SIÊU QUẬY 28
(ĐC sưu tấm trên NET)
Nguyễn Chánh Thi từng được tạp chí Time của Mỹ gán cho biệt
hiệu "chuyên gia đảo chính". Ông Thi sinh năm 1923, Phú Vang, Thừa Thiên
- Huế. Ít học, năm 1940, ông ta đi lính cho Pháp, từng bị Nhật bắt,
Việt Minh bắt nhưng đều trốn thoát được và tiếp tục cầm súng cho Pháp.
Đến tháng 3/1954, ông ta được thăng đại úy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2
Ngự lâm quân của Bảo Đại.
Phần lớn sĩ quan từng phục vụ dưới
quyền vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đều không được Ngô Đình Diệm tin
dùng. Nguyễn Chánh Thi là trường hợp đặc biệt, được điều về làm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù và được Diệm cho lên thiếu tá. Tỏ ra
xứng đáng với ân huệ của Diệm ban cho, tháng 5/1955, Nguyễn Chánh Thi đã
chỉ huy quân dù dẹp tan quân Bình Xuyên tại khu vực Nancy, Trường
Petrus Ký (nay là Trường Lê Hồng Phong).
Đến chiến dịch Rừng Sác, tấn công vào cứ điểm cuối cùng của Bình Xuyên, Diệm lại chỉ định Nguyễn Chánh Thi giữ chức vụ Liên đoàn phó Liên đoàn Nhảy dù và thăng lên trung tá. Chưa tròn một năm sau, tháng 2/1956, ông ta lên đại tá. Khi Liên đoàn Nhảy dù được nâng cấp thành Lữ đoàn, Nguyễn Chánh Thi trở thành vị tư lệnh đầu tiên của binh chủng này.
Khi đi thăm Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan), Ngô Đình Diệm còn cho Thi tháp tùng với tư cách tùy viên quân sự. Gia đình Ngô Đình Diệm từng coi Thi như con em trong nhà. Đáp lại ân sủng, ngày 11/11/1960 Nguyễn Chánh Thi đã cầm đầu một nhóm sĩ quan trẻ gồm trung tá Vương Văn Đông, thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng, thiếu tá Phan Trọng Chinh, thiếu tá Nguyễn Huy Lợi, đại úy Phan Lạc Tuyên… đảo chính nhằm hạ bệ anh em ông Diệm.
Phe đảo chính tưởng chừng đã làm chủ được tình hình, nhưng thiếu quyết đoán, không được tổ chức kỹ lưỡng và quan trọng hơn cả là mục đích hành động không rõ ràng, thiếu đồng nhất, họ đã khiến thời cơ tuột mất. Họ không chiếm được Đài Phát thanh, không tìm cách cắt hết đường dây điện thoại từ Dinh Độc lập nối với bên ngoài và cũng không đủ quân án ngữ các ngả đường tiến vào thành phố. Ngô Đình Diệm đã tìm cách kéo dài thời gian để liên lạc với những sĩ quan trung thành, gọi họ về cứu giá.
Hôm sau, ngày 12/11/1960, từ Mỹ Tho, đại tá Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đã kết hợp với Sư đoàn 21 Bộ binh đóng ở Sa Đéc, do đại tá Trần Thiện Khiêm làm tư lệnh kéo quân về giải vây. Lúng túng, Vương Văn Đông đã tìm mọi cách liên hệ với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow để tìm hậu thuẫn. Đại sứ Elbridge Durbrow đã thẳng thừng từ chối, với lý do: Không dính vào nội bộ của Việt Nam.
Cầm chắc thất bại trong tay, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng… đã nhanh chóng cướp một máy bay D.C3, đồng thời, bắt cóc trung tướng Thái Quang Hoàng, Tư lệnh Quân khu Thủ đô và cưỡng ép phi công Phan Phụng Tiên lái, đưa họ đào thoát sang Campuchia xin tị nạn. Những ngày trong trại tị nạn Monivong (thực chất là trại giam lỏng) ở Nam Vang, Campuchia, Nguyễn Chánh Thi phải làm nghề chẻ củi thuê để kiếm sống. Đông thân Pháp, Thi ghét Mỹ, ghét luôn cả Pháp. Họ thường xuyên chửi mắng nhau như chó với mèo. Số sĩ quan không thuộc phe nào đều nghiêng về phía Đông, tỏ ra coi khinh cách ăn ở và tính khí thô lỗ của Nguyễn Chánh Thi. Có lần thiếu tá Nguyễn Huy Lợi không nhịn được, đã thượng cẳng tay, hạ cẳng chân với Thi nhưng… bất phân thắng bại.
Anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị lật đổ, Nguyễn Chánh Thi trở về nước và được phục hồi hàm đại tá giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 1, kiêm Quân khu 1, do Trung tướng Nguyễn Khánh làm tư lệnh. Ngày 30/1/1964, Nguyễn Chánh Thi lại tham gia vào cuộc đảo chính, được ngụy trang bằng hai từ "chỉnh lý", lật đổ Dương Văn Minh, do Nguyễn Khánh cầm đầu. Năm ông tướng thân cận của Dương Văn Minh, đang nắm giữ những chức vụ trọng yếu, đồng loạt bị bắt tại nhà riêng.
Sáng hôm sau, Nguyễn Chánh Thi vào Bộ Tổng tham mưu thì gặp thiếu tá Nguyễn Huy Lợi tại đó. Sực nhớ lại ân oán từ thời lưu vong tại Campuchia, Nguyễn Chánh Thi đã sấn tới bốp thẳng vào mặt Lợi một cú đấm. Lợi toan đánh lại Thi, nhưng rồi chẳng biết tại sao ông ta lại dừng tay, quay lưng bỏ đi trong khi Nguyễn Chánh Thi vẫn đứng hoa chân múa tay lu loa biện minh với mọi người!
Để thưởng công phò trợ, Nguyễn Khánh đã cho Nguyễn Chánh Thi
làm Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, kiêm Khu 11 chiến thuật, và thăng hàm
chuẩn tướng. Thi thích xuất hiện trước đám đông, đắc chí khi được tâng
bốc, nịnh hót, lại còn muốn chứng tỏ mình là bậc hảo hớn kiểu Lương Sơn
Bạc. Đặc biệt ông ta rất khoái đọc diễn văn, ban huấn từ và tuyên bố
lung tung. Một lần, đi thị sát tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Chánh Thi bắt toàn
bộ quân, cán, chính và các đoàn thể tụ tập đông đủ tại Tòa Hành chính
tỉnh để ông ta lên lớp. Cử tọa phải bụm miệng khi nghe Thi lên giọng:
"Đồng bào trong khu tôi…". Cử tọa chưa nín được cười, thì ông ta lại
tiếp tục màu mè và… bí đường: "Thưa đồng bào, quân với dân như cá với
nước. Cá mà thiếu nước thì cá chết, còn nước mà thiếu cá… nước mà thiếu
cá thì... thì… quá kỳ cục!!!".
Nói xong câu đó, Thi ngượng đứng chết trân. Có một tay chuyên treo cờ xí, biểu ngữ và trang trí hội trường, đang đứng xớ rớ sau hàng cờ phướn, nhanh nhảu nhảy ra hô to: "Hoan hô chuẩn tướng Nguyễn Chánh Thi!", tiếng hô lặp lại 3 lần, buộc lòng mọi người phải đưa tay lên hoan hô theo. Đến bữa cơm trưa, Nguyễn Chánh Thi đã ra lệnh cho đại tá Nguyễn Ấm, Tỉnh trưởng Quảng Trị, gọi anh chàng khéo nịnh này lên trình diện. Vài tuần sau, anh chàng này được đặc cách chức vụ Phó ty Thông tin!
Không cần đắn đo, suy nghĩ, Nguyễn Chánh Thi vẫn tuyên bố ủng hộ Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh, bất chấp hiến chương này đã bị các phong trào quần chúng và sinh viên-học sinh phản đối kịch liệt, nhờ đó được Khánh thăng lên thiếu tướng. Ngày 13/9/1964, trung tướng Dương Văn Đức, thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Huỳnh Văn Tồn từ Cần Thơ, xua Quân đoàn 4 về làm binh biến. Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu trong vai trò tham mưu trưởng liên quân đã yêu cầu Nguyễn Chánh Thi đem quân về dẹp tan cuộc binh biến này. Nguyễn Khánh lại đền ơn Nguyễn Chánh Thi bằng chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1, kiêm Vùng 1 chiến thuật.
Ngày 19/2/1965, chuyên gia đảo chính Lâm Văn Phát, đại tá Bùi Dzinh, trung tá Bùi Hoàng Thao… theo phò đại tá Phạm Ngọc Thảo đứng lên làm đảo chính. Nguyễn Khánh lại trốn thoát được, chạy ra ẩn náu tại Vũng Tàu. Hội đồng tướng lĩnh đã họp khẩn cấp, đề cử Nguyễn Chánh Thi làm Tư lệnh Quân đoàn Giải phóng thủ đô, đem quân về dẹp loạn, buộc phe đảo chính phải rút lui. Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký lệnh giải nhiệm Nguyễn Khánh, chính Nguyễn Chánh Thi đứng ra ép Nguyễn Khánh phải lên đường sống kiếp lưu vong.
Nguyễn Khánh đi, chiếc ghế quyền lực trở thành mục tiêu tranh chấp vô cùng gay gắt giữa 4 ông tướng trẻ: Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ - Nguyễn Chánh Thi - Nguyễn Hữu Có. Tính khí thất thường, cộng thêm việc ỷ mình có quá nhiều “công trạng” đối với các cuộc đảo chính và phản đảo chính nên Nguyễn Chánh Thi coi trời bằng vung. Ba ông tướng kia đánh giá Nguyễn Chánh Thi quá nguy hiểm, tạm thời ngồi lại với nhau để triệt Thi cho bằng được. Tướng Kỳ trở thành đầu tàu trong cuộc đối đầu gay cấn này.
Chính phủ dân sự do Phan Huy Quát làm thủ tướng từ chức, hội đồng tướng lĩnh được triệu tập một phiên họp, dưới sự chủ trì của Nguyễn Văn Thiệu để tìm kiếm một nhà lãnh đạo. Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi vẫn là hai đối thủ nặng ký. Nhưng biết mình không được ủng hộ, Thi tuyên bố bỏ cuộc. Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Quốc trưởng và Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng. Nhằm xoa dịu phần nào sự cay cú của Nguyễn Chánh Thi, tháng 10/1965, ông ta được thăng hàm trung tướng, giữ thêm cái hư danh Đại biểu Chính phủ Trung phần.
Nguyễn Chánh Thi vẫn không chịu ngồi yên, nuôi mưu đồ biến miền Trung thành lãnh địa riêng. Trong lãnh thổ trách nhiệm của ông ta, đặc biệt là tại Đà Nẵng, nơi Quân đoàn 1 đặt bản doanh, thường xuyên nổi lên những cuộc biểu tình chống Thiệu - Kỳ. Nguyễn Cao Kỳ không thể yên tâm khi loạn tướng Nguyễn Chánh Thi vẫn còn nắm trong tay một quân đoàn. Ngày 10/3/1966, Nguyễn Cao Kỳ ký lệnh cách chức Nguyễn Chánh Thi vì lý do đã không ổn định được tình hình miền Trung. Tại phi trường Đà Nẵng, Nguyễn Chánh Thi đã bị trung tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng ra lệnh bắt giữ, đưa về Sài Gòn giam lỏng. Đài Phát thanh Sài Gòn thông báo: tướng Thi từ chức, Hội đồng quân lực quyết định cho ông ta ra ngoại quốc chữa bệnh thối mũi!
Ngay hôm sau dân chúng Đà Nẵng, đa số là phật tử rầm rộ xuống đường đòi giải tán chính phủ quân sự do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ dựng lên. Biểu tình nhanh chóng lan tỏa ra Huế, hệ thống chính quyền hai nơi này hoàn toàn tê liệt. Một số lớn đơn vị quân đội ngả theo lực lượng biểu tình đã chính thức ly khai như Trung đoàn 51 của đại tá Đàm Quang Yêu, Tiểu đoàn 11 Biệt động quân của đại úy Nguyễn Thừa Dzu… đã làm chủ tình hình thành phố Đà Nẵng. Tại Huế, Sư đoàn 1 bộ binh của chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận cũng theo phe ly khai. Chẳng đặng đừng, ngày 16-3-1966, Nguyễn Chánh Thi lại được đưa ra Đà Nẵng nhằm trấn an dân tình. Nguyễn Cao Kỳ đã tỏ ra quá lúng túng và thiếu cân nhắc, bởi chẳng khác nào thả cọp về rừng. Quả nhiên, Nguyễn Chánh Thi đã đứng hẳn về phía lực lượng ly khai.
Tình hình trở nên hỗn loạn. Nguyễn Cao Kỳ phải điều động 4.000 quân, bao gồm thủy quân lục chiến, nhảy dù và cảnh sát dã chiến, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Ngọc Loan, ra Đà Nẵng dẹp loạn. Căng thẳng, các tay súng ly khai đã hờm sẵn trên nhiều ngả đường, sẵn sàng khai hỏa.
Nguyễn Ngọc Loan bèn nghĩ cách chia rẽ, mua chuộc đại úy Nguyễn Thừa Dzu, hứa hẹn sẽ giành cho Dzu những chức vụ béo bở. Dzu xiêu lòng, điều tiểu đoàn của mình ra cầu Đỏ, để lại một lỗ hổng cố thủ rất lớn cho quân ly khai. Hành động của Dzu còn làm mất tinh thần đối đầu của quân sĩ Trung đoàn 51. Ngày 15/5/1966, Nguyễn Ngọc Loan xua quân nhảy dù tiến ra thành phố và tái chiếm Đài Phát thanh Đà Nẵng. Giao tranh đã diễn ra khắp nơi, 150 quân nhân của cả hai phía đã ngã gục và hơn 700 người khác bị thương.
Nguyễn Cao Kỳ đưa thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra làm Tư lệnh Quân đoàn 1 thay Nguyễn Chánh Thi. Khi máy bay đáp xuống phi trường Tây Lộc (Huế), trung úy Nguyễn Đại Thức đã nổ súng nhắm vào ông ta, nhưng viên đạn không trúng đích. Trung úy Thức đã bị hạ sát ngay sau đó. Mãi đến ngày 23/5/1966, ổ kháng cự cuối cùng của quân ly khai tại Đà Nẵng, cố thủ trong chùa Phổ Đà mới chịu buông súng, quân của Nguyễn Ngọc Loan kiểm soát được tình hình.
Ở Huế, đám tang Nguyễn Đại Thức đã biến thành một cuộc biểu tình rầm rộ. Phòng Thông tin và thư viện Hoa Kỳ bị đốt, Tổng lãnh sự Mỹ bị đập phá. Phe biểu tình đưa bàn thờ Phật xuống đường khắp nơi để cản bước đoàn quân của Nguyễn Ngọc Loan. Loan ra lệnh cho binh sĩ đạp đổ hết bàn thờ để dẹp đường, bắt giữ 190 quân nhân, 109 công chức và 35 nhân viên cảnh sát đã theo phe ly khai.
Vụ biến động miền Trung bị dẹp tan. Nguyễn Chánh Thi, Phan Xuân Nhuận, Đàm Quang Yêu, Thị trưởng Đà Nẵng Nguyễn Văn Mẫn, cùng một số quan chức khác bị bắt, giải về Sài Gòn. Không phải ra tòa án binh về tội phản loạn, Nguyễn Chánh Thi chỉ bị sa thải khỏi quân đội. Dễ hiểu, người Mỹ không muốn đám tay chân làm lớn chuyện
Ngày 31/7/1966, kẻ nổi loạn Nguyễn Chánh Thi bị áp giải ra phi trường Tân Sơn Nhất để bắt đầu cuộc sống lưu vong lần thứ hai. Trước khi lên máy bay, ông ta ném bỏ tất cả huy chương, chỉ giữ lại duy nhất chiếc mũ lưỡi trai như một vật kỷ niệm. Tại Mỹ, những năm đầu ông ta được trợ cấp 600 USD mỗi tháng, theo chế độ trợ cấp cho một sĩ quan cao cấp hồi hưu. Nguyễn Cao Kỳ đã phản đối quyết liệt, nại lý do, Nguyễn Chánh Thi bị loại ngũ chứ không phải giải ngũ. Thế là trợ cấp của Thi bị phía Mỹ hạ xuống chỉ còn 170 USD mỗi tháng. Túng quẫn, Thi từng phải làm bảo vệ cho một khách sạn nhỏ ở Los Angeles, rồi mở quán cà phê tại Arkansas.
Tháng 2/1972, sau 6 năm tha phương, Nguyễn Chánh Thi đã tự mua vé máy bay trở về Việt Nam như một dân thường. Nguyễn Văn Thiệu đã cương quyết ra lệnh cấm, không cho ông ta bước ra khỏi máy bay và đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Thế là Nguyễn Chánh Thi đành lủi thủi quay về Mỹ sống nốt phần đời còn lại và mất tại đó vào năm 2007!
Đoàn Thiên Lý
Loạn tướng Nguyễn Chánh Thi
02:15 21/01/2012
Nguyễn Chánh Thi từng được tạp chí Time của Mỹ gán cho biệt
hiệu "chuyên gia đảo chính". Ông Thi sinh năm 1923, Phú Vang, Thừa Thiên
- Huế. Ít học, năm 1940, ông ta đi lính cho Pháp, từng bị Nhật bắt,
Việt Minh bắt nhưng đều trốn thoát được và tiếp tục cầm súng cho Pháp.
Đến tháng 3/1954, ông ta được thăng đại úy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2
Ngự lâm quân của Bảo Đại.
Nguyễn Chánh Thi (X) và Nguyễn Cao Kỳ khi còn mặn nồng. |
Đến chiến dịch Rừng Sác, tấn công vào cứ điểm cuối cùng của Bình Xuyên, Diệm lại chỉ định Nguyễn Chánh Thi giữ chức vụ Liên đoàn phó Liên đoàn Nhảy dù và thăng lên trung tá. Chưa tròn một năm sau, tháng 2/1956, ông ta lên đại tá. Khi Liên đoàn Nhảy dù được nâng cấp thành Lữ đoàn, Nguyễn Chánh Thi trở thành vị tư lệnh đầu tiên của binh chủng này.
