BÍ ẨN LỊCH SỬ 128
(ĐC sưu tầm trên NET)
Quỷ Cốc Tử – Nhân vật thần bí nhất trong lịch sử Trung Hoa
Trung Hoa cổ xưa có rất nhiều
nhân vật thần bí, nhưng kể đến nhân vật thần bí nhất thì dân gian
thường kể đến Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử là bậc thần bí kỳ tài, tiếng tăm
lừng lẫy thời Chiến Quốc của Trung Hoa cổ đại. Ông không chỉ được biết
đến là nhà chính trị, ngoại giao, mưu lược tài giỏi mà còn là người tinh
thông đoán mệnh, “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Ngoài ra
ông còn bồi dưỡng ra nhiều người kỳ tài nên cũng được thế nhân xưng là
chuyên gia giáo dục nổi danh.
Thần bí kỳ tài: Quỷ Cốc Tử
Quỷ Cốc Tử tên là Vương Thiền, tự Hủ,
Đạo hiệu là Quỷ Cốc, người thế gian gọi ông là “Quỷ Cốc Tử” và “Vương
Thiền Tổ Sư”. Tên của Quỷ Cốc Tử là có nguồn gốc từ nơi sinh của ông là ở
núi Quy Cốc, tỉnh Hà Nam. Bởi vì chữ “Quy” phát âm gần giống với chữ
“Quỷ”, vì vậy ông lấy chữ “Quỷ” làm tên của mình. Nhưng, không hiểu có
phải do “an bài” hay ngẫu nhiên mà cái tên này lại khiến cho Quỷ Cốc Tử
vốn đã thần bí “thoắt ẩn thoắt hiện” lại càng thêm sắc thái thần bí.
Người thế gian công nhận, Quỷ Cốc Tử là
thủy tổ của Tung Hoành Gia (một học phái trong Cửu Lưu thập gia, thiên
về nghệ thuật ngoại giao xuất hiện trong thời kỳ Chiến Quốc ở Trung
Quốc). Ông là sư phụ của nhiều đệ tử tài giỏi xuất chúng như Tô Tần,
Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên…Cho nên, thế nhân nhiều đời đều ca ngợi
ông là bậc kỳ tài.
Những ghi chép đầu tiên về Quỷ Cốc Tử là
đến từ cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Trong “Sử ký. Tô Tần liệt truyện”
có viết rằng Tô Tần, người ở thành Lạc Dương, nhà Đông Chu là học trò
của Quỷ Cốc Tử tiên sinh. Trong “Sử ký. Trương Nghi liệt truyện” cũng
viết: Trương Nghi người nước Ngụy, là bạn học với Tô Tần, cùng là học
trò của Quỷ Cốc Tử. Tô Tần thường than là không tài giỏi bằng
Trương Nghi. Trong cuốn “Quận trai độc thư chí” của Công Vũ thời Đại
Tống có viết về ông: Thời Chiến Quốc, ông ẩn cư ở vùng núi cao rừng rậm
thuộc đất Dương Thành nhà Chu, lấy tên hiệu là Quỷ Cốc, là thầy dưỡng
tính trị thân của Tô Tần và Trương Nghi.
Tác phẩm và Đồ đệ của Quỷ Cốc Tử
Có rất nhiều truyền thuyết khác nhau về
Quỷ Cốc Tử. Có truyền thuyết nói rằng, Quỷ Cốc Tử là người có tư chất
thông minh thiên bẩm. Từ 2 tuổi đã bắt đầu đọc sách, 5 tuổi bắt đầu học
tập toán quái (xem bói), hơn 10 tuổi đã trở thành thầy xem bói mà mọi
người ở xa gần đều biết. Vì vậy, dân gian cũng cho rằng ông là ông tổ
của mệnh lý.
Trong Đạo Giáo, Quỷ Cốc Tử được công
nhận là “Cổ chi Chân Tiên”, được tôn xưng là “Huyền đô Đạo trường”. Tác
phẩm được lưu lại cho đời sau, có “Bản kinh âm phù thất thuật “, nội
dung nói về đạo lý nghỉ ngơi dưỡng sức. Ngoài ra còn có “Bãi hạp
sách”(còn gọi là “Quỷ Cốc Tử”), nội dung nói về các kỹ xảo trong sách
lược và biện luận. Tác phẩm thể hiện rõ tài hùng biện cao thâm và tinh
diệu của Quỷ Cốc Tử. Trong Tứ khố hoàn thư, cuốn sách này được xếp
vào Tử Bộ Tạp Giao (Tứ khố hoàn thư là bộ sưu tập sách biên soạn trong
suốt triều đại nhà Thanh. Tử bộ là 4 loại: kinh, sử, tử, tập theo sự
phân loại của người xưa. Tạp Giao là một học phái thời Tiên Tần, dung
hợp các học thuyết thành một). Nhưng bởi vì, tư tưởng đàm luận và chỉ
đạo của Tung Hoành Gia khác xa so với tư tưởng của Nho Gia, cho nên các
học giả đời sau không sùng bái cuốn sách này.
Trong các đệ tử mà Quỷ Cốc Tử dạy bảo,
thì Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên là 4 học trò kiệt xuất thế
nhân. Trong tác phẩm “Quỷ Cốc tứ hữu chí” (tên khác là “Tôn Bàng diễn
nghĩa thất quốc chí toàn truyện”) có miêu tả về việc đấu mưu giữa Tôn
Tẫn và Bàng Quyên, liên hoành hợp tung của Tô Tần và Trương Nghi… Đáng
tiếc, Quỷ Cốc Tử nhìn thấy Tô Tần và Trương Nghi nóng lòng muốn truy cầu
theo đuổi công danh, nhập thế thi triển khát vọng nên chỉ có thể than
khổ: Người thành Tiên thật là khó!
Nhưng tục ngữ có câu: Đạo gia chân chính
truyền thừa đều là do Sư Phụ tìm đồ đệ chứ không phải là đồ đệ tìm Sư
Phụ. Vậy nên, việc Quỷ Cốc Tử nhìn rõ Tô Tần và Trương Nghi thì không
phải là ngẫu nhiên mà là đã có chọn lựa.
Quỷ Cốc Tử báo mộng tìm đồ đệ
Tương truyền rằng: Một hôm, Quỷ Cốc Tử
ngồi đả tọa trong hang, bỗng nhiên nghe được tín tức từ trong luồng gió
rào rào thổi tới. Ông đưa ngón tay lên bấm và mừng rỡ khó hiểu. Hóa ra
ông đã đoán ra rằng chư hầu các nước sẽ đem sự thịnh và vong đặt vào tay
hai cao thủ hiếm có. Hai vị này là hai danh tài có một không hai. Quỷ
Cốc Tử quyết định thu nhận hai vị thanh niên có đầy đủ tiên cốt mà chưa
trải qua mài giũa này cho nên đã xuất hang đi tìm kiếm họ.
Trương Nghi ở An ấp, nước Ngụy và Tô Tần
ở Lạc Dương, nhà Đông Chu đều là người ôm chí lớn trong lòng, muốn dựng
lập sự nghiệp vĩ đại. Vì vậy, họ cùng nhau đàm luận, cùng nhau đi chu
du bốn phương, bái phỏng bậc hiền đức. Họ còn miệt mài đọc các kinh sách
cổ của các bậc hiền nhân rồi giúp nhau tìm ra những điều tâm đắc trong
đó.
Hôm ấy, hai người họ cùng ngồi dưới một
gốc cây nghỉ ngơi. Trong bóng tối mờ ảo, Tô Tần nhìn thấy một lão nhân
có diện mạo kỳ lạ tiến lại về phía mình. Ông lão hỏi hai người họ vì sao
lại phải vất vả như vậy? Sau đó ông tự giới thiệu bản thân là Quỷ Cốc
Tử đến từ Quỷ Cốc. Đồng thời, ông cũng lấy từ ngực ra hai cuốn “Âm Phù”
và “Sủy Ma” đưa cho Tô Tần đọc. Tô Tần lướt qua xem thử mấy dòng thì
chợt hiểu ra đây là cuốn sách mà mình đang cần tìm.
Đúng lúc này, đột nhiên ông lão có tên Quỷ Cốc Tử ấy thu hồi cuốn sách và chỉ để lại một câu: “Muốn lấy sách thì đến Quỷ Cốc!”
Ngay sau câu nói ấy thì ông lão kia cũng biến mất. Tô Tần thất thanh la
lớn và chợt tỉnh giấc, lúc này ông mới phát hiện là mình vừa gặp mộng.
Đang lúc trong lòng buồn bực thì lại nghe thấy Trương Nghi đang nằm ngủ
say bên cạnh nói câu: “Lão trượng! Ngài đi thong thả…”
Tô Tần kinh ngạc, lập tức gọi Trương Nghi dậy hỏi:
“Vừa rồi có phải huynh mơ thấy một ông lão tên là Quỷ Cốc Tử không? Ông
lão ấy có phải đã đưa cho huynh hai cuốn sách để đọc qua không?”
Hai người họ sau khi đối chiếu với nhau
thì phát hiện quả nhiên họ vừa đều trải qua cùng một giấc mơ giống hệt
như nhau. Hai người vui mừng đến cực điểm, thầm nghĩ trong lòng rằng
thành tâm thành ý của họ đã làm ông trời cảm động mà phái Thần Tiên đến
báo mộng điểm hóa. Thế là, Tô Tần và Trương Nghi cùng trải qua nhiều
ngày tháng cay đắng khổ sở để đến Quỷ Cốc tìm ông già có tên Quỷ Cốc Tử.
Hai người họ đi vào Quỷ Cốc tưởng chừng
như đang đi giữa chốn bồng lai tiên cảnh. Họ bị hấp dẫn bởi núi xanh
nước biếc, hoa thơm cỏ lạ ở hai bên đường. Đang lúc mắt họ còn nhìn cảnh
vật xung quanh thì ông lão trong mộng hiện ra trước mặt họ. Tô Tần và
Trương Nghi lập tức quỳ xụp xuống lễ bái vị Tiên mà họ gặp trong mộng và
cũng lên tiếng xin được ông thu nhận làm đồ đệ. Thấy hai người họ sớm
đến như vậy lại khẩn thiết xin làm đồ đệ, Quỷ Cốc Tử lòng tràn đầy vui
mừng mà thu nhận. Sau đó, hai người đồ đệ này của Quỷ Cốc Tử lại viết
tiếp ra những trang sử và truyền thuyết mới!
Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch
Mai Trà biên dịch
6 nhân vật truyền kỳ với những dự ngôn chuẩn xác phi thường
Trong 5000 năm lịch sử Trung
Hoa, các bậc thánh hiền nhiều vô kể, người tài giỏi có khả năng đặc
biệt lại càng nhiều không kể xiết. Nếu nói rằng những vị thánh nhân tạo
thành mặt trời thì những người tài giỏi có khả năng đặc biệt chính là
ánh trăng thay phiên nhau thắp sáng bầu trời của lịch sử Trung Hoa cổ
đại.
Dưới đây là 6 nhân vật truyền kỳ, không
chỉ có tài trí hơn người mà còn có những lời tiên đoán trứ danh, mỗi lời
tiên đoán của họ đều lần lượt trở thành sự thực trong lịch sử.
1. Lưu Bá Ôn (Thiêu bính ca)
Buổi sáng một ngày năm 1368, Chu Nguyên
Chương đang ăn cơm, trong đó có món bánh nướng rất phổ biến. Vừa cắn một
miếng thì thái giám truyền báo có Lưu Bá Ôn cầu kiến. Chu Nguyên Chương
đột nhiên nhớ đến Lưu Bá Ôn đã trợ giúp mình tranh đấu giành thiên hạ,
chế định sách lược, dùng binh như thần. Cho nên đã nảy sinh ý định thử
Lưu Bá Ôn một chút.
Thế là, Chu Nguyên Chương cắn một miếng
bánh nướng rồi giấu ở dưới bát, sau đó mới truyền mời Lưu Bá Ôn vào. Sau
khi Lưu Bá Ôn đã ngồi vào chỗ, Chu Nguyên Chương mới hỏi rằng: “Tiên sinh thâm hiểu lý số, vậy có thể biết ở trong bát của ta có vật gì không?”
Lưu Bá Ôn bấm tay tính toán một lúc, rồi nói: “Nửa tựa mặt trời nửa mặt trăng, vừa bị Kim Long cắn một miếng, là cái bánh nướng.”
Chu Nguyên Chương thán phục, liền hỏi tiếp: “Việc trong thiên hạ sẽ ra sao? Thiên hạ nhà Chu có được lâu dài hay không?”
Lưu Bá Ôn đáp: “Số trời mênh mông, ta là chủ vạn con vạn cháu, hà tất phải hỏi”. Lời tiên đoán này có ý rằng: Giang sơn triều Minh sẽ truyền tới Hoàng đế Sùng Trinh, tức Vạn Lịch Hoàng đế rồi dừng.
Điều khiến mọi người kinh ngạc là tất cả
những lời tiên đoán của Lưu Bá Ôn liên quan đến giang sơn khi ấy, từng
lời từng lời đều chuẩn xác với thực tế xảy ra sau này.
2. Quỷ Cốc Tử dùng hoa đoán sự nghiệp của Tôn Tẫn và Bàng Quyên
Quỷ Cốc Tử là người sáng lập của Tung
Hoành Gia (1 trong 9 dòng phái học thuật – Cửu Lưu). Tôn Tẫn và Bàng
Quyên là hai đệ tử đắc ý của ông. Theo sử sách ghi lại, ông là người có
bản lĩnh thông thiên triệt địa, giỏi về toán học, chiêm tinh học. Ông
còn giỏi về bay binh trận, biến hóa vô cùng, quỷ thần đều khó dự liệu.
Ông có khả năng nhớ nhiều biết rộng.
Một lần, Quỷ Cốc Tử bảo Bàng Quyên đi ra
ngoài hái một bông hoa về để ông đoán vận mệnh cho. Bàng Quyên đi ra
ngoài không thấy loại hoa nào khác ngoài cây Mã Đâu Linh, thế là đành
nhổ cả gốc mang về. Quỷ Cốc Tử dựa vào tập tính của loại cây này mà dự
đoán ra ngày Bàng Quyên làm thành đại sự. Đồng thời, ông căn cứ địa điểm
mà Bàng Quyên nhổ loại cây này là ở Quỷ Cốc, gặp mặt trời mà héo nên đã
kết luận nơi mà Bàng Quyên giành được vẻ vang nhất định là ở nước Ngụy.
Quỷ Cốc Tử lại căn cứ vào bông hoa Hoàng cúc mà Tôn Tẫn hái về rồi đoán: “Bông
hoa này bị bẻ gãy, không hoàn hảo nhưng lại có tính chịu được rét, trải
qua sương giá mà không bị hủy hoại, mặc dù có tàn sát nhưng không phải
là đại hung. Lúc cắm trong bình lại được mọi người yêu quý, mà cái bình
là do vàng đúc thành, thuộc loại chung đỉnh, chắc rồi sẽ có tiếng tăm
lừng lẫy. Nhưng loại hoa này phải trải qua cất nhắc, cuối cùng rồi mới
cắm vào bình nên e là nhất thời không thể đắc ý. Thành công của ngươi
vẫn là ở quê hương.”
Không lâu sau thì những dự ngôn này của
Quỷ Cốc Tử từng cái từng cái đều ứng nghiệm chuẩn xác. Người ta cho
rằng, khả năng của Quỷ Cốc Tử là được lập trên cơ sở học rộng tài cao
của ông.
3. Khương Tử Nha (Kiền khôn vạn niên ca)
Mặc dù “Kiền khôn vạn niên ca” của
Khương Tử Nha cũng không quá nổi tiếng nhưng nó lại tiên đoán chuẩn xác
sự biến đổi tương lai của Trung Hoa 5000 năm. Nó là bản dự ngôn lớn
nhất, nhiều nhất về Trung Quốc. Trong lịch sử, rất nhiều việc lớn của
Trung Quốc phát sinh sau này, từng việc từng việc đều là trùng khớp
không sai lệch với dự ngôn này.
4. “Thôi bối đồ” (Đẩy lưng)
Nói “Thôi bối đồ” là đệ nhất kỳ thư của Trung Hoa cũng là xứng đáng.
Tương truyền rằng, “Thôi Bối Đồ” là
Đường Cao Tổ Lý Thế Dân vì để đoán vận mệnh của Đường triều nên đã mời
hai vị đại sư Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang đến suy tính. Không ngờ,
Lý Thuần Phong suy tính ra đến vận mệnh của Trung Quốc 2000 năm sau.
Cho đến lúc Viên Thiên Cang đẩy lưng của Lý Thuần Phong và nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ, hay là đi về nghỉ ngơi đi!” mới dừng lại. Cho nên cuốn sách này được đặt tên là “Thôi Bối Đồ” (ý là đẩy lưng).
Vì cuốn sách này tiên đoán quá chuẩn xác
nên trong ba triều Tống, Nguyên, Minh nó là sách cấm không cho mọi
người được phép xem. Những lời tiên đoán trong cuốn sách này chuẩn xác
đến mức khiến mọi người hoài nghi rằng, những sự kiện liên quan đến vận
mệnh của Trung Quốc đều là dựa theo cuốn sách này mà lần lượt “trình
diễn” ra.
5. Tiên đoán của Viên Thiên Cang về Võ Tắc Thiên
Trong cuốn “Tân đường thư – Viên Thiên
Cang truyện” ghi lại, lúc ấy, cha của Võ Tắc Thiên là đô đốc ở Lợi Châu.
Trong một lần Viên Thiên Cang đi ngang qua ngoài phủ của ông, gặp vợ
của ông đã nói rằng trong nhà họ tất có quý tử. Viên Thiên Cang lúc ấy
đã là bậc thầy về tướng số. Thế là, Viên Thiên Cang được mời vào trong
phủ.
Đầu tiên, hai người con trai của gia
đình họ là Võ Nguyên Khánh và Võ Nguyên Sảng được đưa ra. Viên Thiên
Cang nhìn thấy hai người này liền khen họ là “bảo gia chi tử”. Sau đó,
Viên Thiên Cang nói rằng, con gái của họ tương lai sẽ là quý phu nhân
nhưng lại khắc chồng.
Cuối cùng, khi nhìn thấy Võ Tắc Thiên
đang tập tễnh học bước đi, Viên Thiên Cang có phần kinh hãi, sau khi
nhìn kỹ ông nói rằng Võ Tắc Thiên sinh đúng ở chỗ “long tinh phượng
cảnh” (tạm dịch: con ngươi của rồng, cái cổ của phượng hoàng), có tướng
đại phú đại quý. Là con trai thì tất sẽ là thiên tử. Sau này, quả nhiên
không ngoài dự đoán của Viên Thiên Cang, Võ Tắc Thiên đã trở thành nữ
hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Hoa.
6. “Thất bộ thi” của Tào Thực
Tào Thực là người đất Bái, huyện Tiêu,
nay thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc, là con trai thứ ba của Tào Tháo, em
của Tào Phi. Bài thơ “Thất bộ thi” là bài thơ Tào Thực làm trong bảy
bước đi trong sự bức ép của Tào Phi. Thoạt nhìn, bài thơ rất đơn giản
nhưng nội dung thực sự là châm chọc Tào Phi đa nghi, nhất định thiên hạ
của Tào gia cũng sẽ sớm bị thay thế.
“Chử đậu nhiên đậu ki. Đậu tại phủ trung khấp. Bản thị đồng căn sinh. Tương tiên hà thái cấp.”
(Tạm dịch: Nấu đậu bằng dây đậu, Đậu ở trong nồi khóc. Vốn cùng một gốc
sinh. Đốt nhau sao mà gấp.” Câu chuyện “thất bộ thi” (bài thơ làm trong
bảy bước) của Tào Thực đã trở thành một giai thoại trong lịch sử văn
học Trung Quốc và được truyền tụng mãi đến ngày nay.
6 đại dự ngôn truyền kỳ trong lịch sử
Trung Hoa chuẩn xác đến mức khiến người đời sau phải sợ hãi và thán
phục. Đồng thời cũng khiến người ta hoài nghi rằng: “Phải chăng thế giới này thực sự tồn tại một số quy luật mà có thể đoán trước được vận mệnh tương lai?”
Theo NTDTV
Mai Trà biên dịch
Mai Trà biên dịch
Vì sao Gia Cát Lượng có thể biết được thiên tượng 2.000 năm sau?
Có rất nhiều điều mà con người không lý giải được. Lúc nhỏ xem Tam quốc diễn nghĩa, điều khiến tôi khó hiểu nhất là vì sao người ta có thể qua bói toán mà biết trước được những sự việc chưa xảy ra.
Đối với tôi, đó là những chi tiết thú vị
nhất nhưng cũng khó hiểu nhất. Gia Cát Lượng sống ở vùng Long Trung,
ông chưa từng bước chân khỏi quê nhà của mình nhưng đã biết được việc
thiên hạ sẽ chia ba. Thời bấy giờ không có báo chí, đài phát thanh hay
điện báo, sao ông có thể biết được rõ ràng những chuyện đại sự trong
thiên hạ đến vậy?
Tam Quốc diễn nghĩa, “hồi thứ
57”: Lại nói Khổng Minh ở Kinh Châu, ban đêm quan sát thiên văn thấy sao
rơi xuống đất, liền cười nói: “Chu Du đã chết rồi.” Đến sáng, nói lại
với Huyền Đức. Huyền Đức cử người đi thám thính, quả nhiên đã chết rồi.
Huyền Đức hỏi Khổng Minh rằng: “Chu Du đã chết, mọi chuyện sẽ thế nào?”
Khổng Minh nói: “Người lãnh binh thay Chu Du ắt là Lỗ Túc. Lượng quan
sát thiên tượng, thấy sao Tương tụ ở phương đông. Lượng sẽ lấy cớ viếng
lễ tang sang Giang Đông một chuyến để tìm hiền sĩ phò trợ chúa công.”
Huyền Đức nói: “Chỉ e là tướng sĩ quân Ngô sẽ hãm hại tiên sinh.” Khổng
Minh nói: “Khi Du còn sống Lượng còn chẳng sợ, nay Du đã chết còn lo gì
nữa?”
Sau liền cùng Triệu Vân dẫn theo 500
quân sĩ, chuẩn bị lễ vật, xuống thuyền đến Ba Khâu đưa tang. Trên đường
đi, thám thính được Tôn Quyền đã phong Lỗ Túc làm đô đốc, linh cữu Chu
Du đã đưa về Sài Tang. Đoạn này nói Gia Cát Lượng nhìn thấy sao Tương
rơi liền biết được Chu Du đã chết, đồng thời, trước chuyến đi sang Đông
Ngô lần này ông không hề lo sợ cho tính mạng của mình. Tại sao như vậy,
bởi ông đã biết trước rằng lần này đến Đông Ngô, dẫu cho bao nhiêu người
căm hận ông nhưng mạng sống của ông vẫn bảo toàn.
“Hồi thứ 63”: Lại nói khi Khổng Minh ở
Kinh Châu, vào dịp tết Thất tịch, chúng quan mở hội yến tiệc cùng bàn về
việc thu hồi Kinh Châu. Bỗng thấy một ngôi sao to như cái đầu xuất hiện
ở phía tây, từ trên trời rơi xuống, ánh sáng tỏa ra bốn phía. Khổng
Minh thất kinh, ném ly xuống đất, ôm mặt khóc rằng: “Bi ai thay! Đau xót
thay!” Chúng quan hoảng hốt hỏi duyên cớ. Khổng Minh nói: “Trước đây ta
đoán rằng năm nay sao Thiên Cương ở hướng tây sẽ bất lợi cho quân sư;
Thiên Cẩu xâm phạm quân ta, sao Thái Bạch ở gần Lạc Thành, ta đã gửi thư
cho chúa công dặn phải đề phòng cẩn thận. Ngờ đâu đêm nay sao rơi phía
tây, mạng sống của Bàng Sĩ Nguyên ắt đã chấm hết rồi!” Nói xong, lớn
tiếng khóc rằng: “Hôm nay, chúa công chúng ta đã mất đi một cánh tay
rồi!” Chúng quan đều thất kinh, chưa tin lời ông. Khổng Minh nói: “Trong
mấy ngày nữa, ắt có tin tức.” Tiệc rượu chưa kịp vui đã tàn cuộc. Mấy
ngày sau, quả nhiên có tin báo rằng quân sư Bàng Thống bị tên bắn chết
trước gò Lạc Phượng. Người viết nghĩ rằng nếu như Gia Cát Lượng không có
khả năng đoán chính xác, việc chưa xảy ra mà đã khóc lớn, nếu sau này
Bàng Thống không chết thì chẳng phải tự làm mình mất mặt sao, sau này
sao có thể duy trì quân lệnh như sơn được nữa? Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Gia Cát Lượng cũng đều thông qua quan sát tinh tượng mà biết trước được cái chết của Quan Vũ và Trương Phi.
“Hồi thứ 103”: Đang đêm, Khổng Minh đang
ốm vẫn ra khỏi lều, ngẩng đầu quan sát thiên văn, ông vô cùng kinh hãi
liền vào lều bảo với Khương Duy rằng: “Mệnh ta nội trong sớm tối nay mà
thôi!” Duy nói: “Thừa tướng sao lại nói những lời như vậy?”. Khổng Minh
nói: “Ta thấy trong sao Tam Đài, sao khách sáng lạn gấp bội, sao chủ u
tối, các chòm sao tương phụ nhau, ánh sáng của nó đã mờ tối: thiên tượng
như vậy, mệnh ta có thể tự rõ được!” Cùng lúc đó, Tư Mã Ý—một đối thủ
đang cố thủ trong một doanh trại khác—bỗng một đêm ngẩng đầu quan sát
thiên văn, vô cùng mừng rỡ nói với Hạ Hầu Bá rằng: “Ta thấy sao Tương
mất vị trí, Khổng Minh ắt đang mắc bệnh nặng, không lâu sẽ chết.”… Khổng
Minh vứt kiếm mà than rằng: “Sống chết có số, không thể cưỡng cầu
được!” Ngay đêm hôm đó, Khổng Minh lệnh cho người dìu ra ngoài, ngẩng
đầu nhìn sao Bắc Đẩu, chỉ về một ngôi sao xa xôi nói: “Kia là tướng tinh
của ta đó.” Mọi người nhìn theo, thấy ngôi sao đó màu sắc u tối, le lói
sắp tắt. Quả nhiên đêm đó, Gia Cát Lượng quy tiên.
Nếu như nói Tam quốc diễn nghĩa chỉ là cuốn tiểu thuyết, vậy thì Mã Tiền Khóa của Gia Cát Lượng khẳng định là dự ngôn thực sự, ý nghĩa thâm sâu khó lường. Hai nghìn năm nay, dự ngôn Mã Tiền Khóa chuẩn xác phi thường. Thế nên, người ta bèn hoài nghi rằng Mã Tiền Khóa là
do người đời sau dựa vào lịch sử đã qua mà biên tạo thành. Nhưng
đến cuối triều Minh, đầu triều Thanh đại văn hào Kim Thánh Thán đã đưa
ra chú giải cho Mã Tiền Khóa. Lúc đó, khóa thứ 9 đến khóa thứ 14 trong Mã Tiền Khóa vẫn
chưa thành hiện thực. Khóa thứ 9 viết rằng: “Thủy nguyệt hữu chủ, cổ
nguyệt vi quân, thập truyền tuyệt thống, tương kính như tân” (nước trăng
có chủ, trăng cổ làm vua, truyền mười tuyệt sạch, kính nhau như khách).
Khóa thứ 10 viết rằng: “Chư hậu ngưu tiền, thiên nhân nhất khẩu, ngũ
nhị đảo trí, bằng lai vô cữu” (lợn sau trâu trước, nghìn người một
miệng, năm sau đảo ngược, bạn đến không trách). Kim Thánh Thán đã đưa ra
rất nhiều suy đoán về chữ “thống” trong “thập truyền tuyệt thống”,
nhưng ông đâu ngờ rằng chữ “thống” này tức chỉ Hoàng đế Tuyên Thống.
Triều Mãn Thanh kết thúc bởi hoàng đế Tuyên Thống, thật tuyệt diệu!
“Thiên nhân nhất khẩu” trong khóa thứ 10, chính xác là chữ “hòa”. Như
vậy, năm 1911 là năm Hợi, năm 1913 là năm Sửu, năm ở giữa chẳng phải là
năm 1912 hay sao? Mà nước cộng hòa đầu tiên ở châu Á lại thành lập vào
năm 1912, không sai lệch chút nào (1912, Tôn Dật Tiên chính thức tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Đây là
một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn
2.000 năm phong kiến Trung Quốc). Lúc đó, Gia Cát Lượng đã mất gần 2,000
năm rồi, sao ông có thể đoán được chuẩn xác đến vậy?
Sự thành lập của nước cộng hòa đầu
tiên ở châu Á vào năm 1912 khiến người đời sau được tận mắt kiểm chứng
sự tiên đoán thần diệu của Gia Cát Lượng. Mấy nghìn năm nay, người ta
đều biết có các loại thần cơ, nhưng không ai có thể giải thích rõ căn
nguyên của nó. Trong giới tu luyện có một công năng gọi là Túc mệnh
thông. Đây là loại công năng cho phép người ta có thể nhìn thấy quá khứ
vị lai của đời người, lớn nữa là của xã hội và lớn hơn nữa là của toàn
thiên thể vũ trụ. Nếu ai có được loại công năng này thì không khó có thể
đưa ra những dự ngôn chính xác như những gì Gia Cát Lượng đã tiên đoán.
Chỉ có điều vì nhiều điều phát sinh sau này của nhân loại mà thời xưa
chưa có ngôn từ để diễn giải, nên khi đọc tiên đoán sự việc của tương
lai, chúng ta cảm thấy rất khó hiểu và khó có thể lý giải trên câu chữ.
Một lý do khác nữa là mà trong giới tu luyện cũng hiểu rõ, thiên cơ thì
không thể tuỳ tiện tiết lộ cho con người thế gian, nên các lời dự ngôn
đều mang trong đó đầy những sự khó hiểu huyền hoặc.
Nhiều dự ngôn báo trước thế giới sẽ có
sự thay đổi đáng sợ, có thể là trong mấy năm một trận đại ôn dịch sẽ bao
trùm toàn thế giới như trong lời dự ngôn của Lưu Bá Ôn: “Một vạn người
giàu lưu lại hai, ba người, một vạn người nghèo lưu lại 1.000 người.”
Ngoài ra còn có rất nhiều dự ngôn báo trước sẽ có tai nạn cực lớn xảy
ra.
Đã có rất nhiều dự ngôn khác cũng cảnh
báo cho con người sẽ có một cuộc đại đào thải diễn ra ở thế gian. Gia
Cát Lượng thậm chí có thể biết trước được sự việc sau 2.000 năm. Nếu
những gì được nói đến là sự thật, vậy thì khi đại kiếp nạn xảy ra sẽ
giống như thời La Mã cổ đại, người người hễ gặp mặt là tử vong, thật
đáng sợ biết nhường nào. Trong thời đại mà đạo đức nhân loại bại hoại
chưa từng có trong lịch sử này, có lẽ cũng nên suy nghĩ một cách thấu
đáo về những lời dự ngôn và cảnh tỉnh kia?
Biên tập theo chanhkien.org
Truyền thuyết về chiếc quạt lông vũ của Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng là nhà chính trị,
nhà quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất của thời kỳ Tam Quốc. Ông là một
nhân vật nổi tiếng trong lịch sử mà ai ai cũng biết. Ông đã trở thành
một hình tượng về trí tuệ và trung nghĩa.
Chiếc quạt lông vũ của Gia Cát Lượng hẳn
là có ý nghĩa rất quan trọng với ông, cho nên trong các hình ảnh mà
chúng ta thường gặp về Gia Cát Lượng, chúng ta đều nhìn thấy trên tay
ông thường cầm chiếc quạt này.
Về chiếc quạt này của Gia Cát Lượng, ngoài truyền thuyết là làm từ đuôi hạc tiên trong chuyện Gia Cát Lượng bái sư học đạo, dân gian còn có lưu truyền một câu chuyện như thế này:
Thiên kim tiểu thư của Hoàng Thừa Ngạn
là một cô gái vô cùng thông minh, tài hoa xuất chúng tên là Hoàng Nguyệt
Anh. Hoàng Nguyệt Anh không chỉ vẽ đẹp mà còn có võ nghệ hơn người. Cô
từng theo học võ của một danh sư nổi tiếng ở trên một ngọn núi. Lúc đã
thành tài xuống núi, vị danh sư này đã tặng cho cô một chiếc quạt lông
ngỗng, cùng với hai chữ “Minh” và “Lượng”. Bên trong hai chữ này ẩn giấu
nhiều kế sách “công thành lược địa” và “trị quốc an bang”.
Đồng thời ông còn dặn dò Hoàng Nguyệt Anh rằng: “Hai chữ này chính là tên của đức lang quân như ý của con!”
Về sau, khi Gia Cát Lượng tới nhà Hoàng
Nguyệt Anh cầu hôn, cô liền đem chiếc quạt lông vũ này ra xem như lễ vật
tặng lại cho Gia Cát Lượng.
Hoàng Nguyệt Anh hỏi Gia Cát Lượng: “Gia Cát tiên sinh, ngài có biết dụng ý của tôi khi tặng ngài chiếc quạt này không?”
Gia Cát Lượng trả lời: “Là lễ thì nhẹ nhưng nghĩa tình thì nặng có đúng không?”
Hoàng Nguyệt Anh lại nói: “Còn có nghĩa thứ hai nữa?”
Gia Cát Lượng suy nghĩ mãi mà vẫn không ra được ý nghĩa thứ hai này, nên Hoàng Nguyệt Anh lại nói: “Gia
Cát tiên sinh, tiên sinh vừa cùng gia phụ đàm luận thiên hạ đại sự, tâm
mang đại kế, khí vũ hiên ngang, say mê hứng thú. Nhưng mà, tôi phát
hiện rằng khi ngài nói tới Tào Tháo và Tôn Quyền thì chân mày lại hiện
rõ ưu tư, lo lắng. Tôi tặng ngài chiếc quạt này là để ngài che mặt những
lúc như vậy”.
Với trí thông minh của mình, Hoàng
Nguyệt Anh biết rõ, đại trượng phu lúc làm việc lớn phải giữ tâm thái
bình thản, không thể để tình cảm làm dao động, xử trí sự việc theo cảm
xúc và lại càng không để người khác phát hiện ra. Như vậy sẽ bị khinh
thường mà việc lớn không thành.
Sau khi Gia Cát Lượng cưới Hoàng Nguyệt
Anh, Gia Cát Lượng yêu chiếc quạt lông vũ như viên ngọc quý, lúc nào
cũng cầm trên tay như hình với bóng. Bất kể là ở “lục xuất kỳ sơn” hay ở
“thuyền cỏ mượn tên”, “không thành kế”, Gia Cát Lượng đều lay động nhẹ
chiếc quạt lông vũ này, thể hiện sự tự tin trong lòng, nắm chắc phần
thắng.
Gia Cát Lượng trân quý chiếc quạt không
chỉ thể hiện ra tình cảm chân thành tha thiết, không thay đổi giữa hai
vợ chồng ông mà còn để vận dụng thành thục mưu lược được ẩn giấu trên
chiếc quạt này theo một truyền thuyết khác. Cho nên bất kể xuân hạ thu
đông, chiếc quạt này luôn ở trên tay của Gia Cát Lượng mà không rời xa.
Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch
Mai Trà biên dịch
Trương Quả Lão tiên đoán số kiếp nhân loại từ 1000 năm trước
Những năm cuối triều đại nhà
Đường (618-907), Trương Quả Lão và Trương Thiên Sư tới gặp Vua, Linh
Quan trong buổi nói chuyện đã có đoạn khẳng khái dự đoán đến cảnh thế sự
ngày nay.
Trương Quả Lão còn có tên là Trương Quả,
là một trong số 8 vị tiên của Đạo giáo, nhờ tu Đạo mà trở thành tiên.
Ông là vị tiên có nguyên mẫu là nhân vật có thật trong lịch sử.
Trương Quả Lão nói rằng đúng một ngàn năm sau: “Quan
không lo việc nước, chỉ biết nhận hối lội, cứ hối lộ là giải quyết được
mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt, chính là trở thành ma quỷ bóc
lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo, phóng túng tình dục, người người
chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì đến liêm sỉ lễ nghĩa”. Hiện
nay, những sự tình này đều đã xuất hiện, trong các bài báo tin tức hàng
ngày đều thấy các chuyện tham ô, hủ bại, khiêu dâm, chính là cảnh tượng
bại hoại của thời mạt thế.
Trương Quả Lão trong dự ngôn thời mạt thế đã phân tích rất sâu sắc, chân thực. Ông đã nói:
“Từ
thực chất mà nói, con người thời mạt thế làm hại lẫn nhau, có thể đổi
mạng người khác vì cuộc sống của mình, khắp nơi trong thiên hạ bất ổn,
chiến tranh liên miên, có thể gọi là đại loạn, không lời nào diễn tả
hết. Nhân thế như vậy, sự hỗn loạn ở thiên hạ trở nên bại hoại chủ yếu
là do nhân tâm không còn, con người trở thành những con quỷ trong bộ da
mới, đó mới thực sự là đại loạn kinh hoàng. Người xưa nói, nhân tâm đảo
lộn, đạo trời không dung. Tám chữ đó của cổ nhân đúng là lời chú thích
chính xác cho thời kỳ này. Nhân thế loạn đến mức này ắt sẽ bị trừng trị,
những linh hồn bất hảo sẽ bị đày xuống quỷ giới”.
Những
thời kỳ loạn thế trong lịch sử hoàn toàn không phải là loạn, nó chẳng
qua chỉ là những thời kỳ chiến sự, khi kết thúc là thanh bình, chỉ có
cảnh đại loạn ngày nay là vì nhân tâm không còn, người hóa thành quỷ.
Chính là lúc “nhân tâm đảo lộn, đạo trời không dung” mới thực sự là loạn thế mà trong dự ngôn của Trương Quả Lão nhắc tới.
Trong cuốn Bát tiên đắc Đạo truyện có viết:
Trương Quả Lão nhìn Nhị Linh Quan cười nói: “Người
tài có thể nghe mà hiểu rõ. Nhị Công sở nói quỷ thế ngập trời, con
người sẽ giống như ác quỷ, lời nói này nghe thật kinh hãi, kỳ thực tương
lai chắc chắn sẽ có ngày như thế, bất quá chỉ đến sau 1000 năm nữa mà
thôi.”
Về
cơ bản, có thiện thì có ác, cũng là có âm thì có dương. Từ thủa sơ khai
còn hỗn độn, con người đều rất tự nhiên chất phác, không có xảo trá, đều
là người lương thiện. Cho đến hậu thế sau này, thì con người càng ngày
càng trở nên xảo trá, mỗi ngày một ghê gớm hơn, nhân tâm đời này qua đời
khác nguội lạnh đi từng từng ngày. Đến lúc này đây là như băng giá cũng
là lúc dương khí thế gian suy kiệt, âm khí đang ở thời kỳ thịnh vượng.
Nhị công sở nói đó chính là lúc quỷ thế ngập trời.
Quỷ là thuộc về chí âm, con người
trở nên quỷ quái, tất cả đều là đê tiện xấu xa và gian hiểm, giảo hoạt
như những tên trộm. Trên thì quan không lo việc nước, chỉ biết nhận hối
lộ. Cứ hối lộ là giải quyết được mọi việc, đút lót cả ban ngày ban mặt,
chính là trở thành ma quỷ bóc lột nhân dân. Thiên hạ trở nên vô đạo,
phóng túng tình dục, người người chỉ lo cầu lợi cho mình, không kể gì
đến liêm sỉ lễ nghĩa. Con người tiến gần đến với quỷ mà không biết, tùy ý
mà phá rối, tuyệt nhiên không ai ngăn cản được. Đó gọi là tâm địa của
quỷ, lòng dạ của quỷ, mưu mô của quỷ, suy nghĩ của quỷ, tương lai từng
việc từng việc sẽ bộc lộ ra. Cuối cùng là người và quỷ không còn khác
biệt, vũ trụ to lớn hoàn toàn trở thành quỷ giới, nhưng đây đều là việc
tương lai.
Kẻ
bần đạo ước chừng trong khoảng 1500 năm nữa, nhìn chung cảnh tưởng như
thế sẽ tới. Hôm nay mà nói về nó thì hãy còn quá sớm mà thôi”.
Thiên Sư nghe xong, cười nói: “Bạn cũ đường xa đến thăm hỏi kỳ thực ra là muốn được nghe chia sẻ”. Nghe xong Trương Quả Lão lại nở nụ cười và nói: “Lời
này mọi người hôm nay nghe xong chắc đều cho rằng ta nói hơi quá. Nhưng
ta quả quyết đó không phải là những tuyên bố vui đùa, thật sự là tương
lai nhất định có ngày đó. Hết thảy trời đất đều thuận theo Đạo, không
ngoài hai chữ âm dương. Dương thịnh thì âm suy, âm thịnh thì dương cũng
ngừng. Các triều đại ngày xưa cũng vậy, lúc ổn định lúc loạn lạc, lúc
thịnh lúc suy, chính là đạo lý này.
Nhân
thế loạn đến mức như vậy cũng là lúc những người tốt bị hãm hại, bị chà
đạp đại diện cho dương khí của thời loạn thế, còn quỷ giới chính là âm
khí của thời này. Trong đó phần dương khí ban đầu đã chuyển thành âm
khí, trung gian chẳng thể tính là đã kinh qua mấy nghìn mấy vạn năm. Đến
thời kỳ đỉnh điểm của đại loạn này thì chỉ còn âm khí. Dương khí suy
kiệt, âm dương đảo lộn như thế so với từ cổ chí kim là hoàn toàn khác
hẳn. Thái cực dương vốn lương thiện dù biểu hiện ra bên ngoài thì vẫn
còn hào nhoáng đẹp đẽ, nhưng bên trong đã mục rỗng, cảnh tượng khó diễn
tả hết bằng lời. Thái cực âm trở nên hỗn độn, vừa rối loạn vừa điên đảo,
mơ hồ, không định rõ là gì, chỉ có chướng khí mịt mù. Nhân tâm thế gian
lúc này đây có thể coi là cực loạn.
Cái
loạn bắt nguồn trong nhân tâm mà không phải ở sự việc bề ngoài nữa. Đó
gọi là loạn từ căn bản nhất, không phải là sự loạn nhỏ nhoi nhất thời,
không có gì loạn bằng. Thời kỳ con người lương thiện như lúc thượng cổ
đã qua, lúc này đây chính là thời kỳ đại loạn.
Từ
lúc này về sau, thiên địa chắc chắn hợp lại làm một. Phải chờ đến một
giai đoạn khai sáng mới, khôi phục lại bản tính thiện trong con người,
để lại bắt đầu một kỷ nguyên mới. Đạo trời chính là như thế, không thuận
có được chăng? Dù có trí tuệ to lớn như Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nguyên
Thủy Thiên Tôn, Vương Mẫu Nương Nương, Tây Phương Phật Hòa Đông Phương
Sóc, cũng không thể nào cứu vãn được sự biến hóa nhân tâm lúc này.”
Thiên Sư và Linh Quan nghe xong lấy làm kinh ngạc không thôi.
Theo NTDTV
Minh Quân
Minh Quân
Nhận xét
Đăng nhận xét