Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 157

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
CƠ CHẾ TỰ SỬA CHỮA CỦA CƠ THỂ VÀ GIẢI NOBEL Y HỌC 2016-BSHOANGHIEP

Những phát minh vĩ đại đạt giải Nobel Y học

Giải Nobel Y học từng được trao cho nghiên cứu chữa sốt rét, tiểu đường, bệnh nhiễm khuẩn, mang đến sự ra đời của thụ tinh ống nghiệm và hy vọng cho các bệnh nhân ung thư.
Cơ chế truyền bệnh sốt rét 
Nhà khoa học Ronald Ross bắt đầu nghiên cứu về bệnh sốt rét năm 1892 tại Ấn Độ. Phát hiện của ông về ký sinh trùng sốt rét trong ống tiêu hóa của một con muỗi năm 1897 đã chứng minh rằng sốt rét do muỗi truyền bệnh, đặt nền móng cho phương pháp chống lại căn bệnh này. Sau 5 năm dày công nghiên cứu, Ronald Ross khám phá bản chất ký sinh của muỗi truyền bệnh sốt rét, được trao giải Nobel Y học năm 1902.
Phương pháp chữa bệnh tiểu đường
Năm 1921, Frederick Grant Banting và Charles Best đã chứng minh một chất gọi là trypsin ngăn chặn sự sản sinh insulin trong tuyến tụy. Các nhà khoa học biết rằng thiếu hụt insulin là nguyên nhân gây bệnh tiểu đường, tuy nhiên không thể tìm ra phương pháp để ngăn tình trạng này. Trong phòng thí nghiệm, Frederick và Charles đã chiết xuất thành công insulin từ chó để điều trị bệnh tiểu đường ở người.
Đầu năm 1922, bệnh nhân tiểu đường Leonard Thompson 14 tuổi, đang hôn mê được hai ông Frederick Grant Banting và Charles Best thử nghiệm tiêm insulin. Bệnh nhân hồi phục nhanh chóng, kéo dài cuộc sống thêm 13 năm nữa. Frederick và Charles đã ủy nhiệm quyền sáng chế cho một ủy ban thuộc trường Đại học Toronto, không nhận bất kỳ nguồn lợi nào. Liệu pháp insulin hiện được thế giới sử dụng rộng rãi để điều trị tiểu đường.
Frederick Banting, khi đó 32 tuổi, trở thành người trẻ nhất được nhận giải Nobel Y học năm 1923. 
Phân loại nhóm máu
Giữa những năm 1900, việc truyền máu không được thực hiện do máu của người truyền và người nhận không tương thích. Năm 1901, Karl Landsteiner đánh dấu mốc đáng nhớ trong lịch sử y học khi phát hiện 3 nhóm máu A, B, O, được phân loại bởi các kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu. Khám phá của Karl về các nhóm máu đã loại bỏ rủi ro lớn trong quá trình truyền máu. Bảy năm sau phát hiện của Karl, ca truyền máu đầu tiên được thực hiện thành công tại New York (Mỹ). Karl Landsteiner được mệnh danh là "cha đẻ của ngành miễn dịch học", được vinh danh tại giải Nobel Y học năm 1930.
Karl Landsteiner dùng máu của chính mình để thí nghiệm. Ảnh: ThoughCo
Karl Landsteiner dùng máu của chính mình để thí nghiệm. Ảnh: ThoughCo
Quy luật di truyền liên kết giới tính 
Nhà sinh lý học, di truyền học Thomas Hunt Morgan được xem là "cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại", là nhà khoa học đầu tiên sử dụng ruồi giấm trong nghiên cứu di truyền. Sau khi nghiên cứu hàng chục vạn con ruồi giấm, ông đưa ra khái niệm về gene, lập được bản đồ phân bố gene trên các nhiễm sắc thể. 
Tên tuổi của Thomas Hunt Morgan đi liền với tên tuổi Gregor Mendel, những người tiên phong trong ngành di truyền học.
Năm 1933, Thomas Hunt Morgan được vinh danh tại giải Nobel Y học nhờ khám phá ra vai trò của nhiễm sắc thể đối với di truyền.
Khám phá về Penicillin
Alexander Fleming từng đặt đĩa petri chứa đầy vi khuẩn trên bàn làm việc tại bệnh viện và tình cờ phát hiện có một loại nấm mốc phát triển xung quanh, ngăn chặn sự sinh sôi của vi khuẩn. Nhờ phát hiện này, ông khám phá ra Penicillin - một chất có trong các tế bào nấm mốc, giết chết hoặc làm gián đoạn sự sinh sôi của vi khuẩn.
Giữa năm 1940, Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey cùng với các đồng nghiệp bào chế thành công một dạng Penicillin tinh khiết. Đây là loại thuốc kháng sinh đầu tiên con người sử dụng, hiện được sử dụng rộng rãi trong y học hiện đại. 
Alexander Fleming, Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey cùng nhận giải Nobel Y học năm 1945. 
Thụ tinh trong ống nghiệm
Patrick Steptoe và Robert G. Edwards đã tìm ra giải pháp cho những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn muốn có con. Robert Edward đề xuất phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), cho trứng thụ tinh với tinh trùng ở bên ngoài cơ thể và cấy phôi thu được vào tử cung người mẹ. Phương pháp IVF khi đó đã vấp phải làn sóng phản đối dữ dội từ dư luận, cho rằng phá vỡ các chuẩn mực đạo đức xã hội. 
11h47 đêm 25/7/1978, khi cô bé Louise Brown chào đời tại Bệnh viện Oldham nhờ thụ tinh nhân tạo, phương pháp IVF mới chính thức đặt dấu mốc thành công. Xác suất thụ thai thành công bằng kỹ thuật IVF là 20%, tương đương xác suất thụ thai tự nhiên.
Năm 2010, Patrick Steptoe và Robert G. Edwards được trao giải Nobel Y học.
Patrick Steptoe và Robert G. Edwards. Ảnh: Semantic Scholar
Robert G. Edwards (trái) và Patrick Steptoe. Ảnh: Semantic Scholar
Liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư
James P. Allison nhận ra khi giải phóng tế bào miễn dịch có thể kích thích khả năng tấn công các khối u, do đó đã nghiên cứu một loại protein hoạt động như chất kìm hãm hệ miễn dịch. Ông phát triển ý tưởng này thành hướng tiếp cận mới để điều trị cho bệnh nhân ung thư.
Nhà khoa học Tasuku Honjo cũng phát hiện một loại protein ở tế bào miễn dịch hoạt động như chất ức chế nhưng có cơ chế hoạt động khác. Các phương pháp điều trị dựa trên phát hiện của ông rất hiệu quả trong việc chống lại ung thư.
Công trình của 2 nhà khoa học giành giải Nobel Y học năm 2018. Liệu pháp miễn dịch mang lại hy vọng cho con người khi ung thư đang cướp đi hàng triệu sinh mạng mỗi năm.
Lê Hằng (Theo Mirror Review)


Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ 'độc' nhất trong lịch sử nhân loại

Đức Khương |

Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ 'độc' nhất trong lịch sử nhân loại

Cho đến bây giờ, mọi người vẫn không biết những chất độc này đến từ đâu và mọi người biết đến người phụ nữ này qua cái tên "Toxic Lady".

Tất cả mọi chuyện được bắt đầu từ một bà nội trợ ở quận Riverside, California, Hoa Kỳ. Gloria Ramirez là mẹ của hai đứa trẻ và họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau cho tới năm 1994, cô được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung.
Lúc đó, Gloria mới chỉ 30 tuổi và được sử dụng phương pháp hóa trị tại nhà để kéo dài sự sống thêm vài năm nữa.
Nhưng mọi chuyện lại chẳng hề êm đẹp như vậy, ngày 19/2 sức khỏe của cô bắt đầu bất ổn với tình trạng khó thở, nhịp tim giảm và thậm chí không thể trả lời những câu hỏi đơn giản một cách mạch lạc.
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 1.
Gloria - người phụ nữ "độc" nhất trong lịch sử nhân loại.
Đến 20h15, cô được đưa tới bệnh viện địa phương (Trung tâm y tế khu vực quận Riverside) để điều trị khẩn cấp.
Nhưng tại thời điểm cô được đẩy vào phòng cấp cứu, cô không ngờ rằng mình sẽ trở thành bệnh nhân "độc" nhất trong lịch sử nhân loại chỉ trong nửa giờ tới.
Nhận thấy tình trạng nguy kịch của bệnh nhân, các nhân viên y tế đã tiêm cho Gloria một số loại thuốc an thần và chống co giật để giúp cho cơ thể người bệnh ổn định.
Nhưng mọi cố gắng cấp cứu dường như dần đi vào ngõ cụt khi nhịp tim của cô chẳng hề ổn định trở lại. Lúc này, lựa chọn duy nhất là quyết định dùng sốc điện để kích thích nhịp tim đang ngày càng chậm dần.
Tuy nhiên, khi quần áo của Gloria được cởi ra và cú sốc điện đã được chuẩn bị, những điều kỳ lạ lúc này mới bắt đầu.
Những sự kiện lạ lùng
Khoảnh khắc sau khi sốc điện cho Gloria Ramirez, mọi người đều nhận thấy rằng làn da trần của cô ấy sáng bóng, lấp lánh như dầu. Hơn nữa, các bác sĩ trong phòng cấp cứu còn ngửi thấy một mùi khó chịu giống như trái cây thối trộn với tỏi thoát ra từ miệng của cô.
Sau đó, các nhân viên y tế sống xung quanh Gloria ngất đi từng người một theo một cách khó hiểu nào đó.
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 2.
Hàng loạt bác sĩ, nhân viên y tế đã bị ngất xỉu khi cấp cứu cho Ramirez.
Người đầu tiên ngã xuống là một nữ y tá tên Susan Kane, người chịu trách nhiệm giúp Gloria Ramirez lấy máu. Trong quá trình rút máu, cô ngửi thấy mùi amoniac và nhận thấy một số hạt không xác định màu trắng xám trôi nổi trong các mẫu máu thu thập được.
Vừa đưa ống nghiệm chứa máu của nữ bệnh nhân cho bác sĩ, y tá Susan Kane đột nhiên ngất xỉu. Một lúc sau, bác sĩ Julie Gorchynski cũng cảm thấy nôn nao và ngất sau đó ít phút.
Người bị đột ngột ngất thứ ba chính là nhân viên hồi sức Maureen Welch vừa cấp cứu cho Gloria Ramirez trước đó.
Sau khi ngất xỉu ba người liên tiếp, mọi người bắt đầu cảm thấy có điều gì đó không ổn, dù chưa thể xác định rõ nguyên nhân gây ra tình trạng ngất xỉu liên tiếp của những bác sĩ có "dính dáng" đến Gloria, các bác sĩ và đội phản ứng khẩn cấp đã nhanh chóng phong tỏa bệnh viện và sơ tán tất cả những bệnh nhân khác ra ngoài bãi đỗ xe.
Do sợ lây lan hóa chất độc hại từ phòng cấp cứu, tất cả các nhân viên y tế đã phải cởi bỏ quần áo bên ngoài và niêm phong trong túi nhựa.
Mặc dù Gloria Ramirez nằm trong phòng cấp cứu trông rất nguy hiểm nhưng bệnh viện vẫn chưa từ bỏ việc điều trị, vẫn còn những bác sĩ kỳ cựu của bệnh viện vào trong phòng để tiếp tục nhiệm vụ cứu chữa cho nữ bệnh nhân kỳ lạ này.
Tuy nhiên, vào lúc 20h50, Gloria Ramirez đã qua đời do suy thận sau rất nhiều cố gắng xen lẫn mạo hiểm của các bác sĩ bệnh viện General Hospital. Cơ thể cô nhanh chóng được đưa vào một quan tài nhôm kín và niêm phong.
Nhưng những điều kỳ lạ chưa dừng lại ở đó, Sally Balderas, y tá chịu trách nhiệm đẩy thi thể nữ bệnh nhân vào phòng cách ly cũng nhanh chóng bị ngất đi rồi 23 trong số 37 nhân viên phòng cấp cứu xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, nôn, chóng mặt, khó thở, bỏng da và ngất xỉu.
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 3.
Ramirez được thông báo đã tử vong. Nguyên nhân cái chết được cho là suy thận vì ung thư.
Sau vụ việc, hiện trường nhanh chóng bị phong tỏa, Sở Y tế bang California đã cử hai tiến sĩ Ana Maria Osorio và Kirsten Waller đến bệnh viện General Hospital để làm rõ vụ việc.
Các nhân viên y tế tăng ca tối hôm 19/2 đều lần lượt được phỏng vấn và có chung những triệu chứng như chóng mặt, hoa mắt, khó thở và buồn nôn, đối với những người tiếp xúc với Gloria họ bị nặng hơn và ngất xỉu.
Nhưng khi xét nghiệm máu và kiểm tra phòng cấp cứu, kết quả cho thấy hoàn toàn bình thường và không có bất cứ điều gì bất thường.
Sau đó, phạm vi kiểm tra đã được mở rộng ra toàn bộ bệnh viện, nhưng không tìm thấy hóa chất độc hại nào.
Một tuần sau, xác của Gloria được tiến hành khám nghiệm tử thi, tuy nhiên, đây không phải là khám nghiệm tử thi thông thường.
Bởi vì cơ thể Gloria sau khi chết vẫn liên tục giải phóng ra những khí lạ, thậm chí các nhà bệnh lý đeo mặt nạ phòng độc.
Nó giống như cảnh trong những bộ phim khoa học viễn tưởng. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra lại không cho thấy điều gì bất thường.
Trong giấy chứng tử của Gloria, người ta viết đơn giản rằng "giai đoạn cuối của ung thư cổ tử cung dẫn đến suy thận và rối loạn nhịp tim".
Hơn nữa, nhà nghiên cứu bệnh học không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào cho thấy cơ thể cô bị nhiễm chất độc hại.
Trước khi chôn cất, các nhà nghiên cứu bệnh học đã thực hiện tổng cộng ba lần kiểm tra giải phẫu trên cơ thể của Gloria.
Mô cơ thể của cô được gửi đến hơn 20 phòng thí nghiệm để thử nghiệm, nhưng không ai trong số họ tìm thấy bất kỳ manh mối nào.
Tất cả những kết quả đều chỉ ra rằng chỉ có hàm lượng Methylsulfonylmethane (DMSO2) vượt quá tiêu chuẩn, tuy nhiên, điều này lại không hề độc hại chút nào.
Những giả thuyết
Giả thuyết đầu tiên được đưa ra đó là, toàn bộ nhân viên y tế ca cấp cứu ngày 19/2 đã bị mắc hội chứng "rối loạn phân ly tập thể" (Mass Hysteria) nên đã tưởng tượng ra các dấu hiệu kỳ lạ trên cơ thể bệnh nhân.
Giả thuyết này ban đầu có vẻ hợp lý, vì hội chứng này xảy ra chủ yếu ở các nhóm người chịu áp lực cao và các nhóm có chất lượng tâm lý yếu.
Theo lẽ thường, không có gì lạ khi nhân viên y tế phải chịu nhiều áp lực cao hơn so với người bình thường.
Nhưng trên thực tế, hội chứng này sẽ hết sau khi điều trị tâm lý, nhưng nữ bác sĩ Julie lại chứng minh giả thuyết này hoàn toàn sai lầm bởi sau khi tiếp xúc với Gloria, cô đã phải sống tại đơn vị chăm sóc đặc biệt bên trong bệnh viện.
Bên cạnh đó là các vấn đề nghiêm trọng về hô hấp, viêm gan, viêm tụy... Ngoài ra, cô không thể di chuyển vì hoại tử apoptotic dưới đầu gối.
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 4.
Ramirez đã sử dụng dung môi dimethyl sulfoxide (DMSO) để giảm đau trong một thời gian dài. Từ đó, một lượng DMSO đáng kể đã tích tụ trong cơ thể Ramirez và không thể đào thải ra bên ngoài.
Vì vậy, nữ bác sĩ và các nhân viên y tế khác là nạn nhân đã đưa bệnh viện ra tòa. Đồng thời, Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore (LLNL) cũng bắt đầu một cuộc điều tra chuyên sâu.
Các nhà nghiên cứu tập trung vào sự dư thừa Methylsulfonylmethane (DMSO2) được phát hiện trước đó. Tại sao lại có hàm lượng dimethyl sulfone cao như vậy ở Gloria?
LNL phát hiện ra là Gloria Ramirez thường sử dụng thuốc giảm đau ung thư dimethyl sulfoxide (DMSO) và họ đã đặt ra một giả thuyết là có một lượng DMSO tích tụ trong cơ thể Ramirez do cô bị bí tiết niệu, điều mà các bác sĩ phát hiện sau này.
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 5.
Dimethyl Sulfate (DMSO4), một loại khí cực độc và có thể thay thế cho vũ khí hóa học.
Do không thể tự đào thải trong một thời gian dài DMSO trong cơ thể cô đã phản ứng với oxy trong cơ thể để tạo ra DMSO2.
Và trong phòng phẫu thuật, máu của Gloria được Susan lấy ra đã kết tinh trong nhiệt độ phòng (18 độ C), điều này lý giải được các tinh thể nhỏ được thấy trong máu.
Đồng thời khi các bác sĩ sử dụng sốc điện để kích thích tim đã khiến cho DMSO2 trong cơ thể của nữ bệnh nhân này thành DMSO4 - Dimethyl sulfat - một hóa chất khủng khiếp đã được liệt kê là hóa chất thay thế cho vũ khí hóa học .
Chỉ một miligam không khí được chứa trong một mét khối không khí và con người sẽ chết khi tiếp xúc trong 10 phút. Ngộ độc có thể gây co giật, co giật, hôn mê và làm chậm tổn thương thận, gan và tim.
Nhưng trên thực tế, trong số 20 triệu chứng được báo cáo, chỉ có buồn nôn và nôn không phải là triệu chứng phơi nhiễm Dimethyl sulfate. Hơn nữa DMSO2 trong máu sẽ lập tức bay hơi khi được mang ra ngoài cơ thể nên không thể giải thích cho hiện tượng của nữ bác sĩ Julie.
Cho tới nay, khoa học vẫn chưa thể giải thích một cách trọn vẹn về cái chết của Gloria cũng như những hiện tượng mà nhân viên y tế mắc phải
Những bí ẩn xoay quanh câu chuyện về nữ bệnh nhân và những biểu hiện kỳ lạ của các nhân viên y tế cấp cứu ngày hôm đó đã được ghi rõ trong tập hồ sơ X-files có tên "Toxic Lady".
Bí ẩn chưa được giải đáp về người phụ nữ độc nhất trong lịch sử nhân loại - Ảnh 6.
Có giả thuyết cho rằng bên trong bệnh viện có tồn tại một phòng thí nghiệm bí mật để sản xuất trái phép ma túy đá.
Một giả thuyết khác cũng được đưa ra đó là có thể có một phòng thí nghiệm bí mật để sản xuất trái phép methamphetamine (ma túy đá) trong bệnh viện.
Vào ngày xảy ra vụ việc, các nhân viên y tế đã dùng túi truyền tĩnh mạch có thể chứa đầy methylamine tiền chất sản xuất methamphetamine để truyền vào cơ thể cô và dẫn đến những hiện tượng lạ cũng như mùi khó chịu khiến cho các nhân viên y tế bị "sốc thuốc".
Ngoài ra cũng có nhiều người cho rằng Gloria Ramirez trước đó đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc và thí nghiệm, tiêm những chất lạ vào trong cơ thể.
Nhưng dù là với giả thuyết nào đi chăng nữa thì cho đến nay, sự kiện ngày 19/2/1994 vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong ngành y thời hiện đại.
theo Trí Thức Trẻ

Những ứng viên sáng giá cho giải Nobel Y học 2019

Các nghiên cứu về di truyền học được dự đoán chiến thắng giải năm nay. Miễn dịch học, ung thư, bệnh truyền nhiễm có ít cơ hội hơn. 
Giải Nobel Y học đã được trao 216 lần từ năm 1901 đến 2018. Năm nay, giải sẽ được công bố ngày 7/10. 
David Pendlebury đến từ Clarivate Analytics từng dự đoán chính xác hơn 50 công trình nghiên cứu đoạt giải Nobel sau khi phân tích đánh giá từ các nhà nghiên cứu. 
Năm nay, công trình nghiên cứu về đường truyền tín hiệu Wnt của nhà bác học Hà Lan Hans Clevers, Đại học Utrecht, được David dự đoán là một trong những nghiên cứu giành chiến thắng tại lễ trao giải. 
John Kappler và Philippa Marrack từ Trung tâm Y tế Quốc gia Do Thái với phát hiện về dung nạp tế bào T, cơ chế giúp tuyến ức loại bỏ các tế bào T khi bị tấn công. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng, mang đến cho giới y khoa những hiểu biết cơ bản và nâng cao về các bệnh tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp và lupus. 
Giới phân tích cho rằng giải Nobel Y học năm 2018 đã vinh danh liệu pháp miễn dịch học trong điều trị ung thư, vì vậy rất có thể phải mất hơn một thập kỷ nữa những nghiên cứu về miễn dịch học mới được trao giải. Đây là tin buồn cho Jacques Miller, người khám phá ra chức năng của tuyến ức và chứng minh các tế bào miễn dịch bao gồm tế bào T và B vào những năm 1960. 
"Rất nhiều công trình dựa trên kết quả nghiên cứu của Jacques đạt giải Nobel, nhưng chính ông ấy lại chưa được vinh danh lần nào", Phillip Sharp, Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), từng nhận giải Nobel Y học năm 1993, nói.
Nhà khoa học Jacques Miller. Ảnh: University of Melbourne
Nhà khoa học Jacques Miller. Ảnh: University of Melbourne
Các phát minh về phát triển cá thể - sự kết hợp mang tính cách mạng của kỹ thuật di truyền và khoa học thần kinh - có nhiều cơ hội đoạt giải hơn. 
David Allis, Đại học Rockfeller và Michael Grunstein, Viện đại học California,Mỹ, khám phá cách kích hoạt và làm yên lặng gene trong những năm 1990, mở ra những nghiên cứu sau này về biểu sinh. Hai nhà khoa học đã nhận nhiều giải thưởng cho công trình này, trong đó có giải Lasker năm 2018 và Giải Gruber về Di truyền học năm 2016. Rất có thể họ sẽ được xướng tên trong giải Nobel Y học năm nay, đặc biệt kể từ năm 2006 chưa có phát minh nào về biểu hiện gene được trao giải. 
Ngoài ra, khám phá về các RNA không mã hóa quy định biểu hiện gene của Joan Steitz, Đại học Yale, cũng có thể giúp ông trở thành chủ nhân giải Nobel Y học 2019. Joan cũng góp phần tìm ra quá trình bật, tắt gene. 
Ernst Bamberg ở Viện Vật lý sinh học Max Planck, Karl Deisseroth tại Đại học Stanford và Gero Miesenböck thuộc Đại học Oxford, cũng là những cá nhân có phát hiện lớn lao trong lĩnh vực này.
David nhận định có rất nhiều phát minh về phát triển cá thể có cơ hội chiến thắng giải Nobel năm nay. Điều này gây khó khăn cho ban tổ chức giải thưởng. 
Huy hiệu giải Nobel danh giá. Ảnh: Jakarta Post
Huy hiệu giải Nobel danh giá. Ảnh: Jakarta Post
Nhà sinh vật học Jason Sheltzer tại Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor là người luôn theo dõi tính định kỳ của các lĩnh vực đạt giải Nobel qua các năm. Ông đã dự đoán chính xác về giải Nobel Y học năm 2018, với công trình nghiên cứu về liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư của hai nhà khoa học James P. Allison và  Tasuku Honjo. 
Jason cho biết cứ sau 10 hoặc 20 năm, các lĩnh vực như bệnh truyền nhiễm, miễn dịch và ung thư lại giành chiến thắng. Ông dự đoán ba lĩnh vực này sẽ không đạt giải năm 2019.  
Lê Hằng (Theo STAT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét