Chuyển đến nội dung chính

HIỆN THỰC KỲ ẢO 159

 (ĐC sưu tầm trên NET)
                                          9 Hiện Tượng Bí Ẩn Vẫn Chưa Có Lời Giải Thích

Bí ẩn kinh dị về hiện tượng "người tự bốc cháy"

  • 1 2 3 4 5 45
  • 7.113
Là một trong những bí ẩn thách thức khoa học gần 200 năm, những câu chuyện kinh dị có thật xoay quanh hiện tượng "người tự bốc cháy" khiến không ít người thấy sợ hãi.
Thế giới mà chúng ta đang sống luôn ẩn chứa những điều kỳ lạ mà khoa học chưa thể giải mã thành công. Hiện tượng kinh dị "người tự bốc cháy" là một trong những chuyện mà phần lớn người ta chỉ tin là có trên phim ảnh.
Trên thực tế, đã có những câu chuyện có thật xoay quanh hiện tượng có thật này.
Từ những câu chuyện "người tự bốc cháy" kinh dị có thật trên thế giới...
Đã có những câu chuyện có thật xoay quanh hiện tượng có thật này.
Đã có những câu chuyện có thật xoay quanh hiện tượng có thật này.

Câu chuyện thứ nhất

Một trong những trường hợp người tự bốc cháy nổi tiếng đầu tiên trên thế giới được ghi nhận là vào ngày 5/7/1835. Vào ngày đó, James Hamilton, Giáo sư toán học của một trường đại học danh tiếng ở Mỹ đang ngồi đọc sách, bỗng nhiên ông thấy chân trái của mình nhói đau khủng khiếp.
Chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, ông bỗng thất kinh khi thấy chân trái của mình bốc cháy ngùn ngụt trong ngọn lửa cao đến 10cm.
Phản ứng đầu tiên của ông là dùng tay không dập tắt lửa ở chân mình. Sau đó, ông được người nhà mang tới bệnh viện để chữa trị trong sự bất ngờ và khó hiểu của các bác sĩ.

Câu chuyện thứ hai

Câu chuyện thứ hai xảy ra vào năm 1951. Không may mắn như trưởng hợp của giáo sư toán học James Hamilton, khi sự việc được phát hiện, người ta chỉ còn thấy một phần xót lại là cẳng chân và bàn chân mang dép, các phần còn lại, kể cả chiếc ghế bà ngồi đều cháy thành tro.
Nghi ngờ bà bị ám sát, cảnh sát liên tục mở các cuộc điều tra. Thế nhưng, điều khó hiểu là sàn nhà không hề có dấu muội của đám cháy hay mùi khét của một vụ hỏa hoạn thông thường.
Cũng như trường hợp thứ nhất, những bí ẩn của trường hợp người tự bốc cháy ở câu chuyện thứ hai khiến cảnh sát và giới khoa học điên đầu.

Câu chuyện thứ ba

Chưa dừng ở đó, vào năm 1982, người ta lại tiếp tục ghi nhận một trường hợp người tự bốc cháy nữa ở Anh.
Nạn nhân trong câu chuyện thứ ba này là bà Jeannie Saffin (61 tuổi). Một buổi tối, khi đang ngồi nghỉ trong gian bếp sau khi chuẩn bị bữa cơm cho cả gia đình, cơ thể bà bỗng dưng phát hỏa.
Điều khó hiểu là bản thân bà Jeannie Saffin không cảm nhận được nỗi đau hay có phản ứng gì khi ngọn lửa đang muốn bao trùm lấy cơ thể bà.
Các nạn nhân xấu số bị cháy cho tới chết phần lớn là những người sống một mình.
Các nạn nhân xấu số bị cháy cho tới chết phần lớn là những người sống một mình. (Hình minh họa).
Rất may, cha của bà Jeannie Saffin phát hiện sự việc và nhanh chóng dùng nước lạnh cứu con gái khỏi ngọn lửa tử thần.
Lúc này, khi ngọn lửa được dập tắt, bà Jeannie Saffin mới bừng tỉnh và bắt đầu khóc vì sợ hãi và đau đớn. Người nhà đưa bà đến bệnh viện và nhanh chóng báo cáo với cảnh sát.
Cảnh sát kết luận, ngọn lửa không đến từ bếp gas đang cháy cách chỗ bà ngồi 1,5 mét nhưng họ cũng không tìm được bằng chứng cho thấy bà bị phóng hỏa.
Còn trong hồ sơ bệnh án tại bệnh viện kết luận, bà Jeannie Saffin bị bỏng cấp độ 3 (cổ, tay, bụng đầu gối đều bị bỏng nặng, riêng khuôn mặt bị biến dạng hoàn toàn). Đáng buồn thay, 1 tuần sau bà chìm vào hôn mê sâu rồi qua đời vì chứng viêm phổi.
Trong lịch sử, có khoảng 200 trường hợp được ghi nhận là người tự bốc cháy mà không có dấu hiệu bị thiêu từ một nguồn nhiệt bên ngoài.
Các nạn nhân xấu số bị cháy cho tới chết phần lớn là những người sống một mình. Phần đầu và phần thân của họ bị lửa hủy hoại nặng nhất.
Có những trường hợp, ngọn lửa chỉ xảy ra ở phần thân, khiến cho cơ thể nạn nhân biến thành tro bụi trong khi phần tay và chân vẫn còn... nguyên vẹn.

...đến những bí ẩn không thể giải mã hoàn chỉnh

Spontaneous human combustion (SHC) là thuật ngữ phổ biến vào những năm 1800, chỉ hiện tượng người tự bốc cháy bí ẩn.
Với thuật ngữ này, người ta tin ngọn lửa không đến từ bên ngoài mà bắt nguồn từ bên trong cơ thể nạn nhân. Và khi "tin" vào điều đó, họ bắt đầu đi giải thích hiện tượng "chết từ bên trong" này ở con người.
Vào thế kỷ trước, các nhà khoa học tin rằng rượu là tác nhân gây ra sự tự bốc cháy ở cơ thể con người do men rượu bão hòa với các tế bào gây nên sự cháy. Lại có người cho rằng, trầm cảm từ những người hay sống đơn độc đã khiến con người ta tự bốc cháy.
Khi khoa học phát triển thêm một bước thì họ giải thích, nguyên nhân gây nên hiện tượng SHC là do những cơn bão từ vũ trụ, các vết đen Mặt Trời hay vi khuẩn đường ruột đã sinh ra khí hoặc tích tụ năng lượng khiến con người phải phát hỏa để giải phóng.
Về sau, tất cả các cách giải thích đều bị nhiều người phản bác. Theo đó, về cơ bản, cơ thể con người có đến 70% là nước, nên chúng ta không thể tự bốc cháy.
70% cơ thể người là nước.
70% cơ thể người là nước. (Hình minh họa).
Hơn nữa, nếu con người tự bốc cháy thật thì nó cũng phải bốc cháy khi người nào đó đang bơi hoặc đang tắm. Trong khi đó, trường hợp người tự bốc cháy khi đang tiếp xúc với nước chưa từng được ghi nhận.
Cho đến nay, các nhà khoa học tuyên bố đã nghiên cứu 10 trường hợp người tự bốc cháy để truy tìm nguyên nhân. Và họ cho rằng, SHC không bí ẩn như nhiều người nghĩ.
Cụ thể, họ nhận thấy, những nạn nhân phần lớn là những người cao tuổi, sống neo đơn và khá gần nguồn lửa (như bếp, đèn nến, thuốc lá...). Rất có thể, ngọn lửa đã bén vào người họ lúc nào không hay.
Ngoài ra, quần áo của những nạn nhân phần lớn là bông, sợi (là những thứ rất dễ cháy). Khi các chất béo trong cơ thể tiết ra cùng với quần áo và sức nóng của cơ thể đã tạo nên một hỗn hợp nhiệt rất dễ cháy khi gần lửa.

Kết

Những cách giải thích trên đều chỉ dừng ở những quan sát và phỏng đoán mà chưa có sức thuyết phục vững chắc nhất.
Do đó, cho đến nay, hiện tượng người tự bốc cháy vẫn là một trong những bí ẩn thách thức các nhà khoa học nhiều nhất trên thế giới.
Xin đưa ra trường hợp người tự bốc cháy mới nhất trong thế kỷ 21. Vào ngày 22/12/2010 tại Ireland, người ta phát hiện thi thể chìm trong lửa của người đàn ông tên là Michael Faherty tại phòng khách trong căn hộ của ông ở Ballybane, Galway, Ireland.
Thi thể của Michael Faherty.
Thi thể của Michael Faherty. (Ảnh: Coolinterestingstuff.com).
Trước đó, người hàng xóm bị đánh thức bởi tiếng chuông báo động hỏa hoạn bên nhà của người đàn ông 76 tuổi này.
Họ chạy sang thì thấy toàn cơ thể của Michael Faherty bốc cháy dữ dội, chỉ duy đôi chân còn nguyên vẹn. Không có bất cứ dấu vết phóng hỏa nào được ghi nhận. Trong hồ sơ của cảnh sát địa phương có ghi về trường hợp cái chết của Michael Faherty là: Tự bốc cháy.
Bài viết có tham khảo nhiều nguồn.
    Cập nhật: 09/09/2016 Theo Trí Thức Trẻ

    Giải mã thực hư "hiện tượng" người tự bốc cháy như quả cầu lửa

    • 1 2 3 4 5
    • 11.187
    Nếu người tự bốc cháy là một hiện tượng thực sự, tại sao nó không xảy ra thường xuyên và phổ biến ở hàng tỷ người trên thế giới?
    Suốt hơn một thế kỷ qua, nhiều người đã bị sốc về những thông tin một số người tự bốc cháy như quả cầu lửa.
    Hiện tượng này được gọi là người tự bốc cháy (SHC) và đã được mô tả nhiều trong các cuốn sách nổi tiếng với nhiều tình tiết bí ẩn không giải thích được.
    Thuật ngữ “người tự bốc cháy” (SHC) đã trở nên phổ biến từ những năm 1800. Trong thực tế, có hàng chục tài liệu viết về hiện tượng SHC trong các tiểu thuyết vào trước năm 1900.
    Trong đó nổi tiếng là cuốn tiểu thuyết “Bleak House” của Charles Dickens năm 1853, rồi đến các tác phẩm của Mark Twain, Herman Melville, Washington Irving. Sang thời hiện đại, SHC còn xuất hiện trong các bộ phim, các chương trình truyền hình như "The X-Files" và truyện tranh "Fantastic Four".
    Giải mã thực hư "hiện tượng" người tự bốc cháy như quả cầu lửa
    Đến nay đã có 200 trường hợp trên thế giới được tin là tự bốc cháy, nhưng hiện tượng này không có cơ sở khoa học đáng tin cậy.
    Những câu chuyện bí ẩn về các trường hợp SHC thường xảy ra rất kỳ lạ. Nhưng chúng lại được phát tán đi mà không đề cập rõ ràng tới nguồn gốc tạo ra lửa, hay những nguồn lửa ở gần đó có thể thiêu đốt con người. Hơn nữa, các nạn nhân thường bị lửa giết chết do bị cháy ở tay hoặc chân, còn một số khác thì thường bị cháy ở ngực hoặc ở bụng.
    Một thế kỷ trước, người ta tin rằng hầu hết các nạn nhân SHC có thể uống rượu say rồi men rượu đã bão hòa với các tế bào gây ra cháy. Đến năm 1970 một số người dựa vào lý thuyết của Freud giải thích SHC là do con người bị trầm cảm dẫn tới bốc cháy. Còn quan điểm khác thì cho rằng chính các vết đen, các cơn bão vũ trụ, vi khuẩn đường ruột sinh ra khí hoặc thậm chí là sự tích của năng lượng làm cơ thể có thể tự bốc cháy.
    Tất cả những lời giải thích trên chỉ là giả khoa học và không có bằng chứng thuyết phục. Thực tế các cơ quan của cơ thể người có 60-70% là nước không thể bốc cháy được. Nếu có người thực sự bốc cháy khi không gần nguồn lửa nào thì phải có những nạn nhân SHC xảy ra khi đang bơi hay lặn biển chứ. Song tuyệt nhiên không có trường hợp nào như thế này tồn tại.
    Sau khi điều tra kỹ lưỡng cho thấy nhiều tuyên bố SHC là sai lầm. Không ít nạn nhân SHC bị cháy cả quần áo và những vật dụng cũng như môi trường xung quanh. Về mặt pháp y lửa mà nói thì những vụ cháy này hoàn toàn có thể do những vật dụng trong nhà như thảm, gường, ghế sofa bắt lửa lây lan sang phần còn lại của căn phòng và giết chết nạn nhân.
    Cho đến nay đã có khoảng 10 trường hợp từng tuyên bố là SHC được nghiên cứu một cách chi tiết. Theo nhà nghiên cứu Joe Nickell đã phân tích trong cuốn sách “Real-Life X-Files” rằng, tất cả các trường hợp đó không bí ẩn như người ta vẫn nói. Hầu hết các nạn nhân là người cao tuổi, sống một mình và ở gần ngọn lửa (thường thuốc lá, nến, và mở cháy) khi họ chết. Một số đã được nhìn thấy lần cuối cùng khi uống rượu và hút thuốc.
    Nếu người đó đang ngủ say, ốm yếu hoặc không thể đi lại được thì quần áo của họ có thể hoạt động như một loại bấc. Hầu hết những người này mặc các quần áo chứa chất dễ cháy như bông, sợi polyester trong một thời gian dài. Khi các chất béo của cơ thể tiết ra da kết hợp với quần áo thì sẽ tạo thành một nhiên liệu rất dễ cháy lúc gần lửa.
    Ngoài ra còn có một số người bị tuyên bố là SHC do nhầm lẫn với hội chứng Stevens-Johnson. Trong trường hợp nặng, hội chứng này có thể gây ra các bệnh ngoài da khi phản ứng với một số thuốc kháng chinh và giảm đau, gây ra những vết bỏng nặng và mụn nước có thể gây tử vong cho nạn nhân.
    Nếu SHC là một hiện tượng thực sự, tại sao nó không xảy ra thường xuyên và phổ biến ở hàng tỷ người trên thế giới. Thậm chí các trường hợp được tin là SHC cũng không ai có thể nhìn thấy hay ghi hình lại mà lại chỉ thường xảy ra khi gần nguồn lửa. Nếu có một cơ chế tự nhiên thì tại sao nó cũng không xảy ra ở các động vật khác như bò, chó, voi chim.
    Tuy không có bằng chứng khoa học, SHC vẫn tồn tại và đó thường là kết luận khi các nhà chức trách không thể tìm ra lời giải. Năm 2011, một nhân viên điều tra kết luận rằng Michael Faherty, một người Ireland sống đơn độc, đã chết cháy trong nhà của mình vào tháng 12/2010, có thể là do tự bốc cháy. Nhưng sự thực cơ thể Faherty đã được tìm thấy chết cách lò sưởi gần ngay đấy.
    Cập nhật: 21/12/2013 Theo Dân Việt

    Bí ẩn kinh hoàng hiện tượng người tự bốc cháy cực kì hiếm gặp

    | 15:00 - 21/10/2016
    Khả năng của con người vẫn luôn là một ẩn số đối với các nhà khoa học. Liệu con người có sở hữu những năng lực siêu phàm chỉ có trong phim ảnh? Hiện tượng "người tự bốc cháy" là một trong những câu hỏi đau đầu đấy.
    Hơn một thế kỉ qua, hiện tượng người tự bốc cháy (SHC) đã tốn không ít giấy mực của các nhà khoa học lẫn thách thức trí tò mò của những ai quan tâm đến các hiện tượng kì bí. Nó được mô tả nhiều trong các tác phẩm của Charles Dickens, Mark Twain, Herman Melville,…, trong các bộ truyện tranh, phim truyền hình. Thuật ngữ “người tự bốc cháy” (SHC) thậm chí còn trở nên phổ biến từ những năm 1800 của thế kỉ trước.
    Hiện tượng "người tự bốc cháy" bí ẩn.
    Hiện tượng "người tự bốc cháy" bí ẩn.
    Lịch sử đã ghi nhận hơn 200 trường hợp con người bỗng dưng bốc cháy tới chết, không hề có dấu hiệu bị thiêu bằng một nguồn nhiệt ngoài. Trường hợp "người tự bốc cháy" đầu tiên được ghi nhận là của hiệp sĩ người Ý tên Polonus Vorstius. Năm 1470, sau khi uống một ít rượu mạnh, Vorstius bắt đầu nôn ra lửa trước khi bốc cháy. Các trường hợp này diễn ra hết sức kì lạ. Nạn nhân thường được phát hiện đơn độc ở trong nhà, với phần đầu và thân cháy rụi nhưng tay chân lại còn nguyên vẹn. Trong vài trường hợp hiếm hoi, nội tạng không bị tổn hại. Các căn phòng hiện trường cũng không phát hiện thấy dấu vết bị cháy, ngoài một dư lượng dầu mỡ trên đồ nội thất và tường.
    Hình vẽ mô tả cảnh người tự bốc cháy. 
    Hình vẽ mô tả cảnh người tự bốc cháy. 
    Năm 1986, người ta phát hiện cơ thể đã bị cháy đen của George Mott, 58 tuổi, một người lính cứu hỏa tại nhà riêng ở Crown Point, thành phố New York, Mỹ. Tất cả những gì còn sót lại là một hộp sọ bị teo, một bên chân và mảnh xương sườn của ông George. Trong khi đó, cảnh sát không hề phát hiện những dấu vết của một vụ hỏa hoạn, đồ đạc trong nhà của George vẫn nguyên vẹn ngoại trừ phần cơ thể cháy đen của ông.
    Tháng 2 năm 2013, người ta phát hiện Danny Vanzandt, 65 tuổi đã chết cháy trong ngôi nhà của ông ở Sequoyah, tiểu bang Oklahoma. Điều kỳ lạ là những đồ nội thất xung quanh chỗ phát hiện thi thể của ông Danny vẫn còn nguyên.
    Trong các trường hợp ghi lại, cơ thể bị cháy đen nhưng đồ đạc vẫn còn nguyên vẹn.
    Trong các trường hợp ghi lại, cơ thể bị cháy đen nhưng đồ đạc vẫn còn nguyên vẹn.
    Và gần đây nhất, hồi đầu năm nay, trên mạng xã hội xuất hiện đoạn clip được cho là quay vào tháng 11/2015 ở Siberia về cảnh ngọn lửa cháy bừng bừng trên phần bụng của một người đàn ông. Tuy người đàn ông này chỉ bị thương nhẹ và hiện chưa rõ nguyên nhân nhưng người ta lại được phen xôn xao về hiện tượng "người tự bốc cháy". Câu hỏi được đặt ra là, tại sao cơ thể chúng ta lại có thể tự bốc cháy trong khi nó chứa đến 70% lượng nước? Và liệu điều này có liên quan đến ma quỷ hay các hiện tượng siêu nhiên hay không?
    Đoạn clip về người tự bốc cháy gây xôn xao năm ngoái.
    Đoạn clip về người tự bốc cháy gây xôn xao năm ngoái.
    Rất nhiều giả thiết về "người lửa" đã được đưa ra nhưng cho tới nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Trước đây, các nhà nhà khoa học từng cho rằng nguyên nhân gây ra sự tự bốc cháy ở cơ thể con người có thể là do men rượu trong cơ thể kết hợp với các tế bào gây nên sự cháy. Những năm 1970 còn xuất hiện giả thiết cho rằng chứng trầm cảm cũng có thể khiến con người ta tự bốc cháy. Thậm chí có người còn cho rằng cơn bão từ vũ trụ, hay vi khuẩn đường ruột đã sinh ra khí metan trong đường ruột hoặc tích tụ năng lượng khiến cơ thể người phát hỏa.
    Rất nhiều giả thiết được đặt ra nhưng vẫn chưa có kết luận cuối cùng.
    Rất nhiều giả thiết được đặt ra nhưng vẫn chưa có kết luận cuối cùng.
    Được các nhà khoa học đồng tình nhiều nhất có thể kể đến "hiệu ứng sợi bấc". Theo đó, nếu coi cơ thể con người là một cây nến, thì phần chất béo trong người chính là sáp nến, nhiên liệu cho sự cháy. Tóc hay quần áo chính là sợi bấc. Vì một nguyên nhân nào đó quần áo hay tóc bắt lửa, đầu tiên lửa sẽ đốt cháy lớp da người. Phần mỡ dưới da sẽ ngấm vào quần áo và tiếp tục trở thành nhiên liệu cho sự cháy.
    Giả thiết "hiệu ứng sợi bấc".
    Giả thiết "hiệu ứng sợi bấc".
    Giả thiết giải thích tại sao đa số các trường hợp được phát hiện đều là người già, hành động chậm chạp hoặc người say rượu nên họ dễ bị bắt lửa từ bếp ga, nến, tàn thuốc lá mà không hay biết. Tuy nhiên, nó chưa thể giải thích tại sao hiện tượng này chỉ diễn ra trong nhà bởi chưa có vụ tự bốc cháy nào diễn ra ngoài đường phố, gần các nguồn dễ bắt lửa. Hiện tượng này cũng chỉ xảy ra ở người, không có báo cáo nào về việc động vật tự bốc cháy.
    Do vậy, mọi giả thiết chỉ mang tính tương đối và hiện các nhà khoa học vẫn trên đường đi tìm câu trả lời chính xác nhất.
    (Ảnh: Internet)

    Bí ẩn thách thức khoa học gần 200 năm: Người tự bốc cháy

    27-11-2016 17:19:34
      Hiện tượng người tự bốc cháy tưởng chừng như chỉ có trên phim ảnh mà lại xảy ra ở thế giới thực. Và đây cũng là hiện tượng bí ẩn mà khoa học chưa thể giải thích suốt 200 năm qua.
      Những câu chuyện người tự bốc cháy
      Một ngày giữa năm 1985, ông James Hamilton, giáo sư toán học của trường đại học Nashville danh tiếng ở Mỹ, bước ra ngoài trời để xem thời tiết thế nào, khi đó nhiệt độ khoảng 8 độ C.
      Đột nhiên ông James cảm thấy đau nhói ở chân và nhìn xuống thì tá hỏa khi nhìn thấy một ngọn lửa màu xanh, kích thước bằng một đồng xu bốc lên cao khoảng vài cm trên đùi của mình. Theo phản xạ ông đưa tay dập tắt ngọn lửa. 
      Sau đó ông nhìn thấy phần da chỗ lửa cháy bị bỏng rộp đỏ. Gia đình lập tức đưa ông đến bệnh viện, nhưng điều kỳ lạ là bác sĩ phát hiện phần xương, cơ bắp của ông bị cháy nặng. Ông phải nằm điều trị một tháng mới khỏi. Ngọn lửa nhỏ đã được dập tắt ngay, vậy thì tại sao phần xương và cơ bắp lại bị chấn thương nặng như vậy? Ngọn lửa từ đâu ra? Không ai giải thích được điều đó cả!
      Năm 1986, người ta phát hiện cơ thể đã bị cháy đen của George Mott, 58 tuổi, một người lính cứu hỏa về hưu trong nhà riêng của ông ở Crown Point, thành phố New York, Mỹ. Tất cả những gì còn sót lại là một hộp sọ bị teo, một bên chân và mảnh xương sườn của ông George.
      Hiện tường người tự bốc cháy vẫn cứ xảy ra mặc cho sự khó hiểu của các nhà khoa học
      Hiện tượng người tự bốc cháy vẫn cứ xảy ra mặc cho sự khó hiểu của các nhà khoa học. Ảnh: Internet
      Trong khi đó, cảnh sát không hề phát hiện những dấu vết của một vụ hỏa hoạn, đồ đạc trong nhà của ông George vẫn nguyên vẹn ngoại trừ phần cơ thể cháy đen của ông.
      Nạn nhân nữa là một phụ nữ, vào một buổi tối năm 1982, sau khi chuẩn bị bữa cơm tối cho cả gia đình thì cơ thể của bà Jeannie Saffin (61 tuổi) bỗng dưng phát hỏa.
      Điều kỳ lạ là bà không hề có cảm nhận là cơ thể mình đang nóng bừng bừng, bốc cháy. Chỉ đến khi cha của bà phát hiện và dập tắt ngọn lửa, lúc này, bà Jeannie Saffin mới tỉnh táo và bắt đầu khóc vì sợ hãi và đau đớn. 
      Tháng 2 năm 2013, Danny Vanzandt, 65 tuổi, được phát hiện đã chết cháy trong ngôi nhà của ông ở Sequoyah, tiểu bang Oklahoma. Điều kỳ lạ, là những đồ nội thất xung quanh chỗ phát hiện thi thể của ông Danny vẫn còn nguyên. Và cảnh sát nghi ngờ đây là trường hợp “tự bốc cháy”.
      Thế nhưng sau đó, một báo cáo giám định y tế kết luận ông Danny bị lên cơn đau tim đột ngột và điếu thuốc trên tay ông có thể là “thủ phạm” của vụ cháy.
      Bí ẩn không thể giải đáp
      Spontaneous human combustion (SHC) là thuật ngữ phổ biến vào những năm 1800, chỉ hiện tượng người tự bốc cháy bí ẩn. Với thuật ngữ này, người ta tin ngọn lửa không đến từ bên ngoài mà bắt nguồn từ bên trong cơ thể nạn nhân.
      Và khi "tin" vào điều đó, họ bắt đầu đi giải thích hiện tượng "chết từ bên trong" này ở con người. Vào thế kỷ trước, các nhà khoa học tin rằng rượu là tác nhân gây ra sự tự bốc cháy ở cơ thể con người do men rượu bão hòa với các tế bào gây nên sự cháy.
      Lại có người cho rằng, trầm cảm từ những người hay sống đơn độc đã khiến con người ta tự bốc cháy. Khi khoa học phát triển thêm một bước thì họ giải thích, nguyên nhân gây nên hiện tượng SHC là do những cơn bão từ vũ trụ, các vết đen Mặt Trời hay vi khuẩn đường ruột đã sinh ra khí hoặc tích tụ năng lượng khiến con người phải phát hỏa để giải phóng.
       Hiện tượng người tự bốc cháy vẫn là một trong những bí ẩn thách thức các nhà khoa học nhiều nhất trên thế giới. Ảnh: Internet
      Về sau, tất cả các cách giải thích đều bị nhiều người phản bác. Theo đó, về cơ bản, cơ thể con người có đến 70% là nước, nên chúng ta không thể tự bốc cháy. 
      Cho đến nay, các nhà khoa học tuyên bố đã nghiên cứu 10 trường hợp người tự bốc cháy để truy tìm nguyên nhân. Và họ cho rằng, SHC không bí ẩn như nhiều người nghĩ.
      Cụ thể, họ nhận thấy, những nạn nhân phần lớn là những người cao tuổi, sống neo đơn và khá gần nguồn lửa (như bếp, đèn nến, thuốc lá...). Rất có thể, ngọn lửa đã bén vào người họ lúc nào không hay.
      Ngoài ra, quần áo của những nạn nhân phần lớn là bông, sợi (là những thứ rất dễ cháy). Khi các chất béo trong cơ thể tiết ra cùng với quần áo và sức nóng của cơ thể đã tạo nên một hỗn hợp nhiệt rất dễ cháy khi gần lửa.
      Những cách giải thích trên đều chỉ dừng ở những quan sát và phỏng đoán mà chưa có sức thuyết phục vững chắc nhất nên hiện tượng người tự bốc cháy vẫn là bí ẩn chưa có lời giải đáp.
      Hạnh Chi (T/h)
      Theo Đời sống Plus

      Giải đáp bất ngờ chất lạ bầy nhầy hậu nổ thiên thạch

      (VTC News) - Chất nhầy kỳ lạ xuất hiện chỉ cách hiện trường vụ nổ thiên thạch khoảng 1.500km cuối cùng đã được các nhà khoa học nhận diện.
      Tuy nhiên câu trả lời lại đến từ một nhà sinh vật học, thay vì từ một nhà thiên văn học như nhiều người mong đợi.
      Chất bầy nhầy được cho là bí ẩn xuất hiện sau mưa thiên thạch ở Nga 
      "Những ngày qua chúng tôi nhận được hàng trăm câu hỏi tò mò về một thứ chất lỏng kỳ lạ xuất hiện ở Somerset sau vụ nổ thiên thạch", ông Peter Green, một nhà sinh vật học đến từ thành phố Devon, nước Anh, cho biết.

      Chất nhầy dày khoảng 10cm và có màu trong đục này được phát hiện ở khu bảo tồn thiên nhiên Ham Wall, thuộc tỉnh Somerset, miền Nam nước Anh.

      "Một vài du khách phát hiện thứ chất lỏng chỉ ít lâu sau vụ nổ thiên thạch khổng lồ. Ngay lập tức rất nhiều người đã đưa ra đủ loại giả thuyết về xuất xứ của nó".
      Tuy nhiên chất nhầy này có xuất xứ từ các con ếch chứ không liên quan tới thiên thạch. 

      "Chúng tôi rất vui khi khu bảo tồn nhận được sự quan tâm từ công chúng. Tuy nhiên chất nhầy này có xuất xứ từ các con ếch chứ không liên quan tới thiên thạch", ông Peter tiếp tục giải thích.

      "Hiện tại đang là mùa sinh sản của các loài lưỡng cư. Loài ếch đẻ trứng và nuôi dưỡng trứng trong một hợp chất lỏng có tên glucoprotein, được sản xuất trong cơ thể ếch cái".

      "Khi một loài săn mồi như chim diệc chộp lấy ếch ăn thịt, nó sẽ không tiêu hóa chất glucoprotein của ếch được và nhả ra ngoài. Glucoprotein khi tiếp xúc với nước sẽ trương phình lên và trôi theo dòng. Đây chính là thứ chất dịch mà nhiều người đã hỏi trong vài ngày qua".

      "Lý do nhiều người cảm thấy thứ chất này rất kỳ lạ là bởi thông thường, glucoprotein lưu giữ trứng ở trong và sẽ tự động tan đi khi trứng nở. Tuy nhiên khi ếch bị chim diệc ăn thịt, thứ glucoprotein bị nhả ra chưa được ấp trứng và có màu trong suốt"."Bởi vậy nếu chúng ta được thấy những quả trứng ếch nhung nhúc ở trong thì hẳn 'bí ẩn' chất nhầy này sẽ không còn là bí ẩn nữa", ông Peter Green cười nói.

      Minh Hà

      Ngỡ ngàng nguyên nhân khiến động vật “tự sát” hàng loạt

      (Kiến Thức) - Trên thế giới từng xảy ra nhiều vụ động vật "tự sát" hàng loạt vô cùng bí ẩn khiến các chuyên gia đau đầu đi tìm lời giải.

      Những vụ động vật "tự sát" hàng loạt
      Ngo ngang nguyen nhan khien dong vat “tu sat” hang loat
      Cá voi chết hàng loạt ở New Zealand.
      Lịch sử từng ghi nhận rất nhiều vụ động vật "tự sát" hàng loạt kèm theo đó là những điều vô cùng bí ẩn. Hàng loạt cá voi chết ở New Zealand tháng 11/2011 gây xôn xao dư luận. Khi đó, người ta phát hiện 61 con cá voi khổng lồ chết ở một bờ biển thuộc New Zealand khi chúng dạt vào bờ. Nhiều con cá voi vẫn sống cũng dạt vào bờ được lực lượng cứu hộ giải cứu, đưa trở lại biển nhưng sau đó chúng lại bơi vào bờ. Vụ việc bí ẩn này đã làm đau đầu các chuyên gia và giới chức trách suốt thời gian dài.
      Một trường hợp động vật "tự tử" gây xôn xao dư luận thế giới khác xảy ra tại một ngôi làng ở tỉnh Van, Thổ Nhĩ Kỳ năm 2005. Theo đó, hàng trăm con cừu nhảy từ trên các vách đá xuống dẫn đến tử vong. Theo lời kể của một số nhân chứng, con cừu đầu tiên nhảy từ ở vách đá cao hơn 15m, sau đó 400 con khác cũng nhảy vực “tự tử” theo.
      Đất nước Scotland cũng chứng kiến vụ việc động vật "tự sát" vô cùng bí ẩn. Theo đó, trong hơn 70 năm qua, hơn 600 con chó đã nhảy xuống cầu Overtoun ở Milton và chết. Điều kỳ lạ hơn nữa đó là những con chó nhảy cầu "tự sát" đều nhảy cùng một vị trí.
      Chuyên gia giải mã nguyên nhân động vật "tự sát"
      Do xảy ra nhiều vụ động vật "tự tử" hàng loạt nên đã dẫn đến các tin đồn gây hoang mang dư luận như đó là điềm báo ngày tận thế hay có liên quan đến các thế lực siêu nhiên như người ngoài hành tinh, zombie... Đứng trước tình hình đó, các chuyên gia đã thực hiện các nghiên cứu để tìm ra lời giải cho những vụ động vật "tự sát" hàng loạt có phần bí ẩn.
      Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, động vật chết hàng loạt là hiện tượng thường xảy ra trong thiên nhiên. Nguyên nhân của những vụ việc này là do các nguyên nhân tự nhiên như biến đổi môi trường, biến đổi khí hậu, gió bão, mưa đá hay sấm chớp... Thậm chí, bệnh dịch hay nhiễm độc cũng có thể là nguyên nhân khiến động vật chết hàng loạt.
      Theo đó, trong vụ hàng trăm con rùa biển chết trôi dạt vào bờ biển El Salvador hồi tháng 1/2006 đã gây xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Ngay sau khi xảy ra vụ việc, giới chức trách đã tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân vì sao hàng trăm con rùa biển chết cùng thời điểm như vậy. Sau quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, Hiệp hội bảo tồn động vật hoang dã đã tìm ra nguyên nhân khiến hàng trăm con rùa biển chết là do xảy ra hiện tượng thủy triều đỏ và tảo độc hại nở hoa.
      Ngo ngang nguyen nhan khien dong vat “tu sat” hang loat-Hinh-2
      Cây cầu Overtoun hơn 100 tuổi là nơi hàng trăm con chó "tự tử" suốt hơn 70 năm qua.
      Đối với trường hợp hàng trăm con chó đã nhảy xuống cầu hơn 100 tuổi Overtoun ở Milton, gần thị trấn Dumbarton một cách bí ẩn, các chuyên gia cũng đã đi tìm lời giải cho hiện tượng này. Theo kết quả nghiên cứu của tiến sỹ David Sands, bên dưới cầu Overtoun có rất nhiều chuột, chồn và sóc. Đó có thể là lý do khiến những con chó có các hành động kỳ lạ. Để xác minh giả thuyết đó, chuyên gia David đã tiến hành một thử nghiệm đó là thử mùi hương của 10 con chó khác nhau. Kết quả thử nghiệm cho thấy 70% bị thu hút bởi mùi hương của chồn, đặc biệt là mùi này khá rõ rệt trong những ngày khô ráo và có nắng khiến các chú chó không cưỡng lại được việc tấn công những con chồn ở dưới chân cầu.
      Do bức tường đá granite ở cây cầu Overtoun dày khoảng 45 cm cộng thêm thành cầu khá cao khiến cho tầm nhìn của những con chó bị hạn chế cũng như cản mọi âm thanh. Kết quả là những con chó chỉ ngửi thấy mùi hôi của chồn mà không thể quan sát được tình hình xung quanh nên đã nhảy qua thành cầu và lao xuống đất tử vong.

                                              Động Vật Tự Sát - Bí Ẩn Về Cái Chết Có Ý Thức

      Động vật có tự tử không

      Nhiều tranh cãi xoay quanh hành vi tự sát ở động vật, liệu chúng có chủ đích nhắm đến cái chết hay không?

      Năm 1845, một câu chuyện lạ tràn ngập mặt báo London, Anh. Chú chó màu đen được mô tả là đáng yêu và khỏe mạnh nhiều lần ném mình xuống sông "tự tử". Bốn chân nó cứng đờ, hoàn toàn trái ngược phản ứng khi ở dưới nước của loài chó. Kỳ lạ hơn, sau khi được đưa lên bờ, con chó lại lao xuống sông và cố gắng dìm mình dưới nước.
      dong-vat-co-tu-tu-khong
      Nhiều con chó thường nhịn ăn tới chết sau khi chủ nhân qua đời. Ảnh: Alflo/Naturepl.com
      Động vật có thể đối diện những vấn đề sức khỏe tâm thần tương tự con người, điển hình là căng thẳng, nhân tố góp phần dẫn tới tự sát ở người. Những hành vi từng được cho là chỉ có ở người cũng được quan sát ở một số động vật. Song, động vật tự tử có chủ đích hay không là câu hỏi gây nhiều tranh cãi.
      Theo BBC, đây không phải là câu hỏi mới. Hơn 2.000 năm trước, nhà triết học Aristotle kể về con ngựa đực nhảy xuống vực sâu, sau khi vô tình giao phối với ngựa mẹ. Thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, Claudius Aelian, một nhà nghiên cứu Hy Lạp đã viết hẳn cuốn sách bàn về hiện tượng này. Ông nêu ra 21 vụ động vật tự sát, trong đó có những con chó săn nhịn ăn đến chết khi người chủ qua đời hay đại bàng lao vào lửa hỏa thiêu chủ nhân, kết thúc sự sống.
      Những vụ động vật tự tử cũng thu hút chú ý tại Anh giữa thế kỷ 19. Nhà tâm lý học William Lauder Lindsay cho rằng, "u sầu trầm cảm" có thể là nguyên nhân. Ông mô tả động vật "bị đẩy vào tình trạng hoảng loạn và điên cuồng theo nghĩa đen", trước khi có những hành vi tự hủy hoại, có thể kết thúc bằng cái chết.
      Luận điểm này được các nhà hoạt động vì động vật viện dẫn. Theo nhà sử học y khoa Duncan Wilson, đại học Manchester, Anh, mục đích của các nhà hoạt động là nhân cách hóa cảm xúc của động vật, "chứng minh chúng cũng có khả năng tự nhìn nhận và các ý định, bao gồm cả ý định tự sát khi đau buồn hoặc uất ức".
      Tuy nhiên, với kiến thức y học tiến bộ của thế kỷ 20, ý nghĩ tự tử mang tính "quả cảm" dần bị lu mờ. Thay vào đó, khoa học tập trung vào tác động của tự tử trên số lượng lớn cá thể.
      Tự sát, thường là hệ lụy của áp lực xã hội, trở thành một trong những chứng bệnh xã hội. Đàn chuột lemming nối đuôi nhau quăng mình xuống vực hay vụ mắc cạn hàng loạt của cá voi là các ví dụ điển hình. Song, Wilson không tìm câu trả lời rõ ràng rằng liệu động vật tự sát có chủ đích hay không. Công trình của ông chỉ tiết lộ sự thay đổi quan điểm về tự sát của con người phản ánh trong câu chuyện về động vật.
      Đi tìm lời lý giải
      Antonia Preti, nhà tâm lý học đại học Cagliari, Italy, muốn tìm câu trả lời xác đáng. Xem xét khoảng 1.000 nghiên cứu công bố trong 40 năm, ông khẳng định không có vụ động vật tự tử có chủ ý nào trong tự nhiên và cho rằng những vụ việc trong sách của Aelian chỉ là "câu chuyện mang tính thuyết hình người".
      Trở lại vụ tự sát tập thể của chuột lemming, các nhà nghiên cứu kết luận đây là hệ lụy không mong muốn khi số lượng chuột di cư quá đông tại cùng thời điểm.
      Vật nuôi bỏ ăn sau khi chủ nhân qua đời có thể do đổ vỡ mối liên kết xã hội. Động vật không đưa ra quyết định chết có ý thức mà chỉ quá phụ thuộc vào sự chăm sóc của chủ nhân đến nỗi không chấp nhận thức ăn từ người nào khác.
      "Suy nghĩ thú nuôi tự sát theo chủ nhân chỉ là cách diễn giải của con người", Preti nhận xét.
      dong-vat-co-tu-tu-khong-1
      Chuột thảo nguyên lemming thường kéo tới vách đá và quăng mình xuống vực. Ảnh: Benoitb/Istock
      Căng thẳng cũng dẫn đến thay đổi hành vi của động vật theo hướng đe dọa tính mạng. Đoạn video về cá voi sát thủ tên Morgan tại công viên Tenerife thuộc sở hữu công ty giải trí Seaworld, Mỹ, nhảy lên thành bể nằm im suốt 10 phút hồi tháng 5 khiến cộng đồng chú ý. Nhiều người cho rằng nó đang cố tự sát.
      Cá voi thường hành động khác biệt khi bị nuôi nhốt, bởi bể nuôi có kích thước rất nhỏ so với đại dương. Môi trường sống nhân tạo là nguyên nhân gây trầm cảm, dẫn tới các hành động lặp đi lặp lại như cọ xát vào thành bể hay nghiến răng ở cá voi.
      Do đó, việc tìm hiểu các trạng thái cảm xúc của động vật có ý nghĩa rất lớn, Barbara King, cao đẳng William and Mary ở Virginia, Mỹ nhận định. Theo bà, điều này có thể là nền tảng lý giải cho khuynh hướng tự làm hại của động vật.
      "Theo hiểu biết của tôi, hầu hết vụ tự tử đều liên quan tới sự can thiệp của con người theo cách nào đó, dù là săn bắn hay giam cầm", King, cho hay.
      Nhiều loài động vật bị nhốt trong điều kiện gây các tổn thương tinh thần kéo dài cũng trải qua các tình trạng căng thẳng, hội chứng căng thẳng sau chấn thương tâm lý (PTSD) và trầm cảm.
      Một trang trại gấu Trung Quốc ghi nhận trường hợp gấu mẹ bóp cổ gấu con đến chết rồi tự sát. Vụ việc xảy ra sau khi gấu con bị chọc bụng để gắn ống chiết mật và tỏ ra cực kỳ đau đớn. Đây là một ví dụ về hành vi phi tự nhiên bắt nguồn từ căng thẳng quá mức và rối loạn khi bị giam cầm tù túng thời gian dài. Theo Preti, dường như hành động này phản ánh ý nghĩ "thoát khỏi sự cầm tù" của động vật.
      Cá voi cũng nổi tiếng với các vụ mắc cạn hàng loạt trên bãi biển. Nhiều lý giải được đưa ra, trong đó có giả thiết "con đầu đàn bị bệnh", phải tìm kiếm an toàn trong vùng nước nông. Do tập tính xã hội cao, các cá thể khỏe mạnh vẫn bám theo con đầu đàn và lao vào bờ. Tuy nhiên, giả thiết không khẳng định đây là tự sát chủ đích.
      Các hành vi tự hủy hoại còn được quy cho ký sinh trùng. Ký sinh trùng có thể tác động tới não bộ và khiến vật chủ có hành động giúp chúng sinh trưởng mạnh hơn. Trong quá trình này thường vật chủ sẽ chết.
      Chẳng hạn, Toxoplasma gondii tấn công chuột và "tắt" đi nỗi sợ mèo bẩm sinh. Một nghiên cứu năm 2013 phát hiện việc nhiễm T. gondii xóa sạch nỗi sợ mèo, ngay cả khi ký sinh trùng này đã bị tiêu diệt. Tương tự, nấm Ophiocordyceps unilaterailis có thể khống chế não kiến, đưa vật chủ tới cái chết tại những nơi nấm có điều kiện tốt để sinh sôi.
      Nhện mẹ thường tự nguyện trở thành bữa ăn cho con, song sự hy sinh này không phải tự sát mà là hành động bao bọc cực đoan, đảm bảo sự sống cho con non mới chào đời.
      Nhận thức cái chết – khả năng riêng có của con người
      Để khẳng định động vật có tự sát không đòi hỏi một khái niệm rõ ràng. Tự sát được định nghĩa là "hành vi giết mình một cách có chủ đích". Như vậy, động vật có ý định chết hay không? Trên thực tế, nhện mẹ xuất phát từ mục đích cung cấp thức ăn trong khi gấu mẹ lại bị dồn ép bởi căng thẳng và rối loạn.
      Tuy nhiên, đối với một số chuyên gia, đây là câu hỏi khó trả lời bởi con người không thể đọc suy nghĩ loài vật.
      "Tôi không tự tin cho rằng tự sát ở động vật là câu hỏi khoa học có thể trả lời", King nói. "Chúng ta có thể nhìn thấy hành vi của động vật khi đau buồn, nhưng không thể thấy nỗi đau mà chúng phải chịu và đánh giá liệu chúng có chủ đích tự sát không".
      King cho rằng, ý định tự sát ở động vật là thiếu cơ sở do những khác biệt trong nhận thức, mấu chốt nằm ở khả năng suy nghĩ về tương lai.
      dong-vat-co-tu-tu-khong-2
      Cá voi mắc cạn không phải do tự sát có chủ đích. Ảnh: Tim Cuff/Alamy
      Nhiều động vật có thể lên kế hoạch như dự trữ thực phẩm để ăn dần. Tuy nhiên, điều này không đòi hỏi ý niệm về ý nghĩa sự sống. Trong khi đó, lên kế hoạch tự sát lại cần hiểu biết chi tiết vị trí của một cá thể trong thế giới và khả năng hình dung điều gì xảy ra khi không còn tồn tại.
      "Con người có thể tưởng tượng ra nhiều kịch bản, ghi nhớ và bổ sung chúng vào những tường thuật lớn hơn", Thomas Suddendorf, nhà tâm lý học tiến hóa, đại học Queensland, Australia cho biết.
      "Có những khác biệt cơ bản về khả năng tưởng tượng vượt thời gian của con người khi so với những động vật có họ hàng gần gũi nhất".
      Ý thức và trí tưởng tượng đi kèm nhiều hệ lụy. "Điều này khiến con người thường quá lo lắng tới những điều ít có khả năng can thiệp và trải qua nỗi sợ triền miên về việc không bao giờ mang lại kết quả", Suddendorf nói.
      Dù vậy, hầu hết mọi người đều vượt qua nỗi sợ. Với xu hướng lạc quan nội tại, chúng ta thường có cái nhìn tươi sáng về tương lai.
      "Một trong những thực tế mà con người phải chấp nhận là tất cả đều sẽ chết", Ajit Varki, đại học California, Mỹ nhìn nhận. Tuy nhiên, khả năng tuyệt vời của con người là phớt lờ điều này cho tới cuối cùng.
      "Chúng ta cần sự phủ nhận ấy. Nếu không mọi người sẽ thu mình lại và chẳng làm gì", Varki nói.
      Từ đó, Varki tin rằng tự sát ở động vật có thể được lý giải bởi các nguyên nhân khác. Theo ông, động vật đau buồn, nhận ra cái chết và sợ xác chết nhưng không hiểu cái chết là "một sự thật hiển nhiên".
      "Động vật có nỗi sợ về những tình huống nguy hiểm có thể dẫn tới cái chết", Varki lý giải. Chúng xây dựng phản ứng từ bên trong với các nỗi sợ nhằm tồn tại, sống sót.
      Con người là sinh vật duy nhất có khả năng hiểu và đối diện với cái chết của mình. Nói một cách chính xác, theo Varki, chúng ta là sinh vật lạc quan với khả năng tự nhận thức cực kỳ phức tạp.
      "Tự sát là gì?", Varki đặt câu hỏi. "Tự sát là tự xui khiến bản thân tìm đến cái chết, nhưng làm thế nào để xui khiến nếu không nhận thức được mình có thể chết? Do đó, tự sát là hành vi chỉ có ở con người", chuyên gia này kết luận.
      Thu Hiền

             Vệ Tinh "Hiệp Sĩ Đen" 13.000 Năm Tuổi Của Người Ngoài Hành Tinh Vẫn Quay Quanh Trái Đất

      “Hiệp sĩ Đen” – Vệ tinh của người ngoài hành tinh?

      06:20 18/08/2014

      Một vật thể bay ngoài không gian không xác định được là của ai, do ai phóng lên đã xuất hiện, phát tín hiệu vô tuyến từ cách đây hơn 1 thế kỷ, từng khiến cho cả thế giới lên cơn sốt. Người ta gọi nó bằng cái tên Black Knight - Hiệp sĩ Đen, và từng có giả thuyết rằng, nó được một nền văn minh nằm cách chúng ta hàng ngàn năm ánh sáng gửi đến để… bảo vệ trái đất!? Xung quanh phát hiện kỳ thú về vật thể đen này, đã từng có nhiều câu chuyện ly kỳ, kể cả chuyện khôi hài về quân sự, tình báo thời Chiến tranh lạnh.

      Black Knight (Hiệp sĩ đen) chứng minh con người không phải đầu tiên có vệ tinh địa cực

      Black Knight (Hiệp sĩ đen) là vệ tinh do nhà khoa học người Mỹ phát hiện vào năm 1899. Vệ tinh này được cho rằng có tuổi thọ đến 13.000 năm. Sau nhiều dự án và hàng loạt giả thiết, giới nghiên cứu vẫn chưa tìm thấy câu trả lời thỏa đáng, nguồn gốc của Black Knight tiếp tục nằm trong vòng bí ẩn.


      Theo nguồn tin khoa học mới nhất trên tờ ABC (Úc) cho biết, tàu Quỹ đạo Trinh sát Sao Hỏa (MRO) vừa phát hiện ra hẻm núi có những khối đá dạng những ngón tay màu xanh xám trên bề mặt Sao Hỏa.

      Trên thế giới có rất nhiều chuyện kỳ lạ, khó tin nhưng vẫn tồn tại chưa có lời giải. Vệ tinh nhân tạo không phải do con người chế tạo mang tên “Hiệp sĩ Đen” vẫn bay trong quỹ đạo Trái đất từ cách đây 13.000 năm, khiến người ta không thể không liên tưởng tới giả thuyết du hành cổ đại.

      Từ cách nay khá lâu,vào ngày 23/8/1954, tạp chí Công nghệ Hàng không và tạp chí Công nghệ Không gian đã công bố chi tiết về vật thể bay kỳ lạ giống vệ tinh của chúng ta ngày nay luôn bay quanh trái đất từ khoảng 13.000 năm trước.


      Theo những hình ảnh chụp được, các chuyên gia ngiên cứu đặt tên vệ tinh bí ẩn này là “Hiệp sĩ Đen” (Black Knight).

      Theo các nhà nghiên cứu UFO hay thuyết du hành cổ đại cho rằng “Hiệp sĩ Đen” có quỹ đạo quay quanh Trái Đất ở khu vực gần Bắc cực, trong quỹ đạo Địa Cực. Nó được cho là đã có từ rất lâu, cách thời đại chúng ta khoảng 13.000 năm.

      Tuy phát hiện rất lâu nhưng vật thể được cho là vệ tinh nhân tạo “Hiệp sĩ Đen” chỉ bắt đầu thu hút mạnh mẽ sự chú ý của giới khoa học, truyền thông và dư luận từ cuối những năm 1950.






      Đến tận tháng 2/1960, mới có thêm báo cáo về việc Hải quân Mỹ phát hiện một vật thể có màu tối di chuyển trong quỹ đạo nghiêng 79° so với xích đạo và có chu kỳ quỹ đạo khoảng 104,5 phút. Lúc đó, Hải quân Mỹ đang nhận nhiệm vụ theo dõi các mảnh vỡ của vụ phóng vệ tinh Discoverer VIII.

      Bộ Quốc phòng Mỹ thông báo rằng: “Vật thể đó đã được xác định là một “cục rác” của vệ tinh Discoverer do không quân Mỹ phóng lên và đã đi lạc trong không gian bấy lâu. “Vật thể đen” được phát hiện chứng minh tính hiệu quả của chương trình không gian của Mỹ”.


      Theo một bài viết của mình, Tạp chí công nghệ Aviation Week and Space Technology đã vạch rõ rằng, Lầu Năm Góc cố tình giữ bí mật thông tin vì mục đích quân sự.

      Hình chụp một vật thể được cho là Hiệp sĩ Đen vào năm 1998 bởi vệ tinh NASA STS-88.
      Kể từ đó, sự tò mò và mối lo về “Black Knight” tăng lên theo thời gian qua những bài viết của giới truyền thông.

      Vào những năm 1960, rất nhiều người trên thế giới đã có thể quan sát “Hiệp sĩ Đen” bằng mắt thường, với chấm sáng màu đỏ di chuyển với tốc độ rất cao so với các vệ tinh của loài người.


      Câu hỏi được đặt ra rằng “Hiệp sĩ Đen” có phải vệ tinh do thám của người ngoài hành tinh?

      Lý giải cho thắc mắc này theo giới thiên văn học, vật thể lạ đó bay theo quỹ đạo Địa Cực. Vấn đề đặt ra là, vào thời điểm đó, cả Mỹ và Liên Xô đều chưa có công nghệ đưa tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo Địa Cực. Chỉ đến năm 1960 vệ tinh đầu tiên mới được phóng lên quỹ đạo Địa Cực. Quỹ đạo Địa Cực thường được dùng vào việc nghiên cứu và vẽ bản đồ trái đất, quan sát Trái đất, duy trì vệ tinh thám báo.

      Từ đây, “Hiệp sĩ Đen” được liệt vào loại “vệ tinh do thám”. Câu hỏi tiếp theo được đặt ra là: Ai đã phóng “Hiệp sĩ Đen” lên quỹ đạo Địa Cực và nhằm mục đích gì?

      Các nhà nghiên cứu bắt đầu chuyển hướng nghi vấn, đó có phải là “siêu phẩm” của người ngoài hành tinh không?

      Xét thấy quỹ đạo của vệ tinh này cũng rất lập dị với đỉnh của khoảng cách xa nhất là 1.728 km và khoảng cách cận điểm chỉ khoảng 216 km.

      Vệ tinh “Hiệp sĩ Đen” không chỉ gây tò mò về nguồn gốc, hình dáng, tín hiệu mà nó phát ra, mà còn gây sửng sốt khi “vệ tinh” kỳ lạ này đi theo quỹ đạo Trái đất nhưng theo hướng từ Đông sang Tây ngược hẳn chiều quay của Trái Đất. Nên chú ý rằng tất cả các vệ tinh Địa cực của con người từ vệ tinh Sputnik I và II đều bay theo chiều quay của Trái đất từ Tây sang Đông để duy trì quỹ đạo.

      Chưa hết, “Hiệp sĩ Đen” di chuyển với vận tốc cao gấp 2 lần, tốc độ hơn hẳn so với bất kỳ tàu không gian nào do con người chế tạo.

      Giới khoa học và thiên văn học ước tính khối lượng của nó vào khoảng 10 tấn, được xem là vệ tinh nặng nhất thời đó.

      Cũng có ý kiến cho rằng, “Hiệp sĩ Đen” là tạo phẩm của con người thời xa xưa. Trước nền văn minh hiện nay của chúng ta, trên Trái đất còn có rất nhiều nền văn minh cổ xưa khác như: Maya, Sumer cổ đại…

      Một bức điêu khắc về một vật thể bay của nền văn minh Sumer cổ đại, thuộc thời kỳ đồ đồng đá và thời kỳ đồ đồng sớm.
      Thông qua những bức điêu khắc và di tích cổ xưa còn lại, chúng ta biết được rằng nền văn minh của họ phát triển rất rực rỡ, thậm chí công nghệ của họ còn vượt xa của chúng ta ngày nay.

      Theo giả thuyết này thì “Black Knight” là phát minh vĩ đại của người xưa. Và chính họ mới là người phóng vệ tinh đầu tiên trên thế giới không phải là Liên xô.

      Cho đến tận ngày nay, vệ tinh bí ẩn “Hiệp sĩ Đen” vẫn quay xung quanh quỹ đạo của mình, tiếp tục là đề tài quan tâm của nhiều người trên thế giới, nhưng những thông tin chính thức về nó đã được các cơ quan chức năng cất giữ kỹ lưỡng.

      Cũng chính vì điều đó, có rất nhiều câu hỏi từ hàng chục năm nay vẫn chưa được giải đáp, như: Ai đã phóng “Hiệp sĩ Đen” lên quỹ đạo Địa Cực và nhằm mục đích gì?

      Phải chăng vệ tinh “Hiệp sĩ Đen” là sản phẩm của người ngoài hành tinh đưa đến Trái đất để do thám “nghiên cứu” con người? Điều này có chứng minh con người không đơn độc trong vũ trụ?

      Liệu vệ tinh đó đã từng liên lạc với con người? Liệu chúng ta đã bỏ qua sự giao tiếp đó? Và một câu hỏi lý thú: Liệu có một sự liên hệ nào đó giữa vật thể bí ẩn này với các thành tựu của con người thời cổ đại?

      Tất cả những câu hỏi đó sẽ mãi là những bí ẩn không thể trả lời của các nhà nghiên cứu trên thế giới.



      Sắp tới, câu chuyện của vệ tinh Hiệp sĩ đen sẽ chính thức lên màn ảnh rộng với bộ phim ngắn mang tên Black Knight Decoded (Tạm dịch: Giải mã “Hiệp sĩ đen”). Đạo diễn phim ngắn Black Knight Decoded là Jabbar Raisani - người từng gây tiếng vang với các bom tấn như Game of Thrones, Iron Man… Ngoài ra, kịch bản sẽ do nhà văn nổi tiếng dòng tiểu thuyết giả tưởng James Frey chắp bút.

      Trong trailer chính thức của Black Knight Decoded tung ra vào ngày 10/11, nhiều fan của dòng phim khoa học viễn tưởng Việt Nam sẽ bất ngờ phát hiện ra hình ảnh Việt Nam xuất hiện chớp nhoáng. Đây chính là cảnh quay do nhãn hàng Pepsi thực hiện tại bãi biển Non Nước, Đà Nẵng và ghi hình từ trên trạm không gian ISS diễn ra vào tháng 7. Hơn 700 bạn trẻ cùng nhau thực hiện một biểu tượng thể hiện văn hóa và con người Việt Nam, tạo thành bức tranh cô gái Việt trong tà áo dài tung cánh chim bồ câu để truyền tải thông điệp hòa bình đến khắp thế giới.


      Không những đưa Việt Nam đến gần với thế giới hơn thông qua biểu tượng hòa bình, Pepsi còn mang đến cơ hội cho khán giả Việt góp mặt vào một bộ phim của Hollywood. Cùng với Việt Nam, Black Knight Decoded còn quay tại 10 quốc gia với 10 biểu tượng đặc trưng cho từng nền văn hóa riêng, nhưng tất cả cùng truyền tải thông điệp chung về hòa bình, hữu nghị và hy vọng.


      Với kỹ xảo tiên tiến, góc quay mới lạ, sự góp mặt của những ngôi sao tài năng và cốt truyện giàu cảm xúc từ một câu chuyện có thật, Black Knight Decoded hứa hẹn trở thành một trong những phim ngắn khoa học viễn tưởng được yêu thích. Một thế giới vũ trụ kỳ ảo sẽ mở ra, mang đến nhiều cảm xúc lý thú cho các tín đồ điện ảnh.

      Tàu ma Mary Celeste và bí ẩn hơn 100 năm

      • 1 2 3 4 5 27
      • 28.178
      Tàu ma là một trong những bí ẩn vẫn chưa được giải đáp trên thế giới. Trong đó, sự biến mất kỳ lạ của các thủy thủ trên con tàu Mary Celeste trở thành một trong những bí ẩn lớn nhất của nghành hàng hải thế giới.
      Bức họa tàu Mary Celeste năm 1861.Bức họa tàu Mary Celeste năm 1861. (Ảnh: Toptenz)
      Mary Celeste là một loại tàu thương gia được đăng ký ở Anh vào năm 1861 dưới cái tên Amazon. Bảy năm sau, nó được chuyển nhượng quyền sở hữu cho Mỹ, và được đổi tên thành Mary Celeste. Con tàu tiếp tục ra khơi một cách yên bình cho đến thời điểm chuyến hải trình từ New York đến Genoa vào năm 1872.
      Thuyền trưởng con tàu khi đó là Benjamin Briggs, một người đàn ông kiêng rượu và là một tín đồ Công giáo mộ đạo. Thuyền trưởng Briggs cũng được mô tả là một chỉ huy gan dạ, một người sẽ không rời bỏ con thuyền của mình ngoại trừ trong tình huống liên quan đến sinh tử.
      Người thuyền phó tên Albert Richardson cũng được nhìn nhận là một người dễ hợp tác, và ông đã được chính thuyền trưởng Briggs lựa chọn. Hơn nữa, vợ thuyền trưởng Brigg, đứa con gái của ông, và sáu thành viên thủy thủ đoàn khác đều đi trên con tàu Mary Celeste.
      Ngày 4/11/1872, hai vị thuyền trưởng David Reed Morehouse (thuyền trưởng tàu chở hàng Dei gratia của Anh) và Benjamin Briggs (thuyền trưởng tàu Mary Celeste của Mỹ) ngồi ăn tối cùng nhau ở New York.
      Họ là những người bạn cũ và cùng dừng chân ở New York trước khi Morehouse ra khơi vào ngày 15, còn Briggs đi vào hôm sau với vợ và con gái, cả hai cùng hướng tới châu Âu.

      Thủy thủ đoàn biến mất không dấu vết

      Không lâu sau, ngày 5/12, thuyền trưởng Morehouse vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy con tàu Mary Celeste của Briggs lênh đênh ở khu vực giữa Bồ Đào Nha với quần đảo Azores, dường như đang nằm ngoài tầm kiểm soát và di chuyển một cách vô định theo hướng gió. Tiếp cận con tàu, họ nhận thấy Mary Celeste tuy có bị nước tràn vào một chút nhưng nhìn chung trong tình trạng rất tốt. Hàng hóa gồm 1701 thùng cồn, lương thực thực phẩm và nước ngọt đủ cho 6 tháng vẫn còn, không bị xáo trộn, chỉ duy nhất một thùng cồn bị hư hỏng, vật dụng cá nhân của cả đoàn đều ở nguyên vị trí, một chiếc bơm đang hoạt động với 2 cánh buồm được giương lên.
      Hầu hết giấy tờ và thiết bị định vị trên tàu đã biến mất, không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của con người. Tuy nhiên, cuốn nhật ký hàng hải thì vẫn còn, trong đó ngày cuối cùng được đặt bút có đề 25/11/1872, khi con tàu gần tới đảo St Mary, cách nơi người ta tìm thấy nó khoảng 700 dặm.
      Điều kỳ lạ là tất cả đột nhiên mất tích không dấu vết mặc dù thời tiết lúc đó tốt và thuỷ thủ đoàn là những người đi biển rất có kinh nghiệm.
      Mary Celeste là "tàu ma" bí ẩn nhất mọi thời đại của ngành hàng hải thế giới.
      Mary Celeste là "tàu ma" bí ẩn nhất mọi thời đại của ngành hàng hải thế giới.

      Các giả thuyết giàu… trí tưởng tượng

      Người đầu tiên đưa ra giả thuyết về số phận của thủy thủ đoàn trên con tàu là Frederick Solly Flood, luật sư tại tòa án Hải quân Anh.
      Flood suy đoán toàn bộ thủy thủ đã đột nhập vào khoang hàng hóa, uống những thùng cồn và sau đó giết chết thuyền trưởng Briggs, vợ và con gái ông, cùng vị phó thuyền trưởng Richardson. Sau đó, chính Flood lên tiếng loại bỏ giả thuyết này và chuyển sang “sống chết” với quan điểm rằng cồn đã bị biến chất và nhiều khả năng là nguyên nhân dẫn đến cái chết cho ai chẳng may uống phải.
      Chưa dừng lại, ông tiếp tục đưa ra giả thuyết Briggs và Morehouse, trong cuộc gặp ở New York, đã âm mưu lừa gạt thủy thủ trên tàu Mary Celeste. Theo kế hoạch, Briggs là người ra tay giết chết nhóm thủy thủ đoàn của mình, Morehouse sau đó sẽ yêu cầu bồi thường cho việc cứu hộ tàu Celeste và chia tiền với Briggs. Tuy nhiên, cả Briggs và Morehouse được biết đến là những con người đáng kính, có lý lịch tốt, không thể là hung thủ giết người.
      Mặc dù vậy, Flood vẫn không từ bỏ suy nghĩ của mình. Nếu Briggs không làm điều đó thì nhất định là Morehouse. Flood tố cáo các thủy thủ của Dei Gratia đã tấn công tàu Mary Celeste vì lợi ích có thể nhận được với tư cách là người cứu hộ. Sau nhiều tháng đưa ra lời vu khống chống lại Morehouse, tòa án Admiralty cuối cùng đã minh oan và thanh toán mọi chi phí cho đoàn của Morehouse.
      Thời điểm đó, thế giới rất quan tâm đến những cáo buộc của Flood, thậm chí trong một bài viết trên tờ New York Times, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ William Richard cũng đưa ra nhận định của riêng mình với vụ án này và đồng ý với giả thuyết của Flood khi cho rằng đây là một cuộc nổi loạn.
      Bờ Rochelois ở Vịnh Gonâve, Haiti, nơi con tàu Mary Celeste kết thúc chuyến hành trình định mệnh của mình. Bờ Rochelois chỉ xuất hiện lờ mờ ở kênh biển phía nam giữa hòn đảo và đất liền.
      Bờ Rochelois ở Vịnh Gonâve, Haiti, nơi con tàu Mary Celeste kết thúc chuyến hành trình định mệnh của mình. Bờ Rochelois chỉ xuất hiện lờ mờ ở kênh biển phía nam giữa hòn đảo và đất liền. (Wikimedia Commons)
      Sau đó, vào tháng 1/1884, tạp chí Cornhill Magazine đăng tải một truyện ngắn với tiêu đề “J. Habakuk Jephson's Statement”, tác giả là bác sĩ trẻ Arthur Conan Doyle (người sau này viết bộ tiểu thuyết trinh thám Sherlock Holmes nổi tiếng). Truyện xây dựng từ sự cố tàu Mary Celeste, trong đó, tác giả nói đã tìm thấy những giấy tờ của Abel Fosdyk, một người được cho là hành khách trên tàu. Theo Fosdyk, vị thuyền trưởng đã cùng tranh luận với 2 thủy thủ của mình về tốc độ bơi. Và để chứng tỏ mình đúng, cả 3 cùng nhảy xuống nước bơi mà không biết sắp làm mồi cho cá mập. Những người còn lại chạy đến xem chuyện gì đang xảy ra. Bất ngờ phần mũi tàu họ đứng gãy tan, tất cả cùng chịu chung số phận với vị thuyền trưởng. Fosdyk là người duy nhất sống sót vì đã bám được một mảnh ván và trôi dạt vào bờ biển ở châu Phi. Theo nhiều chuyên gia, đây chỉ là một giả thuyết mơ hồ, không có cơ sở khi mà nhân chứng Fosdyk đã chết và chẳng ai có thể kiểm chứng được.
      Câu chuyện tiếp theo xuất hiện vào cuối những năm 20, khi Lee Kaye của tạp chí Chamber's Journal viết về một “Người duy nhất còn sống sót” khác là John Pemberton, về những chi tiết đã xảy ra trên tàu. Câu chuyện Pemberton sau đó đã được Laurence Keating xuất bản thành cuốn sách có tên “Mary Celeste Hoax” vào năm 1929 và trở thành cuốn sách bán chạy nhất toàn khu vực Đại Tây Dương cho đến khi Kaye bị tố cáo là dàn dựng trò lừa bịp này.

      Suy đoán của chuyên gia

      Tất cả các giả thuyết đều bị bác bỏ, vậy thực sự điều gì đã xảy ra với toàn bộ thủy thủ trên con tàu?
      Ở thời điểm chuyển giao thế kỷ, một số ý kiến tin rằng Mary Celeste đã bị tấn công bởi một con mực khổng lồ hoặc một con quái vật biển. Nhưng cứ cho đó là Kraken (con quái vật xúc tu chuyên đánh chìm tàu bè trên biển) thì tại sao nó lại lấy đi các loại giấy tờ trên tàu, và tại sao con tàu bị tấn công nhưng không có ai rút thanh gươm trên tàu ra chiến đấu, nó vẫn nằm nguyên trong vỏ? Khi tìm thấy nhiều vết đỏ trên tàu, người ta kết luận đó là máu nhưng thực chất chúng đơn giản chỉ là gỉ.
      Về chiếc xuồng cứu sinh, có một sự đồng thuận giữa những người nghiên cứu vấn đề này, bao gồm cả tòa án, rằng con tàu đã bị bỏ lại. Các dấu hiệu lộn xộn trên chiếc giường của thuyền trưởng, quần áo của thủy thủ đoàn thì vương vãi xung quanh cho thấy một cuộc tháo chạy trong vội vã. Ngoài ra, vài sợi dây thừng cũng biến mất dẫn đến kết luận thủy thủ đoàn đã rời hết xuống con xuồng, dùng dây thừng buộc nó vào sau tàu Celeste.
      Bia tưởng niệm các thủy thủ đoàn tàu Mary Celeste, những người đã biến mất không để lại một vết tích
      Bia tưởng niệm các thủy thủ đoàn tàu Mary Celeste, những người đã biến mất không để lại một vết tích (Ảnh: lost-at-sea-memorials.com)

      Về lý do di chuyển, có ba giả thuyết được ủng hộ nhiều nhất

      Thứ nhất, có thể thực phẩm trên tàu đã bị nhiễm độc, gây ảo giác và khiến các thủy thủ bỏ tàu. Người ta tìm thấy một chất trong bánh mì lúa mạch đen trên tàu có thể tạo ảo giác. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn từ tàu Dei Gratia cũng đã sử dụng chính đồ ăn trên tàu Celeste trong hơn một tuần mà không thấy hiện tượng gì bất thường. Vì vậy, giả thuyết thứ nhất có thể loại bỏ.
      Thứ hai, vấn đề có thể nằm ở số hàng hóa trên tàu. Khi thùng cồn cuối cùng được mở ra, 9 thùng hoàn toàn trống rỗng, rõ ràng đã bị rò rỉ trong chuyến đi. Thuyền trưởng cho rằng lượng hơi bốc ra lại bị giới hạn trong một không gian nhỏ rất dễ phát nổ. Vì vậy, khoang tàu đã được mở toang để hơi thoát đi và trong khi đó, thủy thủ đoàn sơ tán lên chiếc xuồng cứu sinh, giữ một khoảng cách an toàn.
      Thứ ba, giả thuyết của Tiến sĩ James H. Kimble: tàu Celeste đã gặp phải cơn lốc xoáy trên biển, thường xuất hiện và tiêu tan một cách nhanh chóng. Nó không gây thiệt hại gì đáng kể và là lời giải thích hợp lý cho lượng nước trong tàu lúc được tìm thấy. Nhưng Briggs thì không nghĩ thế. Ông cho rằng con tàu sắp chìm.
      Trong cả hai trường hợp 2 và 3, các thuyền viên và gia đình Briggs nhanh chóng nhận lệnh rời tàu. Tuy nhiên, khu vực Bắc Đại Tây Dương vào mùa đông được coi là nơi khá nguy hiểm cho nên hành động này có thể là nguyên nhân dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
      Hàng thế kỷ qua, đã có rất nhiều giả thuyết được đưa ra phân tích, mổ xẻ nhưng không có lời giải thích nào thoả đáng. Kết quả là cứ nhắc đến những “con tàu ma” thì cái tên Mary Celeste bao giờ cũng đứng ở vị trí đầu tiên và trở thành bí ẩn lớn nhất mọi thời đại của ngành hàng hải thế giới.
      Cập nhật: 02/03/2017 Tổng hợp

      Hé lộ sự thật về con tàu ma nổi tiếng nhất TG

      (Kiến Thức) - Tàu ma Mary Celeste là một trong những bí ẩn hàng hải lớn nhất lịch sử, với nhiều phát hiện bất ngờ.

      Phát hiện tàu ma Mary Celeste
      He lo su that ve con tau ma noi tieng nhat TG
      Tàu ma Mary Celeste nổi tiếng thế giới đã rời New York, Mỹ năm 1872. Đích đến của con tàu là thành phố Genoa ở Italy. Tuy nhiên, con tàu này không bao giờ cập cảng Genoa bởi vì chưa đầy 1 tháng sau khi khởi hành người ta tìm thấy con tàu xấu số này trôi dạt ngoài khơi Đại Tây Dương.
      Thuyền phó tàu Dei Gratia phát hiện tàu Mary Celeste trôi dạt trên biển nên đã cử một đội thủy thủ tiếp cận con tàu. Tuy nhiên, khi lên đến nơi họ phát hiện một sự thật bất ngờ nhưng vô cùng bí ẩn.
      Điều kỳ lạ là nhiều hàng hóa, thực phẩm trên tàu còn nguyên vẹn trong khi hầu hết giấy tờ và thiết bị định vị trên tàu đã biến mất, không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của hành khách hay thủy thủ đoàn.
      Sau khi việc phát hiện con tàu trên được công bố, một số người cho rằng, tàu Dei Gratia đã tấn công tàu Mary Celeste vì lợi ích có thể nhận được với tư cách là người cứu hộ. Tuy nhiên, giả thuyết này về sau đã được loại bỏ. Cho đến nay, số phận của những người có mặt trên con tàu này vẫn nằm trong màn đen bí ẩn.
      Thủy thủ đoàn mất tích bí ẩn
      He lo su that ve con tau ma noi tieng nhat TG-Hinh-2
      Khi một đội thủy thủ của tàu Dei Gratia lên tàu Mary Celeste thì phát hiện một bơm nước vẫn đang hoạt động, tất cả các cánh buồm đang được giương lên, chưa hề bị rách nát, đồ dùng cá nhân của thủy thủ đoàn còn nguyên và không bị xáo trộn. Một số đồ chơi trẻ em nằm lăn lóc trên giường của thuyền trưởng. Thậm chí, đồ ăn thức uống dự trữ dưới hầm đủ dùng trong 6 tháng cũng được tìm thấy.
      Tuy nhiên, điều kỳ lạ là la bàn đã bị phá huỷ, hải đồ biến mất, mũi tàu có hai vết chém sâu. Trên boong tàu có những vệt máu đã khô đen, thanh kiếm của thuyền trưởng cũng có vết máu. Thuyền trưởng cùng vợ con và 7 thành viên thủy thủ đoàn biến mất không một dấu vết trong khi con tàu ở trong tình trạng khá tốt. Điều này làm mọi người ngạc nhiên bởi vì không biết họ đã "bốc hơi'' khỏi Trái đất thế nào.
      Thuyền trưởng của Mary Celeste
      He lo su that ve con tau ma noi tieng nhat TG-Hinh-3
      Thuyền trưởng của tàu Mary Celeste khi ấy là Benjamin Briggs (37 tuổi). Ông là một tín đồ Thiên Chúa giáo và là người kiêng rượu. Tuy nhiên, khi con tàu Mary Celeste khởi hành từ New York, nó đã chở theo 1.701 thùng rượu.
      Thuyền trưởng Briggs từng nói với các phi hành đoàn rằng sẽ không bao giờ từ bỏ con tàu trừ khi bắt buộc phải làm điều đó trong tình huống khẩn cấp nhằm đảm bảo an toàn cho thủy thủ đoàn và hành khách.
      Bạn đồng hành đầu tiên của thuyền trưởng Briggs là một người có tên Albert Richardson. Ông Briggs chọn Richardson bởi vì muốn có một người đáng tin tưởng để có thể đảm nhận trách nhiệm thuyền trưởng nếu như có chuyện không hay xảy ra với ông hoặc thủy thủ đoàn. 
      Việc phát hiện con tàu Mary Celeste trong tình trạng gần như nguyên vẹn nhưng không có bóng dáng người nào khiến nhiều người đặt ra câu hỏi liệu thuyền trưởng Briggs đã phải đối mặt với tình huống cấp bách nào mà lại bỏ con tàu lại.

      Sự biến mất của những hồ nước trên thế giới

      14h00 | 10/12/2016
      (Sóng Trẻ) - Biến đổi khí hậu và những tác động của con người đang đe dọa đến sự tồn tại của các hồ nước lớn nhất trên thế giới. Những hình ảnh sau đây đã thể hiện được sự thay đổi khủng khiếp đang diễn ra tại những hồ nước ở Bolivia, Trung Đông, các nước thuộc khối Liên Xô cũ, Trung Quốc và Tây Phi.

      Hồ Poopó – Bolivia

      Hồ Poopó từng là hồ nước mặn lớn thứ hai của Bolivia, nằm ở bình nguyên cao Altiplano. Bức ảnh bên trái được chụp vào ngày 12 tháng 4 năm 2013, khi hồ còn đầy nước. Bức ảnh bên phải được ghi lại sau gần hai năm, là hình ảnh hồ gần như đã cạn khô. Hiện tượng băng tan và sự làm chệch hướng các nhánh cung cấp nước cho hồ chính là hai nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này.

      16062180f_4350.jpg

      Hình ảnh vệ tinh của hồ Poopó trước (trái) và nay (phải) (Nguồn ảnh: Nasa/AP)

      16062180f_3926.jpg

      Một chiếc thuyền bị bỏ không, nằm lại trên hồ nước cạn trơ đáy (hình ảnh được chụp vào ngày 12/1/2016)

      Nước trong hồ đã từng bao phủ 1000m2 diện tích mặt hồ, biến nó trở thành nơi cư trú của 4 loài cá bản địa.

      Biển Chết – Jordan, Israel, Palestine

      Trong 50 năm trở lại đây, mực nước Biển chết đã liên tục giảm khoảng 1m mỗi năm. Và một trong những nguyên nhân chính đằng sau sự suy giảm đáng lo ngại này là một số nguồn cung cấp nước cho hồ đã bị làm chệch hướng từ những năm 1960.

      16062180f_1006.jpg

      Hình ảnh vệ tinh của biển Chết thể hiện sự suy giảm mực nước (Nguồn ảnh: Landsat/Lakepedia)

      Biển Aral – Kazakhstan and Uzbekistan

      Kể từ những năm 1960, sau khi chính quyền Liên Xô cũ thực hiện ngăn dòng, làm chệch hướng các nhánh cung cấp nước phục vụ hoạt động tưới tiêu, mực nước biển Aral đã giảm đều qua từng năm. Trước năm 2007, hồ đã thu hẹp còn 10% so với kích thước ban đầu và chia tách thành 4 hồ nhỏ. Hiện nay, khu vực trũng phía đông của vùng nam biển Aral đã hoàn toàn cạn kiện và được gọi là sa mạc Aralkum.

      16062180f_5286.jpg

      Hình ảnh vệ tinh của biển Aral qua các năm (Nguồn ảnh: Times Comprehensive Atlas of the World/PA)

      Sự cạn kiệt của biển Aral đã góp phần hình thành nên một vùng đất nhiễm mặn, điểm xuyết bởi những chiếc thuyền đánh cá bỏ hoang. Tình trạng này cũng gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế địa phương. Các nhà khoa học hiện đang tích cực tìm hiểu để liệt kê và xác định trên bản đồ những hệ sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên thế giới, tương tự như danh sách loài có nguy cơ tuyệt chủng.

      734dd2ce6_5580.jpg

      Những chiếc thuyền bị "bỏ rơi" giữa vùng đất hoang hóa, nhiễm mặn

      Hồ Bà Dương – Trung Quốc

      Mực nước trong hồ nước ngọt lớn nhất của Trung Quốc đã đột ngột suy cạn từ đầu những năm 2000. Đã có thời điểm, diện tích bề mặt của hồ Bà Dương là 4500km2. Nhưng theo kết quả đo đạc mới đây, con số này đã giảm đến 22,5 lần. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính trạng trên là các hoạt động công nghiêp, hạn hán kéo dài và sự làm chệch dòng chảy của sông Trường Giang.

      734dd2ce6_1308.jpg

      Hình ảnh vệ tinh của hồ Bà Dương (Nguồn ảnh: Landsat/Lakepedia)

      734dd2ce6_1894.jpg

      Hình ảnh những đàn gia súc được chăn thả trên diện tích đáy hồ đã khô cạn được chụp vào tháng 11/2016

      Hồ Bà Dương là “khu bảo tồn” tự nhiên quan trọng, cung cấp nơi trú ngụ cho nửa triệu chim di cư. Nó là điểm đến yêu thích của loài sếu Siberia, đồng thời, là nơi duy nhất người ta có thể tìm thấy quần thể cá heo không vây nước ngọt – loài vật có tên địa phương là “jjangzhu” hay “lợn sông”. Sự sụt giảm về số lượng con trong quần thể này, những năm gần đây, chính là hồi chuông cảnh báo về nguy cơ tuyệt chủng của họ cá heo chuột trước năm 2025.

      Hồ Hulun – Đại Mông Cổ

      Những hồ nước trên Đại Mông Cổ đã đột ngột cạn kiệt trong vài thập kỷ trở lại đây, mà chủ yếu là do ảnh hưởng nghiêm trọng từ các hoạt động của con người và biến đổi khí hậu. Hulun, một trong những hồ lớn nhất ở khu vực này đã mất đi 291km2 diện tích bề mặt.

      734dd2ce6_1205.jpg

      Hình ảnh vệ tinh của hồ Hulun năm 1996 (trái) và 2016 (phải)
      (Xinkai – hồ có diện tích nhỏ hơn ở phía đông hồ Hulun đã cạn khô hoàn toàn từ trước năm 2010)

      Hồ Chad – Chad, Niger, Nigeria, Cameroon

      Đã từng là hồ nước ngọt lớn nhất châu Phi, đến nay, hồ Chad chỉ còn là một phần nhỏ còn sót lại của hồ nước này trước đây. Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi đại học Wisconsin – Madison, kích cỡ của hồ nước thời điểm hiện tại chỉ bằng 1/20 kích cỡ 35 năm trước đây. Kế hoạch thủy lợi, khí hậu ngày càng khô hạn và sự sụt giảm lượng mưa đã góp phần dẫn đến tình trạng trên.

      734dd2ce6_2048.jpg

      Hình ảnh hồ nước lần lượt trong các năm 1963, 1973, 1987 và 1997 
      (Màu đỏ biểu thị thảm thực vật đáy ở những khu vực đã cạn khô) (Nguồn ảnh: NASA/AFP)

      Thanh Thanh (theo The Guardian)

                         Hồ nước 1400 hecta biến mất bí ẩn chỉ sau một đêm

      Lại một hồ nước nữa biến mất hoàn toàn chỉ sau một đêm ở Nga



      Hồ Peschera mất hết nước do một hố sụt vào tháng 6/2016.
      Hồ nước Peschёra ở Nga vừa biến mất sau 1 đêm chỉ để lại một hố nhỏ trên nền đất. Dân địa phương đang mong nước hồ đầy trở lại bởi sự hữu ích của nó.

      Hồ Peschёra rộng 200m và sâu 9m nằm trong khu rừng làng Ostashata ở tỉnh Perm, gần núi Ural thuộc Nga.

      Cư dân cho biết, chỉ sau một đêm, hồ nước biến mất hoàn toàn. Sáng họ thức dậy, chỉ thấy còn lại vài vũng nước và một cái hố nhỏ kỳ lạ ngay giữa hồ, đặc biệt là không còn sót lại 1 con cá nào. Họ sợ rằng hồ Peschёra cũng biến mất như hồ Lyubimov ở gần đó.

      Câu hỏi đặt ra lúc này là: Vì sao hồ nước Peschёra bị cạn hết? Nước hồ và cá đã biến đi đâu? - Một giả thiết cho rằng: đã xảy ra trận động đất mạnh 4,1 độ richter ở gần Sverdlovsk nuốt gọn hết nước hồ.

      Một giả thiết khác cho rằng: Người ta khoan ở gần hồ làm hồ bị sụp xuống. Khu vực này vốn có những hang lớn bên dưới, Một hang trong số đó đã bị nứt trần.

      Cho dù đã có chuyện gì xảy ra thì dấu vết còn lại cho thấy nước hồ đã bị khô cạn nhanh chóng. Không ai biết cá và nước hồ đã biến đi đâu và hồ nước có đầy trở lại không.

      Có lẽ khu vực này giống quận Linn ở Oregon, Mỹ, có hồ nước rộng 0,34km2 và sâu 3m, nằm cách Albany 120,7km về phía đông.

      Hồ nước này bị biến mất vào mùa hè, chỉ để lại cái hố sâu 1,83m nên được gọi là Lost Lake (hồ nước biến mất). Đến mùa thu, hồ nước lại đầy. Hiện tượng này đã tồn tại qua 12.000 năm do hoạt động núi lửa và sự khô hạn trong mùa hè.

      Lời giải thích cho hiện tượng này như sau: Nhiệt độ tăng lên trong mùa hè làm dòng nước chảy ra và vào cân bằng, nước hồ và cá bị hố hút vào hết. Nước ngầm chảy đi 25,7km đến hồ Clear rồi đổ ra sông McKenzie.

      Đến mùa thu, thời tiết ẩm ướt làm nước hồ lại đầy. Gần hồ Lost có hồ Fish cũng biến mất hàng năm do hệ thống hang ngầm bên dưới.

      Hai hồ nước này đều biến mất theo chu kỳ quen thuộc, chỉ có hồ Peschёra tự dưng biến mất là hiện tượng lạ. Phải chăng do biến đổi khí hậu?

      Động vật trường sinh

      Trong một ghi chép còn lại của nhà phẫu thuật Ambroise Pare, thầy thuốc riêng của Vua Henri III (Anh), thế kỷ XVI, miêu tả về một người thợ xây vô ý làm rơi một hòn đá. Không ngờ, từ viên đá vỡ rơi ra một chú ếch nằm bất động. Lát sau, chú ta tỉnh lại, rồi nhảy đi.

      e
      Ếch, bậc thầy về khả năng chết giả.
      Có lẽ chìa khóa trường sinh nằm ở đây trong khả năng chết giả hàng nghìn năm của nhiều loài động vật.
      Ở Bắc Mỹ, có loài thuỷ ngưu lùn Sirenia, trong các điều kiện khắc nghiệt, chúng có thể ngủ vùi hơn một năm trời. Trong thời gian này, các trao đổi chất trong cơ thể chúng giảm xuống đến hàng nghìn lần, thậm chí có khi ngừng hẳn! Chính vì điều đó, chẳng có gì lạ khi vào mùa khô, thổ dân châu Phi thường đi bắt lươn, chạch… bằng cách dùng cuốc. Trong các lớp đất khô rắn, lươn, chạch… vẫn còn tươi nguyên. Mới xem qua, cứ ngỡ những con vật này vừa mới chết, nhưng nếu mang thả xuống nước, chỉ khoảng 10 phút sau, chúng “sống” lại và trườn đi như bình thường. Các nhà khoa học gọi đó là hình thức “chết giả” trong đất khô cứng. Ở các loại lươn chạch châu Phi, thời gian chết giả cho đến khi có mưa trở lại có thể kéo dài nhiều tháng.
      Kỷ lục đáng nể
      Có những con ếch ẩn náu trong bùn đất, vì lý do nào đó, bùn dần khô cứng lại. Thế là nó bị mắc kẹt trong đó. Trải qua hàng nghìn, thậm chí hàng triệu năm, tàng bùn trong đó chứa ếch, vì lý do này khác, hoá thành đá. Có nhiều trường hợp, khi những tảng đá đó được đập ra, ếch dần sống lại.
      Trong một cuộc bán đấu giá ở London (Anh) năm 1862, người ta trưng bày một tảng than đá có vết rỗng in hình con ếch. Bên cạnh đó là con ếch sống từng nằm trong tảng than suốt hàng nghìn năm qua. Tảng than đá này được tìm thấy ở mỏ than New Port. Không lâu sau đó, ở mỏ than Lilishal vùng Paddington, người ta lại tìm thấy một con ếch sống nằm trong than đá. Tại một mỏ dầu ở Mexico, các nhà khoa học đã phát hiện ra một con ếch đã bị chôn vùi… 2 triệu năm. Sau khi được giải thoát, con ếch này đã sống lại được 2 ngày, nhưng sau đó thì chết hẳn.
      Vào thế kỷ thứ 18, người ta xây một kè đá dọc theo bãi biển Toulon (Pháp). Gần đây, người ta bửa những kè đá này ra và tìm thấy những con hào còn sống trong lòng đất đá. Năm 1818, một nhà địa chất lấy mẫu sét ở độ sâu 15 m. Ông phát hiện thấy có 3 con vật lạ chui ra. Hai con chết ngay khi tiếp xúc với không khí, nhưng một con vẫn còn sống khi Clark thả xuống nước. Các nhà khoa học xác định con vật này thuộc loài động vật tồn tại trên trái đất 10 triệu năm trước.
      Đầu năm 1856, người ta dùng mìn phá sập một mỏm đá lớn, và phát hiện ra một con vật như khủng long. Nó kêu lên một tiếng rồi chết. Người ta không có điều kiện để bảo quản xác của nó, nhưng phần xương vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Các nhà khảo cổ học cho rằng đó là một giống thằn lằn bay thời tiền sử…
      Dường như ếch có khả năng ẩn mình vô thời hạn trong đá, trong gỗ. Trong biên bản tài liệu khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp có một tài liệu quan trọng. Tài liệu này miêu tả bên trong một thân cây cổ thụ, người ta tìm thấy một con ếch. Ngay sau khi được giải thoát, con ếch dần dần hồi phục và nhảy đi mất. Nhưng khuôn gỗ in hình con ếch đó thì vẫn được lưu giữ lại đến ngày nay.
      “Bất tử” trong thí nghiệm
      Kỹ sư Seghine người Pháp đã thực hiện một thí nghiệm để kiểm chứng khả năng trường sinh của ếch. Ông trộn 20 con ếch vào vữa rồi xây thành một cái tượng vườn. 12 năm sau, ông cho đập tượng, 16 con đã chết hẳn, nhưng 4 con ếch sau vài chục phút đã hồi sinh trở lại và nhảy đi bình thường.
      Năm 1852, một người Mỹ tên là Frank cũng lập lại thí nghiệm trên. Ông cho khoan lỗ vào tảng đá vôi, thả 12 con ếch vào đấy và dùng xi măng trám kín các lỗ lại. Ông cũng làm như thế nhưng thay tảng đá vôi bằng một khối sa thạch với 12 con ếch. Nhiều năm sau, ông cho đập vỡ hai “nhà tù” ra. Cả 24 con ếch đều sống bình thường.
      Khả năng trường tồn của động vật là chìa khoá để các nhà khoa học tìm ra cách trường sinh cho con người. Nhưng bí ẩn trường sinh này đến nay vẫn chưa ai giải thích nổi.
      (Theo The Unknown)

      Đây là bi kịch bí ẩn nhất lịch sử hàng hải thế giới

      Trang Ly |
      Đây là bi kịch bí ẩn nhất lịch sử hàng hải thế giới
      Con tàu ma. Hình minh họa

      Sự mất tích khó hiểu của toàn bộ phi hành đoàn trên tàu Urang Medana năm 1948 được xem là bi kịch bí ẩn nhất lịch sử hàng hải thế giới.



      Sự kiện toàn bộ thủy thủ đoàn trên tàu thương mại Urang Medana (còn có tên The S.S. Ourang Medan) chết một cách bí ẩn cách đây 67 năm được đánh giá là bi kịch bí ẩn nhất trong lịch sử hàng hải thế giới.
      
Tàu Urang Medana neo đậu tại cảng trước khi khởi hành chuyến đi tử thần.
      Tàu Urang Medana neo đậu tại cảng trước khi khởi hành chuyến đi tử thần.
      Tín hiệu sống tuyệt vọng
      Vào tháng 2/1948, con tàu chở hàng của Hà Lan phát đi tín hiệu cấp cứu cực kỳ rất khó hiểu.
      Theo ghi chép, một vài trạm radar của Anh đặt tại Singapore và đảo Sumatra, Indonesia thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Ourang Medana.
      Với nội dung: "SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…"
      Tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là: "Tôi đang chết dần", rồi kết thúc bằng một sự im lặng đầy chết chóc.
      
Địa điểm tàu Urang Medana xuất phát (nốt đỏ dưới) và bị nổ chìm (nốt đỏ trên).
      Địa điểm tàu Urang Medana xuất phát (nốt đỏ dưới) và bị nổ chìm (nốt đỏ trên).
      Những bí ẩn kinh hoàng
      Các cuộc tìm kiếm cứu hộ nhanh chóng được thiết lập và đã cho kết quả. Con tàu được tìm thấy tại vịnh Malacca (Malaysia), cách nơi phát tín hiệu trước đó khoảng 80km.
      Khi bước chân lên Urang Medana, ngay lập tức các nhân viên cứu hộ phải sởn gai ốc trước cảnh tượng kinh hoàng trước những cái chết một cách bất thường của toàn bộ thủy thủ đoàn.
      
Toàn bộ thủy thủ đoàn chết trong trạng thái sợ hãi tột độ. Hình minh họa
      Toàn bộ thủy thủ đoàn chết trong trạng thái sợ hãi tột độ. Hình minh họa
      Vị thuyền trưởng nằm ngay tại tại vị trí điều khiển, còn các sĩ quan và thuỷ thủ thì nằm rải rác khắp nơi trên tàu.
      Một nhân viên điện đài có lẽ là người đã phát ra tín hiệu cấp cứu, đã chết trong trạng thái làm việc.
      Điểm chung duy nhất là trên khuôn mặt của tất cả mọi người là mắt mở trừng trừng, nét mặt thất thần, sợ hãi như người đã gặp phải một cái gì đó rất đáng sợ.
      Ngay đến con chó trên tàu phải nhận một cái chết hết sức bất thường khi mõm của nó vẫn còn đang nhe nanh như đe dọa ai.
      Điều kỳ lạ là, tàu vẫn giữ nguyên hiện trạng, không bị mất cắp bất cứ đồ đạt có giá trị nào trên tàu. Chưa hết, không có bất kỳ dấu hiệu tổn thương bên ngoài nào trên những thi thể của thủy thủ đoàn.
      Chưa kịp xem xét gì thêm thì đột nhiên có đám cháy bùng phát trong một khoang chứa hàng buộc đoàn cứu hộ phải rút lui. Sức nổ mạnh đến nỗi con tàu "bị nhấc lên khỏi mặt biển".
      
Hình ảnh con tàu nổ tung rồi chìm sâu dưới đáy biển lạnh
      Hình ảnh con tàu nổ tung rồi chìm sâu dưới đáy biển lạnh
      Toàn bộ thi thể của thủy thủ đoàn và con tàu bí ẩn bị chôn vùi dưới đáy biển lạnh cùng những nghi vấn mà cho đến nay, sau hơn 6 thập kỷ, chưa ai có thể giải mã.
      Những giả thuyết cho bi kịch "con tàu ma"
      Nghi vấn ban đầu được đặt ra là tàu Urang Medana bị cướp biển tấn công. Tuy nhiên, với những gì quan sát được tại hiện trường, không có dấu hiệu xô xát hay cướp bóc, thì giả thuyết này bị bác bỏ.
      Theo một số nghi vấn, chiếc tàu Hà Lan có thể chở hỗn hợp chất kịch độc potassium cyanide (Kali xyanua) và nitroglycerin cực kỳ nguy hiểm.
      Kali xyanua là một chất kịch độc, gây chết người với liều lượng thấp. Chỉ cần ăn nhầm từ 300 đến 400 mgchất này thì một người khỏe mạnh có thể mất ý thức trong vòng 10 giây đến 1 phút.
      Sau khoảng 45 phút thì rơi vào trạng thái hôn mê và có thể tử vong sau khoảng 2 giờ nếu không có các biện pháp điều trị kịp thời. 
      Đây là chất dễ cháy nổ hoặc khí độc, được xem là hai mặt "hàng tử thần" thừa thãi sau Chiến tranh thế giới II.
      Nhiều khả năng tàu SS Ourang Medan chở lậu "hàng tử thần" cho nên thủy thủ đoàn chết vì trúng khí độc rò rỉ và tàu nổ tung vì khoang chứa chất dễ cháy nổ bị nước biển kích hoạt.
      Có thể đây là một tai nạn mà cũng có thể là một âm mưu. Cũng có thể chiếc tàu sơn tên giả để che giấu một bí mật nào đó. Đến này nay đây vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử hàng hải.
      *Tham khao nhiều nguồn
      theo Trí Thức Trẻ

      Sự kiện tàu Ourang Medan

      Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
      The S.S. Ourang Medan hay Urang Medana là một con tàu chở hàng của Hà Lan, được tìm thấy tại eo biển Malacca sau khi phát đi tín hiệu cấp cứu và được phát hiện trong trình trạng không còn bất cứ thuỷ thủ đoàn nào sống sót, nhưng tàu vẫn giữ nguyên hiện trạng, không bị mất cắp bất cứ đồ đạc có giá trị nào trên tàu. Đây là một bí ẩn được xem như lớn nhất của ngành hàng hải thế giới, và được biết đến như một con tàu ma.
      Sự kiện tàu SS Ourang Medan chìm được ghi nhận lần đầu trên tập san Biên bản lưu trữ Hội đồng Thương thuyền do lực lượng tuần duyên Mỹ xuất bản số tháng 5-1952. Từ Ourang, theo tiếng Mã Lai có nghĩa là "người" hoặc "đàn ông", còn Medan là thành phố lớn nhất trên đảo Sumatra, Indonesia; nghĩa đen là "Người Medan". Sau đó từ này còn xuất hiện trong nhiều cuốn sách và tạp chí, đặc biệt là tạp chí Fortean Times của Anh.

      Diễn biến

      Vào tháng 2-1948) (có tài liệu nói tháng 6-1947) một vài trạm rada của Anh đặt tại Singapore và đảo Sumatra, Indonesia thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Ourang Medana  của Hà Lan với nội dung: "SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…", tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là "Tôi đang chết dần", rồi kết thúc bằng một sự im lặng. Hai tàu Mỹ - chiếc City of Baltimore và Silver Star của hãng Grace Lines, New York - đang chạy trong eo biển Malacca tiếp nhận được bản tin nói trên. Các thủy thủ tàu Silver Star tiến hành cứu hộ tàu SS Ourang Medan. Nhưng trên tàu không còn ai sống sót nhưng không phải bị cướp biển tấn công vì trên tàu không mất mát thứ gì giá trị. Chưa kịp xem xét gì thêm thì đột nhiên có đám cháy bùng phát trong một khoang chứa hàng buộc thủy thủ tàu Mỹ phải rút lui. Sau đó, chiếc SS Ourang Medan nổ tung, bốc cháy rồi chìm rất nhanh. Sức nổ mạnh đến nỗi con tàu "bị nhấc lên khỏi mặt biển", theo tường thuật của thủy thủ tàu Mỹ.

      Những bí ẩn và sự đồn đoán

      Chiếc tàu gặp nạn gì không ai được rõ, những nhân viên tại các trạm của Anh ở Singapore và đảo Sumatra, Indonesia chỉ nhận được những tin nhắn cấp cứu, lạ lùng và đứt quãng. Những chiếc tàu đến cứu hộ cũng cho biết rằng không còn một ai trên con tàu sống sót và những cái chết rất kỳ lạ, viên thuyền trưởng thì gục chết tại khoan lái, các thuỷ thủ đoàn khác chết rải rác trên tàu, tất cả họ đều có một điểm chung là mắt mở trừng trừng và nét mặt thất thần, sợ hãi như người đã gặp phải một cái gì đó rất đáng sợ, đoàn cứu hộ còn phát hiện thấy một con chó cũng đã chết với trạng thái nhe răng, có thể trước khi nó chết nó đang sủa và tấn công một vật gì đó nguy hiểm. Trên các tử thi không hề có một vết thương nào.
      Con tàu này gặp nạn tại eo biển Malacca, một eo biển nổi tiếng về cướp biển, nhưng con tàu Ourang Medan không nằm trong tường hợp này, đoàn cứu nạn cho biết trên tàu lúc họ đổ bộ lên dường như nguyên hiện trạng, không có mất mát gì.

      Giả thuyết chính trị

      Theo một số nghi vấn, chiếc tàu Hà Lan có thể chở hỗn hợp potassium cyanide và nitroglycerine cực kỳ nguy hiểm vì dễ cháy nổ hoặc khí độc là hai mặt "hàng tử thần" thừa thãi sau Chiến tranh thế giới II.
      Nghị định thư Geneva 1925 được 33 nước thông qua nghiêm cấm sử dụng vũ khí hóa học, thế chiến II kết thúc, nhiều nước tìm cách bán rẻ hoặc chôn giấu loại "hàng tử thần" nói trên. Bộ Quốc phòng Anh từng bị chỉ trích vì lén lút thuê tàu chở hơn 100.000 tấn khí độc "tabun" và "sarin" ra biển Bắc và Đại Tây Dương rồi nhấn chìm xuống biển.
      Nhiều khả năng tàu SS Ourang Medan chở lậu "hàng tử thần" cho nên thủy thủ đoàn chết vì trúng khí độc rò rỉ và tàu nổ tung vì khoang chứa chất dễ cháy nổ bị nước biển kích hoạt. Có thể đây là một tai nạn mà cũng có thể là một âm mưu. Cũng có thể chiếc tàu sơn tên giả để che giấu một bí mật nào đó. Đến này nay đây vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử hàng hải. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại, cuối cùng họ đã tìm ra lời giải. Đây là hung thủ nhìn không thấy, chạm không được, đó là hạ âm. Vụ thảm án ở eo biển Malacca là do hạ âm cường độ cao do gió mạnh trên biển sinh ra Hạ âm là một loại tần suất thấp, tần số chúng thấp hơn 20hz. Nó có một lực xuyên thấu rất mạnh, khi ở trong không khí tốc độ truyền đi có thể hơn 1.200km/h. Hạ âm có thể làm cho con người phiền não bất an, tinh thần uể oải, thậm chí rối loạn thần kinh. Hạ âm còn làm cho con người hoa mắt, chóng mặt, tức ngực, toàn thân bị tê liệt. Hạ âm có tần số dưới 7hz nguy hại đến tính mạng con người. Ví du: Một nhà nghiên cứu ở Pháp, khi tiến hành thực nghiệm hạ âm, vì sai khác kĩ thuật làm hạ âm tần suất thấp rò rỉ ra ngoài khiến cho 30 người cách đó 16km đều bị tử vong. Vì sao hạ âm tần suất thấp và cường độ cao có thể làm chết người? Căn cứ vào kết luận cuối cùng là do cộng hưởng. Cơ thịt con người, các cơ quan nội tạng đều có tần suất chấn động cố hữu của nó, khi tần suất cố hữu của loại này quá thấp và sóng hạ âm tương đồng, thì sẽ phát sinh cộng hưởng, sản sinh ra năng lượng. Nó sẽ gây chấn động khá lớn, từ đó tạo thành phá vỡ lớn trong kết cấu cơ thể dẫn đến tử vong. Sóng hạ âm trên thế giới tự nhiên bắt nguồn từ nhiều phương tiện như bão mặt trời, va chạm của sao băng, gió biển, biển động mạnh, núi lửa phun,... Các loại cơ cấu nhân tạo cũng có thể là nguồn tạo thành hạ âm như động cơ diesel, máy hút, quạt gió, nổ bom nguyên tử. Hạ âm là một kẻ giết người vô hình và không tiếng động, vì vậy con người cần ngăn chặn tiếng ồn cùng với ô nhiễm môi trường để phòng ngừa nguy hại của hạ âm không nghe thấy được này.
       
       

      Nhận xét

      Bài đăng phổ biến từ blog này

      MIỀN TÂY HOANG DẠI

      MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/153

      VẪN THẾ MÀ!