Tôi Chưa Có Mùa Xuân - Giang Tử | Nhạc sĩ: Châu Kỳ | Asia 67
-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía: +Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song +Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu. +Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát. +Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ. ... -Chiến
tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được,
dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao. -Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người. -Chiến
tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy
diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính
nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc giải phóng hoặc chống chiến tranh phi nghĩa, được
hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?). -Tóm
lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác,
thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí. -Ngày
chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng
sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt, người cộng sản có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói,
đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn. -Lão
Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại
nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang
lễ mà xử". -Giống
như bóng tối không thể làm tiêu tan bóng tối, thì hận thù không thể xoa
dịu được hận thù, và chiến tranh không thể xóa bỏ được chiến tranh. -Chỉ
có sự thấu hiểu ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống, sự thấu hiểu về
tính bất hạnh, vô nghĩa tột cùng của cái chết và sự cảm thông, yêu
thương sâu sắc đồng loại mới có thể ngăn chặn được chiến tranh! -Một khi còn tình cảm dân tộc hẹp hòi, lòng tham vị kỷ và cái tâm hận thù của con người, thì vẫn còn chiến tranh.
Metallica - The Day That Never Comes
Five Finger Death Punch - Wrong Side Of Heaven
-------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
1917
là một bộ phim chiến tranh sử thi của đạo diễn Sam Mendes và đồng biên
kịch bởi Mendes và Krysty Wilson-Cairns. Bộ phim được dựa trên một câu
chuyện do ông nội Alfred Mendes kể cho cháu Sam Mendes, và kể lại câu
chuyện về hai người lính trẻ Anh ở đỉnh điểm của Thế chiến 1 trong Mùa
xuân năm 1917, được giao nhiệm vụ đưa ra một thông điệp cảnh báo về một
cuộc phục kích trong một trong những cuộc giao tranh ngay sau khi quân
Đức rút về Phòng tuyến Hindenburg trong Chiến dịch Alberich.
Trận đánh 1,9 triệu người chết khủng khiếp nhất lịch sử thế giới
Chủ Nhật, ngày 29/10/2017 10:30 AM (GMT+7)
Trận đánh quyết định ở
Stalingrad khiến 1,9 triệu người thiệt mạng trong Thế chiến 2 cho đến
nay được ghi nhận là “địa ngục trần gian”, nơi người lính bằng mọi giá
phải đấu tranh để sinh tồn.
Ảnh minh họa.
Theo National Interest, kể từ tháng 7.2012, thế giới
phải chứng kiến đất nước Syria, với những thành phố Aleppo, Raqqa chìm
trong đống đổ nát vì chiến tranh. Con số người chết trong cuộc nội chiến
Syria tính đến năm 2016 ước tính lên tới 300.000 người.
Trong chiến tranh Iraq kéo dài từ năm 2003-2011, một thống kê cho
biết có 405.000 người Iraq thiệt mạng do giao tranh. Kể từ khi Mỹ can
thiệp vào Afghanistan giai đoạn năm 2001-2015, ước tính 91.991 người mất
mạng.
Tỉnh tổng cả 3 quốc gia này trong giai đoạn 15 năm, con số người chết vì chiến tranh là 796.991.
Nhưng những thống kê trên vẫn còn khá khiêm tốn so với trận
Stalingrad, trận đánh đẫm máu và tồi tệ nhất lịch sử nhân loại với 1,9
triệu binh sĩ Đức, Liên Xô và dân thường thiệt mạng chỉ trong 6 tháng.
Tháng 6.1941, trùm phát xít Adolf Hitler bất ngờ ra lệnh xâm lược
Liên Xô. Trong vòng một năm sau, đội quân Đức chiếm một khu vực rộng lớn
hàng ngàn km2. Tất cả những gì quân Đức cần khi đó chỉ là thành phố
Stalingrad để làm bàn đạp.
Dân số Stalingrad trước chiến tranh vào khoảng 400.000 người. Đây là
thành phố chiến lược với cảng biển và nhiều khu công nghiệp quan trọng.
Quân Đức chiến đấu trong trận Stalingrad.
Lãnh tụ Liên Xô Stalin khi đó chủ trương bảo vệ Stalingrad bằng mọi
giá còn Hitler cũng sẵn sàng đổ 1 triệu người vào trận đánh lịch sử này.
Ban đầu, quân Đức đạt bước tiến nhanh chóng, chiếm nhiều khu vực bên
trong Stalingrad. Đến tháng 11, quân Đức đẩy phòng tuyến Liên Xô về phía
bờ sông Volga. Cả hai bên đều ghi nhận con số thương vong hàng trăm
ngàn người.
Nhưng đó chỉ mới là sự bắt đầu của trận đánh đẫm máu nhất lịch sử thế
giới hiện đại. Đúng và sai, đạo lý và danh dự của những người lính đều
được gác lại cho một lý do duy nhất, chiến đấu vì sự sống còn.
Năm 2001, bộ phim Hollywood mang tên “Enemy at the Gates” phác họa
cảnh đối đầu giữa hai lính bắn tỉa Liên Xô và Đức. Đây được coi là vũ
khí đáng sợ nhất của cả 2 phe. Bởi nó có thể cướp đi sinh mạng người
khác từ xa, khiến không một ai cảm thấy an toàn.
Một lính bắn tỉa Liên Xô, tên Anatoly Chechov kể lại lần đầu tiên
cướp đi mạng sống của người khác: “Tôi cảm thấy tồi tệ. Tôi đã giết
người. Nhưng sau khi nhận ra quân Đức đã tàn sát nhiều người khác, tôi
chỉ còn biết xả đạn không ngừng vào họ”.
Đây là những lời nói của Chechov ngay tại chiến trường đẫm máu này,
phác họa phần nào cảnh tượng “địa ngục trần gian” ở Stalingrad.
Trong bối cảnh Hồng quân Liên Xô đứng trước khả năng thua trận, không
thể phòng ngự được cho đến đêm, tướng lĩnh Liên Xô Alexander Rodimtsev
đưa ra quyết định can đảm.
Giao tranh ở Stalingrad diễn ra trên từng ngôi nhà, con phố.
Tướng Rodimtsev dẫn đội quân do mình chỉ huy vượt sông, bất chấp máy
bay Đức quần thảo trên bầu trời. Một nhân chứng cho biết, chiếc thuyền
chở tướng Rodimtsev và bị trúng bom Đức trước khi cập bờ, khiến hầu hết
binh lính thiệt mạng.
Bản thân Rodimtsev bằng một cách nào đó đã sống sót. Nhưng những người đồng đội thì lại không may mắn như vậy.
Albert Burkovski, một trong những người lính Liên Xô làm nhiệm vụ cố
thủ bên kia sông, mô tả lại cảnh tượng thảm khốc đối với quân đoàn số
13. “Họ cố gắng vượt sông, xác người chết rải rác khắp nơi. Những con
thuyền chở binh sĩ, đạn dược, súng máy nổ tung ngay trước mắt tôi”.
Quân Đức khi đó chiếm ưu thế ở bên kia sông nhờ các cao điểm, liên
tục xả đạn súng máy không ngừng về phía Hồng quân Liên Xô. “Tưởng chừng
như đợt phản công của Liên Xô là tự sát nhưng họ đã thành công”, Michael
Jones, tác giả cuốn sách viết về trận đánh Stalingrad nói.
Quân đoàn 13 do tướng Rodimtsev chỉ huy cận chiến với quân Đức, đánh
chiếm các tòa nhà quan trọng và làm chủ khu vực bờ bên kia sông.
Cảnh tượng ở bên kia chiến tuyến còn khốc liệt hơn. Theo trang
WW2History., một người sống sót tên Helmut Walz mô tả lại cảnh chiến đấu
trên từng con phố, căn nhà ở Stalingrad.
Bất ngờ, Walz đụng độ với binh sĩ Liên Xô, hứng trọn đòn đánh trời
giáng vào mặt, khiến máu trào ra từ miệng. Walz chợt nghĩ đó là dấu chấm
hết nhưng một đồng đội lao đến trợ giúp, không ngừng lấy báng súng đánh
vào đầu người lính Liên Xô.
Xác quân Đức nằm la liệt ở Stalingrad.
Cảnh tượng kinh hoàng đó chưa chấm dứt, khi Walz đang được đồng đội
băng bó, một người lính Liên Xô khác tiến đến bắn thẳng vào đầu đồng đội
của Walz từ phía sau. Walz kể rằng đó là lần đầu tiên nhìn thấy đầu
người vỡ làm đôi còn não bộ rơi ra ngoài.
Những cảnh tượng mà người lính Liên Xô thuộc quân đoàn 13 phải trải
qua và Helmut Walz ở bên kia chiến tuyến đã lặp đi lặp lại nhiều lần
trong suốt 6 tháng giao tranh đẫm máu.
Chiến sự cuối cùng cũng kết thúc vào tháng 2.1943, khi tập đoàn quân
số 6 của Đức Quốc xã, do tướng Friedrich Paulus chỉ huy ra hàng. Quân
Đức từ hàng triệu người, nay chỉ còn 90.000 lính.
Thất bại trên sông Volga đánh dấu bước ngoặt trên chiến trường, khiến
quân Đức không ngừng thua trận và thất bại ngay tại thủ đô Berlin hai
năm sau đó, cùng với cái chết của trùm phát xít Hitler.
Trong số 90.000 tù binh Đức, chỉ có khoảng 6.000 người là còn có thể quay trở về quê nhà, trong giai đoạn những năm 1950.
Có thể nói, 1,9 triệu người chết, với những trải nghiệm kinh hoàng,
cận chiến trong những tháng ngày mùa đông rét thấu xương ở Liên Xô đưa
Stalingrad trở thành nơi diễn ra trận đánh tồi tệ nhất lịch sử thế giới.
Nỗi kinh hoàng pháo binh Việt Nam gây ra cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ
Thứ Ba, ngày 07/05/2019 00:30 AM (GMT+7)
Trong cuốn "Điện Biên
Phủ 13/3-7/5/1954" của nhà sử học Ivan Cadeau, những nỗi kinh hoàng về
pháo binh Việt Nam đã được các tướng, tá Pháp dự trận Điện Biên Phủ nhắc
lại.
Pháo mặt đất của Việt Minh nhả đạn trong chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)
Cuốn sách vừa được Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước Việt Nam, NXB
Thông tin và Truyền thông ra mắt nhằm chào mừng 65 năm chiến thắng Điện
Biên Phủ, theo hợp đồng với NXB Tallandier, Pháp. Trong cuốn sách, tiến
sĩ Ivan Cadeau, Phó Tổng biên tập Tạp chí Lịch sử quân đội Pháp đã khai
thác những tài liệu mật trong kho lưu trữ của Bộ Quốc phòng Pháp cùng
những hồi ký, ghi chép của các cựu binh Pháp tham gia trận Điện Biên Phủ
để cung cấp cho độc giả những thông tin quý giá, trong đó nhiều phần
chưa từng được công bố.
Các tài liệu được đề cập trong cuốn sách đều chung một nhận định: Tại
Điện Biên Phủ, pháo binh Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn trước
pháo binh Pháp.
Ngay từ những ngày đầu thành lập tập đoàn cứ điểm, sau khi nhận được
sơ đồ bố trí lực lượng quân đội Việt Nam do nhân viên tình báo chuyển
về, đích thân tướng Navarre, Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương
đã yêu cầu các sĩ quan pháo binh trả lời câu hỏi: Liệu pháo binh Việt
Nam có ngăn cản quân Pháp sử dụng đường băng hay không?
Trả lời viên tướng 4 sao, cả chỉ huy lực lượng pháo binh ở Đông
Dương, lẫn chỉ huy pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, trung tá Piroth, đều
khẳng định, sẽ "khóa miệng" được pháo của Việt Minh. Tuy nhiên, kết quả
cuối cùng đã ngược hẳn với những khẳng định của các sĩ quan này.
Một năm sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, Đại tá Langlais, nguyên chỉ
huy trưởng phân khu trung tâm mới thừa nhận những lỗ hổng trong phòng
ngự của tập đoàn cứ điểm này đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Ví
dụ, ở trung tâm của lực lượng, bộ phận phẫu thuật và ba hầm chỉ huy, gồm
của tướng De Castries, của phân khu trung tâm và kho dự trữ, đều nằm
trong bán kính 100m, và viên đại tá nói rằng: "Chỉ cần nhắm vào chính
giữa thì chắc chắn sẽ trúng ít nhất một trong bốn mục tiêu trên".
Ngoài ra, các nhà quan sát tới thăm Điện Biên Phủ đã đánh giá một
nhược điểm nữa là sự thiếu phòng ngự tại các hầm trú ẩn do quân Pháp xây
dựng. Theo tiến sĩ Ivan Cadeau, điểm yếu này gây hậu quả bi thảm cho
quân Pháp trong chiến dịch này.
Điển hình, ngay trong trận mở màn của chiến dịch chiều 13/3/1954, hầm
chỉ huy cứ điểm Him Lam (Béatrice) đã bị trúng đạn pháo, giết chết
thiếu tá chỉ huy trưởng Pégot và 3 sĩ quan khác, đồng thời phá hủy luôn
điện đài khiến Him Lam không thể liên lạc được về trung tâm Mường Thanh
được nữa. Him Lam nhanh chóng bị thất thủ trong đêm.
Cũng tối hôm đó, một quả đạn cối đã xuyên qua cửa thông gió hầm trú
ẩn của chỉ huy khu vực trung tâm, khiến trung tá Gaucher tử vong và De
Castries phải bổ nhiệm trung tá Langlais làm chỉ huy trưởng phân khu này
thay thế.
Những thiệt hại này khiến chỉ huy cứ điểm Độc Lập (Gabrielle) là
thiếu tá Mecquenem phải lập chốt chỉ huy dự phòng ở phòng ăn chung của
các sĩ quan nhằm loại trừ khả năng tổn thất về chỉ huy.
Lựu pháo cỡ nòng 105mm của Việt Minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu).
Tuy nhiên điều thiếu tá Mecquenem lo ngại đã xảy ra: Lúc 2h30' sáng
15/3, một quả đại bác đã lọt vào hầm chỉ huy của ông ta. Dù Mecquenem
thoát chết, nhưng thiếu tá Kah, người đang nhận bàn giao vị trí chỉ huy
của ông ta lẫn một số thành viên khác của ban tham mưu bị thương nặng.
Đến sáng 15/3, Độc Lập cũng theo chân Him Lam, lọt vào tay quân đội Việt
Nam, cả hai thiếu tá Mecquenem và Kah đều bị bắt làm tù binh.
Theo lời kể của quân nhân Franz Fischer thuộc đại đội số 11, các vị
trí phòng thủ của quân Pháp không được bảo vệ đủ dưới lớp dày 30cm được
làm từ đất và rơm, nên khi hứng chịu trận pháo kích của quân đội Việt
Nam, đã "bắn tung lên không trung, tan rời thành nhiều mảnh như những
búp bê biết hát bị tháo rời chân tay".
Một sĩ quan sống sót sau trận đánh ở đồi Độc Lập và may mắn được
chuyển về Hà Nội đã kể lại cho Robert Guillain vài ngày sau: "Những khẩu
pháo 81, 105, 120mm thay nhau 'nhảy múa' nhả đạn. Rồi súng cối của
chúng tôi, hạng trung cũng như hạng nặng bị loại khỏi trận đánh. Chúng
tôi cố trở về chỗ ấn nấp rồi lại chạy ra ngoài bắn một chút, nhưng quá
khó khăn. Đạn rơi khắp nơi trên nền cát đỏ, bay tứ tung nhất là ở khu
phía bắc".
Ảnh hưởng của những trận pháo kích đã khiến đại tá De Castries, trong
bức thư đề ngày 22/3, một trong những bức thư cuối cùng gửi về cho
tướng Cogny, Tư lệnh quân đội Pháp tại Bắc Bộ, đã viết: "Khả năng chuẩn
bị của pháo binh Việt Minh nhắc tôi nhớ lại những ngày tồi tệ ở Italia,
không tuyệt vời chút nào cả".
Theo Ivan Cadeau, ảnh hưởng của những trận bão lửa của pháo binh Việt
Nam dội xuống Điện Biên Phủ trong các ngày 13-15/5 đã gây ra cuộc khủng
hoảng tinh thần nghiêm trọng trong toàn bộ quân đồn trú ở Điện Biên
Phủ. Trung tá Keller, tham mưu trưởng của De Castries rơi vào trạng thái
ủ rũ và căng thẳng khiến tướng Cogny phải rút ông này về Hà Nội.
Nhưng người bị khủng hoảng nặng nhất là trung tá Pirot, chỉ huy pháo
binh, mà chính De Castries đã thuật lại là "Piroth người bị lên án khắp
nơi, nay đã trở thành kẻ thân tàn ma dại". Rạng sáng 15/3, ông ta đã tự
sát bằng lựu đạn và tin tức về vụ tự sát đã lan truyền trong toàn quân
đồn trú, dù De Castries cố gắng che giấu vụ việc bằng cách đổ lỗi cho
hậu quả của một trận pháo kích.
Bên cạnh việc công nhận hiệu quả của lực lượng pháo mặt đất Việt Nam,
các tài liệu từ phía Pháp cũng khẳng định, hệ thống pháo phòng không
37mm của quân đội Việt Minh đóng vai trò nhất định trong việc khiến quân
Pháp ở Điện Biên Phủ thất bại. "Hệ thống này đã bóp nghẹt tập đoàn cứ
điểm bằng việc chặn việc sử dụng sân bay từ ngày 26/3, khiến việc tiếp
tế cho binh lính Pháp trở nên không thực hiện được", Cadeau phân tích.
Tình báo Pháp ước tính, Trung Quốc đã chuyển tổng cộng 67.000 đạn pháo 37mm cho Việt Minh.
Binh sĩ
trung đoàn Pháo cao xạ 367 (đơn vị tiền thân của Sư đoàn 367 ngày nay),
với vũ khí là những khẩu pháo phòng không cỡ nòng 37mm, tham gia chiến
dịch Điện Biên Phủ (Ảnh tư liệu)
Cuốn sách cũng cho biết, tình báo Pháp đã phát hiện từ đầu tháng
4/1954, quân đội Việt Nam đã được bổ sung các dàn hỏa tiễn mà họ gọi là
"giàn pháo Staline", và mô tả chúng là "gồm nhiều súng phóng tên lửa 7
nòng do Trung Quốc sản xuất, cỡ nòng 85 hoặc 90mm, tuy nhiên loại vũ khí
này chỉ bắt đầu được sử dụng từ ngày 5/5 và tỏ ra kém hiệu quả hơn
nhiều so với pháo binh trước đây".
Trong suốt chiến dịch, chưa bao giờ không quân Pháp thành công trong
việc cản trở hậu cần của Việt Minh chỉ trong vài giờ, cũng như cản được
bước tiến của pháo binh và pháo phòng không của Việt Minh đến Điện Biên
Phủ. Tướng Dechaux đã phải thừa nhận điều này khi trình bày trước Ủy ban
điều tra quân sự: "Chúng ta đã thất bại".
Cuối cuốn sách, Ivan Cadeau tổng hợp các nguyên nhân thất bại của
quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ, trong đó xếp hàng đầu là sự gia tăng
sức mạnh hỏa lực mới của quân đội Việt Minh, tiếp đến là hậu quả của
việc thông báo hội nghị
Genève, sự yếu kém của không quân Pháp, sai lầm trong chuẩn bị và chỉ
huy chiến dịch ở cấp cao, từ tướng Cogny lẫn tướng De Castries, đến thất
bại về tâm lý...
Hai đặc công Việt Nam bí mật xâm nhập vào cảng Sài Gòn, mỗi người mang theo 40kg thuốc nổ và các bộ phận cần thiết...
Theo Lê Tiên Long (Dân Việt)
Trận đánh kỳ lạ: 47 người đánh bại 5.000 quân trong nội chiến Mỹ
Thứ Tư, ngày 28/11/2018 00:30 AM (GMT+7)
Đây là một trong
những trận đánh hiếm hoi trong lịch sử mà lực lượng ít ỏi hơn nhiều lại
giành chiến thắng quyết định, trong khi không tổn thất một người nào.
Liên minh miền Nam chỉ với 47 người đã buộc quân miền Bắc với 5.000 binh sĩ phải rút lui.
Trận chiến Đèo Sabine lần hai diễn ra trong cuộc nội chiến Mỹ. Năm
1863, tướng William B. Franklin dẫn một lực lượng của liên bang miền bắc
tấn công đèo Sabine để có thể tiến vào bang Texas bằng đường thủy.
Đội quân của Franklin gồm 5.000 lính, 4 chiến hạm, 18 tàu chở quân.
Trong khi đó, đối thủ của họ chỉ là khoảng 47 binh sĩ thuộc một trung
đoàn pháo binh của Liên minh miền nam. Đồn trú tại pháo đài Griffin, họ
chịu sự chỉ huy của trung úy Richard Dowling và có 6 khẩu pháo. Nội chiến Mỹ đẫm máu
Sau khi Abraham Lincoln đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ
năm 1860, 11 tiểu bang theo chế độ nô lệ ở miền Nam Hoa Kỳ đã tuyên bố
ly khai khỏi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và lập ra liên minh miền Nam. 25 tiểu
bang còn lại ủng hộ chính phủ liên bang miền Bắc. Lincoln chủ trương
xóa bỏ chế độ nô lệ, trong khi liên minh miền Nam phản đối điều này và
kết quả là chiến tranh nổ ra.
Sau hai năm đầu tiên nội chiến với những thắng lợi liên tiếp, cuộc
chiến dần trở nên bất lợi với liên minh miền Nam. Đến năm 1863, phe miền
Nam bắt đầu để mất những vùng lãnh thổ chiếm được, không còn thể hiện
được ưu thế trên chiến trường.
Ở Gettysburg, nơi được coi là thành trì của liên minh miền Nam, liên
bang miền Bắc đã giáng đòn mạnh mẽ để chiếm được thành trì này trong
trận đánh ngày 1-3.7.1863, dù tồn thất tới 23.049 binh sĩ.
Ở Vicksburg, liên bang miền Bắc chia đôi lực lượng phe miền Nam làm đôi, sau khi chiếm quyền kiểm soát con sông Mississippi.
Đây là bàn đạp để liên bang miền Bắc tiếp tục tiến sâu xuống phía
nam, nhắm đến Texas. Nhiều tàu chở quân, tàu pháo sẵn sàng khởi hành từ
New Orleans, hướng qua đèo Sabine.
Ông Don Smart đã có hàng chục năm diễn lại những trận đánh nổi tiếng, bao gồm trận Đèo Sabine lần hai.
Trận đánh ở Đèo Sabine lần hai diễn ra vào ngày 8.9.1863 được ghi nhớ
với chiến công lịch sử của phe miền Nam, khi làm nên điều không tưởng
và ngăn liên bang miền Bắc bén mảng đến Texas trong suốt hai năm còn lại
của nội chiến.
Don Smart, 67 tuổi, là một người chuyên diễn lại trận đánh lịch sử
trong cuộc nội chiến và dĩ nhiên ông rất quen thuộc với trận đánh ở Đèo
Sabine lần hai.
“Tôi đã diễn lại các trận đánh suốt hơn 20 năm qua”, Smart nói. “Nhưng trận đánh ở Đèo Sabine khiến tôi nhớ rõ nhất”.
Bởi đây là trận đánh sống còn đối với riêng bang Texas, Smart nói.
Liên bang miền Bắc có thể dùng 5.000 quân chính quy và 10.000 quân dự bị
để ngăn phe miền Nam giao thương với Mexico, bằng cách chiếm các cảng
biển chính.
Nếu thành công, phe miền Nam có thể sớm cạn kiệt nguồn lực, không thể
kéo dài chiến tranh. Tát cả những gì phe miền Bắc cần làm là vượt qua
pháo đài Griffin ở Đèo Sabine. Trung úy Richard Dowling, chỉ huy pháo
đài khi đó có không đến 50 binh sĩ dưới quyền, và 6 khẩu pháo.
Theo kế hoạch, 5.000 binh sĩ miền bắc với 4 tàu pháo và 18 tàu chở quân sẽ vượt qua Đèo Sabine bằng đường biển. Trận chiến sống còn với bang Texas
Sáng sớm ngày 8.9, các tàu pháo của liên bang miền Bắc nã đạn dữ dội
vào pháo đài Griffin. Dowling ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền bình tĩnh
chờ đối phương đến gần mới khai hỏa. Lợi thế của Dowling là đã sắp đặt
sẵn 6 khẩu pháo ở vị trí thuận lợi để giáng đòn bất ngờ vào tầu chiến
đối phương.
Kết quả trận đánh diễn ra thảm hại đối với một liên bang miền Bắc
đang hừng hực khí thế. Tàu Khi tàu USS Sachem, USS Clifton của liên bang
miền Bắc tiến đến gần căn cứ ở khoảng cách không đến 1km, Dowling ra
lệnh cho binh sĩ đồng loại khai hỏa.
Sau 45 phút giao tranh ác liệt đầu tiên, tàu USS Sachem chìm nghỉm
trước loạt đạn pháo trúng vào nồi hơi nước. Tàu USS Cliffton bị vô hiệu
hóa hoàn toàn, rơi vào tay liên minh miền Nam.
Binh sĩ phe miền Nam phá hủy hoặc làm hỏng nhiều tàu của đối phương
đến nỗi chúng chặn ngang dòng sông. Tình thế ấy buộc tướng William B.
Franklin, chỉ huy chiến dịch của phe miền Bắc ra lệnh rút lui về New
Orleans.
Hàng chục tàu chiến của phe miền Bắc tiến vào Texas qua pháo đài Grifffin nhưng buộc phải rút lui.
Theo các nhà sử học Mỹ, phe miền bắc trong trận đánh này tổn thất tới
200 người, hai tàu pháo bị đánh chìm hoặc rơi vào tay quân miền Nam.
Ngược lại, phe miền Nam không mất một người nào.
Chiến thắng của Dowling và các đồng đội đã ngăn liên bang miền Bắc
chiếm Texas trong suốt hai năm còn lại của cuộc nội chiến, giúp khu vực
này không bị tàn phá bởi chiến tranh.
“Texas được cứu khỏi sự hủy diệt, giống như phần còn lại của liên minh miền Nam”, Smart nói.
Ngày nay, một phần của tàu USS Cliffton vẫn còn được trưng bày trong
bảo tàng. Sau trận đánh ở Đèo Sabine lần hai, liên minh miền Nam sửa
chữa lại tàu Cliffton, sử dụng nó làm vật cản ngăn phe miền Bắc.
Dù giành chiến thắng không tưởng ở Đèo Sabine nhưng nỗ lực trên là
không đủ để liên minh miền Nam có thể kết thúc chiến tranh trong vinh
quang.
Quân miền Bắc đông hơn gấp đôi, lại có tướng giỏi chỉ huy và Tổng
thống Mỹ Lincoln thì tiếp tục đắc cử lần hai, dẫn đến kết cục thắng lợi
tất yếu vào năm 1865.
Kết quả sau nội chiến là toàn bộ người nô lệ tại các bang miền Nam
được thả tự do. Nô lệ tại các tiểu bang ranh giới, kể cả Washington,
D.C., được trả tự do vào mùa xuân năm 1865. Tổng cộng có khoảng 4 triệu
nô lệ được tự do.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét