MỌI MIỀN NƯỚC VIỆT 17(Đắk Nông)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tại Đắk Nông luôn là địa điểm được khách du lịch ưa thích với những hồ nước mênh mông, đó là một vẻ đẹp tự nhiên hiếm thấy ở những nơi khác. Không phải là quá hoang sơ như những cánh rừng già hay không quá ồn ào như những con thác. Hồ ở đây khoác cho mình một vẻ đẹp bình dị. Mặt hồ lăn lăn vài gợn sóng phối hợp với khung cảnh rừng cây xanh mướt của đồi núi. Bạn sẽ được trải nghiệm một cảm giác chèo thuyền giữa mặt hồ bao la, ngắm nhìn những cảnh núi rừng và được hít thở không khí trong lành, thưởng thức những cơn gió dịu nhẹ của rừng núi. Ở Đắk Nông có 3 hồ nổi tiếng là hồ Ea Snô, hồ Tây và hồ Trúc.
Tại Với những khách du lịch thích khám phá trải nghiệm những điều mới lạ, hay thích phiêu lưu trong bạc ngàn của rừng cây thì lựa chọn đến với thác Đắk Nông là một lựa chọn hết sức lý tưởng. Bạn sẽ được khám phá một hệ sinh thái vô cùng đa dạng quanh thác nước. Thác nước nằm ẩn mình bên những tán cây tạo nên một vẻ đẹp kì vĩ.
Ngoài vẻ đẹp của thác nước thì cánh rừng cũng là một lựa chọn khác cho những người thích sự mạo hiểm. Đến với khu rừng Đắk Nông bạn sẽ tìm hiểu về một hệ sinh thái vô cùng phong phú và đa dạng gồm những loài động vật quý hiếm đang tồn tại ở nơi đây. Khu du lịch sinh thái – văn hoá và lịch sử Nậm Nung sẽ hội tự đủ những yếu tố bạn cần.
Vẫn còn nhiều con thác đẹp khác vẫn tồn tại giữa núi rừng Đắk Nông như là thác Dray Sáp, Thác Gia Long, Thác Trinh Nữ,… Mỗi con thác là mỗi nét đẹp riêng góp phần tạo nên bức tranh tuyệt hảo của núi rừng Đắk Nông.
Một địa điểm khác mà khách du lịch thích thú khi đến với Đắk Nông đó là khu du lịch Tà Đùng. Đây là khu du lịch với diện tích 22 103 ha và có nhiều loại động thực vật quý hiếm đang được bảo vệ trong khu rừng này. Không chỉ thu hút vẻ đẹp của cảnh quang thiên nhiên hoang sơ mà khu du lịch Tà Đùng còn là một địa điểm hấp dẫn để tham quan tìm hiểu về khoa học.
Cũng giống như Đắk Lắk, Đắk Nông cũng có những nếp nhà dài, nhà sàn của người dân tộc thiểu số. Đây là nét kiến trúc luôn thu hút du khách đến với tham quan miền núi rừng Tây Nguyên. Những căn nhà ở đây được làm với chất liệu là gỗ đậm nét cổ kính của người dân tộc thiểu số và luôn mang lại cho người ở một cảm giác dễ chịu trong thời gian nghỉ ngơi lại đây.
Ngoài ra ở Đắk Nông còn có nhiều nét văn hoá không thể không có trong đời sống tâm linh của người con nơi núi rừng. Lễ hội là dịp để con cháu tụ họp và tưởng nhớ đến tổ tiên và thần linh ở trên cao. Có một số lễ hội như là lễ cúng mừng sức khoẻ, lễ hội đua voi, lễ cúng mừng lúa mới,…
Những đặc sản nổi tiếng như cà phê Đức
Lập, khoai lang Tuy Đức, trái cây Đắk Glong, cá lăng sông Sêrêpốk, canh
thụt đọt mây… mà du khách không nên bỏ lỡ khi có dịp đặt chân đến Đắc
Nông.
1. Cà phê Đức Lập
Đức Lập là tên cũ của huyện lỵ Đắk Mil,
một địa phương có đất đai, thổ nhưỡng rất phù hợp với cây cà phê. Hiện
nay, Đắk Mil có diện tích cà phê lớn nhất của tỉnh. Do thuận lợi về tự
nhiên; mặt khác, người dân địa phương đã có kinh nghiệm chăm sóc, thu
hoạch, sơ chế… nên hạt cà phê Đắk Mil có chất lượng cao.
Thời gian qua, ngoài việc cung cấp nguồn nguyên liệu xuất khẩu, một số đơn vị đã đầu tư sản xuất cà phê bột mang thương hiệu Cà phê Đức Lập đã tạo ra dấu ấn riêng trên thị trường.
2. Khoai lang Tuy Đức
Nhiều năm nay, người tiêu dùng đã biết
đến khoai lang Tuy Đức. Xuất xứ của sản phẩm này là từ những năm đầu mới
thành lập tỉnh, người dân xã Đắk Búk So (huyện Đắk R’lấp nay thuộc địa
bàn huyện Tuy Đức) đã đưa giống khoai lang Benzen có nguồn gốc từ Nhật
Bản về trồng.
Do phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu nên
khoai lang ở Tuy Đức đạt năng suất cao, mang hương vị đặc trưng riêng:
thơm ngon, bùi, ngọt, hàm lượng tinh bột và dinh dưỡng cao; được người
tiêu dùng ưa chuộng, nhiều doanh nghiệp thu mua để sản xuất ra các mặt
hàng như bánh, mứt, kẹo… và xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Nhật,
Trung Quốc, Singapore, Malaysia.
3. Trái cây Đắk Glong
Đắk Glong là địa phương có nhiều trang
trại trồng cây ăn trái như cam, quýt, bơ, thanh long ruột đỏ, dưa,
chuối… Theo thống kê, hiện toàn huyện đã có khoảng 1.000 ha cây ăn trái
mang lại nguồn lợi lớn cho người dân. Những năm gần đây, nhiều người dân
huyện Đắk Glong đã đưa giống ổi ứng dụng công nghệ cao vào trồng.
Đây là giống “ổi siêu sạch” với nhiều khâu chăm sóc cây được tiến hành một cách chặt chẽ đúng quy trình kỹ thuật, nhất là đảm bảo cách ly một cách tốt nhất với các loại thuốc như trừ sâu, bón lá… Khi trái ổi lớn bằng ngón chân cái, đã được bọc bằng bao xốp và bao ni lông để tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tránh thuốc trừ sâu, thuốc cỏ, côn trùng hại quả… Nhờ thích hợp với thổ nhưỡng, khí hậu vùng đất Đắk Glong nên ổi phát triển tốt, trái bóng đẹp, giòn, ngọt dịu và cho trái quanh năm.
4. Rượu cần
Bất kể lễ hội, lễ tết nào trong năm,
người Tây Nguyên nói chung và người dân Đắk Nông nói riêng đều quây quần
bên nhau bên ché rượu cần, say điệu cồng chiêng và nhảy múa dưới ánh
lửa bập bùng. Rượu được cho một sản vật được Trời (Yang) sai thần linh
mách bảo con người làm ra để cúng tế.
Người Tây Nguyên uống rượu bằng cần và chụm nhau vào uống chung trong một ché rượu mà không sợ mất vệ sinh. Cách làm ra loại rượu đặc trưng này cũng rất đơn giản. Người ta chỉ việc cho men vào cơm và ủ trong ché rượu trong khoảng 5-6 ngày thì thành rượu cần. Song cũng có những người thích hạ thổ đến hàng năm mới đem ra uống. Ở nhiều vùng khác nhau rượu cần còn có nhiều phiên bản khác như rượu kê, bo bo, mì, bắp…
5. Cá lăng sông Sêrêpốk
Sông Sêrêpốk chảy qua địa bàn huyện Krông
Nô, Chư Jút là “xứ sở” của loài cá lăng đuôi đỏ. Đây là loài cá da trơn
sinh sống ở nhiều nơi, nhưng có lẽ với môi trường sinh thái sông
Sêrêpốk “đặc biệt” hơn, nên cá lăng ở đây có số lượng nhiều hơn, chất
lượng cao hơn.
Cá lăng đuôi đỏ có thể làm được nhiều món ăn như nướng, om, làm chả, hấp, xào tỏi hay nấu cháo… món nào cũng ngon vì thịt cá lăng béo, có vị ngọt, giàu dinh dưỡng. Hiện nay, ngoài đánh bắt cá tự nhiên, người dân Chư Jút đã tổ chức nuôi theo phương thức lồng, bè để tạo ra sản phẩm hàng hóa.
6. Cơm lam
Trong miếng cơm lam, người ta có thể cảm
nhận đầy đủ vị ngọt thơm của gạo dẻo lẫn trong mùi nứa nướng nồng hương.
Mặc dầu được làm từ loại gạo dẻo hoặc gạo nếp nhưng khi dùng cơm lam,
người ăn không hề biết ngán và dù có kèm với những món ăn khác như gà
nướng, bò nướng thì mùi cơm lam vẫn không thể lẫn vào đâu được.
Để làm ra cơm lam, người ta đem ngâm gạo với một loại lá thơm qua đêm. Khi đem ra nướng, người ta cho gạo vào khoảng 2/3 ống nứa và cho nước suối vào. Để nút lại hai đầu, họ dùng lá chuối heo héo bịt lại ở hai đầu. Khi những ống nứa nổ tí tách bên lò than cũng là lúc những hạt gạo nở dần ra, bện lại với nhau thành khối kết dính chặt như nêm.
7. Canh thụt đọt mây
Đây là món ăn đặc sản của người M’nông,
Mạ, phổ biến ở vùng phía nam tỉnh như Đắk R’lấp, Tuy Đức, Đắk Glong, Đắk
Song, thị xã Gia Nghĩa, để đãi bạn bè, khách quý và dùng trong các lễ
hội. Ngoài đọt mây, nguyên liệu nấu canh thụt còn gồm rau nhíp, măng,
thịt hoặc cá suối, ít con mối và vài con dế dũi…
Tất cả nguyên liệu được cho vào ống lồ ô tươi, bịt kín đầu. Khi nấu, ống lồ ô phải để nghiêng trên lửa và quay tròn cho canh chín đều. Khi nấu vừa chín tới, người ta thường lấy đoạn dây mây có gai đâm vào trong ống cho các nguyên liệu nhừ nát, hòa quyện vào nhau. Khi đó, muối, ớt được bỏ vào, thụt đều, có thể bỏ thêm một ít rau thơm. Theo một số người thì món này có thể ví như một loại “thực phẩm chức năng” hỗ trợ đắc lực cho hệ tiêu hóa, tuần hoàn, bài tiết của người dùng.
8. Cà đắng
Cà đắng vốn là loại cà mọc dại. Sau được
người dân đem về trồng và tạo ra một giống cà đắng ít đắng hơn. Cà có
quả thon dài, trái có vằn dọc trắng xanh như trái dưa. Vị cà đắng đăng
đắng như khổ qua rừng rất hấp dẫn. Người trong buôn thường dùng cà để
nấu canh, kho cá khô hoặc kho tép. Món ăn nào cũng đặc trưng vị đắng, vị
cay khiến ai ăn một lần cũng muốn dùng nữa.
9. Măng chua rừng
Trong những miếng ngon của rừng, măng
chua cũng là một món ăn khoái khẩu của đồng bào dân tộc. Măng tươi giã
dập với ớt rồi đem ủ trong chộ sành, khoảng hai tuần sau, măng chua đến
độ vừa dùng. Miếng măng giòn tan, cả nước lẫn cái đều có vị chua, cay,
đắng, ngọt. Măng chua nấu với cá trê, măng chua nấu gà khiến bạn ăn quên
no…
10. Lẩu lá rừng
Đến với Tây Nguyên đại ngàn, ngoài thắng
cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người thân thiện chắc chắn bạn sẽ còn cảm
nhận được Tây Nguyên qua những chiếc lá. Mỗi loại lá đều được lựa chọn
rất nghiêm ngặt, điều quan trọng nhất là chúng không có độc tố, không
phản ứng lẫn nhau. Lẩu lá rừng chính là kinh nghiệm từ ngàn đời của đồng
bào dân tộc bản địa được đúc kết. Mỗi loại lá đều chứa đựng trong mình
những chất dinh dưỡng đặc biệt, có tác dụng tốt đối với sức khoẻ.
Cùng với các loại lá thì mắm thịt và nem thính được cuốn vào lá, vị cay cay nồng của lá tươi cộng với vị đậm của mắm thịt, vị khô của nem thính cho ta nhiều cảm giác rất lạ.
Đắk Nông
Tỉnh của Việt Nam
Đắk
Nông hay Đắc Nông là một tỉnh ở Tây Nguyên Việt Nam. Tỉnh Đắk Nông được
tái lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004, theo Nghị quyết số 23/2003/QH11
ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách
tỉnh Đăk Lăk thành 2 tỉnh mới là ... Wikipedia
Diện tích: 2.516 mi²
Dân số: 571.300 (2014)
ĐAK NÔNG – 13 THÁC NƯỚC GIỮA ĐẠI NGÀN
Ảnh: Những hang động khuyết sâu vào lòng núi trong khu vực thác Đak G’lun |
Trước khi tách ra từ tỉnh Đaklak
vào năm 2004, vùng Gia Nghĩa – Đak Nông trong cái nhìn của người làm du
lịch chỉ là điểm trung chuyển, dừng chân trên Quốc lộ 14 nhằm để khách
thư giãn sau chặng đường dài mệt mỏi, hoặc mua bơ sáp, măng khô đặc sản
Tây Nguyên .., rồi tiếp tục ngược xuôi lên Ban Mê Thuột hoặc trở về
TPHCM, còn du lịch thì e rằng khó phát triển, bởi lẽ chẳng có thắng cảnh
nào nổi tiếng ngoài thác Diệu Thanh vốn nằm khuất nẻo và đường xuống
thác đã hư hỏng nặng. Thế nhưng, bây giờ trở lại Đak Nông, chúng tôi
không khỏi bất ngờ khi tham gia chuyến điền dã và chiêm ngưỡng 13 thác
gềnh giữa đại ngàn, mới được Ngành Du lịch Đak Nông phát hiện cách đây
không lâu
Giữa
trưa, chúng tôi đặt chân tới đầu nguồn thác Đak G’lun nằm trong địa
phận huyện biên giới Tuy Đức trên độ cao 728 mét so với mặt biển và cách
ngã ba Kiến Đức 35 km hướng Tây Bắc nếu đi trên tỉnh lộ 681. Theo lối
mòn xuống thác chúng tôi xuyên qua nhiều địa hình: vạt rừng Bằng Lăng
với thân cây thẳng ngọn, những vách đá dựng đứng rễ cây cổ thụ bám đầy
tựa những con trăn trườn mình bò ngổn ngang, thỉnh thoảng phải men theo
con đường khuyết sâu vào lòng núi giống hang chân sóng nối liền hai
động đá rộng lớn theo dạng hàm ếch trông rất ngoạn mục. Bất ngờ xuất
hiện dưới tán lá rừng luồng nước khổng lồ tung mình trên độ cao hơn 50
mét đổ xuống ầm ì rung chuyển cả một góc rừng và phía chân thác ẩn hiện
trong bụi nước bắn ra là sắc cầu vồng lung linh, huyền ảo. Cảnh vật
thác Đak G’lun đẹp hoang dã như chuyện cổ tích , xứng danh “ Người đẹp giữa Đại ngàn” mà người M’Nông đã đặt tên.
Ảnh: Nghệ nhân đánh công chiêng hầu hết là nữ giới là điều hiếm thấy ở Tây Nguyên
Đêm ở Bon J’riêng – Gia Nghĩa thơm mùi
nếp mới và thịt nướng từ ngôi nhà làng, còn ở phía trước sân, đống lửa
bắt đầu cháy bùng lên sau khi già làng hoàn tất phần nghi thức mở hội
trong tiếng cồng tiếng chiêng rộn rã, trầm hùng. Những bài nhạc cồng
chiêng đón khách chúc sức khỏe, mừng lúa mới, mừng chiến thắng lần lượt
được diễn tấu làm nền cho vòng xoang gồm 40 con người mấy thế hệ trong
trang phục M’Nông đã làm sống lại đêm hội cồng chiêng thuở nào. Một điểm
đặc sắc ở Bon J’riêng nghệ nhân đánh cồng chiêng chiếm phần đông là nữ
giới, điều mà chúng tôi chưa hề thấy ở Tây Nguyên. Theo ông K’Bốt Phê
Pul – Trưởng ban Dân tộc tỉnh Đak Nông “Cồng chiêng không do các dân tộc
Tây Nguyên tự làm ra, mà mua hoặc đổi theo dạng hàng hóa từ nơi khác
mang đến, tuy nhiên nó cũng phải qua quá trình được các nghệ nhân bản
địa gò lại, chỉnh âm mới trở thành nhạc cụ. Hiện nay dân tộc M’Nông sống
ở Đak Nông bảo lưu gần 20 bài nhạc cồng chiêng phục vụ nghi lễ: Mừng
lúa mới, Lễ đâm trâu, tang lễ bỏ mả, Mừng chiến thắng, Mừng nhà mới, Lễ
cầu an, chúc sức khỏe… và tùy nghi lễ bài cồng chiêng sẽ diễn tấu âm
điệu khác nhau …. Sinh hoạt văn hóa cồng chiêng dân tộc M’Nông là hoạt
động cộng đồng không phân biệt giới tính, tuổi tác và xem trọng vấn đề
thừa kế nhằm giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống”
Ảnh: Thác Liêng Nung hùng vỹ, hoang dã giữa lòng thị xã Gia Nghĩa
Liêng Nung - dòng thác giữa lòng thị xã,
tọa lạc trên Quốc lộ 28, cách Gia Nghĩa chưa tới 10 km và nổi tiếng
hùng vĩ với 2 cột nước chảy xối xả trên vòm đá cao 30 mét tung bọt trắng
xóa và bụi nước mù mịt cả một vùng. Còn nữa, dưới chân thác thân cây
trôi dạt, chung quanh thác chưa có dấu hiệu can thiệp của con người nên
vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy. Đây được xem là nơi thu hút dân săn ảnh
bởi chụp góc độ nào cũng đẹp, cũng lột tả được cái hồn thiên nhiên
hoang dã.
Len Gun - cái tên cụm thác nước nằm
trong vùng lõi Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Nung huyện Đak Song, cách
thị xã Gia Nghĩa 48 km vốn là nơi thâm sơn cùng cốc nên ít người biết
đến thậm chí những anh Kiểm Lâm viên cũng thú nhận chỉ mới đặt chân tới 3
hoặc 4 thác là cùng. Và muốn khám phá cụm thác này, bắt buộc khách
phải sử dụng xe mô tô kết hợp đi bộ xuyên rừng với tổng chiều dài 18 km
dưới sự hướng dẫn của kiểm lâm. Cũng may gặp tổ Kiểm lâm cắm chốt tốt
bụng vừa nhiệt tình dẫn đường lại cho chúng tôi mượn xe để tự lái.
Ảnh: Tác giả bên thác Lưu Ly, nằm giữa vùng đệm Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam Nung
Đó là một buổi trưa đầy nắng vàng phủ
khắp núi rừng mênh mông và cô tịch, chúng tôi gồm 8 người ngồi trên 4 xe
mô tô lần lượt trước sau theo con đường đất hướng vào Khu Bảo tồn Thiên
nhiên Nam Nung, mà theo Giám đốc Nguyễn Công Cẩn có diện tích vùng lõi
là 12.307 hecta và mặc dù chiếm đa số là rừng đặc dụng, nhưng chưa bị
tác động bởi con người hay thiên tai. Ngay đây người ta phát hiện dấu
chân của nhiều động vật quý hiếm như Voi, Hổ, Bò Tót, Beo lửa và hàng
trăm loài chim thú khác... Đi chưa được bao lâu, thì gặp nhiều đoạn
đường lầy lội, ổ gà ổ voi chằng chịt hoặc đắp mô xóc lộn gan lộn ruột,
hậu quả của xe công vụ qua lại cầy xới. Cũng không ít nơi cây đổ ngổn
ngang, đường trơn trượt như mỡ khiến các xe liên tục bị té ngã. Lúc này
mới hiểu tại sao anh em kiểm lâm toàn phải sử dụng xe gắn máy để tuần
tra.
Sau gần hai giờ đồng hồ mệt “bở hơi tai” vì đánh vật với con đường đầy
gian khổ, chúng tôi dừng chân bên cánh rừng già rậm rạp và đâu đây văng
vẳng tiếng thác đổ ầm ì. Tiếp tục luồn rừng trên 2 con dốc dựng đứng
dưới tán cây bằng lăng và tre nứa “tranh tối tranh sáng”. Cuối cùng
chúng tôi cũng đặt chân tới thác đầu nguồn hay gọi là thác Cả trong cụm
bảy tầng nước chảy trắng xóa. Thật ra thác Cả không cao lại không đồ sộ
như chúng tôi đã tưởng tượng nhưng nếu nhìn về hạ nguồn có thể thấy cả
một vùng hẽm núi mênh mông xa tít, ghềnh đá nhấp nhô, những vực sâu gẩy
khúc đang ẩn hiện trong bụi nước như sương như khói mới cảm giác thác
hùng vĩ dường nào. Người ta kể, thác Len Gun dàn thành 7 tầng trên chiều
dài 1 cây số và chêch lệch độ cao từ đỉnh thác cả đến chân thác cuối
cùng khoảng 350 mét.
13 thác nước giữa đại ngàn, những Khu
Bảo tồn Thiên nhiên được cố kết trong một không gian văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc, tỉnh Đak Nông vốn có rất nhiều lợi thế để phát triển
loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, văn hóa .. Tuy nhiên, Ngành Du
lịch địa phương cần phải đầu tư thêm về cơ sở hạ tầng đặc biệt về đường
xá giao thông, điển hình như đường vào Khu Bảo tồn Thiên nhiên Nam
Nung. Bên cạnh đó, xây dựng đường bậc thang, hàng rào bảo hiểm nhằm tạo
điều kiện cho du khách đến thăm đồng thời đảm bảo sự an toàn. Chưa hết,
cần… tuyên truyền cho người dân tham gia bảo vệ mội trường nhằm hưởng
lợi từ du lịch, giảm bớt đói nghèo. Đó cũng là con đường đúng đắn để
phát triển du lịch bền vững.
TTD
Công ty Du lịch Thế Hệ Trẻ TP. HCM
Danh lam thắng cảnh ở Đắk Nông - giữ chân du khách với núi rừng
Cũng như bao vùng cao nguyên khác của Tây Nguyên, Đắk Nông là một địa điểm thu hút du khách bởi nét hoàng sơ của núi rừng, những hồ nước trong xanh giữa chốn đại ngàn xanh và những hồ thác lớn. Có những buôn làng đan xen cư ngụ giữa núi rừng
Cũng như bao vùng cao nguyên khác của Tây Nguyên, Đắk Nông là một địa điểm thu hút du khách bởi nét hoàng sơ của núi rừng, những hồ nước trong xanh giữa chốn đại ngàn xanh và những hồ thác lớn. Có những buôn làng đan xen cư ngụ giữa núi rừng. Tới đây khách du lịch có thể lựa chọn cho minh nhiều chuyến đi cùng một lúc như chuyến du lịch cộng đồng, chuyến du lịch văn hoá, du lịch sinh thái. Tất cả đều sẽ là những trải nghiệm tuyệt vời cho chuyến du lịch Đắk Nông của bạn.Tại Đắk Nông luôn là địa điểm được khách du lịch ưa thích với những hồ nước mênh mông, đó là một vẻ đẹp tự nhiên hiếm thấy ở những nơi khác. Không phải là quá hoang sơ như những cánh rừng già hay không quá ồn ào như những con thác. Hồ ở đây khoác cho mình một vẻ đẹp bình dị. Mặt hồ lăn lăn vài gợn sóng phối hợp với khung cảnh rừng cây xanh mướt của đồi núi. Bạn sẽ được trải nghiệm một cảm giác chèo thuyền giữa mặt hồ bao la, ngắm nhìn những cảnh núi rừng và được hít thở không khí trong lành, thưởng thức những cơn gió dịu nhẹ của rừng núi. Ở Đắk Nông có 3 hồ nổi tiếng là hồ Ea Snô, hồ Tây và hồ Trúc.
Tại Với những khách du lịch thích khám phá trải nghiệm những điều mới lạ, hay thích phiêu lưu trong bạc ngàn của rừng cây thì lựa chọn đến với thác Đắk Nông là một lựa chọn hết sức lý tưởng. Bạn sẽ được khám phá một hệ sinh thái vô cùng đa dạng quanh thác nước. Thác nước nằm ẩn mình bên những tán cây tạo nên một vẻ đẹp kì vĩ.
Ngoài vẻ đẹp của thác nước thì cánh rừng cũng là một lựa chọn khác cho những người thích sự mạo hiểm. Đến với khu rừng Đắk Nông bạn sẽ tìm hiểu về một hệ sinh thái vô cùng phong phú và đa dạng gồm những loài động vật quý hiếm đang tồn tại ở nơi đây. Khu du lịch sinh thái – văn hoá và lịch sử Nậm Nung sẽ hội tự đủ những yếu tố bạn cần.
Vẫn còn nhiều con thác đẹp khác vẫn tồn tại giữa núi rừng Đắk Nông như là thác Dray Sáp, Thác Gia Long, Thác Trinh Nữ,… Mỗi con thác là mỗi nét đẹp riêng góp phần tạo nên bức tranh tuyệt hảo của núi rừng Đắk Nông.
Một địa điểm khác mà khách du lịch thích thú khi đến với Đắk Nông đó là khu du lịch Tà Đùng. Đây là khu du lịch với diện tích 22 103 ha và có nhiều loại động thực vật quý hiếm đang được bảo vệ trong khu rừng này. Không chỉ thu hút vẻ đẹp của cảnh quang thiên nhiên hoang sơ mà khu du lịch Tà Đùng còn là một địa điểm hấp dẫn để tham quan tìm hiểu về khoa học.
Cũng giống như Đắk Lắk, Đắk Nông cũng có những nếp nhà dài, nhà sàn của người dân tộc thiểu số. Đây là nét kiến trúc luôn thu hút du khách đến với tham quan miền núi rừng Tây Nguyên. Những căn nhà ở đây được làm với chất liệu là gỗ đậm nét cổ kính của người dân tộc thiểu số và luôn mang lại cho người ở một cảm giác dễ chịu trong thời gian nghỉ ngơi lại đây.
Ngoài ra ở Đắk Nông còn có nhiều nét văn hoá không thể không có trong đời sống tâm linh của người con nơi núi rừng. Lễ hội là dịp để con cháu tụ họp và tưởng nhớ đến tổ tiên và thần linh ở trên cao. Có một số lễ hội như là lễ cúng mừng sức khoẻ, lễ hội đua voi, lễ cúng mừng lúa mới,…
Văn hóa dân gian người M'Nông ở Đắk Nông
Đắk Nông là vùng đất hội tụ và giao thoa nhiều vùng văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Nơi đây còn lưu trữ nhiều nét văn hoá đặc trưng thể hiện qua các lễ hội gắn với đời sống tâm linh của người dân như là sinh hoạt cồng chiêng, sử thi, văn hoá ẩm thực, các điệu múa dân gian truyền thống,…
Sự
hình thành của cộng đồng đã tạo cho Đắk Nông nhiều loại văn hoá truyền
thống có giá trị. Qua nhiều di chỉ được khai quật thì các nhà khảo cổ
học đã tìm ra được nhiều dụng cụ dùng để lao động như cuốc nhỏ chân dài,
rìu, bôn,…Các dấu tích của trước đây đã cho thấy đời sống sinh hoạt văn
hoá của người xưa. Từ đó chúng ta thấy rằng đời sống tinh thần rất
phong phú và đa dạng như là âm nhạc, trang sức, nghệ thuật trình diễn,…
Bên cạnh đó thì hệ thống lễ nghi phục vụ cho đời sống tâm linh như là lễ mừng lúa mới, lễ hội mừng mùa, lễ hội ăn cơm mới, lễ hội kết nghĩa,…. Đồng thời người dân ở đây còn sở hữu một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất đa dạng như là truyện cổ, cao dao, tục ngữ,…
Không gian văn hoá cồng chiên Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là một di sản văn hoá phi vật thể vào năm 2005. Người dân Tây Nguyên nói chung và người Đắk Nông nói riêng đã tạo nên một giá trị di sản nhân loại đó. Chỉ có đời sống của con người gắn với núi rừng, dòng sông, với ngôi nhà dài và chiếc cồng, chiếc chiêng,… thì mới làm nên được sự hấp dẫn riêng cho không gia văn hoá của Tây Nguyên.
Cồng chiêng và nghệ thuật biễu diễn cồng chiêng là một trong những nét văn hoá gắn liền với đời sống tín ngưỡng và tinh thần của người dân vùng cao. Nó được thể hiện qua các nghi thức như là ẩm thực dân gian, lễ hội,… Cồng chiêng là một loại nhạc cụ với khả năng trình diễn phải độc lập và có kết hợp với các loại nhạc cụ khác không thể thiếu trong các mùa lễ hội như quy mô nhỏ một gia đình cũng như cả cộng đồng. Đặc điểm rất nổi bật của dàn cồng chiêng này là sự kết hợp kinh hoạt giữa những tiết tấu là những âm thanh của núi rừng của tiếng suối, tiếng thác chảy và tâm hồn của người M’nông.
Đồng bào M’nông có dàn cồng chiêng để cầu xin và giã bày với thần linh cũng như ứng xử với thiên nhiên, núi rừng. Đó cũng là của cải vật chất để phân biệt giữa người nghèo và kẻ giàu, là sức mạnh vô hình được người khác kính trọng.
Mỗi tộc người của vùng Tây Nguyên có mỗi cách đánh khác nhau để phân biệt giữa các dân tộc. Âm thanh của tiếng cồng mang đến cho người nghe nhiều cảm xúc rạo rực khiến mọi người tìm đến với nhau để chung vui.
Vào những ngày lễ hội với những vòng nhảy múa quanh đóng lửa và bình rượu cần, hoà với không gian ấy là tiếng cồng chiêng vang vọng khắp núi rừng.
Trong kho tàng văn học và văn hoá của Việt Nam thì sử thi của người M’nông có một giá trị văn hoá hết sức đặc biệt. Đó là một món ăn tinh thần không thể thiếu và còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Sử thi M’nông được tạo từ hàng trăm câu văn có vần điệu và là một thể loại văn học truyền miệng có những câu chuyện mang đầm tính chất thần thoại về các hiện tượng của tự nhiên và những nhân vật lịch sử.
Hát và kể sử thi trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’nông. Có người nghệ nhân có thể nhớ đến hàng vạn câu sử thi, học còn có giọng hát hay và tiết tấu độc đáo để lưu truyền cho tới ngày nay.
Nghệ thuật hát kể sử thi rất thu hút khách du lịch đến nghe, đặc biệt vào mùa lễ hội. Tuy chưa có định hình rõ ràng nhưng nó có một ẩm hưởng và làn điệu mượt mà gắn liền với đời sống hằng ngày.
Nhạc cụ của người M’nông rất độc đáo về âm điệu cả chức năng. Âm nhạc là một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt cũng như lao động của người dân hằng ngày. Các nhạc cụ được làm bằng gỗ, tre nứa, sừng, vỏ bầu, đá,… Du làm bằng vật liệu gì nhưng những nhạc cụ ở đây rất là độc đáo. Họ dựa vào đôi ta để xác định được độ trầm bỗng của từng loại nhạc cụ. Mỗi loại nhạc cụ lại đi kèm với một câu chuyện và một hoàn cảnh khác nhau. Có loại thì dùng ở nương rẫy, có loại thì đánh trong lễ hội hoặc có loại chỉ dùng để bày tỏ tình yêu đôi lứa, có loại xua đuổi thú rừng, có loại lại dùng để giải trí,…
Đắk Nông là vùng đất hội tụ và giao thoa giữ nhiều nền văn hoá cả về vật chất lẫn tinh thần. Các lễ hội vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay như là lễ hội mừng lúa mới, lễ hội rượu cần, lễ hội trưởng thành,… Lễ hội đã tạo nên niềm hứng khởi và náo nức của con người và sức lan toả trong cộng đồng. Với quan niệm là vạn vật hữu linh thì đồng bào M’nông lại có những nghi lễ như là lễ vòng đời hay lễ nông nghiệp. Thông qua lễ hội đó để người dân tộc M’nông cầu xin lên Yàng mang lại những điều tốt lành cho buôn làng. Tất cả đều tạo nên nhiều nét văn hoá truyền thống truyền lại từ ông cha ngày xưa với núi rừng Tây Nguyên
Bên cạnh đó thì hệ thống lễ nghi phục vụ cho đời sống tâm linh như là lễ mừng lúa mới, lễ hội mừng mùa, lễ hội ăn cơm mới, lễ hội kết nghĩa,…. Đồng thời người dân ở đây còn sở hữu một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất đa dạng như là truyện cổ, cao dao, tục ngữ,…
Không gian văn hoá cồng chiên Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là một di sản văn hoá phi vật thể vào năm 2005. Người dân Tây Nguyên nói chung và người Đắk Nông nói riêng đã tạo nên một giá trị di sản nhân loại đó. Chỉ có đời sống của con người gắn với núi rừng, dòng sông, với ngôi nhà dài và chiếc cồng, chiếc chiêng,… thì mới làm nên được sự hấp dẫn riêng cho không gia văn hoá của Tây Nguyên.
Cồng chiêng và nghệ thuật biễu diễn cồng chiêng là một trong những nét văn hoá gắn liền với đời sống tín ngưỡng và tinh thần của người dân vùng cao. Nó được thể hiện qua các nghi thức như là ẩm thực dân gian, lễ hội,… Cồng chiêng là một loại nhạc cụ với khả năng trình diễn phải độc lập và có kết hợp với các loại nhạc cụ khác không thể thiếu trong các mùa lễ hội như quy mô nhỏ một gia đình cũng như cả cộng đồng. Đặc điểm rất nổi bật của dàn cồng chiêng này là sự kết hợp kinh hoạt giữa những tiết tấu là những âm thanh của núi rừng của tiếng suối, tiếng thác chảy và tâm hồn của người M’nông.
Đồng bào M’nông có dàn cồng chiêng để cầu xin và giã bày với thần linh cũng như ứng xử với thiên nhiên, núi rừng. Đó cũng là của cải vật chất để phân biệt giữa người nghèo và kẻ giàu, là sức mạnh vô hình được người khác kính trọng.
Mỗi tộc người của vùng Tây Nguyên có mỗi cách đánh khác nhau để phân biệt giữa các dân tộc. Âm thanh của tiếng cồng mang đến cho người nghe nhiều cảm xúc rạo rực khiến mọi người tìm đến với nhau để chung vui.
Vào những ngày lễ hội với những vòng nhảy múa quanh đóng lửa và bình rượu cần, hoà với không gian ấy là tiếng cồng chiêng vang vọng khắp núi rừng.
Trong kho tàng văn học và văn hoá của Việt Nam thì sử thi của người M’nông có một giá trị văn hoá hết sức đặc biệt. Đó là một món ăn tinh thần không thể thiếu và còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Sử thi M’nông được tạo từ hàng trăm câu văn có vần điệu và là một thể loại văn học truyền miệng có những câu chuyện mang đầm tính chất thần thoại về các hiện tượng của tự nhiên và những nhân vật lịch sử.
Hát và kể sử thi trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’nông. Có người nghệ nhân có thể nhớ đến hàng vạn câu sử thi, học còn có giọng hát hay và tiết tấu độc đáo để lưu truyền cho tới ngày nay.
Nghệ thuật hát kể sử thi rất thu hút khách du lịch đến nghe, đặc biệt vào mùa lễ hội. Tuy chưa có định hình rõ ràng nhưng nó có một ẩm hưởng và làn điệu mượt mà gắn liền với đời sống hằng ngày.
Nhạc cụ của người M’nông rất độc đáo về âm điệu cả chức năng. Âm nhạc là một phần không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt cũng như lao động của người dân hằng ngày. Các nhạc cụ được làm bằng gỗ, tre nứa, sừng, vỏ bầu, đá,… Du làm bằng vật liệu gì nhưng những nhạc cụ ở đây rất là độc đáo. Họ dựa vào đôi ta để xác định được độ trầm bỗng của từng loại nhạc cụ. Mỗi loại nhạc cụ lại đi kèm với một câu chuyện và một hoàn cảnh khác nhau. Có loại thì dùng ở nương rẫy, có loại thì đánh trong lễ hội hoặc có loại chỉ dùng để bày tỏ tình yêu đôi lứa, có loại xua đuổi thú rừng, có loại lại dùng để giải trí,…
Đắk Nông là vùng đất hội tụ và giao thoa giữ nhiều nền văn hoá cả về vật chất lẫn tinh thần. Các lễ hội vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay như là lễ hội mừng lúa mới, lễ hội rượu cần, lễ hội trưởng thành,… Lễ hội đã tạo nên niềm hứng khởi và náo nức của con người và sức lan toả trong cộng đồng. Với quan niệm là vạn vật hữu linh thì đồng bào M’nông lại có những nghi lễ như là lễ vòng đời hay lễ nông nghiệp. Thông qua lễ hội đó để người dân tộc M’nông cầu xin lên Yàng mang lại những điều tốt lành cho buôn làng. Tất cả đều tạo nên nhiều nét văn hoá truyền thống truyền lại từ ông cha ngày xưa với núi rừng Tây Nguyên
Dọc đường Trường Sơn - di tích quốc gia Đắk Nông
Theo tuyến đường lịch sử Trường Sơn – Hồ Chí Minh thì một số di tích được xếp vào hạng di tích quốc gia đặc biệt. Trong đó tỉnh Đắc Nông cũng có nhiều hạng mục được đưa vào di tích cấp quốc gia.
1, Di tích ngục Đắk Mil
Vào năm 1940, ngục Đắk Mil được thực dân Pháp xây dựng trong một khu rừng già thuộc huyện Đắk Mil. Nơi đây để giam giữ và đày ải nhiều chiến sĩ cách mạng và người dân yêu nước.
Nhà ngục này được thiết kế theo lối nhà sàn của đồng bào người Ê để gồm 9 gian nhà bằng gỗ, lợp mái tranh và có hàng rào gỗ chèn dây thép gai, 4 góc quanh nhà ngục có chòi canh 24/24.
Tháng 11/ 1941, đoàn tù đầu tiên bị đày vào ngục Đắk Mil gồm 45 tù binh chính trị được cho là nguy hiểm nhất tại tù Buôn Mê Thuột. Tại ngục Đắk Mil, các chiến sẽ cách mạng đã tổ chức vượt ngục thành công.
Cuối năm 1943, thực dân Pháp đã chuyển tất cả tù binh về ngục Buôn Mê Thuột và tuyên bố phá sản ngục Đắk Mil.
2, Di tích cách mạng căn cứ kháng chiến B4 – liên tỉnh IV
Đây là một khu căn cú của cách mạng và lực lượng kháng chiến liên tỉnh IV. Gồm hai khu căn cứ là phía Bắc Nậm Nùng và phía Nam Nậm Nùng.
Địa bàn hoạt động an toàn của các ban ngành trong tỉnh và của liên tỉnh. Đây là khu hành lang chiến lược vừa đưa sức người lẫn sức của từ hậu phương ra tiền tuyến. Là nơi nối giữa Tây Nguyên với miền Đông Nam bộ và miền Bắc với miền Nam. Và đây cũng là nơi đưa đón các đồng chí cách mạng lãnh đạo từ Trung ương và miền Nam để chỉ đạo kháng chiến và nổi dậy năm 1975.
3, Di tích lịch sử là địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh đến Đông Nam Bộ
Đây là địa điểm nối liền giữa hai khu vực chiến lược là Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Khai thông được đường mòn Hồ Chí Minh là chấm dứt tình trạng hai miền Nam – Bắc bị chia cắt trong thời gian kháng chiến. Sự hình thành nên địa điểm này đã là một bước ngoặt to lớn đối với cách mạng của Việt Nam.
4, Di tích lịch sử lưu niệm N’Trang Gưh
Đây là địa điểm phần mộ của N’Trang Gưh, cánh đồng, buôn làng và căn cứ của nghĩa quân do N’Trang Gưh làm thủ lĩnh chống quân Xiêm năm 1884 đến 1887. Nay địa điểm này thuộc xã Buôn Choáh huyện Krông nô.
Tại đây vị thủ lĩnh này đã tập hợp hơn 600 thanh niên thuộc 20 buôn làng trong phạm vi sông Krông Ana và Krông Nô, sau đó đứng lên tiêu diệt quân Xiêm tại cánh đồng của làng Tur và làng Phok ở cuối thế kỷ thứ 19.
Vào năm 1900, N’Trang Gưh lại một lần nữa kêu gọi dân làng đứng lên khởi nghĩa chống Pháp. Dưới sự dìu dắt của vị lãnh đạo này thì cuộc khởi nghĩa đã dành nhiều chiến thắng vẻ vang làm chấn động toàn Đông Dương và giới cầm quyền của Pháp.
5, Danh thắng thác Đ’ray Sáp thượng
Thác này còn gọi là thác Gia Long thuộc huyện Krông Nô, là thác nằm ở dòng sông Sê rê Pok gắn với nhiều câu chuyện huyền thoại về tình yêu của nàng H’Mi. Nơi đây từng là nơi thực dân Pháp đã huy động dân phu, tù nhân ở nhà tù Buôn Mê Thuột lao dịch khổ nhọc dưới đòn roi tra tấn để xây dựng nên đoạn đường vòng cùng với chiếc cầu treo qua sông Ea Kông
Hệ thống hang động này nằm trong khu vực Rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp (huyện Krông Nô) từ xã Buôn Choah chạy dọc theo sông Sê Rê Pôk đến thác Đray Sáp có chiều dài 25 km. Trong hệ thống hang động này, có rất nhiều hang lớn nhỏ với kích thước và hình dạng khác nhau. Đến thời điểm hiện tại, các nhà khoa học đã nghiên cứu, khảo sát chi tiết được 3 hang trong khu vực này là các hang C7, C3, A1. Trong đó, C7 là hang núi lửa dạng ống với chiều dài hơn 1 km và đây là hang dung nham núi lửa lớn nhất Đông Nam Á. Các hang khác là, Hang C3 dài 594,4 mét, Hang A1 dài 456,7 mét, Hang Dơi 1 và Hang Dơi 2 dài 545m.
Các hang động núi lửa này có những nét đặc trưng và độc đáo riêng. Phần lớn các hang có hình ống; trong một số hang có ngã rẽ, một số ngã rẽ thông nhau tạo thành những vòng tròn. Các nhà khoa học phát hiện thấy một số động vật như: các loài dơi, rắn, ếch, ốc sên sinh sống trong những hang này. Trong hang động, có nhiều cấu trúc đặc trưng về hình dạng bề mặt đá Bazan đã phản ánh quá trình hoạt động núi lửa phun trào trên lục địa cách đây hàng triệu năm. Trong các hang được hình thành các ngấn nham thạch hằn lên vách đá, đã cho biết dòng chảy dung nham Bazan phun trào theo từng nhịp trong quá trình hoạt động của Macma. Theo các nhà khoa học Nhật Bản, loại hang núi lửa khu vực này thuộc dạng hiếm trên thế giới với những dòng thạch nhũ dung nham, những dấu vết của những phiến đá Bazan nằm ngang hoặc cuộn xoắn trên tường hang, thể hiện lượng dung nham phun trào núi lửa và hướng chảy của dòng dung nham. Sự có mặt của khuôn cây nham thạch ở phía trên hoặc bên trong hang đã chứng tỏ nơi này cách đây hàng triệu năm là một khu rừng. Khi núi lửa phun trào dòng dung nham và tiếp xúc với không khí, nguội dần và đông cứng, để lại trên thành hang những vệt hoa văn tự nhiên rất đẹp.
Trong hang, dấu vết “khuôn” của những thân cây gỗ có kích thước khác nhau và để lại dấu vết thạch nhũ trong cả những đoạn hang hình ống. Theo các nhà địa chất, nguyên nhân do dòng dung nham nóng chảy với nhiệt độ trên 1000 độ C khi cuốn qua những cây gỗ to, sẽ làm cháy thân cây từ ngoài vào trong, nhưng cháy không hết. Sau một thời gian, những thân cây này mục dần và tạo thành những đoạn hình ống.
Một hang trong hệ thống hang động núi lửa ở gần cụm thác Đray Sáp-Gia Long, huyện Krông Nô. Ảnh: Ngọc Tâm - Báo Đắk Nông
Anh
Nguyễn Thanh Tùng sinh sống gần khu vực này từ những năm 80, là người
đã từng tìm hiểu nhiều hang động nơi đây cho biết: "Những hang này có từ
thời xa xưa, người dân bản địa gọi là hang Chư B'luk, những người thợ
săn gọi là hang dơi vì trong hang rất nhiều dơi". Cũng theo anh Tùng,
trong khu vực này anh đã đi và tìm thấy khoảng gần 100 hang lớn nhỏ,
chiều dài các hang trên dưới 100m.
Ngoài những hang lớn do các nhà khoa học vừa công bố, khu vực này có nhiều hang nhỏ hơn, một số hang có nước sạch và trong vắt. Các cán bộ kiểm lâm rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp cũng như người dân đi rừng vẫn thường xuống đây lấy nước để sinh hoạt khi đi tuần tra kiểm soát rừng.
Nếu nói về phát triển du lịch, có lẽ thiên nhiên đã ưu đãi cho người dân địa phương khi quanh khu vực hệ thống hang động núi lửa (khoảng 2 km) là Khu du lịch thiên nhiên thác Đay Sáp (trong khu du lịch có thác Đray Sáp, thác Đray Nur và thác Gia Long) nổi tiếng tại Việt Nam, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Ông Võ Văn Tâm, Giám đốc Ban Quản lý rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp cho biết: Việc các nhà khoa học Nhật Bản cùng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xác định cơ sở ban đầu tại Khu du lịch Đray Sáp có một quần thể hang động núi lửa, là một tin vui. Bởi vì nơi đây đã được nhà nước công nhận khu du lịch cấp Quốc gia gồm 2 danh thắng là thác Đray Sáp và thác Gia Long. Từ thác Đray Sáp chạy dài đến núi lửa Chư B'Luk là một giàn đá Bazan xếp từng khối lớn với hình thù khác nhau chạy dài bên triền sông Sê-rê-pốc, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ và thơ mộng. Việc phát hiện các hang động núi lửa này, sẽ tạo điều kiện cho địa phương trong tương lai phát triển mạnh ngành du lịch. Cũng theo ông Tâm, nếu ngành du lịch Đắk Nông có cách khai thác hợp lý thì đây cũng là một trong những thế mạnh để phát triển du lịch của tỉnh cũng như trong khu vực.
Đánh giá về phát hiện hang động núi lửa tại huyện Krông Nô, theo bà Nguyễn Thị Ngọc Lệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông, cùng với hang động núi lửa khu vực Krông Nô với các danh lam thắng cảnh và di sản thiên nhiên sẽ tạo ra điểm đến rất hấp dẫn cho du khách cũng như cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. Nó mang lại ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giải quyết việc làm cho người dân địa phương cũng như các dịch vụ khác, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, nhất là hộ nghèo trong khu vực, góp phần phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo của tỉnh.
Cũng theo bà Lệ, thời gian tới tỉnh Đắk Nông sẽ cùng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, các Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án trình Chính phủ quyết định và ghi nhận Đắk Nông là Công viên địa chất cấp quốc gia. Tỉnh Đắk Nông sẽ bổ sung hang động núi lửa vào quy hoạch phát triển du lịch để các địa phương cũng như các sở, ngành thống nhất quản lý và tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, bảo vệ di sản thiên nhiên này tốt hơn. Đắk Nông cũng sẽ xây dựng các chính sách tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút đầu tư vào tỉnh.
Ngọc Minh- TTXVN
Vào năm 1940, ngục Đắk Mil được thực dân Pháp xây dựng trong một khu rừng già thuộc huyện Đắk Mil. Nơi đây để giam giữ và đày ải nhiều chiến sĩ cách mạng và người dân yêu nước.
Nhà ngục này được thiết kế theo lối nhà sàn của đồng bào người Ê để gồm 9 gian nhà bằng gỗ, lợp mái tranh và có hàng rào gỗ chèn dây thép gai, 4 góc quanh nhà ngục có chòi canh 24/24.
Tháng 11/ 1941, đoàn tù đầu tiên bị đày vào ngục Đắk Mil gồm 45 tù binh chính trị được cho là nguy hiểm nhất tại tù Buôn Mê Thuột. Tại ngục Đắk Mil, các chiến sẽ cách mạng đã tổ chức vượt ngục thành công.
Cuối năm 1943, thực dân Pháp đã chuyển tất cả tù binh về ngục Buôn Mê Thuột và tuyên bố phá sản ngục Đắk Mil.
2, Di tích cách mạng căn cứ kháng chiến B4 – liên tỉnh IV
Đây là một khu căn cú của cách mạng và lực lượng kháng chiến liên tỉnh IV. Gồm hai khu căn cứ là phía Bắc Nậm Nùng và phía Nam Nậm Nùng.
Địa bàn hoạt động an toàn của các ban ngành trong tỉnh và của liên tỉnh. Đây là khu hành lang chiến lược vừa đưa sức người lẫn sức của từ hậu phương ra tiền tuyến. Là nơi nối giữa Tây Nguyên với miền Đông Nam bộ và miền Bắc với miền Nam. Và đây cũng là nơi đưa đón các đồng chí cách mạng lãnh đạo từ Trung ương và miền Nam để chỉ đạo kháng chiến và nổi dậy năm 1975.
3, Di tích lịch sử là địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh đến Đông Nam Bộ
Đây là địa điểm nối liền giữa hai khu vực chiến lược là Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên. Khai thông được đường mòn Hồ Chí Minh là chấm dứt tình trạng hai miền Nam – Bắc bị chia cắt trong thời gian kháng chiến. Sự hình thành nên địa điểm này đã là một bước ngoặt to lớn đối với cách mạng của Việt Nam.
4, Di tích lịch sử lưu niệm N’Trang Gưh
Đây là địa điểm phần mộ của N’Trang Gưh, cánh đồng, buôn làng và căn cứ của nghĩa quân do N’Trang Gưh làm thủ lĩnh chống quân Xiêm năm 1884 đến 1887. Nay địa điểm này thuộc xã Buôn Choáh huyện Krông nô.
Tại đây vị thủ lĩnh này đã tập hợp hơn 600 thanh niên thuộc 20 buôn làng trong phạm vi sông Krông Ana và Krông Nô, sau đó đứng lên tiêu diệt quân Xiêm tại cánh đồng của làng Tur và làng Phok ở cuối thế kỷ thứ 19.
Vào năm 1900, N’Trang Gưh lại một lần nữa kêu gọi dân làng đứng lên khởi nghĩa chống Pháp. Dưới sự dìu dắt của vị lãnh đạo này thì cuộc khởi nghĩa đã dành nhiều chiến thắng vẻ vang làm chấn động toàn Đông Dương và giới cầm quyền của Pháp.
5, Danh thắng thác Đ’ray Sáp thượng
Thác này còn gọi là thác Gia Long thuộc huyện Krông Nô, là thác nằm ở dòng sông Sê rê Pok gắn với nhiều câu chuyện huyền thoại về tình yêu của nàng H’Mi. Nơi đây từng là nơi thực dân Pháp đã huy động dân phu, tù nhân ở nhà tù Buôn Mê Thuột lao dịch khổ nhọc dưới đòn roi tra tấn để xây dựng nên đoạn đường vòng cùng với chiếc cầu treo qua sông Ea Kông
Hệ thống hang động núi lửa tại Đắk Nông có giá trị cao về khoa học và du lịch
Thứ Ba, 30/12/2014 08:58
(Thethaovanhoa.vn) - Vừa qua, các nhà khoa học Nhật Bản cùng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã công bố thông tin ban đầu về một số hang động núi lửa dài nhất Đông Nam Á tại huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Đây là phát hiện lớn nhất về mặt khoa học và có giá trị về du lịch tại Tây Nguyên năm 2014.Hệ thống hang động này nằm trong khu vực Rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp (huyện Krông Nô) từ xã Buôn Choah chạy dọc theo sông Sê Rê Pôk đến thác Đray Sáp có chiều dài 25 km. Trong hệ thống hang động này, có rất nhiều hang lớn nhỏ với kích thước và hình dạng khác nhau. Đến thời điểm hiện tại, các nhà khoa học đã nghiên cứu, khảo sát chi tiết được 3 hang trong khu vực này là các hang C7, C3, A1. Trong đó, C7 là hang núi lửa dạng ống với chiều dài hơn 1 km và đây là hang dung nham núi lửa lớn nhất Đông Nam Á. Các hang khác là, Hang C3 dài 594,4 mét, Hang A1 dài 456,7 mét, Hang Dơi 1 và Hang Dơi 2 dài 545m.
Các hang động núi lửa này có những nét đặc trưng và độc đáo riêng. Phần lớn các hang có hình ống; trong một số hang có ngã rẽ, một số ngã rẽ thông nhau tạo thành những vòng tròn. Các nhà khoa học phát hiện thấy một số động vật như: các loài dơi, rắn, ếch, ốc sên sinh sống trong những hang này. Trong hang động, có nhiều cấu trúc đặc trưng về hình dạng bề mặt đá Bazan đã phản ánh quá trình hoạt động núi lửa phun trào trên lục địa cách đây hàng triệu năm. Trong các hang được hình thành các ngấn nham thạch hằn lên vách đá, đã cho biết dòng chảy dung nham Bazan phun trào theo từng nhịp trong quá trình hoạt động của Macma. Theo các nhà khoa học Nhật Bản, loại hang núi lửa khu vực này thuộc dạng hiếm trên thế giới với những dòng thạch nhũ dung nham, những dấu vết của những phiến đá Bazan nằm ngang hoặc cuộn xoắn trên tường hang, thể hiện lượng dung nham phun trào núi lửa và hướng chảy của dòng dung nham. Sự có mặt của khuôn cây nham thạch ở phía trên hoặc bên trong hang đã chứng tỏ nơi này cách đây hàng triệu năm là một khu rừng. Khi núi lửa phun trào dòng dung nham và tiếp xúc với không khí, nguội dần và đông cứng, để lại trên thành hang những vệt hoa văn tự nhiên rất đẹp.
Trong hang, dấu vết “khuôn” của những thân cây gỗ có kích thước khác nhau và để lại dấu vết thạch nhũ trong cả những đoạn hang hình ống. Theo các nhà địa chất, nguyên nhân do dòng dung nham nóng chảy với nhiệt độ trên 1000 độ C khi cuốn qua những cây gỗ to, sẽ làm cháy thân cây từ ngoài vào trong, nhưng cháy không hết. Sau một thời gian, những thân cây này mục dần và tạo thành những đoạn hình ống.
Một hang trong hệ thống hang động núi lửa ở gần cụm thác Đray Sáp-Gia Long, huyện Krông Nô. Ảnh: Ngọc Tâm - Báo Đắk Nông
Ngoài những hang lớn do các nhà khoa học vừa công bố, khu vực này có nhiều hang nhỏ hơn, một số hang có nước sạch và trong vắt. Các cán bộ kiểm lâm rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp cũng như người dân đi rừng vẫn thường xuống đây lấy nước để sinh hoạt khi đi tuần tra kiểm soát rừng.
Nếu nói về phát triển du lịch, có lẽ thiên nhiên đã ưu đãi cho người dân địa phương khi quanh khu vực hệ thống hang động núi lửa (khoảng 2 km) là Khu du lịch thiên nhiên thác Đay Sáp (trong khu du lịch có thác Đray Sáp, thác Đray Nur và thác Gia Long) nổi tiếng tại Việt Nam, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Ông Võ Văn Tâm, Giám đốc Ban Quản lý rừng đặc dụng cảnh quan Đray Sáp cho biết: Việc các nhà khoa học Nhật Bản cùng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xác định cơ sở ban đầu tại Khu du lịch Đray Sáp có một quần thể hang động núi lửa, là một tin vui. Bởi vì nơi đây đã được nhà nước công nhận khu du lịch cấp Quốc gia gồm 2 danh thắng là thác Đray Sáp và thác Gia Long. Từ thác Đray Sáp chạy dài đến núi lửa Chư B'Luk là một giàn đá Bazan xếp từng khối lớn với hình thù khác nhau chạy dài bên triền sông Sê-rê-pốc, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ và thơ mộng. Việc phát hiện các hang động núi lửa này, sẽ tạo điều kiện cho địa phương trong tương lai phát triển mạnh ngành du lịch. Cũng theo ông Tâm, nếu ngành du lịch Đắk Nông có cách khai thác hợp lý thì đây cũng là một trong những thế mạnh để phát triển du lịch của tỉnh cũng như trong khu vực.
Đánh giá về phát hiện hang động núi lửa tại huyện Krông Nô, theo bà Nguyễn Thị Ngọc Lệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông, cùng với hang động núi lửa khu vực Krông Nô với các danh lam thắng cảnh và di sản thiên nhiên sẽ tạo ra điểm đến rất hấp dẫn cho du khách cũng như cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. Nó mang lại ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giải quyết việc làm cho người dân địa phương cũng như các dịch vụ khác, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, nhất là hộ nghèo trong khu vực, góp phần phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo của tỉnh.
Cũng theo bà Lệ, thời gian tới tỉnh Đắk Nông sẽ cùng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, các Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án trình Chính phủ quyết định và ghi nhận Đắk Nông là Công viên địa chất cấp quốc gia. Tỉnh Đắk Nông sẽ bổ sung hang động núi lửa vào quy hoạch phát triển du lịch để các địa phương cũng như các sở, ngành thống nhất quản lý và tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân, bảo vệ di sản thiên nhiên này tốt hơn. Đắk Nông cũng sẽ xây dựng các chính sách tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút đầu tư vào tỉnh.
Ngọc Minh- TTXVN
Các di tích, danh thắng được xếp hạng di tích quốc gia trên địa bàn Ðắk Nông
Cập nhật ngày: 02/01/2014 09:45
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013 về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Theo đó, di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh là một
trong 14 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Tại tỉnh ta, mạng lưới đường Trường Sơn -
đường Hồ Chí Minh đi qua địa bàn các huyện Chư Jút, Đắk Mil, Đắk Song,
Tuy Đức gồm các nhánh đường thuộc 2 điểm Đắk Mil và Bu Prăng với tổng
chiều dài khoảng 140 km như: đường Hồ Chí Minh Đông Trường Sơn đoạn Đắk
Mil – Đắk Song; đường ngang Đắk Mil đi Ô Ran (Campuchia) về Lộc Ninh
(năm 1973-1974); nhánh đường Hồ Chí Minh Bu Prăng đi Lộc Ninh năm 1974
và trọng điểm đánh phá ác liệt, ngăn chặn của không quân và bộ binh Mỹ -
Ngụy ở khu vực Núi Lửa; Khu tập kết lực lượng từ miền Bắc vào năm 1965
đến 1975 và Cụm kho dự trữ chiến lược cho B2.
Ngoài di tích quốc gia đặc biệt trên thì tỉnh ta còn có 8 di tích quốc gia khác, bao gồm:
1. Di tích lịch sử cách mạng Ngục Đắk Mil
Di tích Ngục Đắk Mil
|
Ngục Đắk Mil do thực dân Pháp xây dựng vào
đầu năm 1940 trong một khu rừng già thuộc huyện Đắk Mil (nay thuộc địa
bàn thôn 9, xã Đắk Lao, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) để giam giữ, đày
ải những người dân yêu nước và những chiến sĩ cách mạng Việt Nam.
Nhà ngục được thiết kế theo mô típ kiểu
nhà dài (nhà sàn) của đồng bào Ê đê gồm 9 gian bằng gỗ, mái lợp
tranh là hàng rào gỗ được chèn chặt bằng dây thép gai, 4 góc
của nhà ngục có chòi canh gác 24/24.
Đầu tháng 11/1941, đoàn tù đầu tiên bị đày
xuống ngục Đắk Mil gồm 45 tù chính trị được cho là nguy hiểm nhất đối
với bọn cai ngục tại nhà đày Buôn Ma Thuột. Tại Ngục Đắk Mil, các
chiến sĩ cách mạng đã tổ chức thành công 2 cuộc vượt ngục.
Cuối năm 1943, nhận thấy không thể đày ải
tù cộng sản tại Ngục Đắk Mil được lâu hơn nữa, thực dân Pháp đã chuyển
toàn bộ số tù ở Ngục Đắk Mil về nhà đày Buôn Ma Thuột và tuyên bố phá
hủy Ngục Đắk Mil.
Ngày 17/5/2005, Ngục Đắk Mil được công
nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định số
11/2005/QĐ-BVHTT, của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao & Du lịch).
2. Di tích lịch sử cách mạng Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV
Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV là
Căn cứ địa cách mạng của lực lượng kháng chiến (tỉnh Quảng Đức cũ) và
lực lượng kháng chiến liên tỉnh IV trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1959
– 1975). Hình thành từ năm 1959, tại Bắc Nâm Nung, thuộc xã Nâm Nung
(Krông Nô).
Gồm hai địa điểm: 1) Căn cứ phía Bắc Nâm
Nung được hình thành trong giai đoạn 1959 – 1967, trên cơ sở các căn cứ
đã có từ thời kháng chiến chống Pháp trải dài trên địa bàn xã Nâm Nung,
huyện Krông Nô. 2) Căn cứ phía Nam Nâm Nung (1967 – 1975) thuộc xã Quảng
Sơn (Đắk Glong).
Đây là địa bàn hoạt động an toàn của các
cơ quan ban ngành Huyện ủy, Tỉnh ủy, Liên tỉnh; là hành lang chiến lược
đưa sức người sức của từ hậu phương ra tiền tuyến, là bản lề nối Tây
Nguyên với miền Đông Nam Bộ, miền Bắc với miền Nam; là nơi đưa, đón các
đồng chí lãnh đạo từ Trung ương vào thành lập chủ lực Miền, để chỉ đạo
cuộc tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước.
Ngày 17/03/2005, được công nhận là di tích
lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định số 10/2005/QĐ-BVHTT, của
Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch).
3. Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo
Các địa điểm ghi dấu sự đấu tranh kiên
cường của đồng bào các dân tộc trên Cao nguyên M’nông, S’tiêng (Việt
Nam) và Krachié (nay là Mondulkiri - Campuchia) trong hơn 1/4 thế kỷ
oanh liệt (từ năm 1911 - 1935). Gồm: Bon Bu Nor – địa điểm N’Trang Lơng
cùng nghĩa quân tổ chức lễ “kết minh” (trá hàng) tiêu diệt Henri Maitre
cùng đoàn tùy tùng (1914) nay thuộc bon Bu Nor B, thôn 6, xã Đắk R’tíh,
huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông và đồn Bu Méra - Trung tâm cai trị và đàn
áp đồng bào M’nông nay thuộc bon Bu Boong, xã Đắk Búk So, huyện Tuy Đức,
tỉnh Đắk Nông.
Ngày 27/08/2007, được công nhận là di tích
lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định số 04/2007/QĐ-BVHTTDL,
của Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch.
4. Di tích lịch sử địa điểm bắt liên lạc khai thông đường Hồ Chí Minh – đoạn Nam Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ
Địa điểm bắt liên lạc nối liền hai vùng
đất chiến lược Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, khai thông đường mòn Bắc -
Nam mang tên Bác ở cuối dãy Trường Sơn, chấm dứt tình trạng chiến
trường bị chia cắt, nối miền Bắc XHCN với miền Nam ruột thịt, mở ra cho
cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn lịch sử mới, tạo sức mạnh to lớn
cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Gồm:
1) Địa điểm đội I đoàn B90 bắt liên lạc
với đoàn C200 của miền Đông Nam Bộ tại vàm suối Đắk R'tíh và sông Đồng
Nai, ngày 30/10/1960 (nay thuộc thôn Đồng Tiến, xã Đắk Nia, thị xã Gia
Nghĩa).
2) Địa điểm đội II Đoàn B90 đã bắt liên
lạc được với tổ mở đường C270 tại cây số 4 xuyên qua Quốc lộ 14 hướng
ngã ba Đắk Song đi Gia Nghĩa, ngày 4/11/1960 (nay thuộc thôn 8, xã Nam
Bình, huyện Đắk Song).
Ngày 02/8/2011, được công nhận là di tích
lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định số 2367/QĐ-BVHTTDL, của
Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch.
5. Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh
Địa điểm lưu dấu phần mộ của N’Trang Gưh,
buôn làng, cánh đồng và căn cứ địa của nghĩa quân do thủ lĩnh N’Trang
Gưh lãnh đạo chống quân Xiêm năm 1884 - 1887 và thực dân Pháp năm 1900 –
1914 nay thuộc địa bàn xã Buôn Choáh (Krông Nô).
Tại đây, N’Trang Gưh đã kêu gọi tập hợp
hơn 600 thanh niên thuộc 20 buôn trên lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana
đứng lên khởi nghĩa tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm tại cánh đồng buôn Tur
và buôn Phok vào cuối thế kỷ 19.
Năm 1900, một lần nữa N’Trang Gưh đã đứng
lên tập hợp dân làng khởi nghĩa chống Pháp. Dưới sự lãnh đạo của N’Trang
Gưh, cuộc khởi nghĩa kéo dài hơn một thập kỷ, giành được nhiều chiến
công vẻ vang, gây chấn động toàn Đông Dương và giới cầm quyền Pháp.
Ngày 2/8/2011, được Nhà nước công nhận là
di tích lịch sử Quốc gia theo quyết định số 2366/QĐ-BVHTTDL, của Bộ Văn
hóa Thể thao & Du lịch.
6. Địa điểm chiến thắng Đồi 722 – Đắk Sắk
Di tích lịch sử Đồi 722 Đắk Sắk
|
Địa điểm ghi dấu nhiều trận đánh ác liệt
của lực lượng bộ đội chủ lực ta và quân, dân địa phương trong suốt chặng
đường lịch sử từ năm 1968 đến 1975 nhằm tiêu hao sinh lực địch, đánh
phá hệ thống đồn bốt đang án ngữ phá hoại đường Hồ Chí Minh trên chiến
trường nam Tây Nguyên.
Địa điểm Đồi 722 - Đắk Sắk là một trại lực
lượng đặc biệt Đức Lập (Camp Duc Lap) được Mỹ - Ngụy thiết lập năm
1965, cách trung tâm quận Đức Lập (tỉnh Quảng Đức cũ) khoảng 10 km về
hướng đông (nay thuộc địa phận thôn Thổ Hoàng 4, xã Đắk Sắk, huyện Đắk
Mil). Tại đây địch xây dựng các công sự kiên cố với 12 lớp hàng rào, bên
trong là tường đất có ụ chiến đấu, hào sâu cắm chông, gài mìn. Lực
lượng địch tại đây là 01 tiểu đoàn được trang bị quân trang vũ khí hiện
đại.
Năm 1968, bộ đội chủ lực của ta phối hợp
với quân và dân địa phương nổ súng tấn công quận lỵ Đức Lập và một loạt
vị trí đóng quân của địch trên toàn tuyến Sapa, Đắk Lao và Đắk Sắk...
đồng thời chặn đánh các cánh quân chi viện của địch. Đêm 24/8/1968, căn
cứ trại lực lượng đặc biệt Đức Lập – nơi cố thủ cuối cùng của địch đã bị
tiêu diệt, đại bộ phận quân chiếm đóng và hệ thống Ngụy quyền từ huyện
đến xã tan rã, giải phóng hàng ngàn dân, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ
trận địa.
Ta chiếm đóng trại lực lượng đặc biệt Đức
Lập được 3 đến 4 ngày thì địch huy động tổng lực quân đội từ Buôn Ma
Thuột và các căn cứ quân sự đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Đức tiếp ứng,
bao vây tấn công bất ngờ, chúng huy động máy bay B52, dùng hỏa tiễn,
pháo 105mm, pháo 155mm, pháo 175mm, gài mìn Claymore và đại liên dội
xuống trại lực lượng đặc biệt Đức Lập trong suốt hơn 3 ngày đêm.
Sau gần 10 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu
diệt hơn 1.300 tên địch; bắn hạ nhiều phương tiện chiến tranh và thu
nhiều quân trang, vũ khí. Tuy nhiên, do thông tin chậm, lại chưa được
chi viện lực lượng và tiếp tế lương thực kịp thời nên ta chỉ chống trả
và cầm cự được trong 3 ngày. Trong trận chiến quyết tử đầy khốc liệt
này, ta đã hy sinh hơn 200 đồng chí. Địch tái chiếm trại Đức Lập.
Địa điểm chiến thắng đồi 722 – Đắk Sắk
được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp
Quốc gia, theo Quyết định số 4063/QĐ-BVHTTDL ngày 24/10/2012.
7. Danh thắng thác Đray Sáp
Là một thác nước lớn trên dòng sông
Sêrêpốk thuộc địa bàn xã Nam Đà (Krông Nô). Theo tiếng Êđê, Đray Sáp có
nghĩa là "Thác khói", bởi lẽ dòng nước từ trên cao đổ xuống thung lũng
tạo thành một khối lớn bụi nước bay là là như màn sương khói. Vào mùa
mưa thác cao 12m, rộng 120m, và vào mùa khô thác cao 8 m, rộng khoảng
70-80m.
Đray Sáp là ngọn thác hùng vĩ vào bậc nhất
Tây Nguyên. Ngày 3/8/1991, được công nhận là danh thắng cấp quốc gia
theo Quyết định số 1371/QĐ- BVHTT, của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa - Thể thao & Du lịch).
8. Danh thắng thác Đ’ray Sáp thượng (thác Gia Long)
Thác thuộc xã Đắk Sôr (Krông Nô). Là thác
nước nguồn nằm trên dòng sông Sêrêpốk gắn với sự tích tình yêu chung
thủy của nàng H’Mi. Năm 1930 – 1933, thực dân Pháp đã huy động dân phu
và tù nhân ở nhà Đày Buôn Ma Thuột lao dịch hết sức cực nhọc, gian khổ
dưới đòn roi tra tấn, cực hình của chúng để xây dựng một đoạn đường vòng
cung đi qua thác cùng với chiếc cầu treo qua sông Êa Kông.
Nằm giữa núi rừng, sông nước hùng vỹ, thác
cao khoảng 8m, rộng khoảng 70m. Mùa khô lưu lượng nước sông vơi hẳn,
tạo thành 9 ngọn thác lớn nhỏ. Khu rừng quanh thác ôm gọn hồ Tắm Tiên
rộng khoảng 80m2 cùng với hệ sinh thái phong phú, thu hút đông đảo khách
tham quan, nghỉ dưỡng. Ngày 4/1/1991, được công nhận là danh thắng cấp
quốc gia theo Quyết định số 01/1999/QĐ- BVHTT, của Bộ Văn hóa - Thông
tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
T.B (t.h)
Các di tích lịch sử văn hoá của tỉnh Đăk Nông
Ngày cập nhật: 12/05/2014
Điểm
nổi bật của văn hóa bản địa Đăk Nông là: văn hóa cồng chiêng, văn hóa
mẫu hệ, văn hóa cộng đồng độc đáo, phong phú giàu bản sắt dân tộc cùng
các di sản văn hóa phi vật thể như luật tục, các lễ hội, các tập tục
sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt cộng đồng. Trên địa bàn tỉnh có nhiều di
tích có giá trị như di tích lịch sử Bon Choah, Ngục Đăk Mil, Căn cứ cách
mạng Nam Nung...
Sản vật đặc sắc:
Bộ đàn đá:
Là
những tấm đá xit (SCHISTO) mà đồng bào gọi là đá chàm ó trọng lượng ước
đoán từ 7-8 kg, đây là di tích khảo cổ học tiền sử, có niên đại trên
3500 năm. Là một trong những di tích khảo cổ có giá trị lịch sử khá lớn,
sẽ giúp cho các nhà khoa học hiểu rỏ hơn về phong tục tập quán của các
đồng bào dân tộc sinh sống trên cao nguyên M’Nông.
Chùa Pháp Hoa:
Chùa
Pháp Hoa nằm ngay ở thị xã Gia Nghĩa, chùa được xây dựng vào năm 1957
với hai phần là chính diện và tháp năm tầng. Kiến trúc ngôi chùa được mô
phỏng theo kiến trúc nhà sàn tây Nguyên, và đồng thời xen lẩn với kiến
trúc nhà vườn tạo nên khung cảnh yên tịnh cho các phật tử tu hành. Đây
cũng là nơi tín ngưỡng tôn giáo được cấp ủy đảng và chính quyền đị
phương công nhận.
Bộ cồng chiêng M’Nông:
Cồng
chiêng là một trong những nét đặc trưng cho nền văn hóa Tây Nguyên. Đây
còn là một loại hình nghệ thuật gắn bó với lịch sử văn hóa của các dân
tộc người Tây nguyên nói chung và Đăk Nông nói riêng…
Các di tích lịch sử ở Đắk Nông cần được bảo vệ
Di tích căn cứ kháng chiến Nâm Nung – Liên
khu IV là nơi từng đặt trụ sở làm việc của các cơ quan “đầu não” tỉnh
Quảng Đức cũ trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Hiện còn lưu giữ được
những dấu tích như: nền nhà Văn phòng Tỉnh ủy B4 – Liên tỉnh IV, văn
phòng Ban cán sự B4, địa điểm tổ chức Đại hội đảng bộ, giao thông hào
chiến đấu, hầm trú ẩn… tất cả những dấu tích này đã được Bảo tàng tỉnh
cắm mốc, cọc tiêu định vị, làm hàng rào bảo vệ. Nhưng trong một thời
gian dài, các di tích không được quan tâm đúng mức nên một số hộ dân di
cư tự do đã tự ý xâm lấn để lấy đất canh tác, thậm chí, nhiều cột mốc đã
bị nhổ, hầm trú ẩn bị san bằng...
Trên địa bàn xã
Đắk Búk So, huyện Tuy Đức có căn cứ của nghĩa quân N’Trang Lơng, dấu
tích duy nhất còn lại chứng thực một thời oanh liệt trong kháng chiến
chống Pháp của quân và dân M’nông trên đất Tây Nguyên. Căn cứ đã được Bộ
Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm
2007 cũng đang trong tình trạng bị xâm hại nghiêm trọng. Hệ thống đồn
Bumera, nơi ghi dấu trận đánh của nghĩa quân tiêu diệt tên Hăng Ri Mết
giờ chỉ còn lại sơ sài vài chiến hào, trong khi cổng đồn và những dấu
tích như: nhà sàn, giếng nước, các loại cây ăn trái sót lại đã bị người
dân “san phẳng” để làm nương rẫy. Ngôi mộ của Hăng Ri Mết cũng không
được trùng tu, bảo vệ hiện có nhiều vết nứt…
Bà
Ngô Thị Kim Cúc, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Đắk Nông cho biết, Bảo tàng cũng
như Sở Văn hóa – Thông tin và Du Lịch đã có nhiều văn bản đề nghị xử lý
tình trạng nói trên, nhưng do sự thiếu kiên quyết của chính quyền địa
phương và một số cấp, ngành chức năng nên việc xâm hại di tích tiếp tục
kéo dài và mức độ ngày càng nghiêm trọng./.
10 món đặc sản ngon nổi tiếng của tỉnh Đắc Nông
Những đặc sản nổi tiếng như cà phê Đức
Lập, khoai lang Tuy Đức, trái cây Đắk Glong, cá lăng sông Sêrêpốk, canh
thụt đọt mây… mà du khách không nên bỏ lỡ khi có dịp đặt chân đến Đắc
Nông.
1. Cà phê Đức Lập
Đức Lập là tên cũ của huyện lỵ Đắk Mil,
một địa phương có đất đai, thổ nhưỡng rất phù hợp với cây cà phê. Hiện
nay, Đắk Mil có diện tích cà phê lớn nhất của tỉnh. Do thuận lợi về tự
nhiên; mặt khác, người dân địa phương đã có kinh nghiệm chăm sóc, thu
hoạch, sơ chế… nên hạt cà phê Đắk Mil có chất lượng cao.
Thời gian qua, ngoài việc cung cấp nguồn nguyên liệu xuất khẩu, một số đơn vị đã đầu tư sản xuất cà phê bột mang thương hiệu Cà phê Đức Lập đã tạo ra dấu ấn riêng trên thị trường.
2. Khoai lang Tuy Đức
Nhiều năm nay, người tiêu dùng đã biết
đến khoai lang Tuy Đức. Xuất xứ của sản phẩm này là từ những năm đầu mới
thành lập tỉnh, người dân xã Đắk Búk So (huyện Đắk R’lấp nay thuộc địa
bàn huyện Tuy Đức) đã đưa giống khoai lang Benzen có nguồn gốc từ Nhật
Bản về trồng.
3. Trái cây Đắk Glong
Đắk Glong là địa phương có nhiều trang
trại trồng cây ăn trái như cam, quýt, bơ, thanh long ruột đỏ, dưa,
chuối… Theo thống kê, hiện toàn huyện đã có khoảng 1.000 ha cây ăn trái
mang lại nguồn lợi lớn cho người dân. Những năm gần đây, nhiều người dân
huyện Đắk Glong đã đưa giống ổi ứng dụng công nghệ cao vào trồng.
Đây là giống “ổi siêu sạch” với nhiều khâu chăm sóc cây được tiến hành một cách chặt chẽ đúng quy trình kỹ thuật, nhất là đảm bảo cách ly một cách tốt nhất với các loại thuốc như trừ sâu, bón lá… Khi trái ổi lớn bằng ngón chân cái, đã được bọc bằng bao xốp và bao ni lông để tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tránh thuốc trừ sâu, thuốc cỏ, côn trùng hại quả… Nhờ thích hợp với thổ nhưỡng, khí hậu vùng đất Đắk Glong nên ổi phát triển tốt, trái bóng đẹp, giòn, ngọt dịu và cho trái quanh năm.
4. Rượu cần
Bất kể lễ hội, lễ tết nào trong năm,
người Tây Nguyên nói chung và người dân Đắk Nông nói riêng đều quây quần
bên nhau bên ché rượu cần, say điệu cồng chiêng và nhảy múa dưới ánh
lửa bập bùng. Rượu được cho một sản vật được Trời (Yang) sai thần linh
mách bảo con người làm ra để cúng tế.
Người Tây Nguyên uống rượu bằng cần và chụm nhau vào uống chung trong một ché rượu mà không sợ mất vệ sinh. Cách làm ra loại rượu đặc trưng này cũng rất đơn giản. Người ta chỉ việc cho men vào cơm và ủ trong ché rượu trong khoảng 5-6 ngày thì thành rượu cần. Song cũng có những người thích hạ thổ đến hàng năm mới đem ra uống. Ở nhiều vùng khác nhau rượu cần còn có nhiều phiên bản khác như rượu kê, bo bo, mì, bắp…
5. Cá lăng sông Sêrêpốk
Sông Sêrêpốk chảy qua địa bàn huyện Krông
Nô, Chư Jút là “xứ sở” của loài cá lăng đuôi đỏ. Đây là loài cá da trơn
sinh sống ở nhiều nơi, nhưng có lẽ với môi trường sinh thái sông
Sêrêpốk “đặc biệt” hơn, nên cá lăng ở đây có số lượng nhiều hơn, chất
lượng cao hơn.
Cá lăng đuôi đỏ có thể làm được nhiều món ăn như nướng, om, làm chả, hấp, xào tỏi hay nấu cháo… món nào cũng ngon vì thịt cá lăng béo, có vị ngọt, giàu dinh dưỡng. Hiện nay, ngoài đánh bắt cá tự nhiên, người dân Chư Jút đã tổ chức nuôi theo phương thức lồng, bè để tạo ra sản phẩm hàng hóa.
6. Cơm lam
Trong miếng cơm lam, người ta có thể cảm
nhận đầy đủ vị ngọt thơm của gạo dẻo lẫn trong mùi nứa nướng nồng hương.
Mặc dầu được làm từ loại gạo dẻo hoặc gạo nếp nhưng khi dùng cơm lam,
người ăn không hề biết ngán và dù có kèm với những món ăn khác như gà
nướng, bò nướng thì mùi cơm lam vẫn không thể lẫn vào đâu được.
Để làm ra cơm lam, người ta đem ngâm gạo với một loại lá thơm qua đêm. Khi đem ra nướng, người ta cho gạo vào khoảng 2/3 ống nứa và cho nước suối vào. Để nút lại hai đầu, họ dùng lá chuối heo héo bịt lại ở hai đầu. Khi những ống nứa nổ tí tách bên lò than cũng là lúc những hạt gạo nở dần ra, bện lại với nhau thành khối kết dính chặt như nêm.
7. Canh thụt đọt mây
Đây là món ăn đặc sản của người M’nông,
Mạ, phổ biến ở vùng phía nam tỉnh như Đắk R’lấp, Tuy Đức, Đắk Glong, Đắk
Song, thị xã Gia Nghĩa, để đãi bạn bè, khách quý và dùng trong các lễ
hội. Ngoài đọt mây, nguyên liệu nấu canh thụt còn gồm rau nhíp, măng,
thịt hoặc cá suối, ít con mối và vài con dế dũi…
Tất cả nguyên liệu được cho vào ống lồ ô tươi, bịt kín đầu. Khi nấu, ống lồ ô phải để nghiêng trên lửa và quay tròn cho canh chín đều. Khi nấu vừa chín tới, người ta thường lấy đoạn dây mây có gai đâm vào trong ống cho các nguyên liệu nhừ nát, hòa quyện vào nhau. Khi đó, muối, ớt được bỏ vào, thụt đều, có thể bỏ thêm một ít rau thơm. Theo một số người thì món này có thể ví như một loại “thực phẩm chức năng” hỗ trợ đắc lực cho hệ tiêu hóa, tuần hoàn, bài tiết của người dùng.
8. Cà đắng
Cà đắng vốn là loại cà mọc dại. Sau được
người dân đem về trồng và tạo ra một giống cà đắng ít đắng hơn. Cà có
quả thon dài, trái có vằn dọc trắng xanh như trái dưa. Vị cà đắng đăng
đắng như khổ qua rừng rất hấp dẫn. Người trong buôn thường dùng cà để
nấu canh, kho cá khô hoặc kho tép. Món ăn nào cũng đặc trưng vị đắng, vị
cay khiến ai ăn một lần cũng muốn dùng nữa.
9. Măng chua rừng
Trong những miếng ngon của rừng, măng
chua cũng là một món ăn khoái khẩu của đồng bào dân tộc. Măng tươi giã
dập với ớt rồi đem ủ trong chộ sành, khoảng hai tuần sau, măng chua đến
độ vừa dùng. Miếng măng giòn tan, cả nước lẫn cái đều có vị chua, cay,
đắng, ngọt. Măng chua nấu với cá trê, măng chua nấu gà khiến bạn ăn quên
no…
10. Lẩu lá rừng
Đến với Tây Nguyên đại ngàn, ngoài thắng
cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người thân thiện chắc chắn bạn sẽ còn cảm
nhận được Tây Nguyên qua những chiếc lá. Mỗi loại lá đều được lựa chọn
rất nghiêm ngặt, điều quan trọng nhất là chúng không có độc tố, không
phản ứng lẫn nhau. Lẩu lá rừng chính là kinh nghiệm từ ngàn đời của đồng
bào dân tộc bản địa được đúc kết. Mỗi loại lá đều chứa đựng trong mình
những chất dinh dưỡng đặc biệt, có tác dụng tốt đối với sức khoẻ.
Cùng với các loại lá thì mắm thịt và nem thính được cuốn vào lá, vị cay cay nồng của lá tươi cộng với vị đậm của mắm thịt, vị khô của nem thính cho ta nhiều cảm giác rất lạ.
Thanh Xuân
Canh thụt, món ngon của người M’nông, Đắk Nông
Trong các món ăn của đồng bào M’nông ở Đắk Nông nói riêng và các tỉnh
Tây Nguyên nói chung, đặc sắc nhất là những món được chế biến từ đọt
mây. Người M’nông không chỉ sử dụng món này trong bữa ăn hàng ngày mà
còn trân trọng thưởng thức trong những bữa tiệc lễ hội truyền thống.
Và
hiện nay, món ăn này đã trở thành thực đơn được ưa thích của rất nhiều
quán ăn, nhà hàng lớn trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa (Đắk Nông). Trong
đó, món đọt mây xào cá hộp hay còn gọi là canh thụt, tuy đã được cải
biến khá nhiều để thích hợp khẩu vị của nhiều người, nhưng vẫn giữ được
vị ngọt, đắng, bùi đặc trưng của các loại rau rừng ở đây.
Theo
anh Trần Quốc Thắng, đầu bếp của nhà hàng Hoàng Anh - một nhà hàng lớn
trên địa bàn thị xã Gia Nghĩa thì hiện nay, đọt mây được bày bán khá phổ
biến trên địa bàn thị xã, do đồng bào hái trên rừng về. Để nấu được món
ăn này, ngoài nguyên liệu chính là đọt mây và cá hộp còn cần thêm những
nguyên liệu phụ như củ nén, lá bép (còn gọi là lá nhíp), ớt và các loại
gia vị. Đọt mây được làm sạch, gọt lớp vỏ xù xì bên ngoài, chỉ lấy phần
chồi non trắng ngần bên trong; sau đó, luộc sơ qua và chần lại bằng
nước lạnh.
Lá bép cũng làm sạch và cắt nhỏ. Về
cách chế biến, đầu tiên, củ nén được xào trước cho thơm, sau đó mới bỏ
đọt mây và lá bép vào xào, cuối cùng cho cá hộp và gia vị vừa ăn. Món ăn
này cần thêm một ít ớt xanh để tạo vị cay, thơm. Khi thưởng thức, thực
khách sẽ cảm thấy mùi thơm của lá bép, vị cay của ớt, vị bùi, béo của
đọt mây. Đặc biệt, khi ăn miếng đầu tiên, thực khách sẽ thấy có vị đắng
của đọt mây tưởng như khó ăn, nhưng vị ngọt sẽ nhanh chóng lan tỏa,
khiến muốn ăn thêm miếng nữa, và rồi đâm ghiền lúc nào không biết.
Theo
nhiều già làng M’nông kể lại, món ăn này có từ rất xa xưa. Trước đây,
khi mùa lễ hội đến hay vào dịp đón khách quý, các thiếu nữ M’nông thường
phải lên rừng trước một ngày tìm nguyên liệu để làm canh thụt. Bây giờ ở
nhiều nơi, dân đã bán những nguyên liệu này. Ít nhất có mười loại
nguyên liệu được dùng để chế biến canh thụt, như da bò khô, lá nhíp, cà
đắng, đọt mây, ớt xanh...
Có thể nói, những món
ăn mang đậm hương vị của núi rừng Tây Nguyên đang tạo nên một trào lưu
ẩm thực mới tại các nhà hàng, quán xá, đem lại cho thực khách một khẩu
vị hoàn toàn mới lạ, khó quên./.
Người ăn có thể cảm nhận cả mùi
nếp thơm lẫn hương rừng trong miếng cơm lam. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà
không cứng, ăn không biết ngán. Nhiều khi không có thức ăn kèm, người ta
vẫn thấy rất rõ cái vị đậm đà của nó.
Đặc sản của vùng đất bazan ấy được
làm từ gạo nếp ngâm lẫn với lá thơm đêm trước, cho vào ống nứa non. Khi
gạo đã đầy hai phần ba ống, người "đầu bếp" khéo léo đổ nước suối mát
lạnh đựng trong những cái bầu khô đen bóng dốc vào từng ống một. Người
ta tước những thẻ lá chuối già hườm hườm vàng đã tai tái héo bởi hơi
nóng lửa hơ và bắt đầu vê từng cái nút cho từng ống nứa.
Những chiếc ống sau khi đã nạp đủ gạo
và nước, được vùi vào bếp tro hồng. Tiếng những hạt lửa nhỏ nổ, tiếng
nước reo li ti trong ống nghe thật ấm áp. Những hạt gạo dẻo bắt đầu giữ
rịt lấy nhau, nước từ thành ống nứa ngấm dần vào từng hạt gạo....
Trong những ngày lễ hội, rượu ghè cột
thành hàng, thịt nướng và muối ớt đã sẵn sàng. Những ống cơm lam cũng đã
được bày ra. Mỗi người một ống, bốn ngón tay nhẹ nhành tách cái "nồi"
lam ấy thành tư hoặc sáu vừa tầm cho một cái noãn cơm dẻo, đông kết nhô
lên. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà không cứng, ăn không biết ngán.
Một số hình ảnh đẹp
Nhận xét
Đăng nhận xét