi có đặc điểm đụng vào nước, nhất là nước ấm thì mau nở ra. Sau
khi bóc bỏ phần vỏ và hạt, thì trái ươi gần giống như mủ gòn. Nhiều
người thường trộn ươi với hạt é, bỏ thêm ít đường vào làm nước giải
khát. Già làng Năm Nổi cho biết, bà con đồng bào dân tộc Chơ-Ro ở Lý
Lịch cũng như cán bộ, chiến sĩ ở Chiến khu Đ trước đây nhiều người biết,
hạt ươi đem rang lên, xay ra hòa với nước uống trị nấc cụt và "tào tháo
rượt" dứt cơn nhanh chóng.
Trái ươi có khá nhiều ở rừng miền Đông mà tập trung nhất là ở rừng Cát
Tiên và Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu ngày nay. Giá mỗi kg tại chợ Lý
Lịch bình quân 10-15.000 đồng. Nhưng khi ra đến thị xã, thành phố, giá
ươi lên đến 50-70.000 đồng/kg. Hiện nay, tại một số quán giải khát và
các xe hàng đẩy rong trong TP Biên Hòa , TP HCM thì hạt ươi trở thành
món đắt hàng. Chẳng những thế, hạt ươi còn được một số nhà buôn ở Chợ
Lớn xuất khẩu sang Hong Kong, Đài Loan.
Gỏi cá Biên Hòa
Món gỏi cá ngon ở điểm nguồn nguyên liệu dễ tìm, luôn trong trạng thái
tươi sống. Con cá còn bơi quẫy tung tăng trong hồ được vớt ra, với thao
tác nhanh gọn, chính xác, đầu bếp cầm con dao bén xẻ một đường dọc theo
xương sống từ đuôi đến mang, lộn ngược má thịt ra ngoài, dùng một dụng
cụ nạo từng thớ thịt cá mỏng dài chừng hai đốt ngón tay. Miếng thịt cá
trắng tươi, nổi rõ từng lằn gân máu đỏ, ngay lập tức được trộn với hỗn
hợp những gia vị quen thuộc như riềng, hành, tỏi, sả, thính, bao phủ một
lớp mỏng bọc ngoài miếng thịt cá. Vừa giữ cho miếng cá không đổi mùi
tanh, và có độ khô cần thiết tạo cảm giác an tâm khi có một lớp đủ thứ
gia vị màu vàng ươm bao bọc, nhìn thôi đã đủ thèm ứa nước miếng.
Nhìn đĩa cá sống trộn gỏi, cái thèm mới đi được một nửa, thứ nâng món
gỏi cá lên hàng thương hiệu đặc sản này lại nằm ở nồi nước sốt. Một bếp
ga, một cái xoong nhỏ, trong đó là lưng lửng nước sốt sền sệt, nổi váng
mỡ vàng ươm điểm rải rác hạt mè, được chế biến từ thịt cá, gan cá, mỡ
cá, riềng, sả, hành tím để trên bếp sôi sủi bọt sùng sục, nhả khói thơm
nức mũi. Với tay bẻ miếng bánh đa, quẹt một đường vào nồi nước sốt để
nhấm nháp vị mặn mà, béo ngậy của gia vị, của thịt cá.
Các quán gỏi thường nằm ngay mé sông, khung cảnh mát mẻ, hữu tình. Các
quán ở đây kinh doanh theo mô hình gia đình, nhà ở ven sông, mở quán
phục vụ khách nên rất gần gũi, dân dã. Đường vào quán, nếu tính từ vòng
xoay Tam Hiệp, đi về trung tâm Biên Hòa, mất 2 km đến trụ sở phường Tân
Mai, bên hông có con hẻm nhỏ, cứ thẳng đó đi mãi qua cây cầu, qua bãi
tha ma, sẽ đến gỏi cá Biên Hòa nằm um tùm trong vườn cây lá. Với những
quán gỏi cá ở cù lao Phố, đường đi rộng rãi, dễ tìm hơn, nếu không biết
hướng chỉ cần hỏi ở đâu có gỏi cá Biên Hòa, những cư dân địa phương
nhiệt tình chỉ điểm đến nơi đến chốn.
Mimi tổng hợp
Nhận xét
Đăng nhận xét