Khi đi thăm Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan), Ngô Đình Diệm còn cho Thi tháp tùng với tư cách tùy viên quân sự. Gia đình Ngô Đình Diệm từng coi Thi như con em trong nhà. Đáp lại ân sủng, ngày 11/11/1960 Nguyễn Chánh Thi đã cầm đầu một nhóm sĩ quan trẻ gồm trung tá Vương Văn Đông, thiếu tá Nguyễn Triệu Hồng, thiếu tá Phan Trọng Chinh, thiếu tá Nguyễn Huy Lợi, đại úy Phan Lạc Tuyên… đảo chính nhằm hạ bệ anh em ông Diệm.
Phe đảo chính tưởng chừng đã làm chủ được tình hình, nhưng thiếu quyết đoán, không được tổ chức kỹ lưỡng và quan trọng hơn cả là mục đích hành động không rõ ràng, thiếu đồng nhất, họ đã khiến thời cơ tuột mất. Họ không chiếm được Đài Phát thanh, không tìm cách cắt hết đường dây điện thoại từ Dinh Độc lập nối với bên ngoài và cũng không đủ quân án ngữ các ngả đường tiến vào thành phố. Ngô Đình Diệm đã tìm cách kéo dài thời gian để liên lạc với những sĩ quan trung thành, gọi họ về cứu giá.
Hôm sau, ngày 12/11/1960, từ Mỹ Tho, đại tá Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh đã kết hợp với Sư đoàn 21 Bộ binh đóng ở Sa Đéc, do đại tá Trần Thiện Khiêm làm tư lệnh kéo quân về giải vây. Lúng túng, Vương Văn Đông đã tìm mọi cách liên hệ với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow để tìm hậu thuẫn. Đại sứ Elbridge Durbrow đã thẳng thừng từ chối, với lý do: Không dính vào nội bộ của Việt Nam.
Cầm chắc thất bại trong tay, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng… đã nhanh chóng cướp một máy bay D.C3, đồng thời, bắt cóc trung tướng Thái Quang Hoàng, Tư lệnh Quân khu Thủ đô và cưỡng ép phi công Phan Phụng Tiên lái, đưa họ đào thoát sang Campuchia xin tị nạn. Những ngày trong trại tị nạn Monivong (thực chất là trại giam lỏng) ở Nam Vang, Campuchia, Nguyễn Chánh Thi phải làm nghề chẻ củi thuê để kiếm sống. Đông thân Pháp, Thi ghét Mỹ, ghét luôn cả Pháp. Họ thường xuyên chửi mắng nhau như chó với mèo. Số sĩ quan không thuộc phe nào đều nghiêng về phía Đông, tỏ ra coi khinh cách ăn ở và tính khí thô lỗ của Nguyễn Chánh Thi. Có lần thiếu tá Nguyễn Huy Lợi không nhịn được, đã thượng cẳng tay, hạ cẳng chân với Thi nhưng… bất phân thắng bại.
Anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị lật đổ, Nguyễn Chánh Thi trở về nước và được phục hồi hàm đại tá giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 1, kiêm Quân khu 1, do Trung tướng Nguyễn Khánh làm tư lệnh. Ngày 30/1/1964, Nguyễn Chánh Thi lại tham gia vào cuộc đảo chính, được ngụy trang bằng hai từ "chỉnh lý", lật đổ Dương Văn Minh, do Nguyễn Khánh cầm đầu. Năm ông tướng thân cận của Dương Văn Minh, đang nắm giữ những chức vụ trọng yếu, đồng loạt bị bắt tại nhà riêng.
Sáng hôm sau, Nguyễn Chánh Thi vào Bộ Tổng tham mưu thì gặp thiếu tá Nguyễn Huy Lợi tại đó. Sực nhớ lại ân oán từ thời lưu vong tại Campuchia, Nguyễn Chánh Thi đã sấn tới bốp thẳng vào mặt Lợi một cú đấm. Lợi toan đánh lại Thi, nhưng rồi chẳng biết tại sao ông ta lại dừng tay, quay lưng bỏ đi trong khi Nguyễn Chánh Thi vẫn đứng hoa chân múa tay lu loa biện minh với mọi người!
Nguyễn Chánh Thi (dấu X) ngồi giữa Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ trong cái gọi là “Hội đồng quân nhân cách mạng”. |
Nói xong câu đó, Thi ngượng đứng chết trân. Có một tay chuyên treo cờ xí, biểu ngữ và trang trí hội trường, đang đứng xớ rớ sau hàng cờ phướn, nhanh nhảu nhảy ra hô to: "Hoan hô chuẩn tướng Nguyễn Chánh Thi!", tiếng hô lặp lại 3 lần, buộc lòng mọi người phải đưa tay lên hoan hô theo. Đến bữa cơm trưa, Nguyễn Chánh Thi đã ra lệnh cho đại tá Nguyễn Ấm, Tỉnh trưởng Quảng Trị, gọi anh chàng khéo nịnh này lên trình diện. Vài tuần sau, anh chàng này được đặc cách chức vụ Phó ty Thông tin!
Không cần đắn đo, suy nghĩ, Nguyễn Chánh Thi vẫn tuyên bố ủng hộ Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh, bất chấp hiến chương này đã bị các phong trào quần chúng và sinh viên-học sinh phản đối kịch liệt, nhờ đó được Khánh thăng lên thiếu tướng. Ngày 13/9/1964, trung tướng Dương Văn Đức, thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Huỳnh Văn Tồn từ Cần Thơ, xua Quân đoàn 4 về làm binh biến. Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu trong vai trò tham mưu trưởng liên quân đã yêu cầu Nguyễn Chánh Thi đem quân về dẹp tan cuộc binh biến này. Nguyễn Khánh lại đền ơn Nguyễn Chánh Thi bằng chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 1, kiêm Vùng 1 chiến thuật.
Ngày 19/2/1965, chuyên gia đảo chính Lâm Văn Phát, đại tá Bùi Dzinh, trung tá Bùi Hoàng Thao… theo phò đại tá Phạm Ngọc Thảo đứng lên làm đảo chính. Nguyễn Khánh lại trốn thoát được, chạy ra ẩn náu tại Vũng Tàu. Hội đồng tướng lĩnh đã họp khẩn cấp, đề cử Nguyễn Chánh Thi làm Tư lệnh Quân đoàn Giải phóng thủ đô, đem quân về dẹp loạn, buộc phe đảo chính phải rút lui. Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký lệnh giải nhiệm Nguyễn Khánh, chính Nguyễn Chánh Thi đứng ra ép Nguyễn Khánh phải lên đường sống kiếp lưu vong.
Nguyễn Khánh đi, chiếc ghế quyền lực trở thành mục tiêu tranh chấp vô cùng gay gắt giữa 4 ông tướng trẻ: Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ - Nguyễn Chánh Thi - Nguyễn Hữu Có. Tính khí thất thường, cộng thêm việc ỷ mình có quá nhiều “công trạng” đối với các cuộc đảo chính và phản đảo chính nên Nguyễn Chánh Thi coi trời bằng vung. Ba ông tướng kia đánh giá Nguyễn Chánh Thi quá nguy hiểm, tạm thời ngồi lại với nhau để triệt Thi cho bằng được. Tướng Kỳ trở thành đầu tàu trong cuộc đối đầu gay cấn này.
Chính phủ dân sự do Phan Huy Quát làm thủ tướng từ chức, hội đồng tướng lĩnh được triệu tập một phiên họp, dưới sự chủ trì của Nguyễn Văn Thiệu để tìm kiếm một nhà lãnh đạo. Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi vẫn là hai đối thủ nặng ký. Nhưng biết mình không được ủng hộ, Thi tuyên bố bỏ cuộc. Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Quốc trưởng và Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng. Nhằm xoa dịu phần nào sự cay cú của Nguyễn Chánh Thi, tháng 10/1965, ông ta được thăng hàm trung tướng, giữ thêm cái hư danh Đại biểu Chính phủ Trung phần.
Nguyễn Chánh Thi vẫn không chịu ngồi yên, nuôi mưu đồ biến miền Trung thành lãnh địa riêng. Trong lãnh thổ trách nhiệm của ông ta, đặc biệt là tại Đà Nẵng, nơi Quân đoàn 1 đặt bản doanh, thường xuyên nổi lên những cuộc biểu tình chống Thiệu - Kỳ. Nguyễn Cao Kỳ không thể yên tâm khi loạn tướng Nguyễn Chánh Thi vẫn còn nắm trong tay một quân đoàn. Ngày 10/3/1966, Nguyễn Cao Kỳ ký lệnh cách chức Nguyễn Chánh Thi vì lý do đã không ổn định được tình hình miền Trung. Tại phi trường Đà Nẵng, Nguyễn Chánh Thi đã bị trung tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng ra lệnh bắt giữ, đưa về Sài Gòn giam lỏng. Đài Phát thanh Sài Gòn thông báo: tướng Thi từ chức, Hội đồng quân lực quyết định cho ông ta ra ngoại quốc chữa bệnh thối mũi!
Ngay hôm sau dân chúng Đà Nẵng, đa số là phật tử rầm rộ xuống đường đòi giải tán chính phủ quân sự do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ dựng lên. Biểu tình nhanh chóng lan tỏa ra Huế, hệ thống chính quyền hai nơi này hoàn toàn tê liệt. Một số lớn đơn vị quân đội ngả theo lực lượng biểu tình đã chính thức ly khai như Trung đoàn 51 của đại tá Đàm Quang Yêu, Tiểu đoàn 11 Biệt động quân của đại úy Nguyễn Thừa Dzu… đã làm chủ tình hình thành phố Đà Nẵng. Tại Huế, Sư đoàn 1 bộ binh của chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận cũng theo phe ly khai. Chẳng đặng đừng, ngày 16-3-1966, Nguyễn Chánh Thi lại được đưa ra Đà Nẵng nhằm trấn an dân tình. Nguyễn Cao Kỳ đã tỏ ra quá lúng túng và thiếu cân nhắc, bởi chẳng khác nào thả cọp về rừng. Quả nhiên, Nguyễn Chánh Thi đã đứng hẳn về phía lực lượng ly khai.
Tình hình trở nên hỗn loạn. Nguyễn Cao Kỳ phải điều động 4.000 quân, bao gồm thủy quân lục chiến, nhảy dù và cảnh sát dã chiến, dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Ngọc Loan, ra Đà Nẵng dẹp loạn. Căng thẳng, các tay súng ly khai đã hờm sẵn trên nhiều ngả đường, sẵn sàng khai hỏa.
Nguyễn Ngọc Loan bèn nghĩ cách chia rẽ, mua chuộc đại úy Nguyễn Thừa Dzu, hứa hẹn sẽ giành cho Dzu những chức vụ béo bở. Dzu xiêu lòng, điều tiểu đoàn của mình ra cầu Đỏ, để lại một lỗ hổng cố thủ rất lớn cho quân ly khai. Hành động của Dzu còn làm mất tinh thần đối đầu của quân sĩ Trung đoàn 51. Ngày 15/5/1966, Nguyễn Ngọc Loan xua quân nhảy dù tiến ra thành phố và tái chiếm Đài Phát thanh Đà Nẵng. Giao tranh đã diễn ra khắp nơi, 150 quân nhân của cả hai phía đã ngã gục và hơn 700 người khác bị thương.
Nguyễn Cao Kỳ đưa thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra làm Tư lệnh Quân đoàn 1 thay Nguyễn Chánh Thi. Khi máy bay đáp xuống phi trường Tây Lộc (Huế), trung úy Nguyễn Đại Thức đã nổ súng nhắm vào ông ta, nhưng viên đạn không trúng đích. Trung úy Thức đã bị hạ sát ngay sau đó. Mãi đến ngày 23/5/1966, ổ kháng cự cuối cùng của quân ly khai tại Đà Nẵng, cố thủ trong chùa Phổ Đà mới chịu buông súng, quân của Nguyễn Ngọc Loan kiểm soát được tình hình.
Ở Huế, đám tang Nguyễn Đại Thức đã biến thành một cuộc biểu tình rầm rộ. Phòng Thông tin và thư viện Hoa Kỳ bị đốt, Tổng lãnh sự Mỹ bị đập phá. Phe biểu tình đưa bàn thờ Phật xuống đường khắp nơi để cản bước đoàn quân của Nguyễn Ngọc Loan. Loan ra lệnh cho binh sĩ đạp đổ hết bàn thờ để dẹp đường, bắt giữ 190 quân nhân, 109 công chức và 35 nhân viên cảnh sát đã theo phe ly khai.
Vụ biến động miền Trung bị dẹp tan. Nguyễn Chánh Thi, Phan Xuân Nhuận, Đàm Quang Yêu, Thị trưởng Đà Nẵng Nguyễn Văn Mẫn, cùng một số quan chức khác bị bắt, giải về Sài Gòn. Không phải ra tòa án binh về tội phản loạn, Nguyễn Chánh Thi chỉ bị sa thải khỏi quân đội. Dễ hiểu, người Mỹ không muốn đám tay chân làm lớn chuyện
Ngày 31/7/1966, kẻ nổi loạn Nguyễn Chánh Thi bị áp giải ra phi trường Tân Sơn Nhất để bắt đầu cuộc sống lưu vong lần thứ hai. Trước khi lên máy bay, ông ta ném bỏ tất cả huy chương, chỉ giữ lại duy nhất chiếc mũ lưỡi trai như một vật kỷ niệm. Tại Mỹ, những năm đầu ông ta được trợ cấp 600 USD mỗi tháng, theo chế độ trợ cấp cho một sĩ quan cao cấp hồi hưu. Nguyễn Cao Kỳ đã phản đối quyết liệt, nại lý do, Nguyễn Chánh Thi bị loại ngũ chứ không phải giải ngũ. Thế là trợ cấp của Thi bị phía Mỹ hạ xuống chỉ còn 170 USD mỗi tháng. Túng quẫn, Thi từng phải làm bảo vệ cho một khách sạn nhỏ ở Los Angeles, rồi mở quán cà phê tại Arkansas.
Tháng 2/1972, sau 6 năm tha phương, Nguyễn Chánh Thi đã tự mua vé máy bay trở về Việt Nam như một dân thường. Nguyễn Văn Thiệu đã cương quyết ra lệnh cấm, không cho ông ta bước ra khỏi máy bay và đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Thế là Nguyễn Chánh Thi đành lủi thủi quay về Mỹ sống nốt phần đời còn lại và mất tại đó vào năm 2007!
Đoàn Thiên Lý
Số phận của "Sáu Lèo" Nguyễn Ngọc Loan - Đao phủ Tết Mậu Thân 10:55, 09/02/2012 |
||||||||||||||
Xuất
thân thượng lưu, có học, có bằng cấp, nhưng từ hình thức bên ngoài, đến
tính cách, lời ăn tiếng nói của Nguyễn Ngọc Loan đều chẳng khác gì một
tay du thủ, du thực. Một thời, ông ta từng nắm giữ quyền lực trong tay,
nhưng không hề được đồng sự, các chính khách và quần chúng ở miền
Nam
kính trọng. Thay vào đó là sự khinh miệt và sợ hãi. Người ta đã nhìn Loan như một hung thần với khuôn mặt của kẻ sát nhân.
Nguyễn
Ngọc Loan sinh năm 1930 tại Thừa Thiên - Huế. Cha của Loan là ông
Nguyễn Ngọc Lợi, kỹ sư công chánh, nguyên Trưởng khu Hỏa xa Huế. Năm
1951, Loan gia nhập quân đội và theo học khóa 1, Trường sĩ quan Thủ Đức,
ra trường tình nguyện tham gia lực lượng Xung kích Pháp-Việt. Pháp chủ
trương "Việt
Nam
hóa chiến tranh", Loan là một trong những người được chọn và được gửi
sang Pháp thụ huấn tại Trường Không quân Salon-de-Provence, tốt nghiệp
bằng kỹ sư hàng không, sau này trở thành phi công lái khu trục cơ đầu
tiên của không lực miền Nam.
Năm
1960, Nguyễn Ngọc Loan giữ chức vụ chỉ huy trưởng Phi đoàn 2 Quan sát,
trú đóng tại Nha Trang. Đồng ngũ biết đến Loan như một tay ăn nói bỗ bã,
rượu như hũ chìm nhưng nổi tiếng keo kiệt, bủn xỉn.
Trong
hồi tưởng của cựu Trung tá phi công Nguyễn Văn Cử, (về sau là dân biểu
Quốc hội Sài Gòn), người đã ném bom dinh Độc Lập, ám sát hụt Ngô Đình
Diệm vào sáng ngày 27/2/1962, thì Nguyễn Ngọc Loan là một kẻ bần tướng,
mặt dơi, tai chuột, tướng cách của một kẻ tàn độc, phản phúc và ti tiện.
Thuở còn giữ chức vụ phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 quan sát, Nguyễn Ngọc
Loan thường hay hứa sẽ đề nghị thăng thưởng cho thuộc cấp nhưng chẳng
bao giờ thực hiện. Bạn bè mời nhậu nhẹt, Loan nhiệt tình tham gia nhưng
chẳng bao giờ mời ai một lần nào cả.
Có
người không nhịn được, đã nửa đùa nửa thật: "Tới lượt thằng Loan đi
chớ, cứ ăn chực anh em hoài coi sao được!". Nguyễn Ngọc Loan vừa cười,
vừa hứa chắc như đinh đóng cột: "Được thôi, "moa" mời các "toa" đúng 10
giờ sáng chủ nhật, tại quán số 5 ngoài bãi biển, ai đến trễ sẽ bị phạt".
Đúng hẹn, mọi người có mặt đầy đủ, nhưng chủ xị lại bặt vô âm tín! Ngồi
chờ đến trưa chẳng thấy Loan đâu, có người giận quá, buông tiếng chửi
thề và bảo: "Đúng là thằng "Sáu Lèo!". Biệt danh khinh thị dính chặt đời
Loan từ đó.
Năm
1964, Nguyễn Ngọc Loan lên đại tá, giữ chức vụ Tư lệnh phó Không quân,
Nguyễn Cao Kỳ làm Tư lệnh. Ngày 11/2/1965, trong chiến dịch có tên gọi
là "Mũi tên lửa" (Flaming Dart), Nguyễn Ngọc Loan đã điên cuồng dẫn đầu
các phi đoàn khu trục cơ A1 Skyraider của không quân Sài Gòn, đánh phá
Hà Tĩnh, và Quảng Bình. Sau sự kiện này, Loan được Kỳ thăng Chuẩn tướng
và được điều về làm Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, kiêm Giám đốc Nha
An ninh quân đội, phụ trách luôn Phủ đặc ủy Trung ương tình báo. Ông ta
trở thành một hung thần, và là cánh tay mặt của Nguyễn Cao Kỳ.
Nắm
một loạt quyền cao, chức trọng nhưng Loan lại trang phục lôi thôi lếch
thếch, chân luôn đi đôi dép lẹp xẹp, kể cả khi ông ta chủ trì, hoặc
tham dự những phiên họp quan trọng. Đã thế, Loan thường cầm trên tay một
chai bia, ngửa cổ tu ừng ực như một bợm nhậu thứ thiệt, chửi thề văng
mạng như một kẻ đầu đường xó chợ. Thượng nghị sĩ Thái Lăng Nghiêm, một
trong những cố vấn chính trị của nhóm Nguyễn Cao Kỳ đã nhiều lần than
phiền về cách ăn mặc và thái độ cư xử vô văn hóa của Nguyễn Ngọc Loan.
Ông Kỳ cũng chỉ biết thở dài: "Biết thế, nhưng nó được cái rất trung
thành và dám làm những việc mà người khác không dám làm".
Thật
vậy! Trong một phiên họp tại trụ sở Quốc hội Sài Gòn, Loan ngồi trên
lầu, trang phục như một tên du côn, gác cả hai chân lên một két bia,
để cuốn sổ và khẩu súng rulo trước mặt. Trên tay cầm một cây gậy, Loan
vừa ngửa cổ tu bia, vừa chĩa gậy thẳng xuống những dân biểu nào phát
biểu không có lợi cho phe cầm quyền và lật sổ ghi chép tên tuổi của họ.
Nhiều dân biểu đã phản ứng, cho rằng đó là một hành động khủng bố, mang
tính chất miệt thị, trấn áp thành phần đối lập trong Quốc hội. Nguyễn
Ngọc Loan đáp trả, tuy không chính thức, nhưng cũng đủ vọng đến tai số
dân biểu này: "Bọn dân biểu chỉ ăn hại đái nát. Có giỏi thì cầm súng ra
trận mà đánh nhau. Dẹp luôn cái quốc hội bù nhìn này đi cũng chẳng hề
hấn chi".
Loan
cũng là kẻ thừa mưu mô xảo quyệt. Giữa tháng 3/1965, dân chúng Đà
Nẵng-Huế rầm rộ xuống đường biểu tình chống chế độ độc tài quân sự Thiệu
- Kỳ với đủ mọi thành phần, cả công chức, quân nhân cũng tham gia.
Trung tướng Nguyễn Chánh Thi đã ngã hẳn và trở thành người đứng đầu phe
ly khai. Ngày 1/4/1966, Nguyễn Cao Kỳ gửi Trung tướng Phạm Xuân Chiểu
ra Đà Nẵng để điều đình. Phe ly khai đã bắt giữ luôn sứ giả để làm con
tin. Tình hình trở nên không thể kiểm soát. Nhiều tướng lĩnh, chỉ huy
cao cấp đã đưa cả đơn vị mình nhập luôn vào thành phần ly khai, sẵn
sàng chống trả nếu chính quyền Sài Gòn đưa quân ra trấn áp
Ngày
14/5/1966, qua cầu không vận của quân đội Mỹ, 5 tiểu đoàn nhảy dù, 2
tiểu đoàn Thủy quân lục chiến và một biệt đoàn Cảnh sát dã chiến do
Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy đã đến Đà Nẵng để dẹp quân ly khai. Thoạt đầu,
Nguyễn Ngọc Loan bàn với Nguyễn Cao Kỳ cho chiến đấu cơ cất cánh uy hiếp
các vị trí của Trung đoàn 51 Bộ binh và Tiểu đoàn 11 Biệt động quân đã
ly khai. Trung tướng Waltz, Tư lệnh Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại Đà
Nẵng phản ứng gay gắt ý đồ này. Ông ta khuyến cáo, nếu chiến đấu cơ của
Việt Nam Cộng hòa cất cánh, ông ta sẽ cho không quân Mỹ ngăn chặn. Nhưng
về sau, khi phe ly khai đập phá lãnh sự quán và các cơ quan trực thuộc
của Mỹ tại Đà Nẵng và Huế thì chính các cố vấn Mỹ cũng làm ngơ để cho
Nguyễn Ngọc Loan bạo hành.
Trong
thành phần ly khai cố thủ Đà Nẵng có Tiểu đoàn 11 Biệt động quân của
đại úy Nguyễn Thừa Dzu ra khỏi vòng chiến. Có kẻ mách Loan, Nguyễn Thừa
Dzu có một người bạn chí thân là Nguyễn Tự Cường, hiện đang ngồi tù tại
Cục An ninh quân đội. Cường nguyên là đại úy, là tay chân thân tín của
lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn. Sau biến cố ngày 1/11/1963, Ngô Đình
Cẩn bị xử bắn, Cường phải chịu kiếp tù đày. Nay có thể dùng Nguyễn Tự
Cường làm thuyết khách.
Thế
là Cường được dẫn đến, Nguyễn Ngọc Loan hăm dọa: "Mày là bạn chí cốt
của thằng Dzu. Nếu mày chiêu hồi được nó, tao sẽ bạch hóa hồ sơ của mày
và cho mày lẫn thằng Dzu những chức vụ ngon lành. Còn nếu mày không làm
được, thì một là đi theo nó luôn, hai là tiếp tục ngồi tù". Nguyễn Tự
Cường hăng hái nhận lời và đã thuyết phục được Dzu.
Tối
hôm đó, Nguyễn Ngọc Loan đã cho người đi đón tiểu đoàn của Nguyễn Thừa
Dzu rút ra Cầu Đỏ, để lại một lỗ thủng quan trọng cho quân ly khai và
còn khiến cho Trung đoàn 51 mất hết tinh thần phản kháng. Hôm sau,
23/5/1966, Nguyễn Ngọc Loan xua quân nhảy dù tiến vào thành phố và nhanh
cóng làm chủ tình hình Đà Nẵng. Nguyễn Tự Cường và Nguyễn Thừa Dzu lại
theo Nguyễn Ngọc Loan ra Huế...dẹp loạn. Khi tình hình ở miền Trung ổn
định, Cường được thăng thiếu tá, làm Trưởng ty An ninh quân đội Đà Nẵng.
Còn Nguyễn Thừa Dzu cũng lên thiếu tá, về làm Trưởng ty cảnh sát một
quận ở Sài Gòn
Tại
Huế, người dân đã đưa bàn thờ Phật xuống đường làm vật cản chân đoàn
quân của Nguyễn Ngọc Loan. Nhưng với Loan, thì sá chi Phật thánh! Ông
ta ngồi trên xe jeep, chạy quanh khắp mọi ngõ ngách, đích thân đạp đổ
không biết bao nhiêu bàn thờ. Người dân Huế nói: "Sáu Lèo" đã đem dùi
cui, lựu đạn cay và còng số 8 làm quà tặng nơi ông ta chôn nhau cắt rốn.
Biến động miền Trung hạ màn và Loan được Nguyễn Cao Kỳ phong hàm thiếu
tướng. Từ đó, bệnh công thần càng khiến cho con người Nguyễn Ngọc Loan
trở nên kiêu binh và tàn bạo hơn nữa.
Đỉnh
cao tội ác, bộ mặt sát nhân của Nguyễn Ngọc Loan lộ rõ vào Tết Mậu Thân
(1968). Cho đến 2 giờ sáng ngày mồng Một tết, khi chiến sự đã bùng nổ
dữ dội khắp mọi nơi, ngay giữa lòng thành phố Sài Gòn thì Loan mới bừng
tỉnh, và lồng lộn lên bởi sự yếu kém của bộ máy tình báo do ông ta cầm
đầu. Tại Thị Nghè (nhiều tài liệu khác cho là tại đường Lý Thái Tổ hoặc
tại một con đường trong Chợ Lớn), binh lính của Nguyễn Ngọc Loan đã
bắt giữ, trói thúc ké và dẫn giải một người đàn ông mặc thường phục đến
trước mặt ông ta và cho rằng đó là một người lính đặc công của Việt
Cộng.
Nguyễn
Ngọc Loan cầm chiếc khăn lau mặt trên tay, ra hiệu cho đám bộ hạ lùi ra
xa, rồi tiến sát bên người đàn ông đó. Mặt lạnh như tiền, không nói
một lời, Loan quăng điếu thuốc đang hút dở xuống đất, giơ thẳng cánh
tay phải, dí súng sát thái dương của người đàn ông (sau này được xác
định là chiến sĩ đặc công Bảy Lốp, tức Nguyễn Văn Lém; có tài liệu xác
định là chiến sĩ Nguyễn Văn Nà) và bóp cò. Nạn nhân ngã xuống, máu lênh
láng cả mặt đường và chết ngay lập tức.
Nhà
báo Mỹ Eddie Adams kịp thời thu vào ống kính, và phóng viên Neil Davis
của Đài ABC-Úc quay những thước phim rất rõ ràng, gây sốc cho hàng triệu
lương tri trên thế giới. Bức ảnh như một ngọn cuồng phong thổi bùng
ngọn lửa phản chiến ở khắp nơi. Năm 1969, nhờ bức ảnh, Eddie Adams đoạt
giải Pulitzer danh giá về ảnh báo chí.
Ác
giả tất có ác báo. Tháng 5/1968, trong tổng công kích Mậu Thân đợt 2,
khi Nguyễn Ngọc Loan đang điều binh khiển tướng tại Chợ Lớn, thì một
chiếc trực thăng UH1B, chẳng biết xuất phát từ đâu, thuộc đơn vị nào,
xuất hiện trên bầu trời bộ chỉ huy của Loan. Loan ra lệnh thả một trái
khói màu tím để báo mục tiêu. Nào ngờ chiếc trực thăng đảo một vòng, nã
rocket và xả đại liên xuống bộ chỉ huy của Loan, rồi bay thẳng về phía
Biên Hòa.
Dư
luận cho rằng, đó là chiếc trực thăng của quân đội Mỹ, được lệnh bí mật
giúp Nguyễn Văn Thiệu trừ khử bớt tay chân của Nguyễn Cao Kỳ mà Nguyễn
Ngọc Loan là đối tượng số 1. Sự cố này chỉ làm cho Nguyễn Ngọc Loan gãy
chân, nhưng 4 viên đại tá thân tín của ông ta là Lê Ngọc Trụ, Đào Bá
Phước, Phó Quốc Chụ và Nguyễn Văn Luận cùng với 2 trung tá Nguyễn Ngọc
Xinh, Nguyễn Bảo Thụy chết ngay tại chỗ. Nhân cơ hội Nguyễn Ngọc Loan
sang Úc trị thương, Nguyễn Văn Thiệu đã loại Loan ra khỏi các chức vụ để
thay thế người của mình vào. Về lại Việt
Nam, Nguyễn Ngọc Loan bị loại ngũ, và sống bằng chế độ trợ cấp dành cho cấp tướng về hưu.
Sau
năm 1975, dư luận xã hội Mỹ không chấp nhận một kẻ sát nhân, một tội
phạm chiến tranh như Loan, xua đuổi không muốn cho ông ta định cư. Năm
1976, hai dân biểu của đảng Dân chủ Mỹ là bà Elizabeth Holtzman và ông
Harold Sawer, đã thay mặt "người đàn ông bị Loan hạ sát trên đường phố"
kiện Loan như một tội phạm chiến tranh và yêu cầu trục xuất Loan ra khỏi
nước Mỹ. Sau đó mọi việc đã chìm xuồng, bởi người Mỹ cũng không muốn
khơi lại một vết nhơ mà họ từng can dự. Nguyễn Ngọc Loan mở một quán ăn
nhỏ tại thành phố
Springfield, tiểu bang
Virginia,
thường xuyên bị người chung quanh phản đối và xa lánh. Có người đã xịt
sơn lên cửa quán của ông ta hàng chữ: "Ta đã biết ngươi là ai rồi".
Nguyễn
Ngọc Loan chết năm 1998. Ông ta đã phải sống những ngày cuối đời trong
sự cô quạnh, túng quẫn và ô nhục như thể phải gồng lưng trả nợ cho những
tội ác đã gây ra trong chuỗi ngày nắm quyền lực trong tay
|
||||||||||||||
Phạm Giao |
Nhận xét
Đăng nhận xét