Thứ Tư, 12 tháng 2, 2020

Trà dư tửu hậu 14/c

Chuyện 16:   TOÁN HỌC
    Theo ông A, tiên đề số một - cội rễ mọi qui luật, nguyên lý của thế giới khách quan, là tiên đề Tự Nhiên Tồn Tại. Phát biểu ngắn gọn nhất của tiên đề ấy là: Không có HƯ VÔ (hư vô tuyệt đối). Điều ấy có nghĩa thế giới khách quan là một Tồn Tại vĩ đại, trong thế giới khách quan chỉ có Tồn Tại và duy nhất Tồn Tại mà thôi.
     Thật là kỳ lạ, thứ được cho là tự do nhất, tự do tuyệt đối của con người là trí tưởng tượng. Ta có thể tưởng tượng ra bất cứ cái gì. Ấy vậy mà không thể tưởng tượng được ra Hư Vô! Bất cứ tồn tại nào cũng phải cho môi trường xung quanh biết rằng nó tồn tại, dù bằng cách này hay cách khác. Chính vì vậy mà đã tồn tại thì phải thể hiện, thể hiện đến tột cùng "chân tơ kẽ tóc", đến ngay bản thân nó(!). Nhờ đó mà có khái niệm thời gian. 
    Thời gian là một tồn tại phi vật chất, ảo của Vũ Trụ, là biểu hiện cơ bản của chuyền hóa (vận động) vật chất...Vậy, Tồn Tại thể hiện ra là một không gian hàm chứa tất cả sự vật-hiện tượng chuyển hóa không ngừng. Ở bất kỳ đâu, nếu không phát hiện thấy bất kỳ sự thể hiện nào của tồn tại vật chất nữa, thì cái còn lại cuối cùng vẫn là không gian, là Tồn Tại chứ không thể Hư Vô. Nhưng lúc đó có còn thời gian không? Vẫn còn! Vì không gian vẫn vận động, chuyển hóa, vẫn thể hiện, chỉ có điều ta...không thấy! Nói đến thể hiện thì phải nói tới quan sát, nói tới chuyển hóa thì phải nói tới tác động. Một thực thể là một hệ chuyển hóa, đồng thời là một hệ quan sát, dù tự phát hay tự giác. Mục đích quan sát của vạn vật là để tương tác lại tác động ngoại lai, tạo nên chuyển hóa nội tại phù hợp, nhằm "cố gắng" duy trì sự tồn tại của bản thân nó. 
      Có thể phân chia quan sát ra làm hai loại: quan sát vô cảm và quan sát hữu cảm. Những thực thể thuộc thế giới sinh vật đều có quan sát hữu cảm. Vì vạn vật-hiện tượng đều "cố gắng" thể hiện để sống còn, nên có sự "cạnh tranh" thể hiện để sống còn. Mục đích của quan sát (hữu cảm), xét cho cùng là để đảm bảo cho thực thể sinh vật sống còn trong một môi trường hữu hạn, và vì khả năng quan sát là hữu hạn, nên sự "cạnh tranh" thể hiện tồn tại trong thế giới sinh vật có tính ưu tiên lựa chọn. Đó cũng chính là nguyên nhân hình thành nguyên lý "Trội - lặn", một nguyên lý phổ biến trong thế giới sinh vật. Ví dụ, có hai vật, một vật được cho là đứng yên, còn vật kia chuyển động có hướng đâm trực diện vào vật đứng yên. Theo quan niệm thông thường thì chúng là những vật vô tri vô giác, nhưng thử hỏi chúng có quan sát "thấy" nhau (một cách tức thời) không? Ở đây, xét về mặt tương tác, phải trả lời là...có! Nếu không quan sát thấy nhau, thì làm sao chúng có thể tương tác, làm chuyển hóa nội tại của nhau một cách tương phản nhau theo hướng cùng cố gắng duy trì trạng thái tồn tại cũ, hợp  qui luật được? Có thể nào đó chính là nguyên nhân sâu xa về biểu hiện "có" khối lượng của thực thể? Thêm một ví dụ : vì sao chúng ta hầu như không cảm giác được bầu không khí (dưỡng khí)? Vì nó...nhiều quá, không cần thiết phải biểu hiện cho thế giới sinh vật vì mục đích sống còn.nên nó trở thành "lặn" trước quan sát và lặn xuống. Lại nữa, vì sao trước một đống phân người, con chó không thấy thối còn con người lại thấy thối? Đó là do tuân theo nguyên lý trội-lặn trong thể hiện tồn tại, phục vụ lợi ích sống còn cho loài người và cả loài chó! Quan sát hữu cảm còn được phân ra hai loại nữa là quan sát vô thức và quan sát hữu thức (hay còn gọi là quan sát thụ động và quan sát chủ động). Có thể cho rằng, chỉ ở loài người (loài biết tư duy) mới có quan sát hữu thức. 
     Ông A còn bảo, thực thể nguyên thủy, khởi đầu, đóng vai trò đơn vị sống tổng hợp nên toàn thể thế giới sinh vật là tế bào, nhờ có tính thể hiện phân biệt được và quan sát được của tồn tại như một vốn có của thế giới khách quan mà sống còn được. Nếu không thế, thì thử hỏi làm sao mà tế bào có thể hấp thụ "thức ăn", duy trì tồn tại để làm nên thế giới sinh vật được?
...Mải chìm đắm suy ngẫm những quan niệm về tự nhiên hoàn toàn mới lạ mà ông A đã nhiếu lần "rao giảng" , tôi thấy mình lững thững ra chợ không biết để làm gì rồi ngẩn ngơ quay về nhà. Vợ tôi ra mở cửa, trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:
-Hành đâu?
     Bấy giờ tôi mới sực nhớ ra: vợ sai tôi đi mua hành mà tôi "đãng trí bất học", quên mất. Tôi đành cười trừ giả lả:
-Thế mà khi ở chợ, nghĩ mãi không ra...Điên thật đấy! Chờ chút, để...
Chưa kịp nói hết câu, vợ tôi đã lên giọng:
-Đợi ông đi mua có mà đến mọt gông! Thôi, để tôi đi cho xong, tiện thể mua mấy bìa đậu hũ (đậu phụ), mai ăn .
Dứt lời, vợ tôi đã thoắt ra cửa, biến mất, để mình tôi còn lại chỏng chơ giữa nhà. Chẳng biết làm gì, tôi lại nghĩ lung tung về tự nhiên. Do quan niệm của ông A đã lũng đoạn, trí óc tôi giờ đây rối bời bời, chỉ mong đến giờ nhậu, nghe ông A giải tỏa câu đố "nhức nách": 1 + 1 = 2 ? là gì.
Thế rồi trời như chiều lòng người, chuyển sang chiều muộn rất nhanh. Chẳng mấy chốc mà đồng hồ treo tường đã chỉ 5 giờ chiều. Chỉ đợi có vậy, làm gói muối ớt và thó hai quả bưởi vợ tôi mới mua về, tôi tót sang nhà ông A liền. 
     Như thế đã gọi là triệu chứng của nghiện rượu chưa nhỉ?

***

Cuộc nhậu bắt đầu chuyện thời sự về Sirya và tình hình Biển Đông. Ông B, ông C sôi nổi, ông A tham gia cho xôm chuyện, còn tôi, vì đang "vướng mắc" nhiều điều về tự nhiên, thấy chán phèo, ngồi nghe lơ đãng và uống rượu khan, nhìn ngó lung tung, miệng phì phèo thuốc lá. Được một lúc, ba ông ngồi thừ ra, im lặng vì hết chuyện. Tôi nhân cơ hội nói:
-  giải câu đố 1 + 1 = 2 là gì đi, Anh A !
-Ừ nhỉ, đề tài đó cũng hấp dẫn...Mà anh A đang để giang dở. -Ông B ủng hộ.
-Một quan niệm về tự nhiên lạ hoắc. Cũng có chút lý thú nhưng có phần "bạt mạng", nếu là chuyện quốc gia đại sự, thì anh A đã mọt gông từ lâu vì nó trái với "ý đảng lòng dân" rồi. -Ông C dù có vẻ cũng thích nghe ông A nói tiếp, nhưng xen vào, làm ra vẻ chê bai.
 Thế là hình như "được mời như cởi tấm lòng", ông A bắt đầu tiếp tục câu chuyện:
-Như đã nói, quan sát ở thế giới sinh vật gồm quan sát thụ động và quan sát chủ động. quan sát chủ động chỉ có ở loài người (loài có tư duy). Nói thêm, quan sát ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng nhất, như một hệ quan sát có cả thiết bị hỗ trợ, không chỉ thấy bằng mắt(!). Nói chung, cả ở lòai vật và loài người, trong sự quan sát có một trạng thái quan sát kích thích "muốn biết" cao độ gọi là "sự tò mò". Tuy hai "sự tò mò" buổi đầu tiên cùng thoát thai từ "muốn biết" hầu phục vụ cho mục đích sống còn (cố gắng tồn tại), nhưng về sau, trong quá trình tiến hóa thích nghi, ở loài người, sự tò mò muốn biết không những với mục đích trực tiếp nhằm sống còn, mà còn thăng hoa lên cùng cực, đẫm màu tư duy trừu tượng và đậm nét suy lý thành lòng ham hiểu biết "mọi thứ", mong được khám phá, phát minh, và như vậy, coi như chỉ loài người mới có tính tò mò. Chính tính tò mò ấy đã là động lực chủ yếu, có vai trò quyết định đến sự hình thành thế giới nhận thức (thế giới ảo), trong đó có lâu đài toán học của con người...
-Nói gì mà mông lung quá! Nói gọn lại đi, anh A! -Ông C có vẻ sốt ruột.
Ông B thấy vậy nói:
-Cứ để ảnh nói, cũng hay đấy chứ? Hối làm gì! Buồn thì sẵn rượu và mồi đấy, cứ lai rai nhậu đi anh C. "Trà dư tửu hậu" mà!
Ông A nói rề rà như trong cơn mê, hình như không nghe thấy ai nói gì, cứ thế tiếp tục, không dứt:
-Sự tiến hóa sinh vật theo hướng có tư duy trừu tượng (hướng phát sinh ra loài người) chắc chắn không phải là hướng tiến hóa ưu tiên lựa chọn vô điều kiện của thế giới sinh vật. Thực tế cho thấy trong điều kiện sống nhất định đòi hỏi, chỉ có duy nhất một giống loài (vượn cổ) tiến hóa thành loài người có tư duy trừu tượng mà thôi. Thuở sơ khai, con người quan sát phân biệt các sự vật-hiện tượng xung quanh nhằm kiếm ăn và tránh nguy hiểm. Dần dà, qua quan sát, con người còn có nhu cầu phải xác định số lượng nữa. Đó là những chất liệu đầu tiên của con người làm nên nền móng của lâu đài toán học. Trong số đó có 1 + 1 = 2. Vậy, 1 + 1 = 2 là một qui ước toán học giản đơn về chuyển hóa số lượng của con người...
-Theo em nghĩ, đó là một chân lý. Chân lý đó được con người suy tưởng ra từ hiện thực, từ trừu tượng hóa, rồi nâng lên thành biểu tượng và qui ước nó, chứ không hẳn là qui ước đơn thuần! -Tôi nêu ý kiến.
-Chú Thu nói vậy nghĩa là trước hết phải có nó trong hiện thực. Nhưng khi con người chưa thành hình thì đã có toán học đâu mà biểu thức ấy tồn tại trong hiện thực (tức trong thực tại khách quan), đúng không anh A? -Ông B hỏi như phủ định.
Ông A tợp gọn ly rượu, nhấm nháp miếng mồi, lắng nghe tôi và ông B cãi nhau qua lại, rồi từ tốn nói tiếp:
- Đúng là 1 + 1 = 2 là do con người tạo ra, thuộc về lâu đài toán học, nên nó phải tồn tại ảo. Nhưng không hẳn thế, nguồn gốc phát sinh ra nó cũng có phần, và là phần quyết định của thực tại khách quan. Biết nói thế nào cho phải nhỉ? Có lẽ,khi nó thuần túy là biểu tượng trong suy nghĩ con người, nó là tồn tại ảo. Nhưng khi nó được tạo hình qua in ấn, khắc tạc đâu đó trong lưu giữ, truyền đạt..., thì nó tồn tại thật. Hì,hì...!Hì... - Ông A bụm miệng, cười một tràng dài, vẫn không ngưng nói và hình như đã bắt đầu nói...lung tung - Chắc chắn, biểu thức 1 + 1 = 2 phải là qui ước của con người rồi. Nhưng qui ước ấy có được là nhờ có sự phản ánh từ hiện thực, tức thực tại khách quan. Vấn đề là sự phản ánh ấy có phải là phản ánh về một chân lý phổ biến trong hiện thực khách quan hay không? thật là ngạc nhiên khi câu trả lời là không! Nếu ta hỏi bất kỳ ai, một cộng với một là mấy, thì mọi người trả lời ngay tức khắc như một bản năng: "Bằng hai chứ mấy! Các ông làm sao thế, điên à?". Ấy vậy mà không phải vậy. Sự thực thì nếu không có con người, biểu tượng ấy không hề tồn tại trong hiện thực. Đố ai tìm được 1 hoặc 2 trong thực tại khách quan!? Khi con người quan sát thế giới xung quanh, họ thấy điều tưởng chừng hiển nhiên và đúc kết rằng, cứ gom hai vật bất kỳ gọi là hai cái đơn nhất thì được hai vật gồm hai cái đơn nhất, và từ đó họ xây dựng nên biểu tượng tổng quát. Nhưng biểu tượng ấy đâu phải là một chân lý phổ biến? Thí dụ: "1 thiên hà (một cái đơn nhất) cộng 1 con ruồi (một cái đơn nhất) bằng 2 cái đơn nhất. Nó không thể bằng 2 trong thực tại, vậy nó bằng gì?". Về hình thức nó phải tương đương với "1 quả táo + 1 quả táo = 2quả táo = 2 cái đơn nhất", nhưng trong thực tại chúng không thể bằng nhau mà khác nhau xa lắc. Hay 1 giọt nước + 1 giọt nước = bao  nhiêu? Trả lời: không thể dứt khoát bằng mấy, có thể bằng 1 cái đơn nhất và bằng hai về lực lượng.
 Đấy, với những thí dụ tầm thường và đơn sơ về toán học, tôi đã chỉ cho "các bác" thấy toán học mô tả thực tại khách quan mất chính xác đến cỡ nào (!). Có thể nói, toán học ra đời là do nhận thức về cuộc sống đòi hỏi,  để thỏa mãn sự thêm, bớt, tích lũy, phân chia về lượng trong quá trình mưu sinh. Nếu chỉ có vậy thôi, thì toán học đã hoàn thành sứ mạng của nó từ lâu. Tuy nhiên, sự "nghĩ" của con người lại đi liền với "suy", tức là đi liền với suy tư trừu tượng nên toán học tiếp tục phát triển hòng cố gắng mô tả thực tại khách quan theo tưởng tượng chủ quan của mình và vì thế mà cho đến nay, nó đã thành một lâu đài hoang tưởng vĩ đại, mô tả một cách "phi hiện thực" về hiện thực khách quan! Anhxtanh đã nói một câu sâu xa mà tối nghĩa: "Qui luật toán học càng liên hệ với thực tế càng không chắc chắn, và càng chắc chắn thì càng ít liên hệ với thực tế". Để rõ nghĩa hơn và thậm chí để đúng hơn, có lẽ nên thế này: "Toán học là thành quả kết hợp giữa Tự Nhiên gợi ý và theo đó mà sáng tạo ra của loài người, nó trở thành một công cụ độc nhất vô nhị, hợp lý một cách đáng ngờ trong thực tiễn ứng dụng, và tỏ ra phi lý một cách lôgic trong tìm hiểu Vũ Trụ"!
-Nói như anh A thì toán học hiện nay là một đống khổng lồ những kết quả sai lầm được rút ra từ quan sát thế giới tự nhiên của con người. Nói như thế thì tại sao toán học vẫn được con người ứng dụng hiệu quả trong đời sống và nghiên cứu khoa học cả ngàn năm nay, tại sao nó không bị loại bỏ hoặc điều chỉnh cho đúng đắn hơn mà vẫn đang tồn tại và phát triển ngày càng đồ sộ hơn nữa? Thật không thể tin được! Rõ ràng, quan niệm về toán học của anh A đã sai lầm hoàn toàn, có thể gọi là "tối phản động". -Ông C mỉm cười chế nhạo, lên tiếng phủ định ông A.
Ông B tiếp lời:
-Chí ít thì anh A nói đúng điều này: lâu đài toán học ngày nay được xây dựng nên từ nhiều quan niệm về tự nhiên chưa hoàn hảo (hoặc những quan niệm... không thể hoàn hảo được!)! Trong tình hình như vậy, toán học lại đóng vai trò tương tự như triết học (thậm chí là quyết định) đối với khoa học trong việc giảng giải Vũ Trụ, là công cụ không thể thay thế được cho các quá trình giải thích sự vận động, chuyển hóa về lượng của các sự vật-hiện tượng trong khoa học được triển khai, do đó dẫn đến các ngành khoa học có liên quan tới toán học cũng có kết quả khám phá lầm lạc về thế giới khách quan, về Vũ Trụ. Chẳng hạn, để đưa ra thuyết tương đối rộng, Anhxtanh đã phải cầu cứu đến toán học (chứ còn cách nào khác đâu!?), những nhận thức mới về không- thời gian, về hình học hiện đại, về tenxơ...Nhưng thử hỏi những nhận thức ấy, dù không trái với lôgic trong tưởng tượng của con người, thì đã phản ánh chính xác thực tại khách quan như là vốn có chưa? Không gian thực tại chính xác là chỉ có ba chiều hay là có n chiều? Trong toán học, tư duy trừu tượng làm hình thành nên không gian vectơ. Song trong thực tại khách quan, làm gì có "thứ" không gian ấy? Tôi đồng thuận với anh A cho rằng phương trình tổng quát của thuyết tương đối rộng đã sai vì nó dựa trên tưởng tượng toán học còn lầm lạc!
-Thật là "gan cùng mình" anh B ạ! Mới nghe anh A "thuyết giáo", dù có hấp dẫn đấy, nhưng vẫn chưa biết ất giáp thế nào mà đã vội phủ định một học thuyết của nhà vật lý học vĩ đại, đã được nhiều sự kiện chứng thực, đã được hầu hết các nhà khoa học trên thế giới thừa nhận, thì có quá vội vàng không? -Tôi nêu ý kiến phản biện.
Ông A đang nhìn ông B lom lom, quay phắt sang nhìn tôi chăm chú nhưng lạc hồn:
- Quá lạ lùng! Và điều lạ lùng nhất phải chăng là sự tư duy trừu tượng ở con người? Nhà vật lý Anhxtanh nói: "Điều khó hiểu nhất là hiểu được Vũ Trụ". Câu nói đó đúng hay sai? Có lẽ phải nói ngược lại mới hợp lý chăng? Toán học đã được sinh ra từ tư duy trừu tượng. Ban đầu nó đã tỏ ra là một công cụ ứng dụng tuyệt hảo cho đời sống. Nhưng chính tư duy trừu tượng (một cách tất yếu!) đã làm cho toán học xa dần cuộc sống, đi vào thế giới hoang đường. Nhưng con người chỉ có toán học là phương tiện duy nhất, có một không hai để định lượng những vận động, chuyển hóa trong Vũ Trụ, mà toàn  bộ khoa học tự nhiên-xã hội ngày nay của con người không thể không sử dụng nó, và vì thế mà loài người bị đẩy vào thế giới hoang đường, dẫn đến nhận thức của họ về thực tại khách quan dần sai lạc và hão huyền mà không hay biết! Phải khẳng định rằng, Vũ Trụ không biết làm toán, thế nhưng một quá trình chuyển hóa nào đó trong Vũ Trụ, thì bao giờ cũng được thực hiện một cách chóng vánh và trọn vẹn (nguyên) như vốn dĩ, ấy vậy mà toán học phải dùng biết bao nhiêu phép tính với vô vàn giả sử vẫn "bó tay" hoặc đưa ra kết quả ảo huyền: số vô tỷ! Vì sao các hằng số Vũ Trụ mà con người đã khám phá ra được đều vô tỷ, Vũ Trụ vô tỷ hay hữu tỷ? Không gian Vũ Trụ thực chất có cấu trúc ơclít hay phi ơclít? Bản chất không gian Vũ Trụ vi mô có khác không gian Vũ Trụ vĩ mô?...Tại sao một đoạn thẳng khi đứng một mình thì hoàn toàn xác định, có số đo là nguyên, nhưng khi hợp với hai đoạn thẳng khác lập nên một tam giác vuông thì (thường) trở thành vô tỷ? Chúng ta quan niệm thế nào về đoạn thẳng vô tỷ?
-Thế thì theo anh A, phải sửa chữa lại lâu đài toán học thậm chí là xây dựng lại một lâu đài toán học khác để giải thích Vũ Trụ đích đáng hơn chăng? Nhưng làm thế nào? -Ông C chất vấn.
-Có lẽ phải vậy thôi! Chí ít cũng phải bổ xung thêm bằng những lời giải thích dài dòng. chứ đâu còn cách nào khác đâu? Trong toán học ngày nay vẫn tồn tại rất nhiều phi lý sơ đẳng về qui ước đối với thực tại khách quan, như tại sao qui ước phương trình toán học có thể có nhiều nghiệm khi trong thực tại khách quan các quá trình xảy ra chỉ theo một cách duy nhất, hay như để mô tả một loại hiện tượng tương phản của thực tại, người ta qui ước số âm số dương, nhưng tại sao có thể lũy thừa bậc chẵn của một số âm lại có kết quả là số dương?... Điều cần nhấn mạnh là từ việc tư duy trừu tượng làm cho toán học thấm đẫm hoang tưởng huyễn hoặc dẫn đến bức tranh miêu tả Vũ Trụ mà vật lý học vẽ nên bằng "cây cọ vẽ" toán học tất nhiên cũng gây ra những hoài nghi về mức độ chính xác trong mô tả thực tại khách quan. Chúng ta biết phương trình cơ bản của thuyết tương đối rộng chỉ thị về một Vũ Trụ giãn nở. Nghĩa là nó thừa nhận có Hư Vô. Nhưng làm sao có Hư Vô được khi thực tại khách quan là một thế giới "lấp đầy" Tự Nhiên Tồn Tại? (Nhắc lại: Tồn Tại là tuyệt đối thể hiện, Hư Vô là tuyệt đối không thể hiện. Nếu thế, làm sao nhận biết được Hư Vô? Vì Hư Vô buộc phải thể hiện "bên cạnh" Tồn Tại rằng nó Hư Vô, nghĩa là nó cũng Tồn Tại. Vậy, chỉ có Tồn Tại!). Mặt khác, tại sao lại xây dựng nên tenxơ năng-xung lượng trong khi trong thực tại, làm gì có đại lượng thể hiện lẫn lộn như vậy, chỉ có thể hoặc là năng lượng, hoặc là xung lượng. Suy ra thuyết tương đối rộng là sai lầm!...
Có lẽ đã hết hơi, ông A đột nhiên "tắt đài", không rao giảng nữa! Thế là mọi người trong bàn nhậu uống thêm vài ly, góp vui vài chuyện bâng quơ nữa, rồi giải tán. Tôi cũng đứng dậy, chào mọi người, rồi ra về. Giữa ngổn ngang những câu hỏi trong lòng bỗng hiện lên một suy nghĩ gần như chân lý: "Trong quá trình mưu sinh của con người, toán học tất nhiên xuất hiện. Khi đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ của mình trong phạm vi thực tiễn ứng dụng, do tính tò mò của tư duy trừu tượng, nó tiếp tục bay bổng vi vu, dần xa rời thực tại, lạc vào cõi hoang đường, phi lý. Rồi đây, vật lý học phải đính chính rất nhiều, nếu muốn sử dụng nó làm ngôn ngữ giải thích Vũ Trụ".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét