CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 18
(ĐC sưu tầm trên NET)
52-
Tim Berners-Lee
1955-
Vương Quốc
Khoa Học Máy Tính
Tim Berners-Lee - Người phát minh ra mạng toàn cầu (World Wide Web)
Phát minh ra World Wide Web (www.) và mở một
cuộc đại cách mạng về chia sẻ thông tin trên Internet, Tim Berners-Lee
được coi là một trong những thiên tài khoa học máy tính nổi tiếng trên
thế giới.
Tim Berners-Lee - Ảnh: youtube.com
Sir Timothy John “Tim” Berners-Lee hay còn được gọi với tên TimBL,
TBL sinh ngày 08/6/1955 tại Luân Đôn, trong một gia đình Toán học có cha
và mẹ đều tham gia chế tạo chiếc máy tính thương mại đầu tiên (chiếc
Ferranti Mark I). Do đó, Tim Berners-Lee từ nhỏ đã được dạy tư duy như
một nhà Toán học và sử dụng Toán thường xuyên ngay cả khi ăn bữa tối với
gia đình.
Lớn lên, Tim Berners-Lee theo học ngành vật lý tại Đại học Oxford và trở thành một kỹ sư phần mềm.
Năm 1980, Tim Berners-Lee làm việc cho CERN - phòng thí nghiệm vật lý
hạt của châu Âu tại Geneva. Trong lúc đang xoay xở tìm cách để tổ chức
lại các ghi chép lung tung của mình, Tim Berners-Lee nghĩ ra ý tưởng về
một phần mềm xử lý thông tin theo cách thức “tương tự như bộ não” nhưng
lại cải thiện được sự hạn chế về khả năng nhớ, và đặt tên là Enquire
(tra khảo).
Phần mềm sau đó hoạt động hoàn hảo, Tim Berners-Lee dễ dàng tìm ra
tài liệu trong máy tính của mình. Tuy nhiên anh lại muốn thực hiện điều
tương tự trên máy tính của nhiều người khác mà không bị giới hạn.
Năm 1989, Tim Berners-Lee công bố bài viết có tựa đề “
Một đề xuất về Quản lý Thông tin”
(Information Management: A Proposal). Theo đó, Tim Berners-Lee kết nối
siêu văn bản với Internet để tạo ra một hệ thống chia sẻ và đóng góp
thông tin, không chỉ trong phạm vi một công ty mà rộng khắp toàn cầu.
Tim Berners-Lee đặt tên cho nó là Mạng Toàn cầu - World Wide Web.
Berners-Lee cũng tạo ra công cụ tìm kiếm và biên tập mạng đầu tiên.
Website đầu tiên trên thế giới được đưa vào hoạt động vào ngày 06/8/1991
tại địa chỉ
http://info.cern.ch. Nó giải thích khái niệm World Wide Web và hướng dẫn người dùng lập trình những website cá nhân.
Tim Berners-Lee tại CERN vào năm 1994 - Ảnh: techsignin.com
Ngày 30/4/1993 là ngày đặc biệt quan trọng bởi tổ chức CERN tuyên bố
bất cứ ai cũng có thể sử dụng công nghệ www. tự do và miễn phí.
Năm 2004, Tim Berners-Lee được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước Hiệp
sĩ khi là người tiên phong trong lĩnh vực Internet. Tháng 04 năm 2009,
ông được chọn làm giáo sư của Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ. Không chỉ có
thế, ông còn được vinh danh là “nhà phát minh ra World Wide Web” trong
lễ khai mạc thế vận hội mùa hè năm 2012 tại sân vận động Olympic, Luân
Đôn (Anh) trước sự chứng kiến của hơn 80.000 người.
Năm 2007, bên cạnh Albert Hofmann, Tim Berners-Lee đứng đầu danh sách 100 thiên tài vĩ đại nhất hành tinh do tạp chí danh tiếng
Telegraph công bố.
Tim Berners-Lee cũng là người sáng lập ra World Wide Web Consortium
(W3C) - tổ chức đặt các tiêu chuẩn quan trọng, giám sát sự phát triển
của Internet. Đồng thời, ông còn là một nhà nghiên cứu cao cấp và chủ sở
hữu của Phòng thí nghiệm khoa học và trí tuệ nhân tạo máy tính (CSAIL)
và giám đốc của web sáng kiến nghiên cứu khoa học (WSRI).
Kim Ngân
(Tổng hợp)
Người đứng đầu 100 thiên tài vĩ đại nhất hành tinh
Bên cạnh Albert Hofmann, Tim Berners-Lee là người đứng đầu danh sách 100
thiên tài vĩ đại nhất thế giới. Ông nổi tiếng khi là người sáng tạo và
phát triển Internet.
Sir Timothy John "Tim" Berners-Lee hay còn được dân Internet gọi với
tên TimBL, TBL sinh ngày 8/6/1955 - được coi là thiên tài khoa học máy
tính người Anh nổi tiếng nhất thế giới. Bên cạnh Albert Hofmann, Tim
Berners-Lee đứng đầu danh sách 100 thiên tài vĩ đại nhất hành tinh do
tạp chí danh tiếng
Telegraph công bố vào năm 2007.
|
Tim Berners-Lee hiện là thiên tài vĩ đại, thông minh bậc nhất thế giới. |
Theo đó, tháng 3/1989, ông đã đưa ra đề xuất về hệ thống quản lý
thông tin và thực hiện thành công việc giao tiếp thông tin đầu tiên giữa
máy khách và máy chủ Hypertext Transfer Protocol (HTTP) qua internet
vào khoảng giữa tháng 11.
Tim Berners-Lee là người phát minh ra World Wide Web (chính là đường
dẫn www mà hiện mọi người vẫn hay dùng). Tim cũng là người sáng lập
World Wide Web Consortium (W3C) - tổ chức đặt các tiêu chuẩn quan trọng,
giám sát sự phát triển của Internet. Đồng thời, ông còn là một nhà
nghiên cứu cao cấp và chủ sở hữu của Phòng thí nghiệm khoa học và trí
tuệ nhân tạo máy tính (CSAIL) và giám đốc của web sáng kiến nghiên cứu
khoa học (WSRI)...
Năm 2004, Tim Berners-Lee được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước hiệp sĩ
khi là người tiên phong trong lĩnh vực Internet. Tháng 4/2009, ông được
chọn làm giáo sư của Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ. Không chỉ có thế, ông
còn được vinh danh là "nhà phát minh ra World Wide Web" trong lễ khai
mạc thế vận hội mùa hè năm 2012 tại sân vận động Olympic, London (Anh)
trước sự chứng kiến của hơn 80.000 người.
Sống cùng toán học và máy tính từ nhỏ
Tim Berners-Lee sinh ra tại London (Anh), trong một gia đình gồm 4
người con, với bố là Conway Berners-Lee và mẹ là Mary Lee Woods. Cha mẹ
ông đều là nhà toán học và cùng làm việc cho nhóm phát triển Manchester
Mark I - một trong những nơi đầu tiên sử dụng máy tính.
Ngay từ khi còn nhỏ, Tim đã phải học toán suốt ngày, kể cả khi ăn tối
cùng gia đình. Ông học tiểu học tại trường Sheen Mount, trước khi vượt
qua O-Levels và A-Levels tại trường Emanuel ở Wandsworth về khoa học máy
tính.
Thiên tài máy tính tốt nghiệp cao đẳng Hoàng gia (The Queen's
College) thuộc đại học Oxford. Tại đây, ông đã tạo ra máy tính chỉ từ mỏ
hàn, các cổng vi mạch, vi xử lý M6800 và một chiếc TV cũ. Trong suốt
thời gian ở Oxford, ông bị cấm không được sử dụng máy tính của trường do
thường xuyên cùng bạn bè nghịch ngợm, hack thông tin nội bộ...
Nổi tiếng nhờ phát minh ra World Wide Web
Năm 1976, sau khi tốt nghiệp đại học, Tim Berners-Lee làm lập trình
viên cho hãng Plessey Controls Limited tại Poole, Anh (thời điểm đó nơi
này sản xuất đèn giao thông). Năm 1978, ông tham gia D.G. Nash Limited -
nơi ông tạo ra phần mềm sắp chữ và hệ điều hành cho máy in.
Tháng 6-12/1980, thiên tài người Anh làm nhân viên hợp đồng ở Cern và
bắt đầu thực hiện một dự án dựa trên khái niệm siêu văn bản
(hypertext), tạo điều kiện chia sẻ và cập nhật thông tin giữa các nhà
nghiên cứu. Để chứng minh cho dự án này, ông còn xây dựng một hệ thống
nguyên mẫu hỏi được đặt tên là Enquire.
|
Từ khi còn trẻ, thiên tài người Anh đã nổi tiếng khắp thế giới do là người sáng tạo ra World Wide Web. |
Sau khi rời khỏi Cern, Tim
làm việc cho Image Computer Systems Ltd. của John Poole ở Bournemouth,
Anh trong ba năm. Tuy nhiên, đến năm 1984, ông lại quyết định quay trở
về Cern với tư cách như một thần đồng trong lĩnh vực máy tính.
Năm 1989, Cern được biết đến như một trung tâm Internet lớn nhất châu
Âu và Tim Berners-Lee đã cho thấy tài năng của mình khi kết nối siêu
văn bản với Internet. "Tôi chỉ cần áp dụng khái niệm siêu văn bản và nối
nó với các TCP và DNS. Thế là đã có World Wide Web" - Tim nói.
Thiên tài sinh năm 1955 đã viết ra phiên bản đầu tiên vào tháng
3/1989 nhưng chỉ đến năm 1990, nhờ sự giúp đỡ của Robert Cailliau (người
nhận giải thưởng Hệ thống phần mềm ACM năm 1995), ông mới hoàn thành
được phiên bản đầy đủ khiến người quản lý Mike Sendall hài lòng.
Tim cho biết, website đầu tiên được xây tại địa chỉ
http://info.cern.ch, được
phát hành vào ngày 6/8/1991. Website đã giải thích World Wide Web là
cái gì, cách tìm trình duyệt và thiết lập một máy chủ.
Năm 1994, nhà khoa học người Anh thành lập World Wide Web Consortium
(W3C) tại học viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT). W3C bao gồm nhiều công
ty khác nhau nhằm tạo ra những tiêu chuẩn và khuyến nghị để cải tiến
chất lượng các trang web. Đặc biệt, mọi thứ trên World Wide Web đều
không bắt người dùng phải mua giấy phép, mà hoàn toàn miễn phí để ai
cũng có thể dễ dàng sử dụng.
Tháng 12/2004, Tim Berners-Lee đảm nhận một vị trí chủ tịch khoá khoa
học máy tính trong trường điện tử và khoa học máy tính, thuộc ĐH
Southampton (Anh).
Luôn ủng hộ việc miễn phí truy cập Internet
Tháng 6/2009, Thủ tướng Anh - Gordon Brown tuyên bố Tim Berners-Lee
sẽ làm việc cho Chính phủ Anh để giúp thành lập dữ liệu mở, dễ dàng truy
cập trên web cũng như xây dựng sức mạnh thông tin cho lực lượng đặc
nhiệm.
Có thể nói, Tim và giáo sư Nigel Shadbolt chính là hai nhân vật chủ chốt đằng sau trang web
data.gov.uk
- một dự án của chính phủ Anh để mở hầu hết dữ liệu thu được phục vụ
cho các mục đích tái sử dụng miễn phí. "Những thay đổi này báo hiệu một
sự chuyển biến lớn về văn hoá trong chính phủ - cởi mở, trách nhiệm và
minh bạch hơn. Giờ người dân có thể tham gia vào những gì họ quan tâm,
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ" - ông cho hay.
Đến tháng 5/2012, Tim trở thành chủ tịch Viện dữ liệu mở. Ngoài ra,
ông là người dẫn đầu Affordable Internet (A4AI) - liên minh của các tổ
chức công và tư như Google, Facebook, Intel và Microsoft, được thành lập
vào tháng 10/2013. Theo đó, ông thường tìm cách cho chi phí truy cập
Internet ở mức chấp nhận được để việc truy cập ở các nước đang phát
triển mở rộng hơn.
|
Tim Berners-Lee đã đạt được không ít thành tựu trong sự nghiệp. Đến nay, ông vẫn được mọi người ngưỡng mộ, tôn vinh. |
Hiện nay, thiên tài vĩ đại nhất thế giới vẫn luôn được mọi người tôn
vinh và biết ơn khi là người phát minh ra Internet. Đồng thời, ông cũng
là người ủng hộ ý tưởng Internet là một loại quyền hạn cơ bản của con
người, ai cũng có thể sử dụng.
Gần đây nhất, vào ngày 19/5 vừa qua, Tim Berners-Lee đã được trao
bằng tiến sĩ danh dự về kỹ thuật và công nghệ đại học Yale (Mỹ).
Tìm hiểu về World Wide Web từ những ngày đầu mà Tim Berners-Lee phát minh ra nó
Hướng dẫn xem song ngữ:
- Tra nghĩa từ: nhấp đôi chuột (double click) vào từ cần dịch nghĩa ⇒nhấp vào dấu hỏi.
- Tra nghĩa đoạn: nhấp chuột (click) vào đoạn cần dịch nghĩa.
Tìm hiểu về World Wide Web từ nguồn gốc của nó
Khoa học đã thúc đẩy World Wide Web, và ngược lại nền tảng Web đã tương tác ngược lại để phát triển khoa học.
'Một
đề xuất: Quản lý thông tin' là tên của một tài liệu được viết vào tháng
ba năm 1989 bởi một nhà vật lý chưa có tên tuổi là Tim Berners-Lee,
người đang làm việc cho CERN trong thời điểm đó (CERN- là một phòng
nghiên cứu về vật lý hạt nhân của Châu Âu, có trụ sở tại Geneva). Đề
xuất của anh ấy với cách gọi giản dị là World Wide Web, đã đạt được
nhiều thành tựu hơn bất kỳ ai khác trong thời điểm đó.
Thực
ra, trang Web được phát minh ra để xử lý một vấn đề đề cụ thể. Vào
những năm cuối 1980s, CERN đã lên kế hoạch cho một dự án khoa học tham
vọng nhất từ trước tới bấy giờ, có tên gọi là LHC. Trong những dòng mô
tả đầu tiên trong đề xuất của ông: 'Đã có nhiều cuộc thảo luận cho tương
lai của CERN và LHC kết thúc với câu hỏi: "làm sao chúng ta có thể theo
dõi được một dự án lớn như vậy" và đề xuất của anh ấy đã trả lời được
cho câu hỏi đó.'
Trang
Web mà mọi người biết đến như bây giờ có nhiều công dụng hơn so với ý
tưởng ban đầu khi nó chỉ liên kết các tài liệu điện tử về vật lý hạt
nhật ở các phòng thí nghiệm trên toàn thế giới. Nhưng tất cả những thay
đổi mà nó đã mang lại từ mạng lưới liên kết xã hội cho tới những kế
hoạch về chính trị, và nó đã thay đổi diện mạo của chính ngành khoa học
đã tạo ra nó kể từ khi nó được phát minh.
Nó
cho phép những bài báo được phát hành trực tuyến và những liên kết xâu
chuỗi từ trang này tới trang khác. Nó cũng cho phép những nhà khóa học
gạo cội tuyển dụng những nhà khoa học trẻ để giúp đỡ họ. Một trong số
những dự án như vậy có tên gọi là Galaxy Zoo, được sử dụng bởi rất nhiều
người tình nguyện tham gia mà không cần lương để xác định hàng triệu
tấm ảnh chụp về dải thiên hà với nhiều hình dạng khác nhau (xoắn ốc,
elip hay một kiểu bất thường nào đó)
Dự
án này từ khi được phát minh đã giúp những nhà du hành không gian hiểu
dải thiên hà bao gồm những thứ gì và nó đã chứng minh đã đạt được thành
công đến nỗi thúc đẩy thêm một nghiên cứu mới để chọn ra một triệu tấm
ảnh rõ nét và chi tiết nhất. Những người làm việc cho dự án này có tên
gọi đơn giản là Herbaria@home đã kiểm tra những tấm hình được ghi chú
bằng tay về những cây cối cổ thụ được lưu giữ trong trong những bảo tàng
của người Anh. Điều này cho phép họ dò theo những thay đổi của việc
phân bố các loài vật theo sự thay đổi của khí hậu
Một
ứng dụng mới nữa của Web được sử dụng như một phòng thí nghiệm. Nó cho
phép các nhà khoa học xã hội nói riêng để thực hiện những điều mà trước
đây dường như không thể. Trong một sự án, các nhà khoa học đã có những
quan sát về kích thước của các liên kết xã hội được sử dụng qua
Facebook. Trong cuộc điều tra thứ hai về những mạng lưới như vậy, đã
được tạo ra bởi Bernardo Huberman từ các phòng thì nghiệm HP, nghiên cứu
của Hewlet-Packard có trụ sở đặt tại Palo Alto, tiểu bang California,
cũng trông như Twitter, một mạng xã hội cho phép mọi người đăng những
tin nhắn ngắn tới danh sách những người bạn trên đó.
Trong
cái nhìn đầu tiên, những mạng lưới như vậy trong có vẻ rất đồ sộ với
300.000 người sử dụng Twitter (trong thời điểm đó) ước tính mỗi người có
khoảng 80 bạn bè và với Facebook thì trung bình mỗi người có khoảng 120
bạn bè. Nhưng có những danh sách bạn bè lên tới 1000 người. Kiểm tra
thông tin chi tiết hơn, khảo sát cho thấy phần lớn tin nhắn hướng đến
một vài người cụ thể. Điều này còn cho thấy những hoạt động cá nhân trên
mạng xã hội còn thấp hơn nhiều so với tương tác của họ trong cộng đồng
thực tế của mình.
Tiến
sĩ Huberman đã giúp những rất nhiều điều luật chưa thông qua về sử dụng
Web, bao gồm cả thời gian (số lần) trung bình mà mỗi người dành ra để
sử dụng Web để xem qua nhiều trang web trước khi rời khỏi (máy tính), và
chi tiết hơn có thể thấy hiện tượng 'người thắng thì sẽ thắng tất cả'
khi mà có một số trang web thu hút phần lớn người dùng trong khi đó
những trang khác thì có rất ít người sử dụng.
Những
nhà khoa học thì giỏi trong việc sử dụng Web để tiến hành các nghiên
cứu. Tuy nhiên, họ có vẻ vẫn còn chưa sử dụng hiệu quả các trang mạng xã
hội để làm công cụ mở rộng cho những trao đổi mang tính khoa học và
khuyến khích sự hợp tác hiệu quả hơn.
Những
nhà báo ngày nay đã biết sử dụng mãng xã hội để những bài báo của họ có
nhiều bình luận từ đọc giả. Thật vậy, nhiều bloggers đã dần phát triển
và hoàn thiện các bài luận của họ để cũng đạt được những bình luận như
vậy. Nhưng mặc dù mọi người đã cố gắng để có những đánh giá khoa học
theo cách tương tự nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn chỉ chấp nhận
những bình luận từ số ít các chuyên gia mà họ không biết tới (nặc danh
trên mang xã hội). Khi từ báo khoa học Nature, một trong những trang
đăng và đánh giá các bài báo khoa học lớn nhất thế giới, được kiểm chứng
với một đánh giá mở rộng vào năm 2006, và kết quả cho thấy thật đáng
thất vọng.
Chỉ
5% những tác giả cho rằng họ được đồng ý cho đăng bài bởi tờ báo này
trên trang Web này- và dự liệu của họ đã đúng khi mà hầu hết một nửa
trong số bài của họ không có bình luận. Michael Nielsen, một chuyên gia
về máy tính lượng tử, là một nhà khoa học trong làn sóng mới về các nhà
blogger khoa học muốn tạo ra sự thay đổi. Anh ấy nghĩ lý do dẫn đến việc
thiếu các bình phẩm và do lượng đọc tiềm năng không được khích lệ
Dịch bởi: cephan
53-Edward Jenner
1749-1823
Vương Quốc
Y Học,
Sự thật về người đầu tiên tìm ra vắc xin
Louis Pasteur được thế giới công nhận là cha đẻ
của văcxin, song thực tế người đầu tiên đặt nền móng cho tiêm chủng là
Edward Jenner, một bác sĩ danh dự trong hội Hoàng gia Lon Don, Anh.
Ngày nay cả thế giới phải công nhận
cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là tiêm vắc xin.
Thành tựu y học này đã giúp gần 8 tỷ người trên thế giới tránh khỏi cái
chết do những đại dịch hoành hành từ thế kỷ 17 trở về trước. Tiêm chủng
được áp dụng cho cả người lớn và trẻ em, hầu như ai cũng hiểu rằng chỉ
cần một mũi tiêm, cơ thể chúng ta sẽ được miễn nhiễm với nhiều căn bệnh
quái ác không thuốc chữa.
Trong tâm khảm nhiều người nghĩ rằng Louis Pasteur là cha đẻ của vắc
xin vì ông quá nổi tiếng với việc tìm ra vi khuẩn cũng như sự nhiễm
trùng và chế tạo ra vắc xin phòng bệnh dại. Thực tế Pasteur không phải
là cha đẻ của vắc xin mà công này thuộc về một bác sĩ danh dự trong hội
Hoàng gia Lon Don. Đó là
Edward Jenner, người đã khẳng
định hiệu quả của vắc xin trong phòng chống bệnh cho nhân loại trước khi
thế giới biết đến sự tồn tại của virus và vi khuẩn. Lịch sử y học thế
giới ghi nhận Edward Jenner có công lao to lớn trong việc thiết lập ra
"đế chế" vắc xin giúp bảo vệ hàng tỷ người khắp hoàn cầu.
Năm 1796, châu Âu trong đại dịch đậu mùa. Lúc này không ai có khái
niệm về virus. Năm 1798, khi bác sĩ Edward Jenner công bố kết quả thí
nghiệm đặt nền móng cho việc tiêm chủng thì người thời ấy mới hình dung
là có các "mầm bệnh" gây nên sự truyền nhiễm.
Edward Jenner.
Căn bệnh đậu mùa xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhân loại, trở
thành đại dịch từ thế kỷ thứ 6, bắt nguồn từ châu Phi, sau đó lan sang
châu Âu, châu Á. Trong hai thế kỷ 17 và 18 bệnh đã cướp đi sinh mạng
hàng triệu người. Đậu mùa do virus gây ra nhưng các bác sĩ sống trước
thời của Louis Pasteur không hề có khái niệm về vấn đề này, họ cho rằng
đây là bệnh nan y không thuốc chữa. Mãi đến 80 năm sau, Louis Pasteur
mới phát hiện ra vi khuẩn.
Lúc bấy giờ quê hương của bác sĩ Edward Jenner cũng bị đại dịch đậu
mùa đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe con người và gia súc. Ước tính năm
1773, cứ 10 người Anh mắc bệnh thì có đến 9 tử vong. Người nào sống sót
cũng bị lở loét, mặt rỗ, chịu cảnh cô độc, tủi hổ suốt phần đời còn lại,
bị cả cộng đồng ghẻ lạnh, tẩy chay bởi khả năng lây nhiễm khủng khiếp
của bệnh.
Triệu chứng ban đầu của đậu mùa là nổi các mụn đỏ, sau đó thành mụn
nước lan ra khắp cơ thể, gây sốt, nhiễm trùng, có thể dẫn đến mù lòa và
tử vong. Bệnh lây qua đường hô hấp và tiếp xúc nên số người mắc tăng lên
rất nhanh. Bác sĩ Jenner đã dành suốt nhiều năm tìm hiểu về căn bệnh
này nhưng không thể tìm ra cách chữa trị.
Một lần nọ Jenner tình cờ phát hiện bệnh
"đậu bò",
tức là bệnh đậu mùa ở bò. Vị bác sĩ quan sát thấy một điều lạ là những
người vắt sữa bò sau khi mắc bệnh này thì tuyệt nhiên không bị đậu mùa
nữa, do các triệu chứng tương tự nhau nên ông gọi tên nó là
"đậu bò". Từ đó bác sĩ luôn trăn trở:
"Liệu có thể lây căn bệnh đậu bò sang người để phòng được bệnh đậu mùa ở
người hay không? Như thế, người ta sẽ mắc căn bệnh đậu bò không chết
nhưng thoát khỏi bệnh đậu mùa chết người".
Jenner đã đến gặp một người phụ nữ chuyên làm nghề vắt sữa bò đang bị
bệnh đậu bò. Bệnh này thường xuyên xuất hiện ở bò làm cho toàn thân con
vật nổi các mụn nước. Bác sĩ đã chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên
cánh tay của cô gái chăn bò Sarah Nelmes rồi cấy dịch này vào cánh tay
của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Sau đó Phipps
đã có những triệu chứng của bệnh đậu bò. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn
bệnh đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa vào người
cậu. Theo dõi cho thấy có một hiện tượng kỳ lạ: Phipps không hề mắc đậu
mùa.
Phương pháp
"tiêm ngừa" của Jenner xét theo các tiêu chuẩn y
đức ngày nay là hoàn toàn sai trái. Nhưng thực tế không nhờ sự liều
lĩnh của ông thì cả châu Âu khi đó sẽ rơi vào bàn tay tử thần do đại
dịch đậu mùa hoành hành. Đây rõ ràng đó là một hành động có tính khai
phá:
Đứa trẻ được chủng ngừa đã đề kháng được bệnh.
Không dừng lại ở đó, Jenner còn áp dụng cho chính con trai mình, dù đứa
trẻ mới 10 tháng tuổi. Kết quả thật tốt đẹp, em bé cũng không bị bệnh
đậu mùa. Dựa trên nguyên lý ấy, vị bác sĩ đã hoàn thành công nghệ chế
tạo thuốc tiêm chủng với các công đoạn sau:
- Bước một: Lấy ít vi trùng bệnh đậu mùa trên một con bò mắc bệnh này.
- Bước hai: Làm cho vi trùng yếu đi.
- Bước ba: Tiêm các vi trùng này vào cơ thể người qua
đường máu. Ông giải thích rằng những người được tiêm chủng sẽ không mắc
bệnh đậu mùa nữa vì máu của họ đã có một yếu tố kháng bệnh.
Năm 1798, phương pháp tiêm chủng của Jenner được nhân rộng ra khắp thế giới.
Jenner gọi phương pháp trên là
"vaccination",
đây chính là nguồn gốc khai mở công cuộc tiêm vắc xin ở người phổ biến
cho đến ngày nay. Năm 1798, phương pháp tiêm chủng của Jenner được nhân
rộng ra khắp thế giới. Hai năm sau, chính phủ Anh đã mời ông tiêm cho
binh chủng Hải quân hoàng gia, nhờ khả năng phòng bệnh hiệu quả, vị bác
sĩ đã được ban thưởng rất hậu hĩnh. Hoàng đế Napoleon ở Pháp cũng ra
lệnh cho toàn bộ binh lính phải tiêm chủng đậu mùa, sau đó Mỹ cũng áp
dụng phương pháp này.
Thành công lớn nhất của Jenner là
chinh phục được bệnh đậu mùa.
Năm 1802, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban quốc tế về phòng chống đậu
mùa. Vị bác sĩ lần lượt được nữ hoàng Anh, Nga, hoàng đế Pháp, tổng
thống Mỹ trao giải thưởng giá trị vì đã có những đóng góp to lớn cho
nhân loại. Sau đó Jenner được mời vào làm việc tại Viện Hàn lâm khoa học
Pháp. Tại các quốc gia hùng cường như Anh, Pháp, Italy... người ta đã
đúc tượng của ông để tưởng nhớ và ghi ơn.
Ngày 16/1/1823, Jenner trút hơi thở cuối cùng do tai biến mạch máu
não. Chính phủ Anh xin được chôn cất thi hài ông ở Tu viện Westminster,
nơi an nghỉ những người con ưu tú của nước Anh và cả nhân loại. Người ta
gọi ông là
"bác sĩ tài ba bất tử của nhân loại" và
"cha đẻ của vắc xin" đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho ngành y học dự phòng thế giới.
Cập nhật: 12/04/2016
Theo VnExpress
Edward Jenner - Ông tổ của Vaccin
Kỷ lục Vietkings - Jenner đặt tên cho phương pháp này là Vaccination. Đây chính là nguồn gốc của tiêm vac-xin ở người.
Edward
Jenner, thành viên của Hội Hoàng gia Anh (Fellow of the Royal Society),
là một bác sỹ đa khoa, nhà phẫu thuật người Anh. Ông là bác sỹ đầu tiên
nghiên cứu và sử dụng Vaccin để phòng chống bệnh đậu mùa
Edward Jenner (1749 – 1823)
Edward
Jenner, nhà ở Berkeley, Gloucestershire, miền Tây Nam nước Anh, bắt đầu
học việc cho tiến sĩ Ludlow ở Sodbury, Gloucestershire từ năm 13 tuổi.
Năm 1770, ông đến London để theo học John Hunter, một bác sỹ phẫu thuật,
nhà thực nghiệm danh tiếng, là thành viên của Hội Hoàng gia sau này.
Bất
chấp ý định giúp đỡ của những nhân vật danh tiếng muốn ông ở lại
London, ông đã trở về Berkeley sau khi hoàn tất việc học. Trong thời
gian bệnh đậu mùa đương hoành hành khắp châu Âu, khiến rất nhiều người
chết. Jenner phát hiện rằng những người vắt sữa bò sau khi mắc bệnh đậu
bò (một căn bệnh từ bò) sẽ không bao giờ bị đậu mùa nữa. Sau khi thử
nghiệm trực tiếp trên một đứa trẻ khỏe mạnh, và sau đó là đứa con 10
tháng tuổi của mình, công nghệ chế tạo thuốc tiêm chủng ngừa đậu mùa của
ông hoàn thành. Năm 1796, Jenner lấy mủ của một người phụ nữ mắc bệnh
đậu bò để chủng cho một cháu trai 8 tuổi, 7 ngày sau đứa bé này bị sốt
và nổi hạch nhưng nhanh chóng lành lại. Một năm sau, vào ngày 01.7.1977,
Jenner lấy mủ của một người mang bệnh đậu mùa thật để chích cho em bé
từng được chủng đậu bò trên và đứa bé không mắc bệnh đậu mùa của người
nữa. Ngày này, được ghi lại trong lịch sử sinh y học như ngày ra đời của
phương pháp tiêm chủng. Jenner đặt tên cho phương pháp này là
Vaccination. Đây chính là nguồn gốc của tiêm vac-xin ở người.Đến
năm 1798, phương pháp tiêm chủng của ông lan rộng ra khắp thế giới.
Tính đến năm 1800, đã có khoảng 6000 người được tiêm chủng thành công.
Vào năm 1802, ông được bầu làm chủ tịch Ủy ban quốc tế về chủng đậu, sau
đó lần lượt được nữ hoàng Anh, Nga, hoàng đế Pháp và tổng thống Mỹ trao
thưởng vì đóng góp to lớn cho nhân loại và được mời vào Viện Hàn lâm
khoa học Pháp.
Ngày 16 tháng 1 năm 1823, ông trút hơi thở cuối cùng sau khi bị tai biến mạch máu não.
NK - Cẩm nang Thông tin Kỷ lục
Sự thật về người phát minh ra vaccine chủng ngừa bệnh đậu mùa
16:02 09/02/2018
Ngày xửa ngày xưa, cách đây đã lâu lắm, có một cô gái vắt sữa
xinh đẹp. Gương mặt cô không tỳ vết, làn da màu anh đào, tươi mịn như
kem, nụ cười của cô ẩn chứa sự tự tin như cách mà cô tuyên bố: "Tôi sẽ
không bao giờ bị mắc bệnh đậu mùa. Và cũng không bao giờ chịu một gương
mặt xấu xí"…
Có một cậu bé 13 tuổi đã nghe câu chuyện về khả năng miễn dịch bệnh
đậu mùa của cô gái vắt sữa. Cậu bé đó chính là Edward Jenner, một chú bé
học việc một bác sĩ phẫu thuật ở nông thôn.
Cái tên của Jenner bỗng một ngày trở nên nổi tiếng khắp nơi khi là
người phát minh ra thuốc chủng ngừa đầu tiên trên thế giới, nhờ có
vaccine này mà thế giới đã thoát khỏi một đại dịch bệnh đậu mùa. Và câu
chuyện về Edward Jenner đã tạo nên nguồn cảm hứng cho việc phát triển ra
vaccine trong lịch sử y khoa cổ điển, như đã được nhắc đi nhắc lại
nhiều năm bắt nguồn từ một cuốn tiểu sử có từ năm 1837.
Cô gái vắt sữa
Edward Jenner trưởng thành và thành danh là một bác sĩ ở Berkeley,
(Gloucestershire, Anh Quốc). Khoảng năm 1796, ông đã chủng ngừa cho một
đứa bé tên là James Phipps với mủ lấy ra từ một cái mụn mủ bệnh đậu mùa,
theo một báo cáo lịch sử từ năm 2005 được đăng trên tờ tạp chí Baylor
University Medical Proceedings.
|
Bức vẽ cho thấy cảnh bác sĩ Edward Jenner đang chủng ngừa bệnh đậu mùa cho một bệnh nhân nhi. |
Jenner đã thử nghiệm một lý thuyết đã ấp ủ trong suy tư của ông từ
rất lâu về câu chuyện cô gái vắt sữa, rằng việc tiếp xúc với dạng bệnh
đậu mùa ở giai đoạn tương đối nhẹ sẽ giúp con người thoát khỏi hạn tử
của dịch bệnh đậu mùa. Và nó đã được kiểm nghiệm hiệu quả. Bé Phipps đã
khỏi bệnh đậu mùa sau khi cậu bé được chủng ngừa với bệnh đậu mùa.
Thử nghiệm này đã được bác sĩ Jenner tiến hành với một số đứa trẻ
khác bao gồm cả đứa con trai 11 tháng tuổi của ông. Công trình của bác
sĩ Edward Jenner đã đi vào lịch sử như là một trong những nỗ lực khoa
học đầu tiên để kiểm soát một dịch bệnh truyền nhiễm bằng cách chủng
ngừa.
Gần 2 thế kỷ sau đó, vào ngày 8 tháng 5 năm 1980, Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) đã loan báo rằng thế giới đã miễn trừ hoàn toàn với bệnh đậu
mùa. Nhưng giờ đây, TS, GS Arthur Boylston - giáo sư danh dự về bệnh học
tại Đại học Leeds, giảng viên cao cấp của Đại học Oxford lại thổi bùng
câu chuyện về cô gái vắt sữa trong một bài viết mới nhất của ông đăng
trên tờ Thời báo y học New England mang tựa đề "Huyền thoại cô gái vắt
sữa".
Sự thật được tiết lộ
Ở đây còn có một câu chuyện khác được minh chứng bởi các lá thư, nhật
ký và công trình nghiên cứu mà GS Arthur Boylston đã khám phá ra được
trong công trình nghiên cứu của mình. Rằng nó còn liên quan đến một bác
sĩ đồng quê tên là John Fewster, câu chuyện này được kể vào năm 1768,
trùng thời điểm mà chú bé học việc Edward Jenner đang chăm chú lắng nghe
câu chuyện chủng ngừa bệnh đậu mùa từ cô gái vắt sữa.
|
Bìa cuốn sách "Thách thức Thượng Đế: Bệnh
đậu mùa và sự quên lãng của cuộc cách mạng y học vào thế kỷ 18" của GS
Arthur Boylston. |
Cũng giống như các thầy thuốc vào thời kỳ đó, bác sĩ John Fewster đã
chủng ngừa cho bệnh nhân bằng virus bệnh đậu mùa, cung cấp cho họ giường
bệnh và chăm sóc y tế tại một ngôi nhà lớn. Các bệnh nhân sẽ ngụ ở đó
cho tới khi bệnh tình của họ chấm dứt.
Bác sĩ Fewster đã điều trị cho một nhóm bệnh nhân nông dân ở
Thornbury (không xa so với nơi Edward Jenner học việc). Một số nông dân
được bác sĩ Fewster điều trị đã miễn dịch được căn bệnh. Bác sĩ Fewster
mạnh dạn nói điều này vì các bệnh nhân đã không hình thành tác dụng phụ
khi được chủng ngừa.
GS danh dự Arthur Boylston giải thích: "Thông thường, bệnh nhân sẽ bị
đau nặng trên cánh tay của họ và đây là hình thức bệnh đậu mùa nhẹ. Nếu
họ thật sự bị bệnh đậu mùa thì sẽ không có phản ứng này".
Những nông dân được bác sĩ John Fewster trị bệnh, nhấn mạnh rằng họ
chưa từng mắc bệnh đậu mùa. Bác sĩ Fewster đã khám phá ra rằng những
người nông dân đã không phản ứng với chủng ngừa bệnh đậu mùa vì họ đã có
bệnh đậu mùa từ trước đó.
Và ông kết luận: "Các nông dân đã miễn dịch bệnh đậu mùa từ lần tiếp
xúc với căn bệnh này". Yêu cầu của bác sĩ Fewster là một quan sát lâm
sàng mà ngày hôm nay đã dẫn tới một nghiên cứu to lớn hơn và công bố
nhiều kết quả; nhưng đó không phải là cách mà y học thời thế kỷ 18 đã
làm.
GS Arthur Boylston giải thích: "Hồi xưa thì không có các tạp chí y
khoa. Cánh bác sĩ thường giao tiếp thông qua những bữa tiệc nhỏ". Theo
nữ GS Mary Fissell thì: "Những bữa họp mặt này là một phần rất quan
trọng trong câu chuyện về bệnh đậu mùa. Những câu chuyện thần thoại tạo
nên một câu chuyện đẹp. Nhưng quan trọng là giới y khoa bắt đầu tiếp
nhận tin tức theo những cách mà họ chưa từng có từ trước đó".
Những cuộc họp mặt của giới bác sĩ Anh vào thế kỷ 18 thường diễn ra ở
một quán rượu nhỏ mang tên là The Ship, GS Boylston đã khám phá ra tin
này, ông cũng tìm thấy tên của 2 quý ông là anh em nhà Ludlow; và bác sĩ
Edward Jenner, trong thời gian học việc cho anh em nhà Ludlow vào năm
1768. Tại buổi gặp mặt, bác sĩ Fewster kể chuyện về những nông dân chưa
từng bị bệnh đậu mùa nhưng lại mắc căn bệnh này.
GS Boylston tin rằng anh em nhà Ludlow quay về nhà và nói với Edward
Jenner về những quan sát của bác sĩ Fewster. Khi đó Jenner mới 13 tuổi
và cậu chắc chắn là nghe về những quan sát của bác sĩ Fewster. Cuối cùng
Jenner trở thành một trong các thành viên của hiệp hội y tế Anh xuất
hiện tại The Ship. Edward Jenner có gần 30 năm suy ngẫm về căn bệnh đậu
mùa trước khi thử nghiệm giả thuyết của mình vào năm 1796 bằng cách
chủng ngừa em bé James Phipps.
GS Boylston quả quyết: "Ý tưởng rằng bệnh đậu mùa có thể phòng ngừa
một đợt lây nhiễm bệnh dịch đã đến từ những quan sát của bác sĩ Fewster
vào năm 1768. Không hề liên quan đến cô gái vắt sữa".
Vậy huyền thoại về cô gái vắt sữa bắt đầu như thế nào? Thời kỳ đó,
câu chuyện liên quan đến cô gái vắt sữa là được kể bởi một người bạn
kiêm người viết tiểu sử đầu tiên của bác sĩ Edward Jenner tên là John
Baron, chỉ vài năm sau khi ông Jenner tạ thế.
Theo nghiên cứu của GS Boylston, những bác sĩ khác vào thời kỳ đó đã
không ngớt thẩm vấn bác sĩ Jenner rằng làm thế nào ông có thể tạo liên
kết giữa bệnh đậu mùa và miễn dịch căn bệnh này. Bản thân bác sĩ Jenner
cũng chưa từng giải thích làm thế nào mà ông có thể chứng minh giả
thuyết để làm nên thí nghiệm vào năm 1796.
GS Boylston nhấn mạnh: "Sau khi bác sĩ Edward Jenner qua đời, người
viết tiểu sử đã cố gắng bảo vệ danh tiếng cho ông". John Baron có thể đã
dựng nên câu chuyện hoang đường về cô gái vắt sữa như là một cách để
khẳng định rằng Jenner đã nảy sinh ra ý tưởng về kết nối bệnh đậu mùa,
GS Boylston giải thích.
Nguyễn Thanh Hải (theo NPR)
54-Galen
129-200
Y Học,
Những "nhầm nhọt" của các nhà khoa học trong lịch sử đã khiến nhân loại phần nào chịu nhiều thiệt hại to lớn...
Trong
lịch sử nhân loại ghi nhận không ít lý thuyết sai lầm từ các nhà
khoa học. Đa phần những sai sót được phát hiện ra ngay lập tức.
Nhưng
có một số lý thuyết sai lầm phải mất một thời gian dài mới được con
người nhận ra, nhưng lúc đó nó đã để lại những hậu quả đáng tiếc.
1. Gan là trung tâm hệ tuần hoàn
Hẳn ai trong chúng ta cũng biết tầm quan trọng của tim. Tim là
trung tâm của hệ tuần hoàn và là nguồn sống của con người. Thế nhưng từ
thời Hy Lạp cổ đại đến thế kỷ XVI, nhiều nhà khoa học vẫn cho rằng trung
tâm của hệ tuần hoàn là gan.
Nhà triết học Galen cho rằng, gan mới là trung tâm của hệ tuần hoàn.
Sai lầm này xuất phát từ nhà sinh học Hy Lạp cổ đại Galen. Theo
Galen, thức ăn đưa vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành máu ở trong gan, sau
đó từ gan, máu sẽ chuyển thành năng lượng của cơ thể.
Còn tim chỉ là một cơ quan phụ, phát ra những âm thanh thể hiện tiếng nói của lương tri con người.
Harvey đã phát hiện ra tim mới là bộ phận quan trọng nhất.
Quan niệm sai lầm này khiến cho việc phẫu thuật và chữa trị gặp rất
nhiều khó khăn. Thế nhưng mãi tới năm 1628, lý thuyết này mới bị bác
bỏ.
Khi đó, nhà khoa học William Harvey đã
khám phá ra thực chất các cơ quan chính của hệ tuần hoàn là tim, phổi,
động mạch và tĩnh mạch. Ông là người đầu tiên vẽ ra một cách chính xác
và đầy đủ biểu đồ tuần hoàn máu, xóa bỏ hoàn toàn những lý thuyết sai
lầm mà Galen để lại.
2. Trái đất nằm ở trung tâm vũ trụ
Ngày
nay, chúng ta ai cũng biết Trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ.
Nhưng cách đây cả ngàn năm, giả thuyết này được nêu ra và không ít
người ủng hộ.
Nguyên nhân là do vào thời Hy Lạp
cổ đại, học giả Ptolemy đã cho ra đời thuyết địa tâm. Trong đó lý
thuyết này mô tả Trái đất hình cầu và nằm ở trung tâm vũ trụ.
Theo người châu Âu đầu thời cận đại, Trái đất mới là trung tâm của vũ trụ.
Các
ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái
đất, với thứ tự từ trong ra ngoài là Mặt trăng, Mặt trời, Sao Kim, Sao
Thủy, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ.
Lý thuyết sai lầm này tồn tại lâu dài đến tận thế kỷ XIV. Mãi đến
khi nhà thiên văn học Copernicus công bố mô hình nhật tâm vào năm 1543,
mọi người mới biết được chính xác vị trí của Trái đất và các hành tinh
quay quanh Mặt trời.
Dù
cho lúc bấy giờ, những lý giải của Copernicus đã không thể thuyết phục
được giáo hội nhưng nó đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà thiên văn khác.
Mô
hình này đã đánh dấu sự phát triển của thiên văn học hiện đại và khuyến
khích các nhà khoa học và học giả có thái độ hoài nghi hơn với những
giáo điều đã tồn tại từ trước.
3. Phẫu thuật không cần khử trùng
Có một sự thật là vào đầu thế kỷ XIX, các bác sĩ đã không hề rửa tay hay vệ sinh dụng cụ trước khi thực hiện một ca phẫu thuật.
Điều
này dẫn đến tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ rất cao, vết thương nào cũng có
màng mủ. Tuy nhiên, hầu hết các bác sĩ đều đổ lỗi cho sự nhiễm trùng
trên là do mất cân bằng của máu, đờm, mật vàng và mật đen.
Lister đã đưa ra phương pháp khử trùng cho phẫu thuật.
Mãi đến năm 1865, bác sĩ Lister của bệnh viện Hoàng gia Glasgow bắt
đầu chú ý đến luận điểm của nhà khoa học Pasteur cho rằng, trong không
khí có những mầm vi sinh vật - đây chính là nguyên nhân gây hiện tượng
lên men và thối rữa.
Và thế là, Lister quyết
định sử dụng phương pháp tẩy trùng bằng acid carbolic trong các trường
hợp phẫu thuật. Ông làm tẩm acid carbolic vào các miếng gạc và băng kín
vết thương lại, đồng thời thường xuyên thay gạc.
Mô hình khử trùng đầu tiên.
Sau
một thời gian, bác sĩ ngạc nhiên nhận thấy vết thương trở nên khô bề
mặt, không có chút mủ nào và liền sẹo rất nhanh. Từ đây, Lister cùng
nhiều bác sĩ bắt đầu phổ biến rộng rãi ý tưởng làm sạch vết thương và sử
dụng chất khử trùng.
4. DNA không hề quan trọng
DNA được phát hiện vào năm 1869 nhưng trong suốt một thời gian dài trước đó, vai trò của DNA đã bị các nhà khoa học bỏ quên.
Trước đây DNA bị coi là thiếu quan trọng với di truyền.
Ngay
cả sau khi nhiều thí nghiệm vào giữa thế kỷ XX đã cung cấp bằng chứng
cho thấy, DNA chính là nơi lưu trữ thông tin di truyền, quy định các
tính trạng của con người và động vật nhưng nhiều nhà khoa học vẫn tin,
protein mới chính là vật chất lưu trữ thông tin di truyền. Lý do họ đưa
ra là DNA quá đơn giản để có thể lưu giữ được một lượng lớn thông tin.
Hình ảnh hai nhà nghiên cứu Watson và Crick công bố mô hình xoắn kép DNA.
Điều này chỉ kết thúc khi Watson và Crick công bố mô hình xoắn kép
của DNA vào năm 1953. Mô hình này khiến cho các nhà sinh học bắt đầu
hiểu làm thế nào một phân tử đơn giản như DNA lại có thể lưu trữ những
thông tin di truyền lớn tới vậy.
5. Trái đất chỉ có 6.000 tuổi
Cách đây vài trăm năm, Kinh Thánh thực sự được coi là một công
trình khoa học. Kinh Thánh được giảng dạy phổ biến ở các trường trung
học, đại học ở châu Âu.
Kinh thánh được sử dụng để xác định tuổi của Trái đất vào trước thế kỷ XIX.
Do
đó nhiều học giả đã dựa vào Kinh Thánh để giải thích các hiện tượng
khoa học, điển hình là tuổi của Trái đất. Các nhà khoa học bấy giờ ước
tính tuổi của Trái đất chỉ khoảng 6.000 năm.
Lý thuyết này chỉ bị bác bỏ vào thế kỷ XIX, các nhà địa chất bắt
đầu đưa ra bằng chứng về quá trình thay đổi địa chất đã xảy ra có lịch
sử kéo dài cả triệu năm.
Sự
xuất hiện của phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ vào đầu thế
kỷ XX cuối cùng đã chứng minh độ tuổi của Trái đất nằm trong một giá trị
khổng lồ - khoảng 4,5 tỷ năm.
6. Thuyết nhiên tố và vật chất cháy
Thuyết
nhiên tố là một lý thuyết khoa học đã lỗi thời được Johann Joachim
Becher đưa ra lần đầu tiên vào năm 1667. Thuyết này cho rằng, ngoài
những nguyên tố cổ điển của người Hy Lạp (lửa, nước, khí và đất) còn có
một nguyên tố nữa tương tự như lửa có tên là "yếu tố cháy"
(phlogiston).
Hình ảnh nhà khoa học Johann Joachim Becher.
Theo
Becher, tất cả những vật chất có thể cháy được đều chứa phlogiston -
một dạng vật chất không có màu, mùi, vị. “Yếu tố cháy” sẽ được giải
phóng ra ngoài trong quá trình bốc cháy của một vật chất.
Những người không ủng hộ thuyết này đã tiến hành thí nghiệm và phát hiện ra một số sai lầm trong lý thuyết của Becher.
Chẳng
hạn như khối lượng của nhiều kim loại như magie tăng lên sau khi được
đốt cháy (mặc dù chúng được cho là đã bị mất phlogiston trong quá trình
bị đốt cháy).
Ngày nay, khoa học đã biết rằng không có “vật chất cháy” mà hiện tượng được Becher nói đến thật chất là hiện tượng oxy hóa.
Phương thuốc bí ẩn 2000 năm giấu trong sách cổ
Lần đầu tiên Grigory Kessel cầm cuốn sách cổ hơn 1.000 năm tuổi, ông ngờ ngợ vì trông rất quen.
|
Bảm thảo ở Batlitmore. Ảnh: NY Times
|
Tiến sĩ Kessel là học giả chuyên nghiên cứu về Syria, đại học Philipps ở
Marburg, Đức. Ông đang ngồi trong thư viện của chủ nhân cuốn sách cổ,
một nhà sưu tập giàu có, chuyên sưu tầm tài liệu khoa học hiếm ở
Baltimore, bang Maryland, Mỹ.
Lúc đó, Kessel nhận ra rằng, mới 3 tuần trước, trong thư viện ở đại học
Harvard, ông nhìn thấy một tờ sách có những hình vẽ tương tự như cuốn
sách này. Cuốn sách ẩn giấu một văn bản y tế cổ xưa bằng tiếng Syria,
dịch lại công trình do Galen, bác sĩ kiêm triết học gia người Hy Lạp qua
đời năm 200 trước Công nguyên viết. Cuốn sách thiếu một vài trang, Tiến
sĩ Kessel đột nhiên bị thôi thúc bởi suy nghĩ chúng đang ở Bostron.
"Tôi thậm chí không thể tưởng tượng nổi nó trông thế nào," Kessel nói.
"Khi nhìn thấy bản thảo, tôi chỉ có ấn tượng rằng, tôi đã nhìn thấy nó
đâu đó. Và rồi tôi nhớ lại, tôi đã từng nhìn thấy một trang tương tự ở
thư viện Havard."
Tìm kiếm
Tiến sĩ Kessel trở lại thư viện Harvard, tìm lại trang giấy thất lạc.
Ông phân tích kích thước trang giấy, chữ viết tay và những yếu tố khác,
cũng như ký tự chìm dưới lớp da nạo, xác định đó chính là một trang
trong bản thảo y tế cổ ở Baltimore. Tuy nhiên, vẫn còn 6 trang nữa đang
thất lạc.
Ông dò tìm trong 10 thư viện nổi tiếng, lưu giữ những bản thảo Syria cổ,
bằng cách đối chiếu qua các bản thảo trực tuyến, hoặc đôi khi, tự đến
thư viện tìm hiểu. Cuối cùng, ông tìm được một trang nữa trong Tu viện
Thiên Chúa ở núi Sinai, ngọn núi linh thiêng nhất của các tôn giáo, tọa
lạc ở bán đảo Sinai của Ai Cập. Đây là một trong những thư viện lâu đời
nhất thế giới.
Một trang khác được tìm thấy ở thư viện quốc gia Pháp tại Paris, và một
trang nữa ở thư viện Vatican. Tuy nhiên, vẫn còn 3 trang thất lạc.
|
Các nhà khoa học đang chụp lại ảnh bản thảo cổ bằng tiếng Syria ở vu viện Vatican. Ảnh: NY Times
|
Bản thảo tiến sĩ Kessel tiếp cận làm bằng da cừu nạo, một lớp chữ mới
phủ lên trên lớp cũ. Nhiều thế kỷ trước, đây là hình thức phổ biến dùng
để tái chế da. Đối với bản thảo này, các thầy truyền giáo người Syria
thế kỷ 11 đã cạo đi bản sao văn bản y tế của Galen, viết đè các bài
thánh ca lên.
Giới khoa học chỉ mới bắt đầu hiểu đôi chút về bản thảo này, tài liệu
của Galen viết vể "Bài thuốc đơn giản - Cách pha chế và Tác dụng". Nó sẽ
giúp tìm hiểu nguồn gốc của thuốc, và cách thức nó lưu truyền đến khoa
học ngày nay.
"Xét trên nhiều góc độ, nó cực kỳ quan trọng," Peter Pormann, chuyên gia
về Hy Lạp - Arab, đại học Manchester, Anh, dẫn đầu cuộc nghiên cứu văn
bản nói.
Trong nhiều thế kỷ, "Bài thuốc đơn giản" của Galen là tài liệu y khoa
bắt buộc đối với các bác sĩ. Nó là sách giáo khoa các kiến thức y học
cổ, cách chăm sóc bệnh nhân và sử dụng dược liệu. Galen mô tả một loại
rễ cây chữa được bệnh "gai cổ họng", hay giới thiệu cây gai dầu là dược
liệu chữa bệnh đau tai mà "không gây đầy hơi".
Phần lớn "Bài thuốc đơn giản" đã được cộng đồng Thiên chúa giáo Trung
Đông dịch sang tiếng Syria. Rất có thể những ký tự ẩn giấu dưới bản thảo
da cừu nạo kia, có từ thế kỷ 9, là bản sao của bản dịch tiếng Syria đầu
tiên từ thế kỷ thứ 6.
"Ngày nay, dường như chẳng có gì đặc biệt khi một ai đó chuyển ngữ từ
tiếng này sang tiếng khác. Nhưng thời đó, bản dịch quả là một thành tích
vĩ đại," tiến sỹ Kessel nói. "Ông ấy phải tạo ra các từ vựng, tìm từ
Syria tương ứng để chuyển ngữ bản từ vựng y tế bằng tiếng Hy Lạp này."
"Bài thuốc đơn giản" là một công trình lớn, gồm 11 quyển. Công trình của
Galen được sao chép qua nhiều phiên bản trong nhiều thế kỷ, trở thành
cầu nối các chuyên gia y tế cổ đại người Hy Lạp đến với xã hội Hồi giáo.
Những bản dịch tiếng Syria dễ hiểu và dễ chuyển ngữ sang tiếng Arab hơn
so với bản gốc tiếng Hy Lạp.
Bản thảo ở Baltimore được bán cho một nhà sưu tập tư nhân năm 2002. Sau
đó, năm 2009, ông cho bảo tàng nghệ thuật Walters mượn. Một nhóm chuyên
gia chụp lại hình ảnh quang phổ của các trang sách. Từng trang được chụp
lại bằng máy ảnh kỹ thuật số độ phân giải cực cao, tối đa hóa những ký
tự bị cạo đi chìm dưới lớp da cừu nạo. Trong nhóm chuyên gia đó có Tiến
sĩ Kessel. Ông là chuyên gia nghiên cứu tại thư viện Dumbarton Oaks
Harvard , Washington.
|
Bản thảo cở ở thư viện St.atherine, Ai Cập. Ảnh: NY Times
|
Không ai biết có bao nhiêu bài thuốc căn bản ẩn giấu dưới bản thảo của
Galen. Những bản sao bằng tiếng Syria lưu giữ ở thư viện Anh tại London
chỉ có quyển 6-8.
Các học giả đang háo hức so sánh bản thảo ở Baltimore bằng tiếng Syria
với bản sao tiếng Hy Lạp, được sao chép lại từ bản gốc của Galen nhiều
thế kỷ sau đó. Vì các văn bản được sao chép nhiều lần, do đó, thay đổi
đáng kể so với bản gốc.
Một người sao chép có thể đã loại bỏ những phần họ cho là không quan
trọng, hoặc thêm những kiến thức mới vào, dựa trên tiến bộ y học. So
sánh bản sao tìm được ở Baltimore với bản sao ở thư viện Anh, sẽ giúp
tìm hiểu cách thức người Hy Lạp cổ chữa bệnh, và cách thức nó du nhập
vào Trung Đông.
"Một số điều trong đó không phải là khoa học theo tiêu chuẩn hiện đại,"
Kessel nói. Giống như nhiều bác sĩ cổ đại khác, Galen cho rằng, sức khỏe
được kiểm soát bởi sự cân bằng 4 yếu tố là mật đen, mật vàng, đờm dãi
và máu. Tất cả bệnh tật trong cơ thể do dư thừa hoặc thiếu hụt những yếu
tố này sinh ra.
"Hệ thống y lý của Galen hoàn toàn điên rồ," tiến sĩ Siam Bahyro, chuyên
gia nghiên cứu về Do Thái học, đại học Exeter, Anh nói. Tuy nhiên, theo
ông, đó là những tư duy tân tiến nhất về y học thời kỳ đó.
"Chúng ta có thể khám phá những điều mà chúng ta chưa từng mơ tới," tiến
sĩ Pormann, người dẫn đầu công trình nghiên cứu bản thảo cổ, vui mừng
nói.
Hồng Hạnh (theo New York Times)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét