Thứ Năm, 20 tháng 2, 2020

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 154

ĐC sưu tầm trên NET)
 
Anne Frank, Cô bé luôn sống mãi | Compa Cuộc Đời

Nhật ký của thiếu nữ Do Thái bị phát xít Đức sát hại

Renia Spiegel bắt đầu viết nhật ký vào ngày 31/1/1939 mà không biết rằng ba năm sau mình sẽ qua đời khi vừa bước qua tuổi 18. 

"Tôi muốn nói với ai đó về những nỗi lo lắng và niềm vui hàng ngày của mình, ai đó có thể cảm nhận tâm trạng của tôi, tin tưởng điều tôi nói và không bao giờ tiết lộ bí mật của tôi", Renia giải thích lý do viết cuốn nhật ký từ trang đầu tiên.
Thiếu nữ Do Thái Renia sống cùng em gái Ariana ở nhà của ông bà tại Przemysl, thị trấn nhỏ phía đông nam Ba Lan vào thời điểm bắt đầu viết nhật ký, vài tháng trước khi Thế chiến II bắt đầu. Ở tuổi 15, Renia thầm thương Zygmunt Schwarzer, người cô "gọi yêu" là Zygu, hơn cô một tuổi. Chàng trai này là chủ đề chính trong cuốn nhật ký, với những bài viết bộc lộ cảm xúc đầy e thẹn của một thiếu nữ mới lớn.
Hai người đã trải qua nhiều tháng ngượng ngùng với nhau. Tới tối 20/6/1941, Zygmunt quyết định đẩy mối quan hệ lên một nấc thang mới khi cùng Renia trao nụ hôn đầu. 
"Trời tối, chúng tôi không thể tìm thấy đường và lạc lối. Chuyện xảy ra quá đột ngột, bất ngờ, ngọt ngào và đầy lo sợ. Tôi không nói nên lời và bối rối khủng khiếp. Anh ấy nói: 'Renuska, hãy trao anh một nụ hôn'. Trước khi tôi ý thức được, điều đó đã đến", nhật ký có đoạn.
Nhật ký và ảnh của Renia Spiegel. Ảnh: NY Post.
Nhật ký và ảnh của Renia Spiegel. Ảnh: NY Post.
Hai ngày sau đó, Đức Quốc xã tuyên chiến với Liên Xô, chấm dứt hiệp ước không xâm lược lẫn nhau và đưa quân vào miền đông Ba Lan.
Đối với Renia, khi chiến tranh len lỏi vào cuộc sống thường nhật, tình yêu trở nên cần thiết, mang lại niềm an ủi mà cô vô cùng khao khát. "Số phận thật trớ trêu. Tôi và Zygu không chắc có thể sống sót. Nhưng khi đi dạo cùng anh ấy trên những con phố xa xôi, tôi cảm thấy hạnh phúc", Renia viết trong nhật ký, vài tuần sau nụ hôn đầu.
Renia và cha mẹ của Zygmunt sau đó đều phải đi trốn để tránh bị đưa tới các trại tập trung giam người Do Thái do không có giấy phép lao động. Zygmunt đã tiếp quản cuốn nhật ký của Renia.
Những ngày tiếp theo, Zygmunt nỗ lực trong tuyệt vọng để cứu lấy "ba người quý giá nhất cuộc đời mình", nhưng không thành công. Lính Đức Quốc xã cuối cùng tìm thấy nơi ẩn náu của ba người trên gác xép một ngôi nhà ở Przemysl.
"Ba phát súng! Ba mạng sống ra đi! Định mệnh đã đưa những người thân yêu nhất rời khỏi tôi. Cuộc đời của tôi chấm dứt rồi. Tất cả âm thanh tôi có thể nghe thấy chỉ là tiếng súng", Zygmunt viết những dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký. Renia bị phát xít Đức bắn chết vào ngày 30/7/1942, chưa đầy hai tháng sau khi cô tròn 18 tuổi.
Zygmunt bị đưa vào trại tập trung Auschwitz nhưng vẫn sống sót. Hiện chưa rõ cách ông cất cuốn nhật ký trước khi bị đưa vào trại và làm thế nào ông lấy lại được nó vào những năm 1950. 
Sau khi thoát khỏi Auschwitz, Zygmunt tìm đường tới New York, nơi mẹ và em gái của Renia sinh sống và trao cuốn nhật ký cho họ. Ariana, em gái của Renia, đã đổi tên thành Elizabeth Bellak và hiện 88 tuổi. Bà cất cuốn nhật ký trong một hộp ký gửi an toàn suốt nhiều thập kỷ bởi không đủ can đảm để đọc.
"Renia đảm nhiệm thay vai trò mẹ chúng tôi khi bà ấy ở xa. Mỗi khi mở cuốn nhật ký tôi đều khóc vì có quá nhiều cảm xúc", bà Bellak cho biết, kể thêm rằng Renia yêu thích sáng tác thơ và đã giành được nhiều giải thưởng trước chiến tranh. 
Alexandra Renata Bellak, con gái của bà Bellak, là người nhận ra giá trị của cuốn nhật ký. Hồi năm 2014, cô tới gặp đạo diễn người Ba Lan Tomasz Magierski và nhờ ông giúp tìm kiếm một nhà xuất bản. Ông không những giúp Alexandra xuất bản sách, mà còn sản xuất một phim tài liệu có tên "Những giấc mơ tan vỡ" dựa trên cuốn nhật ký. Bộ phim được công chiếu tại một rạp ở Ba Lan hôm 18/9. Toàn bộ 700 trang nhật ký cũng đã được xuất bản tại 13 quốc gia, trong đó có Anh, Đức, Nga và Mỹ.
Nhà sử học Alexandra Garbarini, giáo sư tại Đại học Williams, bang Massachusetts, Mỹ, cho biết câu chuyện của Renia khá đặc biệt. "Tài liệu này cho thấy cuộc sống của một thiếu nữ trước và trong chiến tranh, cho tới khi cô phải tới sống ở khu biệt cư của người Do Thái và bị xử tử. Nó vô cùng hoàn hảo", giáo sư giải thích.
Theo nhiều khía cạnh, Renia được coi là đại diện của hàng chục nghìn thiếu nữ sống cùng thời và bị tước đi mạng sống trước khi có thể tận hưởng trọn vẹn tuổi trẻ và mối tình đầu của họ. Cuốn sách về Renia còn được ví như phiên bản khác của Nhật ký Anne Frank, cô gái người Đức gốc Do Thái qua đời trong cuộc tàn sát Holocaust của phát xít Đức.
"Họ là hai người trẻ tuổi đã cứu lấy chính mình khỏi sự khủng khiếp của chiến tranh nhờ tình yêu sâu sắc dành cho nhau", Marcel Tuchman, người kết bạn với cả Renia và Zygmunt trong thời chiến, trả lời phỏng vấn hồi năm 2016.
Ông Tuchman vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với Zygmunt sau khi cả hai bị đưa tới Auschwitz, cùng sống sót và di cư sang Mỹ, nơi họ trở thành bác sĩ. Zygmunt mất năm 1992 ở tuổi 69 và Tuchman qua đời năm 2018 khi 97 tuổi.
Mitchell Schwarzer, con trai của Zygmunt, cho biết cha mình bị ám ảnh bởi cuốn nhật ký khi sao chép ra nhiều bản và đọc chúng suốt hàng giờ. "Vào một ngày nọ ông ấy nói với tôi rằng: 'Nhìn này, đây là nhật ký của mối tình đầu của bố. Chúng ta từng vô cùng gần gũi. Cô ấy là bạn tâm giao của bố'", Mitchell kể lại.
Bà Bellak cho biết Zygmunt từng nói rằng "quá khứ không lùi xa mà hiện diện trong trái tim của chúng ta, cũng như những hành động và bài học chúng ta dạy cho con cháu".
"Zygmunt đã có cuộc hôn nhân hạnh phúc với Gienia, một người Do Thái tới từ Ba Lan khác. Ông ấy không bao giờ quên chị gái tôi", bà Bellak nói.
Ánh Ngọc (Theo NY Times)

Bộ tranh giải phẫu người mang quá khứ đen tối của phát xít Đức

Bộ tranh Giải phẫu Cơ thể người Pernkop rất hữu ích với các bác sĩ, nhưng phía sau nó là quá khứ đẫm máu của phát xít Đức.

Eduard Pernkopf (áo đen) và các họa sĩ. Ảnh: BBC.
Eduard Pernkopf (áo đen) và các họa sĩ. Ảnh: BBC.
Khi bác sĩ phẫu thuật thần kinh Susan Mackinnon từ Đại học Washington ở St Louis cần sự giúp đỡ để hoàn thành một ca phẫu thuật, bà lấy ra một cuốn sách về giải phẫu từ giữa thế kỷ 20.
Nhờ các hình vẽ minh họa thể hiện cơ thể con người theo từng lớp, Mackinnon hoàn thành thành công ca phẫu thuật. Sách mà bà sử dụng là Bộ tranh Giải phẫu Cơ thể người Pernkopf gồm 4 tập, thường được gọi là Atlas của Pernkopf. Nó được nhiều người coi là bộ tranh giải phẫu tốt nhất trên thế giới, cụ thể và sống động hơn bất kỳ cuốn sách nào khác.
Da, cơ, gân, dây thần kinh, các cơ quan và xương được thể hiện tường tận từng chi tiết. Cuốn sách này không dành cho những người yếu tim.
Tuy nhiên, nó không còn được xuất bản, bộ sách đã qua sử dụng được rao bán với giá hàng nghìn USD trên mạng. Mặc dù sách rất có giá trị, ít người trưng bày nó trong phòng khám, thư viện hoặc nhà họ, bởi các bản vẽ trong sách được thực hiện dựa trên việc cắt xẻ thi thể hàng trăm người bị phát xít Đức sát hại.
Nhiều nhà khoa học trăn trở về vấn đề đạo đức khi sử dụng nó. Bác sĩ Mackinnon nói rằng bà cảm thấy không thoải mái với nguồn gốc bộ tranh nhưng nhấn mạnh rằng nó có thể giúp bà cứu người và làm vậy mới đúng là một "bác sĩ phẫu thuật có đạo đức".
Giáo sư luật y tế Rabbi Joseph Polak, người sống sót sau thảm họa diệt chủng người Do Thái Holocaust, gọi cuốn sách là một "ẩn số về đạo đức" vì nó có nguồn gốc từ "tội ác thực sự, nhưng có thể được sử dụng để phục vụ điều tốt".
Cuốn sách này là dự án 20 năm của bác sĩ Eduard Pernkopf, người đã vươn lên nhanh chóng trong hàng ngũ học thuật ở Áo nhờ vào sự ủng hộ với đảng của trùm phát xít Đức Adolf Hitler vào Thế chiến II. Từ năm 1938, Pernkopf luôn mặc đồng phục của Đức quốc xã mỗi khi đi làm. Khi giữ chức chủ nhiệm khoa tại Đại học Vienna, ông ta sa thải tất cả học giả Do Thái trong khoa, bao gồm ba người đoạt giải Nobel.
Năm 1939, phát xít Đức ra luật yêu cầu thi thể tất cả tù nhân bị xử tử ngay lập tức được đưa đến khoa giải phẫu gần nhất để phục vụ mục đích nghiên cứu và giảng dạy. Pernkopf đã dành 18 giờ mỗi ngày mổ xẻ xác chết để một nhóm họa sĩ vẽ lại. 
Một bức vẽ trong Bộ tranh Giải phẫu Cơ thể người Pernkop. Ảnh: BBC.
Một bức vẽ trong Bộ tranh Giải phẫu Cơ thể người Pernkop. Ảnh: BBC.
Bác sĩ Sabine Hildebrandt, từ trường y thuộc Đại học Harvard, cho biết ít nhất một nửa trong số 800 hình ảnh của bộ sách là từ thi thể của các tù nhân chính trị, bao gồm những người đồng tính, người Di-gan, nhà hoạt động chính trị và người Do Thái.
Pernkopf bị bắt sau khi Thế chiến II kết thúc và bị sa thải khỏi trường đại học. Ông ta bị giam tại một nhà tù của quân Đồng minh trong ba năm nhưng không bị buộc tội. Sau khi được trả tự do, ông ta trở lại trường đại học, tiếp tục ra sách và qua đời năm 1955.
Trong lần phát hành sách năm 1937, họa sĩ minh họa Erich Lepier và Karl Endtresser còn lồng ghép biểu tượng phát xít vào chữ ký của mình. Phiên bản tiếng Anh gồm hai tập được xuất bản năm 1964 cũng có chữ ký này. Các phiên bản sau đó đã xóa đi biểu tượng của Đức quốc xã. Hàng nghìn bản của bộ sách được bán trên khắp thế giới và được dịch ra 5 thứ tiếng. Phần giới thiệu mô tả nó gồm "những bức vẽ ấn tượng" mà không đề cập đến quá khứ đẫm máu.
Đến những năm 1990, sinh viên và các học giả mới bắt đầu đặt câu hỏi những cơ thể được khắc họa trong sách là ai. Sau khi lịch sử tàn bạo được tiết lộ, sách bị dừng xuất bản vào năm 1994. Đại học Phẫu thuật Hoàng gia Anh cho biết tài liệu này không được sử dụng ở Anh nhưng được lưu trữ ở thư viện.
Bộ sách được lưu trữ tại thư viện Anh. Ảnh: BBC.
Bộ sách được lưu trữ tại thư viện Anh. Ảnh: BBC.
Tuy nhiên, một cuộc khảo sát trong giới các bác sĩ phẫu thuật thần kinh gần đây cho thấy 59% số người được hỏi biết về sách của Pernkopf, 13% đang sử dụng nó. 69% cho biết họ cảm thấy thoải mái khi sử dụng cuốn sách dù đã biết về lịch sử của nó, 15% không thoải mái và 17% không trả lời.
Bác sĩ Mackinnon cho biết không tài liệu nào có thể sánh ngang độ chính xác và chi tiết của bộ tranh. Nó đặc biệt hữu ích cho các ca phẫu thuật phức tạp vì nó giúp bà "xác định dây thần kinh nào trong số rất nhiều dây chạy quanh cơ thể chúng ta gây ra đau đớn". Tuy nhiên, Mackinnon khẳng định bà luôn đảm bảo những người tham gia vào cuộc phẫu thuật biết về nguồn gốc đen tối của cuốn sách.
Tiến sĩ Jonathan Ives, nhà đạo đức sinh học (nghiên cứu về các vấn đề đạo đức nổi lên từ những tiến bộ trong sinh học và y học) từ Đại học Bristol, đồng ý rằng bộ tranh "chi tiết đến đáng kinh ngạc" nhưng nhấn mạnh rằng nó bị vấy bẩn bởi "quá khứ kinh hoàng".
"Nếu chúng ta sử dụng nó và gặt hái những lợi ích từ nó thì việc này gây cảm giác chúng ta là 'những kẻ đồng lõa", ông nói. "Nhưng bạn cũng có thể lập luận rằng nếu không được sử dụng, bộ tranh sẽ bị quên lãng và nó không thể nhắc nhở chúng ta về những gì đã xảy ra".
Năm ngoái, Rabbi Polak và nhà sử học y tế kiêm bác sĩ tâm thần Michael Grodin đã nghiên cứu và ra kết luận hầu hết giới chức Do Thái cho phép sử dụng bộ tranh này để cứu mạng người, với điều kiện những người liên quan đến quá trình chữa bệnh được thông báo về lịch sử của nó.
"Hãy nhìn vào trường hợp của bác sĩ Mackinnon. Bà ấy không thể xác định được một dây thần kinh dù bà ấy là người giỏi nhất trong ngành. Bệnh nhân nói với bà ấy rằng 'tôi muốn cưa chân nếu bà không thể tìm thấy'. Không ai muốn điều đó xảy ra cả", Polak nói.
"Vì vậy, Mackinnon phải sử dụng đến tài liệu của Pernkopf. Bà tìm thấy dây thần kinh trong vài phút nhờ những bức vẽ", ông nói thêm. "Bà ấy đã hỏi tôi về khía cạnh đạo đức của tình huống này. Tôi trả lời rằng nếu cuốn sách có thể giúp chữa lành cho bệnh nhân và trả lại cho họ cuộc sống thì không có lý gì nó bị cấm sử dụng".
Phương Vũ (Theo BBC)

Những anh hùng không cầm súng trong Thế chiến II

Lão nông Matvey Kuzmin và bác sĩ Desmond Doss là hai trong số nhiều người được tôn vinh là anh hùng dù không bao giờ cầm vũ khí.

Sĩ quan tuyên úy Sampson làm lễ cho binh sĩ thiệt mạng tại Normandy. Ảnh: US Army.
Sĩ quan tuyên úy Sampson làm lễ cho binh sĩ thiệt mạng tại Normandy. Ảnh: US Army.
Không phải anh hùng nào trong Thế chiến II cũng là người đạt thành tích hạ nhiều binh sĩ đối phương. Một số đã tận dụng tài trí, sự hiểu biết môi trường xung quanh và lòng dũng cảm để lập công mà không đụng tới các loại vũ khí sát thương, theo War History.
Chuẩn tướng Francis L. Sampson sinh ngày 29/1/1912 ở Cherokee, bang Iowa, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp đại học Notre Dame năm 1937, ông theo học tại Trường Thánh Paul ở bang Minnesota. Sampson được thụ phong linh mục Công giáo La Mã vào năm 1941.
Sampson nhập ngũ năm 1942 và hoàn thành khóa huấn luyện lính dù, trở thành sĩ quan tuyên úy trong biên chế Trung đoàn số 501 thuộc Sư đoàn lính dù số 101 trong quân đội Mỹ. Ông được coi là một anh hùng trong trận đổ bộ Normandy, Pháp ngày 6/6/1944.
Trong trận này, Trung đoàn 501 có nhiệm vụ đổ bộ xuống thị trấn Carentan gần bờ biển Normandy để hỗ trợ quân Đồng minh. Ông nhảy dù xuống sông Douve dưới cơn mưa đạn của Đức và phải bỏ lại gần hết trang bị để khỏi bị chết đuối. Sau đó, Sampson phải bơi 90 m về vị trí ban đầu và lặn 5-6 lần để lấy lại quân tư trang dưới đáy sông.
Sampson bị bắt ngay tối 6/6 khi đang chăm sóc cho các đồng đội bị thương và không đến được điểm tập kết. Khi sắp bị xử bắn, ông sợ hãi đến mức đọc đi đọc lại lời cầu nguyện trước bữa ăn, thay vì kinh sám hối. Nhờ vậy, một sĩ quan Đức theo Công giáo đã cứu mạng ông. Sampson được đưa đến một căn cứ tình báo, bị thẩm vấn và được thả vì quân Đức đánh giá ông không phải mối đe dọa.
Sampson trở về một trung tâm y tế gần bãi biển Normandy, nơi ông chăm sóc cho cả lính Mỹ và Đức bị thương. Ông được trao tăng Huân chương Danh dự, phần thưởng cao quý nhất của quân đội Mỹ, vì hành động nhân đạo này.
Ngày 19/12/1944, Sampson nhảy dù xuống hậu phương địch ở Hà Lan và bị bắt trong trận Bulge. Ông và các tù binh bị áp giải gần 300 km trong 10 ngày dưới thời tiết lạnh giá về trại giam Stalag II A, phía bắc Berlin. Ngày 28/4/1945, Hồng quân Liên Xô tấn công nhà tù và giải thoát cho các tù binh, trong đó có Sampson.
Bill Millin (đứng) chơi kèn túi cho các đồng đội trước trận đánh. Ảnh: War History.
Bill Millin (đứng) chơi kèn túi cho các đồng đội trước trận đánh. Ảnh: War History.
Bill Millin sinh ngày 14/7/1922 ở Regina, Canada. Ông là nghệ sĩ kèn túi phục vụ trong quân đội Anh, trực tiếp tham gia trận Normandy năm 1944.
Sau khi rời xuồng đổ bộ lên bờ biển Normandy, Millin chạy tới chạy lui trên bờ biển để thổi kèn, bất chấp cơn mưa đạn từ lính Đức. Chỉ huy đơn vị và nhiều đồng đội cho rằng đây là cách tuyệt vời để nâng cao sĩ khí, trong khi nhiều lính Đức lại nghĩ rằng Millin bị điên và không còn nhắm vào ông.
Chiếc kèn túi cuối cùng bị hỏng do trúng đạn, nhưng Millin vẫn chơi nhạc để giúp đồng đội thư giãn suốt trận đánh.
Matvey Kuzmin là một nông dân Liên Xô sinh năm 1858 tại làng Kurakino ở tỉnh Pskov, miền tây nước Nga ngày nay. Ông sống bằng nghề đánh bắt cá và săn bắn.
Khu vực Kuzmin sống bị phát xít Đức chiếm đóng trong Thế chiến II. Quân Đức tìm đến Kuzmin, nhờ dẫn đường để tìm lối tắt xuyên qua phòng tuyến Liên Xô và đánh tập hậu điểm cao gần Kurakino. Ngày 13/2/1942, chỉ huy Đức đề nghị Kuzmin, khi đó đã 83 tuổi, dẫn đường cho một tiểu đoàn đến sau điểm cao Malkino để đổi lấy tiền, bột mì, xăng và một khẩu súng săn.  
Kuzmin đồng ý nhưng bí mật bảo cháu trai đến cảnh báo Hồng quân Liên Xô. Kết quả là binh sĩ Liên Xô tổ chức phục kích, gây thiệt hại nặng cho đơn vị Đức với 50 tên bị tiêu diệt, 20 lính bị bắt sống. Trong lúc giao tranh, một sĩ quan Đức đã phát hiện ra nguyên nhân cuộc phục kích và bắn chết Kuzmin.
Ngày 8/5/1965, Kuzmin được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô vì ngăn phát xít Đức giành chiến thắng quan trọng. Ông là anh hùng nhiều tuổi nhất trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Liên Xô.
Desmond Doss (phải) sau lễ trao Huân chương Danh dự. Ảnh: War History.
Desmond Doss (phải) sau lễ trao Huân chương Danh dự. Ảnh: War History.
Bác sĩ quân y Desmond Doss là người theo chủ nghĩa hòa bình và từ chối đụng vào vũ khí dưới mọi hình thức. Tháng 3/1945, lính Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa và vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Nhật. Sau nhiều ngày giằng co, đơn vị của Doss bị sa lầy và hứng chịu thương vong nặng nề.
Trong một đêm tại vách núi Hacksaw, Doss liên tục bò trên mặt đất suốt 12 tiếng để đưa 75 đồng đội bị thương, gồm cả chỉ huy là đại úy Jack Glove, về tuyến sau chỉ bằng một sợi dây thừng. Anh liên tục phơi mình dưới làn hỏa lực địch, kéo những người bị thương đến nơi an toàn rồi thả họ xuống vách núi bằng một hệ thống ròng rọc.
Doss còn cứu đồng đội bằng cách đá văng một quả lựu đạn, khiến anh bị 17 mảnh kim loại găm ở chân khi quả lựu đạn phát nổ. Doss tiếp tục chăm sóc các đồng đội bị thương trong 5 tiếng rồi mới tự băng bó vết thương.
Năm 1946, Doss được tổng thống Mỹ Harry S. Truman trao Huân chương Danh dự tại Nhà Trắng. "Tôi tự hào về anh vì anh thực sự xứng đáng. Tôi coi đây là vinh dự lớn hơn làm tổng thống", Truman nói với Doss khi trao huân chương.
Duy Sơn

Viện sĩ Liên Xô 88 tuổi vẫn cầm súng ra chiến trường diệt phát xít Đức

Dù đang làm giám đốc một viện nghiên cứu, viện sĩ Morozov vẫn xung phong ra tiền tuyến và dùng khẩu súng bắn tỉa để diệt địch.

Morozov cầm một cuốn sách thiên văn học. Ảnh: YWR.
Viện sĩ Nikolai A. Morozov. Ảnh: YWR.
Nikolai A. Morozov sinh năm 1854 trong gia đình có cha là quý tộc, còn mẹ là nông nô. Sau khi gia nhập phong trào "Dân ý" (Narodnaya Volya), lên kế hoạch và tham gia vụ ám sát Sa hoàng Alexander II vào ngày 1/1/1881, Morozov bị chính quyền Đế quốc Nga kết án 25 năm tù.
Trong thời gian ngồi tù, Morozov tự học 11 ngoại ngữ, nghiên cứu về vật lý, hóa học, thiên văn học cũng như tìm hiểu về toán học, triết học và chính trị. Năm 1905, Morozov được trả tự do trong một đợt ân xá, bắt đầu nghiên cứu khoa học và công bố 26 công trình khoa học khác nhau, theo AIF.
Năm 1910, nghi ngờ Morozov có ý định ám sát Sa hoàng Nicholas II, chính quyền Đế quốc Nga bắt giam Morozov thêm hai lần, khiến ông có tổng thời gian ngồi tù gần 30 năm.
Năm 1918, sau Cách mạng tháng 10, Morozov được bổ nhiệm làm giám đốc Viện Khoa học Tự nhiên P.F. Lesgaft và đảm nhận chức vụ này đến cuối đời. Morozov có số lượng công trình nghiên cứu khổng lồ thuộc 17 lĩnh vực khác nhau như thiên văn học, vật lý, hàng không, vũ trụ, triết học...
Lĩnh vực Morozov đặc biệt quan tâm là hàng không vũ trụ, khi ông chế tạo bộ trang phục đặc biệt trở thành nguyên mẫu cho trang phục vũ trụ Liên Xô sau này. 
Trong thời gian công tác, Morozov hoàn thành các khóa huấn luyện bắn tỉa do lực lượng dân quân tổ chức. Dù phải đeo kính, viện sĩ này vẫn có những phát bắn rất chính xác.
Khi phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô ngày 21/6/1941 khiến nhiều người dân Leningrad thiệt mạng trong những trận pháo kích, Morozov liên tục tới phòng tuyển quân, yêu cầu được ra tiền tuyến. Trước quyết tâm của ông, đại diện Hồng quân nói rằng ông có thể tới mặt trận gần Leningrad để chiến đấu, nhưng chỉ trong một tháng.
Khi viện sĩ Morozov mang theo khẩu súng trường bắn tỉa Mosin Nagant tới trình diện, thiếu tá chỉ huy một tiểu đoàn phòng thủ tại mặt trận Volkhov vô cùng bất ngờ. "Tháng 6 này tôi 88 tuổi. Anh đừng băn khoăn, không ai gọi tôi vào quân đội, tôi tình nguyện. Hãy chỉ cho tôi vị trí bắn được, tôi không cần gì đặc biệt, giống mọi người là được", Morozov nói với tiểu đoàn trưởng.
Sau vài ngày chọn vị trí và hai tiếng phục kích, Morozov dùng khẩu Mosin Nagant bắn hạ một sĩ quan Đức, lập chiến công đầu tiên. Trong khoảng thời gian ngắn ở tiền tuyến, Morozov hạ thêm nhiều lính Đức. Trước khi nổ súng, viện sĩ già tính toán rất cẩn thận đường đạn, đặc biệt trong điều kiện độ ẩm cao.
Sự có mặt của viện sĩ Morozov ở chiến trường khiến những người lính Hồng quân Liên Xô vừa ngạc nhiên, vừa kính phục. Viện sĩ 88 tuổi di chuyển nhanh nhẹn trong chiến hào và cúi người tránh pháo, ăn cùng khẩu phần với những người khác, không than thở dù điều kiện chiến đấu khắc nghiệt.
Viện sĩ Morozov trên cánh đồng. Ảnh: YWR.
Viện sĩ Morozov trên cánh đồng. Ảnh: YWR.
Tin tức về Morozov lan ra khắp mặt trận Volkhov và tới tai chỉ huy quân Đức. Theo lệnh của trùm phát xít Hitler, lực lượng cảnh sát mật Gestapo liệt Morozov vào danh sách những người cực kỳ nguy hiểm với Đức Quốc xã và kết án tử hình vắng mặt. Phát xít Đức săn lùng Morozov, thường xuyên pháo kích các vị trí chúng nghi "xạ thủ - viện sĩ" đang ẩn náu.
Chỉ huy mặt trận ra lệnh ngay lập tức rút Morozov về hậu phương và yêu cầu viện sĩ quay lại tập trung nghiên cứu khoa học. Phản đối nhiều lần không được, Morozov rời mặt trận Volkhov. Ở hậu phương, Morozov nhiều lần đề nghị được trở lại chiến trường làm xạ thủ bắn tỉa nhưng bỏ cuộc sau vài tháng bị khước từ.
Trong lá thư gửi lãnh đạo Stalin vào ngày 9/5/1945, Morozov viết: "Tôi hạnh phúc khi còn sống để chứng kiến Ngày Chiến thắng phát xít Đức, những kẻ gieo rắc bao đau thương cho Tổ quốc và nhân loại chúng ta. Thật tiếc vì tôi chưa làm được gì nhiều trên chiến trường để góp sức cho chiến thắng".
Trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Morozov là người lính cao tuổi nhất trực tiếp chiến đấu chống phát xít Đức. Viện sĩ Morozov được trao Huân chương Phòng thủ Leningrad năm 1944, hai Huân chương Lenin vào năm 1944 và 1945. Morozov qua đời tại nhà riêng ngày 30/7/1946, với lời trăn trối: "Vĩnh biệt những vì sao".
Nguyễn Tiến

Tình bạn của Hitler với cô bé Do Thái

Hitler từng mời cô bé gốc gác Do Thái vào dinh thự của mình năm 1933 và trao đổi thư từ trước khi bị phụ tá cản trở.

Bức ảnh có chữ ký của Hitler được bán đấu giá tại Mỹ. Ảnh: Alexander Historical Auctions.
Bức ảnh có chữ ký của Hitler được bán đấu giá tại Mỹ. Ảnh: Alexander Historical Auctions.
Thoạt nhìn, hình ảnh người đàn ông ôm một cô bé trông rất ấm áp. Nhưng khi nhìn kỹ, bạn sẽ thấy một câu chuyện u ám hơn: đây là Adolf Hitler, người đứng sau vụ giết hại 6 triệu người Do thái và cô bé đó là người Do thái.
Bức ảnh hiếm này được chụp vào năm 1933 bởi nhiếp ảnh gia chính thức của trùm phát xít, Heinrich Hoffmann. Tuần này nó được bán đấu giá tại Mỹ với giá 11.000 USD, theo Washington Post.
"Hitler thường chụp ảnh với trẻ em vì mục đích tuyên truyền. Điều đáng kinh ngạc về bức ảnh này là ông ta dường như có cảm tình thật sự với cô bé", người chủ trì phiên đấu giá nói.
Ngày 20/4/1933, Rosa, 7 tuổi, và mẹ cô bé hòa vào đám đông mừng sinh nhật của Hitler tại dinh thự Berghof ở Obersalzberg. Sau khi biết Rosa trùng ngày sinh với mình, Hitler mời hai mẹ con vào trong dinh thự, nơi bức ảnh này được chụp.
Bà của Rosa là người Do Thái nên cô bé cũng được coi là người Do Thái theo luật chủng tộc của Đức quốc xã. "Nghiên cứu cho thấy rằng Hitler đã sớm biết về gốc gác Do Thái của cô bé nhưng phớt lờ việc đó, vì lý do cá nhân hoặc tuyên truyền", nhà đấu giá Alexander Historical cho biết trên trang web.
Hitler đã gửi một bản sao bức ảnh kèm chữ ký cho cô bé. "Rosa Nienau thân yêu và chu đáo, Adolf Hitler Munich, ngày 16/6/1933", ông ta viết. Rosa sau đó dán tem của mình và vẽ hoa lên bức ảnh đen trắng.
Cô bé viết thư cho Hitler và phụ tá Wilhelm Bruckner của ông ta ít nhất 17 lần năm từ năm 1935 đến năm 1938, cho đến khi cô và mẹ bị thư ký riêng của Hitler là Martin Bormann yêu cầu cắt đứt liên lạc. Trong lá thư ngày 27/9/1936, cô bé viết: "Thưa bác Bruckner, hôm nay cháu có rất nhiều điều để kể với bác. Cháu đang làm tất Giáng sinh cho bác Hitler vì năm ngoái khi cháu hỏi bác ấy tất có vừa không, bác ấy trả lời là "có!".
Hitler giận dữ với những người đã khiến ông ta mất liên lạc với người bạn nhí. Ông ta nói với Hoffman: "Một số người có tài phá đám tất cả những thú vui nhỏ của tôi".
Một năm sau khi Rosa bị cắt đứt liên lạc với Hitler, Thế chiến II nổ ra. 6 triệu người Do Thái chết khi cuộc chiến kết thúc vào 6 năm sau.
Rosa cũng không sống sót qua chiến tranh. Cô qua đời vì bệnh bại liệt khi 17 tuổi tại một bệnh viện ở Munich năm 1943, một thập niên sau lần đầu tiên gặp Hitler.
Phương Vũ

Đòn tâm lý khiến thuyền trưởng Đức tự đánh chìm chiến hạm năm 1939

Chiến dịch của hải quân Anh khiến Đức chịu thiệt hại nặng khi mất một chiến hạm đầy uy lực ngay đầu Thế chiến II.
Tuần dương hạm Đô đốc Graf Spee hồi năm 1936. Ảnh: Wikipedia.
Tuần dương hạm Đô đốc Graf Spee hồi năm 1936. Ảnh: Wikipedia.
Đô đốc Graf Spee là tàu tuần dương lớp Deutschland được Đức đóng năm 1932, khi nước này bị cấm chế tạo tàu chiến có lượng giãn nước trên 10.000 tấn theo điều khoản hiệp ước Versailles được ký sau Thế chiến I. Đây là một phần trong nỗ lực xây dựng lực lượng hải quân nhỏ nhưng tinh nhuệ của Đức, nhưng nó lại bị đánh đắm chỉ bởi đòn tâm lý của hải quân Anh.
Đô đốc Graf Spee có lượng giãn nước tới 16.000 tấn, nên để lách quy định của hiệp ước Versailles, Đức gọi nó là "tàu bọc thép". Dù chỉ có kích thước bằng một phần ba thiết giáp hạm Bismarck nổi tiếng sau này, Graf Spee vẫn được trang bị hải pháo cỡ nòng 279 mm, thay vì các khẩu pháo 203 mm như tàu tuần dương hạng nặng thời đó.
Là một trong những tàu chiến đầu tiên sử dụng hoàn toàn động cơ diesel, Đô đốc Graf Spee sở hữu hoả lực mạnh, khả năng cơ động cao và dự trữ hành trình dài, khiến nó là vũ khí lý tưởng cho nhiệm vụ săn lùng, tiêu diệt tàu buôn phe Đồng minh. Quân đội Anh gọi lớp Deutschland là "thiết giáp hạm bỏ túi".
Năm 1939, tuần dương hạm Đô đốc Graf Spee dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng Hans Langsdorff nhận lệnh tiến về phía nam với nhiệm vụ đánh chìm các đoàn tàu buôn ở Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Trong một thời gian ngắn, "thiết giáp hạm bỏ túi" của Đức đã đánh chìm 9 tàu của đối phương với tổng khối lượng 50.000 tấn.
Sự xuất hiện của Đô đốc Graf Spee khiến hải quân Anh chú ý. Họ nhanh chóng xác định vùng hoạt động của tàu chiến Đức nhờ thông tin cầu cứu từ các tàu buôn. Một trong các nhóm tàu chiến nhận nhiệm vụ săn lùng Đô đốc Graf Spee nằm dưới quyền phó đề đốc Henry Harwood, gồm tuần dương hạm hạng nặng HMS Exeter cùng hai tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Achilles và HMS Ajax.
Harwood dự đoán chiến hạm Đức sẽ tiến về cửa sông Plate nằm giữa Argentina và Uruguay sau khi đánh chìm tàu buôn Doric Star. Sáng sớm 13/12/1939, lực lượng của Harwood phát hiện cột khói của Đô đốc Graf Spee ở đường chân trời. Phía Đức cũng phát hiện tàu chiến Anh nhưng cho rằng đó chỉ là tàu khu trục hộ tống đoàn tàu vận tải. Đến khi hạm trưởng Langsdorff nhận ra sai lầm thì đã muộn, ba tàu chiến Anh với lợi thế hoả lực đã tăng tốc tối đa để tiếp cận.
Tàu của Langsdorff không có nơi ẩn náu và sửa chữa nếu bị hư hại do phe Trục không có cảng đồng minh ở Nam Mỹ, buộc nó phải thực hiện hành trình dài 13.000 km, vượt qua vòng phong toả của phe Đồng minh để trở về Đức. Đây cũng là lý do Bộ chỉ huy Đức yêu cầu Đô đốc Graf Spee không được giao chiến với tàu có lượng giãn nước lớn hơn.
Tuy nhiên, Langsdorff không còn lựa chọn nào khác, bởi động cơ của Đô đốc Graf Spee đang rất cần được bảo dưỡng sau nhiều tháng hoạt động trên biển nên khó có thể chạy thoát khỏi đội tàu Anh. Đối phương cũng có thể gọi lực lượng chi viện chặn đường trong quá trình truy đuổi. Bởi vậy, hạm trưởng Đức ra lệnh tăng tốc tiến thẳng vào đội hình tàu Anh để giao chiến.
Đô đốc Graf Spee tiến vào cảng Montevideo sau trận đánh. Ảnh: Wikipedia.
Đô đốc Graf Spee tiến vào cảng Montevideo sau trận đánh. Ảnh: Wikipedia.
Ba tuần dương hạm của Anh tấn công Đô đốc Graf Spee từ nhiều phía, buộc đối phương phân tán hoả lực đối phó. Khi pháo Đức nhằm vào HMS Exeter, chiếc Achilles và Ajax sẽ tận dụng tốc độ để tấn công giải nguy. Cả hai bên đều phóng ra nhiều ngư lôi nhưng trượt mục tiêu.
Sau 30 phút chiến đấu, lợi thế thuộc về phe Đức khi HMS Exeter thiệt hại nặng với cụm pháo chính bị bắn hỏng và đài chỉ huy hư hại, tàu HMS Achilles và HMS Ajax cũng trúng nhiều phát đạn. Dù có thể đánh chìm tàu Anh, hạm trưởng Langsdorff quyết định rút lui bởi Đô đốc Graf Spee cũng bị một quả đạn pháo làm hư hỏng nghiêm trọng hệ thống tiếp nhiên liệu đến mức nó chỉ còn đủ lượng dầu cho 16 tiếng hoạt động.
Hư hại này khiến tàu chiến Đức không thể trở về nước. Langsdorff hiểu rằng phía Anh sẽ tiếp tục điều tàu tiếp viện để đánh chìm chiến hạm của mình, nên quyết định cập cảng Montevideo của Uruguay, một quốc gia trung lập. Đô đốc Graf Spee vẫn bị biên đội tàu của Harwood bám theo trong hành trình đến nơi trú ẩn.
Khi đến cửa sông Plate, Langsdorff nhận ra mình đã "chui đầu vào rọ" bởi tàu chiến nước ngoài chỉ được lưu lại cảng trung lập trong 24 tiếng và hải quân Anh đang canh sẵn ngoài cảng. Luật quốc tế cũng quy định các chiến hạm phải chờ 24 giờ sau khi tàu buôn đối phương rời đi mới được nhổ neo. Lực lượng Anh và Pháp sắp xếp để các tàu buôn của họ thay nhau rời cảng Montevideo nhằm giữ chân Đô đốc Graf Spee.
Trong thời gian đó, Phó đề đốc Harwood cho tàu chiến tập kết cách lãnh hải Uruguay 5 km và liên tục phun khói, làm thủy thủ đoàn Đức tin rằng Anh có lực lượng lớn ngoài khơi. Trên đất liền, tình báo Anh tung tin đồn nước này đã điều một tàu sân bay và một tuần dương hạm hạng nặng đến tiếp viện, dù thực tế lực lượng Anh chỉ được bổ sung tàu tuần dương HMS Cumberland lạc hậu và nó cũng mất vài ngày mới đến nơi.
Các tàu chiến Anh khi đó đã gần cạn đạn pháo, nên nếu liều mình ra khơi, tàu Đô đốc Graf Spee vẫn có thể lết được tới Argentina, quốc gia trung lập nhưng có cảm tình với Đức.
Tuy nhiên, chính phủ Uruguay thân Anh đã gây sức ép, tuyên bố sẽ tịch thu tàu và bắt giam thuỷ thủ đoàn nếu Đô đốc Graf Spee không rời cảng. Bộ chỉ huy ở Berlin yêu cầu Langsdorff không được phép để tàu bị bắt.
Không muốn hy sinh mạng sống của thuỷ thủ cho trận chiến không cân sức với hạm đội Anh, Langsdorff ra lệnh đánh chìm tàu Graf Spee vào ngày 17/12/1939. Uruguay sau đó cho phép Langsdorff cùng thuỷ thủ đoàn đến thủ đô Buenos Aires của Argentina.
Đô đốc Graf Spee sau khi bị thủy thủ đoàn phá hủy. Ảnh: Wikipedia.
Đô đốc Graf Spee sau khi bị thủy thủ đoàn phá hủy. Ảnh: Wikipedia.
Khi đến nơi, Langsdorff và thủy thủ đoàn bị báo chí Argentina gán tội danh hèn nhát, Buenos Aires cũng định tống giam họ thay vì đưa về nước. Hai ngày sau, Langsdorff viết bức thư tuyệt mệnh gửi tới đại sứ Đức tại Argentina, khẳng định ông muốn bảo toàn danh dự bằng cách "chìm cùng con tàu của mình". Hạm trưởng Đức nằm lên lá cờ Đức và tự bắn vào đầu.
Sự kiện Đô đốc Graf Spee bị đánh đắm đã giáng đòn nặng nề vào lực lượng hải quân của Hitler, vốn có số lượng ít và chi phí chế tạo rất đắt đỏ. 6 tháng sau, thiết giáp hạm Bismack lớn nhất nước này bị đánh chìm trên Đại Tây Dương. HMS Exeter, tuần dương hạm tham gia trận chiến với Đô đốc Graf Spee, bị quân Nhật đánh chìm 8 tháng sau ở biển Java.
Lã Linh (Theo National Interest)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét