Thứ Tư, 14 tháng 3, 2018

HIỆN THỰC KỲ ẢO 87/6 (Nghi binh trong chiến tranh)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Đại chiến Xích Bích- Chu Du, Khổng Minh dùng hỏa công đại phá 83 vạn quân tào


Trận Xích Bích: Tranh cãi nghìn năm về kế của Chu Du hay Gia Cát Lượng


Xích Bích là trận đánh lớn trong "Tam Quốc Diễn Nghĩa". Đến nay, các chuyên gia lịch sử còn tranh luận gay gắt về những bí ẩn của đại chiến này.
Sau trận đại chiến này, thế chân vạc (Ngụy - Thục - Ngô) chính thức được hình thành, mở ra giai đoạn định đoạt thiên hạ hàng chục năm sau đó mà không bên nào giành thắng lợi tuyệt đối, cho đến khi cha con Tư Mã Ý thống nhất thiên hạ.
Trận đánh đã được hầu hết sử gia miêu tả trong các tác phẩm lịch sử, ghi dấu ấn công lao của nhiều nhân vật lừng danh. Đồng thời, tài năng, tính cách của những Chu Du, Gia Cát Lượng, Tôn Quyền, Tào Tháo…cũng được khắc họa chi tiết.

Những tranh cãi

Từ trước đến nay, đại chiến Xích Bích thường gắn liền những miêu tả trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Theo La Quán Trung, lực lượng quân Tào tham chiến và hoàn toàn bị tiêu diệt ở trận này lên tới 800.000 người. Tuy nhiên, đây có thể là con số không chính xác.
Các tư liệu sử học chính thống còn lưu giữ được cho thấy số quân Tào Tháo tham chiến ở Xích Bích không lớn như La Quán Trung nêu ra mà ít hơn rất nhiều, khoảng 200.000 người.
Tran Xich Bich: Tranh cai nghin nam ve ke cua Chu Du hay Gia Cat Luong hinh anh 1
Đại chiến Xích Bích được dựng lại thành phim.
Sau khi chiếm được Kinh Châu, Tào Tháo thu nhận hàng binh từ Lưu Biểu, giúp quân số tăng lên gần 300.000. Thậm chí, theo Tam Quốc Chí của Trần Thọ, quân số thực sự có thể chiến đấu của Tào Ngụy chỉ khoảng 150.000 người.
Ở phía bên kia chiến tuyến, Tôn Quyền có 30.000 thủy quân. Lưu Bị có 10.000 thủy quân và gần 10.000 bộ binh. Như vậy, liên minh Thục - Ngô về cơ bản có khoảng 50.000 - 60.000 quân lính.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung miêu tả việc Gia Cát Lượng dùng diệu kế “người cỏ mượn tên” để thu về hàng vạn mũi tên của Tào Tháo mà chẳng cần mất binh tốt nào.
Những chi tiết miêu tả của La Quán Trung hết sức ly kỳ, đã tôn vinh tài trí của Khổng Minh lên mức “thánh thần”. Ví dụ, việc ông biết âm mưu của Chu Du muốn giết mình, rồi những dự đoán về sự biến đổi của thời tiết trong những ngày tiếp theo…
Tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Tuy nhiên, theo sách 100 điều chưa biết về Gia Cát Lượng của các nhà sử học Trung Quốc, “thuyền cỏ mượn tên” không phải là kế của Không Minh, mà của Tôn Quyền.

Thành Cát Tư Hãn và trận đánh lớn nhất cuộc đời binh nghiệp

Thành Cát Tư Hãn là nhân vật đặc biệt trong lịch sử. Ông đã biến những kẻ du mục trên thảo nguyên Mông Cổ thành người thống lĩnh thế giới.

Ai nghĩ ra kế 'hỏa công'?

Đây cũng chính là một trong những chi tiết gây tranh cãi trong trận đánh lịch sử này. Dùng “hỏa công” để tiêu diệt đại quân của Tào Tháo là chủ kế của Khổng Minh, Chu Du hay danh tướng nào khác?
Theo La Quán Trung, “hỏa công” là chủ ý của Khổng Minh và Chu Du. Cụ thể, diệu kế này được 2 người họ cùng nghĩ ra và viết lên tấm lụa trắng.
Tuy nhiên, theo ghi chép của nhiều nhà sử học, kể cả Tam Quốc Chí của Trần Thọ, người đề xuất kế đốt cháy quân Tào chính là lão tướng Hoàng Cái. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông đã “trá hàng” quân Tào trước đó.
Trần Thọ trong phần Ngô thư - Ngô chủ truyện viết: "Du, Phổ làm tả hữu Đô đốc, mỗi người lĩnh vạn quân, hợp sức cùng Bị. Đụng độ tại Xích Bích, đại phá Tào công. Công đốt thuyền rút lui, sĩ tốt đói mệt, chết quá nửa".
Bộ tướng Du là Hoàng Cái nói  Địch đông ta ít, khó đánh lâu dài. Nay quan sát thấy thuyền Tào nối liền đầu đuôi, có thể dùng hỏa công... nên gửi thư cho Tào công trước, giả vờ đầu hàng. Đợi quân sĩ Tào công chủ quan, Cái phóng hỏa. Thuận gió mạnh, lửa ắt thiêu cháy doanh trại trên bờ'".
Trong phần Hoàng Cái truyện của Tam Quốc Chí, tác giả Trần Thọ đã ghi danh Hoàng Cái là nhân vật đã có công theo Chu Du kháng Tào ở Xích Bích, "hiến kế hỏa công".
Ngoài những tranh cãi ở trên thì hàng nghìn năm nay, địa điểm chính thức từng diễn ra trận Xích Bích vẫn là bí mật, với nhiều ý kiến khác nhau của giới sử học.
Người ta vẫn chưa thể xác định được nơi chính xác đại chiến diễn ra. Nguyên nhân của tranh cãi này là bởi sông Trường Giang đã đổi dòng chảy từ thời nhà Đường, dẫn đến nhiều địa danh lịch sử không còn nằm ở vị trí cũ của nó.

Danh tướng nào đã đánh bại Napoleon Bonaparte huyền thoại?

Từng là danh tướng huyền thoại, bách chiến bách thắng, nhưng cuối cùng, Napoleon cũng bị đánh bại. Người nào đã đánh bại Napoleon Bonaparte huyền thoại?
Nguyễn Thanh Điệp

Kế Không thành của Khổng Minh

Gia Cát Lượng (Trung诸葛亮 <諸葛亮> (Gia Cát Lượng)Zhūge Liàngtự là Khổng Minh (181234),[1] hiệu là Ngọa Long tiên sinh, là nhà chính trị nhà quân sự kiệt xuất của Trung Quốc trong thời Tam Quốc.

Gia Cát Lượng là một nhà ngoại giao cự phách và cũng là một nhà phát minh tài năng. Đóng góp lớn nhất của Gia Cát Lượng chính là việc giúp hình thành thế chân vạc tam quốc, liên minh Thục-Ngô chống Tào. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử[2]

Võ hầu gảy đàn đuổi Trọng Đạt (Không thành kế)
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng về Tây thành, trong thành khoảng 2000 quan văn, cùng Quan Hưng vào 500 lính kị mã. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui. Sau đó Quan Hưng cùng 500 lính phục kích hò reo làm cho Tư Mã Ý sợ có nghi binh nên bỏ chạy. Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu, mà một mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình, Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều.
Tư Mã Ý
Tam Quốc diễn nghĩa có bài thơ khen Khổng Minh rằng:
Gảy đàn ba tấc thắng quân hùng
Gia Cát Tây thành đuổi giặc hung
Hơn chục vạn quân lo tháo chạy
Thổ dân chỉ điểm ở nơi cùng.

Tại huyện nhỏ Tây Thành, Gia Cát Lượng, Thừa tướng nhà Thục Hán một mình gẩy đàn, đuổi Tư Mã Ý - Phiêu kỵ đại tướng quân nhà Tào Ngụy với mười vạn hùng binh. Trận chiến qua tiếng đàn này được người sau lưu truyền là Không thành kế, Gia Cát Tây thành đuổi giặc hung và coi đó như một biểu tượng cho sự cơ trí, mẫn tiệp vô song của Gia Cát Khổng Minh. 
Nhưng trong tiếng đàn hàm chứa những điều bất ngờ??


Video: GCL gảy đàn đuổi TMY
Bối cảnh diễn ra sự kiện này là khi Gia Cát Lượng thống lĩnh binh mã nước Thục, Bắc phạt lần thứ nhất. Quân Thục liên tiếp đại thắng quân Ngụy, bắt sống phò mã nước Ngụy là Hạ Hầu Mậu, đả bại Đô đốc Ngụy quốc Tào Chân, thu nạp danh tướng Khương Duy.
Cùng khi đó Mạnh Đạt ở Tân Thành mưu phản biến nhà Ngụy, định cất binh đánh úp Ngụy đế Tào Duệ. Ngụy quốc lâm nguy, Ngụy Đế cấp tốc trọng dụng lại Tư Mã Ý.
Ý nhận lệnh của vua liền đưa binh từ Uyển Thành kéo tới Tân Thành, trong ứng ngoài hợp đánh giết Mạnh Đạt rồi dẫn quân tiếp ứng cho Tào Chân. 


Chống lại Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng sai tiên phong Mã Tốc, phó tướng Vương Bình ra chiếm Nhai Đình bảo vệ sườn cũng là đường vận lương huyết mạch của Thục quân. Thay vì theo lời Vương Bình là lập đồn chiếm giữ cửa ải thì Mã Tốc cậy mình thông hiểu binh pháp đã kéo binh lên đóng trên một quả núi đất, định dồn quân Thục vào chỗ chết, từ đó toàn quân quyết tử để đại phá quân Ngụy. 
Chẳng ngờ Tư Mã Ý bủa vây núi, rồi chặt đứt đường nước của quân Thục. Thục binh đại loạn. Mã Tốc may nhờ Vương Bình cố chết cứu mới chạy thoát về Hán Trung được.


Về phần Gia Cát Lượng, đường lương bị cắt, vô kế khả thi bèn ra lệnh rút quân. Trước khi rút, ông ra Tây Thành để vận chuyển nốt hai mươi vạn thạch lương còn lại. Binh sỹ đi theo ngoài bộ tướng Khương Duy với 300 giáp sĩ hộ vệ chỉ còn lại 2000 binh sỹ già yếu.
Vận lương Tây Thành chưa xong, Tư Mã Ý đột nhiên kéo đại binh đến. Khói bụi mù trời, Khương Duy kiến nghị nhanh chóng rời bỏ Tây Thành tháo chạy về Thục. Nhưng Gia Cát Lượng cho rằng chạy tất chết không thể nào thoát khỏi thiết kỵ của Tư Mã Ý.
Lượng quyết định đánh cược một phen với trời với số phận của chính mình. Quân Thục mở tung của thành, cắt mấy chục lính làm dân phu, bản thân Gia Cát Lượng ôm đàn lên lầu độc tấu chống hùng binh Tư Mã Ý.

Ý dẫn quân kéo đến Tây Thành, thấy phong cảnh như vậy, đăm chiêu nghe Gia Cát Lượng gẩy đàn rồi hạ lệnh đổi tiền quân làm hậu quân nhanh chóng tháo lui. Tư Mã Chiêu (con Tư Mã Ý) bảo đó: ngộ nhỡ Gia Cát Lượng không có quân, bày ra thế thì sao? Ý không nghe, tháo lui khỏi Tây Thành.
 
Theo Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì trên đường tháo chạy, Tư Mã Ý còn bị Quan Hưng, Trương Bào, dóng trống mở cờ đuổi quân Ngụy hồn xiêu phách tán.
Tuy nhiên khi xem bộ phim Tam Quốc Diễn Nghĩa 2010, thì trong tiếng đàn có Gia Cát có rất nhiều thâm ý. Quân Ngụy rút chạy rồi, Gia Cát Lượng thốt lên: "Trời xanh cứu ta, Tư Mã Ý thực là hiểu âm luật". Về phần Tư Mã Ý về đến trại, kéo ghế cho Tư Mã Sư ngồi, nghe con nói qua tình hình Tây Thành rồi bảo: "Ta thua Khổng Minh ở số trời, số trời không giúp ta".
Vậy trong tiếng đàn Gia Cát ở Tây Thành có những gì, âm luật gì vậy? Có lẽ qua tiếng đàn (qua âm luật) Gia Cát Lượng đã chuyển đến Tư Mã Ý thông điệp: Nhà Ngụy ba đời liền nghi ngờ, cảnh giác anh. Sở dĩ anh được làm nguyên soái thống lĩnh ba quân là bởi tôi cầm binh nước Thục công phá Ngụy Quốc. Tôi chết rồi, mối lo về Thục quân không còn, Ngụy Đế tất sẽ khiến anh không toàn mạng sống. Xưa nay thỏ khôn chết thì chó săn bị nấu, chim bay cao chết thì cung mạnh  bị cho vào bếp, đó là lẽ thường.

Lắng nghe tiếng đàn Gia Cát Khổng Minh, Tư Mã Ý cấp tốc tháo lui khỏi Tây Thành. Thả Gia Cát Lượng đi thoát cũng đồng thời tạo đường sống, hậu vận cho mình và con cháu.
Đấy là "ý trời" mà cả Gia Cát Lượng và Tư Mã ý đều nói đến. Những lời còn lại của Gia Cát nói với Khương Duy, hay Tư Mã ý nói với con trai, chỉ là một phần sự thật để che đi pha thương thuyết qua tiếng đàn giữa hai nhân vật cự phách này. 

Quả nhiên sau này Khổng Minh Bắc phạt, Tư Mã Ý soái lĩnh Ngụy quân chống lại, dần dần bồi dưỡng thực lực làm nên cuộc đảo chính phế Tào Sảng, nắm giữ binh quyền nước Ngụy. Tài trí Khổng Minh vang danh hậu thế phần nhiều cũng nằm ở những lần đối trận với Tư Mã Ý. 
Họ sinh ra là Tri Kỷ nhưng cũng là đối thủ không cùng đội chung trời. 
Đọc Tam Quốc diễn nghĩa, xem Tam quốc 2010 thấy trong âm mưu ẩn tàng âm mưu, sâu xa kỳ bí khó lường. Thực sự là thâm như Tầu!!!

Người Tầu trọng về thuật quyền biến, âm mưu mà không trọng về nội lực thực tế. Nước Tàu có rất nhiều mưu sĩ, nhà quân sự lỗi lạc, những thuyết khách nổi tiếng nhưng lại thiếu hẳn những nhà phát minh kiệt suất. Hơn nữa, trọng âm mưu khiến cho người dân trí trá; quan hệ bang giao cũng thường phản phúc lừa dối, cốt thỏa mưu đồ của mình.

Khi những quyền thuật của Tàu được thi triển thì cũng có thể đó là lúc họ rất yếu. China hổ báo cáo chồn xưng bá biển Đông, đè nén các nước phương Nam, lớn tiếng bảo Mỹ câm mồm đi, nhưng nội lực thực chất của họ xem ra không phải quan ngại cho lắm.

Có người bảo xem phim Tàu đau đầu, quả là đau đầu khi đối diện với tâm tính, quyền thuật và âm mưu của China. Vén hết lớp màn sương khói đó thì có thể thấy được tập tính Trung Hoa. 
Chiến lược đánh lạc hướng đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, xứng đáng nằm trong top những trận đánh nghi binh lớn nhất của mọi thời đại cùng với chiến dịch Barbarossa, cuộc đổ bộ Normandy... 
Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở đều khắp 41 tỉnh, thành phố, thị xã ở miền Nam. Trong ảnh: Các chiến sĩ phân đội 1 và 2 quân giải phóng Trị Thiên-Huế nghiên cứu sa bàn chuẩn bị các phương án chiến đấu
Ảnh: Tư liệu TTXVN
Công phu vì nó được thực hiện tỉ mỉ, hợp lý ở từng chi tiết, trên tất cả các phương diện. Vĩ đại vì giữ được bí mật, bất ngờ ở mọi cấp thực hiện, trong suốt thời gian dài cho đến trước giờ nổ súng.
Sau khi “Tìm và diệt” - cũng còn gọi là “Phản công chiến lược mùa khô” - được thực hiện chủ yếu bằng hai cuộc hành quân khổng lồ Cedar Falls (30.000 quân, từ 8 - 25.1.1967) và Junction city (25.000 quân, từ 12.2 - 14.5.1967) bị thất bại nặng nề, phía Mỹ buộc phải dừng lại để chuyển sang một phương sách khác: bình định.
Trong khi đó, nhận định khá sát tình hình, Bộ Chỉ huy tối cao Việt Nam bắt đầu tính đến một chiến lược táo bạo: Tổng tiến công và nổi dậy giành chính quyền trên toàn Nam Việt Nam, dự liệu vào đầu xuân Mậu Thân 1968.
Nhưng tương quan lực lượng lúc ấy chưa phải thuận lợi hoàn toàn cho phía ta, tổng hành dinh tối cao phải tính tới một kế hoạch đánh lạc hướng triệt để trước khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy mở màn. Bằng cách nào?
Trước hết, về chủ trương kế hoạch, dựa trên nhận định của Mỹ là đối phương đã hao mẻ lực lượng sẽ tiếp tục phương sách đánh lâu dài, Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng đã gửi đến các “B” (mặt trận) một chỉ thị chiến lược (thực tế là giả) với hai phương hướng hoạt động chính trong mùa khô 1967 - 1968: một là, ra sức chống bình định của địch ở nông thôn, kiên quyết giành lại dân bằng những trận đánh nhỏ có hiệu suất cao; đây được coi là trọng tâm của chiến lược mùa khô. Hai là, bộ đội chủ lực mở những chiến dịch vừa sức ở Đông Nam bộ, Tây nguyên và phải giành được thắng lợi trong các chiến dịch này.
Chỉ thị không nói ra nhưng phân tích kỹ có thể thấy phía quân đội Việt Nam (quân Giải phóng) không chủ trương mở chiến tranh đô thị mà chú ý đến miền núi, nông thôn, như vẫn thường làm.

Cuộc nghi binh chiến lược công phu và vĩ đại 1
Ảnh: NVCC
Sau khi đã phổ biến trực tiếp cho cán bộ chủ chốt của các chiến trường tại Hà Nội về kế hoạch chính thức tổng tiến công và nổi dậy, một kế hoạch tác chiến (giả) mùa khô 1967 - 1968 được gửi đến các chiến trường vào tháng 11.1967, đã nêu ra một loạt chỉ tiêu tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Tây nguyên và nối liền căn cứ này với Khu Năm và Đông Nam bộ (văn bản cho rằng đối phương đang có sơ hở ở vùng này). Có ba điều đặc biệt trong quyết tâm/kế hoạch (giả): một là, khẳng định kế hoạch tác chiến này là sự chuẩn bị sớm cho việc sẽ “làm thay đổi cục diện chiến lược mùa khô 1968 - 1969” (nghĩa là chuẩn bị tác chiến lớn trong mùa khô tiếp theo). Hai là, đề cập chủ trương vừa đánh vừa đàm, quân sự phục vụ ngoại giao. Ba là, “quyết tâm” có nói đến việc khởi nghĩa, giải phóng một số quận lỵ, thị xã nhỏ nếu có điều kiện... Điều này là để đề phòng kế hoạch thật có thể bị lộ ở cấp cơ sở cụ thể. Cũng như trên, quyết tâm này đã được làm rò rỉ một cách tinh vi.
Trên mặt trận tác chiến, để phù hợp với kế hoạch (quyết tâm tác chiến) giả (mở những chiến dịch vừa sức ở Đông Nam bộ, Tây nguyên...), các chiến dịch tiến công đã được quân và dân ta lần lượt mở ra và kéo dài ở Đắk Tô (bắc Tây nguyên), Lộc Ninh (Đông Nam bộ)... Mục đích chính của các cuộc tấn công này nhằm thu hút giam chân lực lượng đối phương, đặc biệt là lực lượng Mỹ, rời xa khỏi thành thị, càng nhiều càng tốt, càng lâu càng tốt, càng gần kề năm Mậu Thân càng tốt. Như cuộc tiến công ở bắc Tây nguyên, chủ yếu diễn ra trong tháng 11.1967, quân Giải phóng đã lần lượt “hút” các đơn vị chủ lực quan trọng của quân đội Mỹ - Sài Gòn: Sư đoàn Bộ binh 4, Lữ đoàn Dù 173, Lữ đoàn Kỵ binh bay 1 Mỹ và nhiều trung đoàn, chiến đoàn khác. Còn chiến dịch Lộc Ninh (10 - 12.1967) đã thu hút các sư đoàn Bộ binh 1 và 25 Mỹ và các đơn vị khác của quân đội Sài Gòn. Nhưng đòn đánh lạc hướng chính là ở bắc Quảng Trị. Từ lâu, thấy rõ đây là một khu vực nhạy cảm, ban đầu phía Mỹ đã tính tới phải lập một phòng tuyến bằng quân lực rồi về sau thay bằng hàng rào điện tử (được gọi là hàng rào điện tử Mc Namara) song thảy đều không thành công. Thay vì như vậy, họ đưa quân Mỹ đến đóng chốt tại một số điểm cao chủ chốt xung quanh Khe Sanh. Và cơ hội đã được mở ra. Những trận tập kích chiến thuật ở đây diễn ra sớm nhưng được tăng dần về mặt quy mô và lực lượng từ phía quân Giải phóng đã thu hút ngày càng đông các đơn vị của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 3, Sư đoàn Kỵ binh bay 1 Mỹ cùng nhiều lực lượng Quân đội Sài Gòn. Đến tháng 11.1967, phía đối phương đã tập trung 45.000 quân (với 28.000 lính Mỹ) tại mặt trận này. Những trận đánh giữa đôi bên càng ngày càng nóng bỏng và kéo dài cho đến chiến cuộc Mậu Thân để cuối cùng trở thành một phần của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đã rất thành công trong việc đánh lạc hướng Mỹ, bằng sự vào cuộc thật sự các sư đoàn chủ lực danh tiếng 304, 320, 324, 325 của ta và bằng sự kích động, phụ họa qua ngôn ngữ chính trị - quân sự của các bên cùng dư luận truyền thông quốc tế.
Trên mặt trận ngoại giao và tuyên truyền, cuộc nghi binh chiến lược cũng thu được nhiều kết quả rất quan trọng. Ở thời điểm 1966 - 1967, việc phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành phong trào ở Mỹ. Đã có những cuộc biểu tình lên tới cả trăm ngàn người. Chịu sức ép từ thất bại trên chiến trường và dư luận của chính nước Mỹ, chính quyền Mỹ đã buộc phải nghĩ đến việc kết thúc cuộc chiến tranh trên bàn thương lượng. Tổng thống Mỹ Johnson gửi thông điệp cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số cuộc tiếp xúc ngoại giao bí mật cấp thấp, thậm chí Mỹ đã nhờ cậy đến cả một người bạn thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Raymond Aubrac, người Pháp, đến Hà Nội thăm dò. Kiểu hòa bình thương lượng theo điều kiện của Mỹ, chỉ với mục đích trấn an dư luận phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa đang lan rộng trong lòng nước Mỹ và trên khắp thế giới, Việt Nam không thể chấp nhận. Nhưng đây cũng là một cơ hội để đánh lạc hướng chú ý của đối phương cho chiến dịch Mậu Thân. Trong tháng 9.1967, bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại tiệc chiêu đãi nhân dịp Quốc khánh, tối 1.9, đã được báo chí đưa lại dưới tiêu đề Đánh bền bỉ, đánh lâu dài, không sợ khó khăn gian khổ, không sợ hy sinh. Cũng trong tháng 9, ba số liên tiếp giữa tháng trên Báo Nhân dân và Quân đội nhân dân đăng bài viết quan trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn, tuyên dương những chiến thắng trên mặt trận Khe Sanh, Tây nguyên, Nam bộ và đặc biệt trên mặt trận chống bình định, khẳng định đánh lâu dài, bảo tồn lực lượng, bảo tồn những thành quả đã đạt được. Các cơ quan thông tin, báo chí của ta được chỉ đạo tập trung tuyên truyền thắng lợi trên các mặt trận Đông Nam bộ, Tây nguyên, Khe Sanh, hạn chế đưa tin về chiến tranh đô thị.
Nhiều tín hiệu sẵn sàng hy sinh gian khổ đánh lâu dài nhưng cũng sẵn sàng thương nghị hòa đàm đã được đưa ra.
Tính tới lực lượng mạnh nhất ở miền Nam là quân đội Mỹ, Bộ Chỉ huy tối cao không chỉ đã mở các chiến dịch phân tán lực lượng này mà còn đặt kế hoạch cố gắng cô lập họ trong những giờ phút đầu tiên khi cuộc tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu, càng kéo dài thời gian càng tốt. Quả vậy, khi những trận đánh trong thành phố nổ ra, một “Quân đội Cách mạng” ra tuyên bố và một “Mặt trận Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình” được thành lập, cùng với việc quân đội Mỹ không bị “Quân đội Cách mạng” tiến công ngay từ đầu đã khiến Mỹ ngỡ ngàng, nghi hoặc với thái độ “chờ xem”, “dù thường khi họ phản ứng rất nhanh”, theo lời tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Sự thực là phía Mỹ và đồng minh của họ đã bị đánh lạc hướng. Ngay cả khi lực lượng vận tải trên tuyến đường chiến lược 559 tăng lên gấp rưỡi, gấp đôi thì vẫn được Mỹ cho là đối phương chuẩn bị cho mùa khô quyết thắng 1968 - 1969 theo như kế hoạch chiến lược (giả) bị rò rỉ. Việc ta đề nghị cho kéo dài hơn lệ thường các cuộc đình chiến nhân Noel, Tết dương lịch 1968 và Tết âm lịch Mậu Thân; đã được hai bên cùng thực hiện qua thực tế dịp Noel 1967 và Tết dương lịch 1968 càng làm Mỹ và chính quyền Sài Gòn thêm chểnh mảng. Lúc chiến sự nổ ra trong Tết âm lịch Mậu Thân, nhiều tướng tá của họ đi du lịch cùng gia đình, Tổng thống Thiệu thì về quê ăn tết. Với Tổng tư lệnh chiến trường, đại tướng Westmoreland thì theo hồi ký của ông, trong một cuộc họp vào ngày 15.1.1968 , ông dự báo có 50% khả năng đối phương sẽ tấn công trước tết; còn phụ tá tình báo của ông thì cũng đưa ra tỷ lệ 50% nhưng cho là sau tết. Nghĩa là sẽ chẳng có gì vào đúng dịp tết!
Lúc đó Việt Nam nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ cả về vật chất lẫn tinh thần từ Liên Xô, Trung Quốc. Cả hai nước lớn cũng muốn có thông tin chính xác về kế hoạch chiến lược trong chiến cuộc Đông Xuân 1967 - 1968 của Việt Nam, ít nhất là trên những nét đại thể. Nếu họ nắm được, kế hoạch này có thể vô tình bị rò rỉ và chiến dịch nghi binh đánh lạc hướng để giành bất ngờ chiến lược trước đối phương có thể phản tác dụng từ nguyên nhân không thể ngờ nhất. Ngoài sự chỉ đạo phải tuyệt đối giữ bí mật trước các đại diện ngoại giao, quân sự, tình báo nước ngoài có mặt tại Việt Nam, bộ thống soái tối cao thấy rõ cần phải có sự chủ động cần thiết.
Cuối năm 1967, một phái đoàn quân sự của ta được cử đến các quốc gia này, do tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội dẫn đầu nhưng tướng Đặng Quốc Bảo, phó đoàn được nhận lãnh trách nhiệm đáp ứng những vấn đề mà phía bạn muốn “tìm hiểu”. Vấn đề quan tâm nhất - kế hoạch chiến lược của Việt Nam - luôn luôn được phía bạn đặt ra, tướng Bảo trả lời: Mọi việc bây giờ là tùy thuộc ở Mỹ khi tương quan lực lượng đã thay đổi qua hai cuộc phản công chiến lược thất bại. Mỹ vẫn là quốc gia giàu mạnh nhưng trong trường hợp này không còn khả năng tăng cường lực lượng sang Việt Nam, và nhất là không chỉ lúng túng với chiến lược tiếp theo mà cả với phong trào phản chiến đang lên cao, ngay Mc Namara cũng đã thay đổi cách nhìn về cuộc chiến. Rút lui là đường thoát danh dự. Nếu Mỹ quyết định ngược lại, chắc chắn thất bại. Việt Nam đang theo dõi chặt chẽ và đã sẵn sàng cho mọi tình huống, trong điều kiện đã được chuẩn bị đầy đủ với sự giúp đỡ hết lòng của các bạn.
Cách trả lời vừa không nói dối vừa không để lộ kế hoạch chiến lược ấy đã được lãnh đạo ta khen ngợi.

Cuộc nghi binh chiến lược công phu và vĩ đại 2
Làm xói mòn sự lạc quan của Mỹ

“Cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà tâm điểm là Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, chỉ ra bằng chứng mạnh mẽ hơn về sự giới hạn của quyền lực Mỹ ở châu Á. Cuộc đột kích táo bạo ở nhiều thành phố tại Nam Việt Nam cũng như sự hiện diện của nhiều đơn vị quân sự chủ lực đông đảo quanh Khe Sanh, những người Cộng sản đã làm xói mòn sự lạc quan về tiến trình cuộc chiến mà nhiều người đã phát biểu từ Sài Gòn hay Washington. Thực tế đó cho thấy không hề như lời mô tả của một số quan chức quân đội Mỹ hồi tháng 11.1967 nói rằng đối phương đang ngày càng suy yếu và sẽ sớm bại trận”.

Báo The New York Times ngày 1.2.1968

Sự ảo tưởng của Nhà Trắng

“Đã đến lúc lột mặt nạ của sự ảo tưởng… Một chiến thắng quân sự hoàn toàn không nằm trong tầm nhìn. Thực tế, có lẽ, chúng ta đã vượt quá tầm kiểm soát và nỗ lực giành chiến thắng chỉ dẫn đến sự chết chóc của hàng ngàn người vô tội… Một thỏa hiệp chính trị không chỉ là con đường tốt nhất để đi đến hòa bình, mà còn là con đường duy nhất… Đất nước chúng ta phải được biết sự thật về cuộc chiến này và tất cả những thực tế khủng khiếp của nó”.

Hãng tin UPI ngày 8.2.1968
(trích lời phát biểu của ông Robert Kennedy, khi đó là thượng nghị sĩ đại diện bang New York)

Cuộc chiến trong boong-ke của ông “Boong-ke” (*)

“Cuộc tấn công táo bạo nhất vừa qua - và chắc chắn là điều đáng xấu hổ nhất - xảy ra khi lực lượng Việt Cộng tấn công Đại sứ quán Mỹ. Chỉ mới tháng 9 năm ngoái, khi Đại sứ Ellsworth Bunker khánh thành trụ sở làm việc mới với bê tông cốt thép vững chãi, một số phái bộ Mỹ vào làm việc tại đây đã xem như khu bất khả xâm phạm. Bên trong bức tường cao, tòa đại sứ là một công trình 6 tầng vững chãi với các khối bê tông lớn bao bọc các mảng kính thể hiện cho sự quyền uy của nước Mỹ. Tòa nhà trị giá 2,6 triệu USD với những cấu trúc như pháo đài này đã được giới thiệu là boong-ke của ngài Bunker”.

Tạp chí Time ngày 9.2.1968
(*) Bunker khi dịch ra tiếng Việt có nghĩa là boong-ke

Phát Tiến (thực hiện)

Trận đánh đẫm máu nhất của Mỹ trong Thế chiến II

Với 600.000 quân tham chiến và 81.000 lính tử trận, trận Ardennes được xem là một trong những trận đánh có nhiều thương vong nhất giữa quân Đồng minh và phát xít Đức.


tran-danh-dam-mau-nhat-cua-my-trong-the-chien-ii
Một chiếc tăng M4 Sherman Mỹ băng qua rừng Ardennes để chặn đà tiến công của phát xít Đức. Ảnh: Life Magazine
Mùa thu năm 1944, cục diện chiến trường ở mặt trận phía tây nhanh chóng chuyển biến theo hướng bất lợi, buộc trùm phát xít Đức Adolf Hitler phải ra lệnh chủ động tấn công, gây sức ép để Mỹ và Anh phải ký hiệp định hòa bình riêng rẽ, theo Military History.
Bộ tư lệnh tối cao Đức vạch kế hoạch sử dụng xe tăng kết hợp bộ binh nhanh chóng bao vây, chiếm cảng Antwerp, miền bắc nước Bỉ để chia cắt quân Anh và Mỹ trong khu vực, khiến Đồng minh mất một cảng hậu cần, tiếp tế cực kỳ quan trọng.
Trong khi phát xít Đức tập kết ba tập đoàn quân ở Ardennes, phía đông nam nước Bỉ, phe Đồng minh do tướng Dwight D. Eisenhower chỉ huy  lại không hề hay biết các di biến động của quân Đức, khiến họ hoàn toàn bất ngờ khi Đức mở màn trận đánh Ardennes.
Sáng sớm 16/12/1944, quân đoàn Panzer số 6 của Đức phát động tấn công, dùng pháo binh bắn phá dữ dội vào các cứ điểm quân Mỹ ở Elsenborn Ridge và Losheim Gap để đánh thẳng vào Liege. Tuy nhiên, đà tấn công của quân Đức vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của sư đoàn bộ binh số hai và số 99 của quân Mỹ, khiến Deitrich buộc phải huy động lực lượng xe tăng tham chiến.
Đến ngày 17/12, sau sự ngỡ ngàng ban đầu, tướng Eisenhower nhận định đây là một cuộc tổng tấn công của quân Đức chứ không đơn thuần là một cuộc tấn công quy mô nhỏ, nên bắt đầu nhanh chóng tăng cường lực lượng tới khu vực.
Trên mặt trận phía nam, lính Mỹ dưới quyền chỉ huy của chuẩn tướng Bruce Clarke đã cầm cự kiên cường ở St. Vith nhưng vẫn bị quân đoàn Panzer số 5 của Đức đẩy lùi, khiến sở chỉ huy của sư đoàn thiết giáp số 10 và sư đoàn đổ bộ đường không số 101 bị bao vây ở Bastogne.
tran-danh-dam-mau-nhat-cua-my-trong-the-chien-ii-1
Lính Mỹ phòng thủ trong chiến hào tại rừng Ardennes trong trận Ardennes. Ảnh: Life Magazine
Khi chiến sự đang diễn ra ở St. Vith và Bastogne, Eisenhower nhóm họp với các chỉ huy chiến trường ở Verdun. Nhận thấy đây là một cơ hội để tiêu diệt quân Đức ở địa hình trống trải, Eisenhower liền ban hành mệnh lệnh phản công.
Tại Bastogne, lực lượng phòng thủ đã đẩy lùi nhiều đợt tấn công của quân Đức dù phải chiến đấu trong thời tiết lạnh giá của mùa đông. Dù thiếu thốn lương thực và đạn dược, chuẩn tướng Anthony McAuliffe vẫn chỉ huy binh sĩ chiến đấu kiên cường, không đầu hàng theo yêu cần của quân Đức.
Đà phản công của phe Đồng minh được tăng cường nhờ thời tiết tốt, tạo điều kiện cho các tiêm kích bom tham chiến, trong khi tốc độ tiến công của xe tăng Đức chậm dần lại vì cạn kiệt nhiên liệu. Tướng von Manteuffel buộc phải xin chỉ thị rút quân nhưng bị Hitler từ chối.
Eisenhower tiếp tục ra lệnh cho các tướng lĩnh thuộc quyền tấn công dồn ép quân Đức từ cả phía bắc và phía nam, với mục tiêu hội quân ở Houffalize và giăng bẫy quân Đức. Tuy nhiên, một nhánh lực lượng của Mỹ tiến công chậm trễ, khiến nhiều quân Đức thoát được sau khi bỏ lại trang bị và xe tăng.
Để tiếp tục chiến đấu, quân Đức tiếp tục phát động một đợt tấn công lớn vào ngày 1/1/1945 nhưng bị quân đoàn 7 của Mỹ chặn đứng. Ngày 24/12, quân Đức bị đẩy ra khỏi vùng Ardennes, Thống chế Von Rundstedt cho quân rút lui dần về Berlin một cách có trật tự, chiến dịch tấn công của Đức bị phá sản.
tran-danh-dam-mau-nhat-cua-my-trong-the-chien-ii-2
Bản đồ trận đánh Ardennes. Đồ họa: Wikimap
Kết thúc Trận đánh Ardennes, Mỹ bị thiệt hại tới 19.000 binh sĩ, số thương vong nặng nề nhất mà họ phải hứng chịu trong một trận đánh thời kỳ Thế chiến II, nhưng họ đã bảo vệ thành công phòng tuyến quan trọng trước quân đội phát xít.
Trong khi đó, quân Đức mất 15.652 lính, và lực lượng tăng thiết giáp của họ hứng chịu tổn thất nặng nề không thể khôi phục được. Sau thất bại trong trận đánh này, quân Đức không còn khả năng phát động tấn công ở mặt trận phía Tây.
Tổng cộng đã có 600.000 binh sĩ hai bên tham gia trận đánh, trong đó có 81.000 người thiệt mạng. "Rõ ràng đây là trận đánh lớn nhất, được xem như một chiến thắng nổi tiếng nhất của Mỹ trong Thế chiến II", cựu thủ tướng Anh Winston Churchill nhấn mạnh.
Duy Sơn

Nghệ thuật quân sự độc đáo của Nguyễn Trãi trong kháng chiến chống quân Minh

16/06/2014 - 10:27
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước. Trải qua hàng chục cuộc kháng chiến và khởi nghĩa lớn của dân tộc, ông cha đã để lại cho thế hệ hôm nay nhiều kinh nghiệm quý, nhiều nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427) và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi, Nguyễn Trãi lãnh đạo không chỉ biết khắc phục những hạn chế của cuộc kháng chiến trước đó mà còn có nhiều sáng tạo về nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc…
Nguyễn Trãi (1380- 1442), hiệu là Ức Trai, quê ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (Thường Tín, Hà Nội). Tổ tiên ông ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương). Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (Hàn lâm học sĩ nhà Hồ) và bà Trần Thị Thái- con gái của Trần Nguyên Đán (quan Tư đồ nhà Trần). Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh, ra làm quan dưới triều Hồ. Năm 1407, nhà Minh (Trung Quốc) xâm lược nước ta, đánh bại nhà Hồ và tiến hành cai trị, Nguyễn Trãi đã tham gia vào khởi nghĩa Lam Sơn, chống lại ách thống trị của Trung Quốc. Dưới trướng Lê Lợi, ông đã dốc nhiều tâm sức để tìm ra kế sách đánh giặc cứu nước. Nguyễn Trãi là Khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê, một con người đầy tài hoa, khí phách, một thiên tài trong lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao.
 Ức Trai Nguyễn Trãi (1380- 1442).
Trong lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn chống giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi là những nhà chiến lược tài ba- văn võ song toàn, đặc biệt là chiến lược “mưu phạt tâm công” (đánh vào lòng người). Đó là một chiến lược cơ bản trong Bình Ngô sách mà Nguyễn Trãi đệ trình Lê Lợi ngay lúc khởi nghĩa Lam Sơn còn ở trong thời kỳ trứng nước. “Đánh vào lòng người” là sự khởi đầu cho chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao của Nguyễn Trãi. Theo đó, khi lãnh đạo khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi “đánh vào lòng địch” với hai phương thức chủ yếu là dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ địch và ngụy quân, thực hiện hòa đàm, khi thì để hòa hoãn tạm thời với địch để bảo toàn lực lượng; khi ưu thế thuộc về nghĩa quân thì dùng lý lẽ để buộc địch chấm dứt chiến tranh, rút quân về nước. Trong suốt 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi triệt để thực hiện tiến công ngoại giao, kết hợp với đấu tranh quân sự, chính trị. Khi quân địch bị dồn vào thế bất lợi, Lê Lợi, Nguyễn Trãi không vội dùng sức mạnh quân sự để tiến công tiêu diệt địch mà bình tĩnh thực hiện bao vây uy hiếp kết hợp với tiến công chính trị dụ hàng. Vây đánh kết hợp với dụ hàng là nét đặc sắc trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Nguyễn Trãi.
 Tranh vẽ “Lê Lợi và Nguyễn Trãi”.
Nguyễn Trãi đã tốn nhiều tâm lực để suy xét được mọi lẽ hưng vong của các triều đại, phân tích “ thời” và “thế” trong cục diện cuộc chiến. Ông kịch liệt phê phán phép dùng binh theo lối phòng ngự thủ hiểm tiêu cực như cha con Hồ Quý Ly đã làm: xích sắt khóa chặt các cửa sông, những lớp cọc dài giăng một cách thụ động. Trước Lê Lợi, trên lĩnh vực quân sự đã xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, nhưng không mang lại kết quả như mong muốn. Với sự cố vấn của Nguyễn Trãi, Lê Lợi đã mở đầu cuộc kháng chiến bằng lối đánh du kích trong vùng rừng núi. Trên cơ sở “Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ” mà tổ chức một cuộc khởi nghĩa và chiến tranh toàn dân. Phương thức căn bản của nó là tiến công, liên tục tiến công địch, tiến công của chủ lực kết hợp với nổi dậy của quần chúng; vây hãm địch trong các thành trì với kết hợp tấn công tiêu diệt các đạo viện binh; tiến công bằng quân sự, kết hợp với “đánh vào lòng địch”. Nguyễn Trãi đòi hỏi tướng lĩnh trong chiến dịch phải luôn “biết địch biết ta”, nắm vững điều kiện, hoàn cảnh, hiểu thông thời thế…Ông nhấn mạnh: “Xét biết thời cơ và biết lựa sức mình là người tướng có tri thức” và “cái điều đáng quý của người tuấn kiệt là biết thời thế, hiểu sự biến mà thôi”, “người dùng binh giỏi là biết lường thế giặc mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động”. Người tướng cầm quân phải biết tạo lập được những thế trận lợi hại, phải đánh bằng mưu và đánh bất ngờ, buộc địch sa vào thế “thịt trên thớt”, “cá trong nồi” để mà diệt, như vậy ta mới có thể lấy ít thắng nhiều. Để đạt tới mục đích đập tan lực lượng quân sự to lớn của địch, đánh bại các thủ đoạn tác chiến nham hiểm của chúng, phá phép dụng binh sở trường, đánh theo lối trận địa bằng những đội hình dày đặc, Nguyễn Trãi và bộ Thống soái Lam Sơn đã chỉ huy quân đội thực hiện lối đánh sở trường của mình là “đặt quân phục, dùng kỳ binh, tránh chỗ chắc, đánh chỗ mềm, lấy ít địch nhiều, lấy ít đánh mạnh”. Với nghệ thuật và phương thức tác chiến ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã liên tiếp tạo nên những trận đánh lớn tiêu diệt quân địch như các trận: trận “ Bồ Đằng sấm vang chớp giật”, trận “Trà Lân trúc chẻ tro bay”, trận “Lạng Sơn, Lạng Giang xác chất đầy đường”, trận “Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh vạn dặm”, trận “Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước”.
 Nhờ các kế sách quân sự của Nguyễn Trãi, nghĩa quân Lam Sơn liên tiếp dành được các thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (Ảnh minh họa.)
Trận Chi Lăng- Xương Giang (8-10- 3-11-1427) đã thể hiện rõ nét tư tưởng “làm một được hai” trong nghệ thuật đánh tiêu diệt của nghĩa quân Lam Sơn. Đây là trận quyết chiến chiến lược đã đưa cuộc kháng chiến chống Minh của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn. Trong trận này, chúng ta thấy rõ tư tưởng chiến lược đặc sắc của Lê Lợi, Nguyễn Trãi được quán triệt trong hàng ngũ các tướng Lam Sơn: tư tưởng “làm một được hai” nhằm tiêu diệt quân địch đến mức cao nhất, nhưng đồng thời giảm tổn thất về phía ta đến mức thấp nhất. Chỉ có thế, nghĩa quân Lam Sơn mới có thể “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” để theo năm tháng cuộc kháng chiến trường kỳ ngày càng phát triển. Có thể nói, tư tưởng này chính là nền tảng cho kế hoạch tác chiến của nghĩa quân Lam Sơn trong trận Chi Lăng- Xương Giang. Trước hết, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã cho nghĩa quân dàn một thế trận chạy dài theo trục đường từ các ải địa đầu trên vùng biên giới như cửa Pha Lũy (hay còn gọi là ải Nam Quan, cửa ải biên giới Việt- Trung, thuộc tỉnh Lạng Sơn) đến Chi Lăng, Cầu Trạm và Xương Giang. Thực tế, Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã sử dụng tài tình không gian của Tổ quốc và thời gian trên đất nước để làm “ chảy máu” liên tục đạo quân giặc hùng mạnh, đánh cho chúng “mềm xương”, dẫn dắt chúng dần dần đi đến địa điểm mà ta chuẩn bị sẵn. Đây chính là lúc, theo như lời Lê Lợi nói: “Ta lấy thế nhàn rỗi mà đợi kẻ mệt nhọc, lẽ nào không thắng”. Về chiến dịch, Nguyễn Trãi, Lê Lợi chủ trương: đánh thắng từng bước trong chiến dịch, tiết kiệm lực lượng, đánh đúng lúc, đúng nơi, đúng đối tượng, tất cả đều xuất phát từ tư tưởng chiến lược “làm một mà được hai” để dẫn đến kết quả tiêu diệt được toàn bộ quân địch mà vẫn bảo tồn được lực lượng chủ yếu của ta. Chính vì thế, sau trận quyết chiến chiến lược Xương Giang, đạo quân chủ lực của nghĩa quân Lam Sơn đã tỏ rõ không những có đủ sức để đánh chiếm nhanh chóng thành Đông Quan, mà còn đủ sức để tiêu diệt những đạo quân xâm lược mới của triều Minh khi chúng trở lại lần nữa. Như vậy, trận Xương Giang không chỉ đập tan ý chí kháng cự của quân giặc tại Đông Quan mà cả ý chí xâm lược của triều Minh.
Nghệ thuật đánh tiêu diệt “làm một mà được hai”, “dùng sức một nửa mà công được gấp đôi” của nghĩa quân Lam Sơn trong trận Chi Lăng- Xương Giang mang nhiều nét đặc sắc, độc đáo, trong đó nổi bật lên cách đánh tiêu diệt từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, từng phần trên từng khu vực lãnh thổ của Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ hành động tác chiến của quân chủ lực, quân địa phương và dân quân làng, xã trong thế trận chiến tranh nhân dân, căng địch ra để giáng đòn quyết định sấm sét vào đúng khâu then chốt, đúng lúc, đúng nơi. Thật là cách đánh tiêu diệt tài tình nằm trong “mưu kế sâu xa” của hai nhà quân sự Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược dài 20 năm kết thúc tốt đẹp là nhờ hiệu quả tổng hợp của: quân sự, chính trị, ngoại giao, bằng sức mạnh của vũ khí và tài ba, ý thức của con người yêu nước, bằng chính nghĩa, đạo lý, lòng nhân và ý chí hòa bình của dân tộc ta. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo như sự nêu cao một lý tưởng vĩ đại nối liền dân tộc ta với toàn thể loài người; lý tưởng độc lập của các dân tộc trong một cảnh tượng hòa bình trường cửu. Tổ tiên cha ông Việt Nam chúng ta, đều thiện chiến mà không hề hiếu chiến:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt mờ mà lại trong
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Cuộc đời thiên tài quân sự Nguyễn Trãi có hai giai đoạn, một giai đoạn anh hùng ca và giai đoạn bi kịch. Vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử phong kiến Việt Nam chính là bi kịch đau thương của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Đền thờ Nguyễn Trãi ở xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Vào ngày 16 tháng tám năm Nhâm Tuất ( 19-9-1442), Nguyễn Trãi và đại gia đình bị tru di tam tộc với tội danh “giết vua”. Một đại công thần khai quốc suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân, cuối cùng bị rơi đầu bởi chính triều đình mà mình đem toàn bộ tâm huyết vun đắp và xây dựng. Năm 1464, sau 22 năm oan khuất, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi. Nhưng, tới tận ngày hôm nay, vụ án Lệ Chi Viên vẫn là bí mật lịch sử chưa được làm sáng tỏ. Cuộc đời tài hoa và khí phách của nhà quân sự Nguyễn Trãi mãi mãi là ánh sao khuê lấp lánh, in dấu trong lịch sử dân tộc. Nguyễn Trãi chỉ là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp quan trọng trong sự phát triển văn học và tư tưởng Việt Nam, ông còn là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới. Nghệ thuật quân sự của ông là bài học quý giá cho thế hệ mai sau học tập, phát huy trong việc xây dựng quân đội, bảo vệ vùng biên giới, hải đảo và độc lập chủ quyền  toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
Theo Chu Lộc- Phương Thảo (Baotangllichsu.vn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét